Vai trò của Ngân hàng thương Mại trên Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền t

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Ngân hàng thương Mại trên Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng và nhiều dịch vụ ngân hàng thuận tiện cho các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp.Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế đăc biệt là các chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ. Do đó có thể nói ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thương mại tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán từ rất lâu. Ngày nay vai trò đó ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta, các ngân hàng thương mại đã tham gia với nhiều hoạt động có hiệu quả song vẫn chưa khai thác hết tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ,trình độ, nghiệp vụ giao dịch cho thị trường non trẻ này. Hoạt động của ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán là hai mặt của một vấn đề phức tạp. Nó có tác động mạnh mẽ và rất nhậy cảm lẫn nhau.Điều đó luôn đặt ra cho ngân hàng thương mại phải thể hiện vai trò tích cực trong việc điều hoà cung cầu chứng khoán, cung cấp thêm nhiều dịch vụ để hạn chế những bất lợi nhằm phát triển thị trường chứng khoán. Kết cấu đề tài Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài gồm hai phần chính: Phần 1: Lý thuyết chung về vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt động của thị trường chứng khoán Phần 2: Thực trạng về vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam Phần 1 vai trò của NHTM trên Thị trường chứng khoán (TTCK) 1.1. Tổng quan về NHTM 1.1.1. Khái niệm và các hoạt động cơ bản của NHTM Theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu “ Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Từ định nghĩa chung đó, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, luật chỉ rõ các loại hình ngân hàng gồm NHTM, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Người ta phân biệt NHTM với các tổ chức trung gian tài chính khác là ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, chính từ hoạt động đó tạo cơ hội cho NHTM có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính bao gồm nhiều loại hình tổ chức kinh doanh tiền tệ. Chúng là những tổ chức trung gian và môi giới tài chính, hoạt động như những chiếc cầu chuyển tải những khoản tiền tiết kiệm - tích luỹ được trong xã hội đến tay người có nhu cầu đầu tư. Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tích chất cũng như về đối tượng và phương pháp kinh doanh. Lịch sử của NHTM là lịch sử kinh doanh tiền gửi. Các NHTM từ chỗ nhận tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ, bảo quản tiền gửi cho chủ sở hữu để nhận những khoản thù lao, đã trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi. Điều đó có nghĩa là huy động tiền gửi không những miễn tiền gửi mà còn trả lãi cho khách hàng gửi tiền để làm vốn vay nhằm tối ưu hoá khoản lợi nhuận thu được. Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ cho vay sang người đi vay các NHTM đã tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán. Trong đó quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc một trọng những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán. Thông qua quá trình đó, đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lưu kinh tế đều qua ngân hàng. Do đó hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó chặt chẽ với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối liện hệ quốc tế rộng rãi. Mặt khác hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú và có phạm vi lớn trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trong một vài lĩnh vực hẹp theo hướng chuyên môn sâu. 1.1.2. Vị trí của NHTM trong hệ thống tài chính Trong các trung gian tài chính thì NHTM là một tổ chức quan trọng nhất, nó nắm giữ khoảng 2/3 tài sản có trong hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy NHTM là tổ chức trung gian tài chính có vai trò quan trọng nhất trong tài chính gián tiếp, có khả năng chi phối hoạt động của hệ thống tài chính. Vị trí, vai trò của nó đợc thể hiện qua hai biểu hiện chủ yếu sau: Thứ nhất: NHTM là một trung gian tài chính có số lợng lớn nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính và thực hiện phần lớn hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính nói chung. NHTM tập trung và huy động vốn ngân hàng bằng cách nhận tiền gửi của dân chúng dới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Với số vốn đó ngân hàng tiến hành cho vay các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn. Là một trung gian tài chính giữa nhà tiết kiệm và nhà đầu t, NHTM thu lợi nhuận thông qua chênh lệch lãi suất vay và lãi suất huy động. Thứ hai: NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng đầy đủ lợi ích của hệ thống tài chính. NHTM cho phép tiết kiệm thời gian, chi phí để thu nhập và xử lý thông tin cho những ngời cho vay cũng nh ngời đi vay. Trên cơ sở đó hạ thấp chi phí sử dụng vốn . NHTM cho phép tiết kiệm đợc chi phí giao dịch giữa ngời đi vay và ngời cho vay. Thông thờng một cá nhân đi vay hoặc cho vay trên thị trờng tài chính phải chịu chi phí giao dịch cao vì vậy đối với cả hai đều không có lợi. Sự có mặt của NHTM đã phần nào giải quyết đợc tình hình trên. NHTM là tổ chức thờng xuyên nhận tiền gửi và cho vay do đó chi phí giao dịch sẽ giảm đi rất nhiều, đồng thời huy động đợc một lợng vốn lớn để phát triển kinh tế. Nh vậy, NHTM đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống tài chính, nó góp phần đẩy nhanh tốc độ lu chuyển vốn trên thị trờng, thúc đẩy phát triển kinh tế 1.1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển kinh tế 1.1.3.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế NHTM đứng ra huy động nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế nh: vốn tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, vốn từ hoạt động tiết kiệm của cá nhân trong xã hội. Bằng vốn huy động đợc trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, NHTM sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ hoạt động của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng mà doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. 1.1.3.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trờng Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trờng, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền, công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất một cách hợp lý, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý... Những hoạt động này đòi hỏi một khối lợng vốn đầu t lớn nhiều khi vợt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó để giải quyết khó khăn này các doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu t của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trờng. Nguồn vốn của ngân hàng cho doanh nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lợng của quá trình sản xuất, đáp ứng nhu cầu thị trờng và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong kinh doanh. 1.1.3.3. NHTM là công cụ để nhà nớc điều tiết vĩ mô nền kinh tế Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lợng tiền cung ứng trong lu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng trong nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia nguồn vốn của thị trờng, điều khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô “ Nhà nớc điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trờng”. 1.1.3.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính quốc tế Trong nền kinh tế thị trờng, việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn phải gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy nền tài chính mỗi nớc cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và NHTM cùng với hoạt động kinh doanh của mình đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ kinh doanh nh nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thơng không ngừng đợc mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nớc ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nớc phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. 1.2. Tổng quan về thị trờng chứng khoán ( TTCK ) 1.2.1. Khái niệm Khi mới thành lập, các NHTM huy động vốn bằng phát hành và cổ phiếu là thích hợp nhất vì nó là con đờng ngắn nhất, tiện lợi và tiết kiệm nhất trong việc tìm kiếm nguồn vốn để kinh doanh. Mặt khác nó tạo ra hàng hoá cung cấp cho TTCK. Về phía các thành viên, thị trờng chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán , trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán đợc hiểu là các loại chứng từ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Bản chất của TTCK là thị trờng thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu vốn đầu t mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu t.TTCK là thị trờng phát triển bậc cao của nền sản xuất và lu thông hàng hoá. 1.2.2. Cơ cấu tổ chức của thị trờng chứng khoán 1.2.2.1. Thị trờng sơ cấp: hay thị trờng cấp một là thị trờng phát hành các chứng khoán, là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trờng này giá cả của các chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trờng sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. 1.2.2.2. Thị trờng thứ cấp:hay thị trờng cấp hai là thị trờng giao dịch mua bán trao đổi những chứng khoán đã đợc phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu t hay di chuyển tài sản xã hội. Thị trờng thứ cấp làm tăng tính lỏng cho các chứng khoán đã phát hành, xác định giá của chứng khoán đã phát hành trên thị trờng sơ cấp. Thị trờng thứ cấp là thị trờng đánh giá công ty qua sự lên hay xuống của giá chứng khoán công ty đó. Vị trí của TTCK trong thị trờng tài chính: TTCK là hình ảnh đặc trng của thị trờng vốn. Trên TTCK giao dịch hai loại công cụ tài chính: công cụ tài chính trên thị trờng vốn và công cụ tài chính trên thị trờng tiền tệ. TTCK là hạt nhân trung tâm của thị trờng tài chính, nơi diễn ra quá trình phát hành, mua bán các công cụ nợ và công cụ vốn ( các công cụ sở hữu ). 1.2.3. Vai trò của thị trờng chứng khoán trong phát triển kinh tế TTCK có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Thứ nhất: TTCK với việc tạo ra các công cụ tài chính có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu phát triển kinh tế. Yếu tố thông tin và cạnh tranh trên thị trờng sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả. TTCK tạo một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trờng tài chính, điều này buộc các NHTM và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài chính. Việc huy động vốn trên TTCK có thể làm tăng vốn tự có của các công ty và giúp họ tránh đợc các khoản vay có chi phí cao cũng nh sự kiểm soát chặt chẽ của các NHTM khuyến khích tính cạnh tranh của các công ty trên thị trờng. Hoạt động của thị trờng chứng khoán cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng nh trong phạm vi quốc tế. Thứ hai: TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải toả sự tập trung quyền lực của tập đoàn song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Thứ ba: TTCK tạo điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã làm giảm các tác động tiêu cực trong quản lý, tạo khả năng kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu và nhà quản lý Thứ t: Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trờng quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể huy động vốn rẻ hơn đồng thời tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng cơ hội kinh doanh của các công ty trong nớc. Thứ năm: TTCK tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ. Thứ sáu: TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tơng lai do việc thay đổi giá chứng khoán luôn có xu hớng đi trớc chu kỳ kinh doanh. TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế. Bên cạnh đó TTCK cũng có những tác động tiêu cực nhất định. TTCK hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song ở thị thị trờng mới nổi, thông tin đợc chuyển tới nhà đầu t không đầy đủ và không giống nhau. Việc quyết định giá cả, mua bán thông tin không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin. Nh vậy, giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối một cách có hiệu quả các nguồn lực. Một số tiêu cực khác nh hiện tợng đầu cơ, xung đột quyền lực làm thiệt hại cho các cổ đông thiểu số, mua bán nội gián, thao túng thị trờng. Nh vậy, vai trò của TTCK đợc thể hiện trên nhiều khía cạnh song vai trò tích cực hay tiêu cực của TTCK có thực sự đợc phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trờng và sự quản lý của Nhà nớc. 1.2.4. Hàng hoá trên thị trờng chứng khoán Hàng hoá trên TTCK gồm cổ phiếu, trái phiếu và thị trờng chứng khoán phái sinh. Trong đó cổ phiếu là sự xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của ngời mua với tài sản của doanh nghiệp phát hành. Trái phiếu là một công cụ nợ, với ngời phát hành là ngời đi vay còn nhà đầu t là ngời cho vay. Trái phiếu gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phơng, trái phiếu các NHTM và trái phiếu doanh nghiệp. Chứng khoán phái sinh là loại chứng khoán gắn với một chứng khoán gốc, gồm hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn và các quyền mua trớc. 1.2.5. Các chủ thể trên thị trờng chứng khoán 1.2.5.1. Chủ thể phát hành là ngời cung cấp các chứng khoán – hàng hoá trên thị trờng chứng khoán, gồm chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, các quỹ đầu t. 1.2.5.2. Nhà đầu t là những ngời có tiền, thực hiện việc mua bán chứng khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu t có thể gồm hai loại: nhà đầu t cá nhân và nhà đầu t có tổ chức. Nhà đầu t cá nhân là cá nhân là cá nhân, hộ gia đình, những ngời có vốn nhàn rỗi tạm thời tham gia mua bán chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu t có tổ chức là các NHTM, Công ty chứng khoán, Công ty đầu t, Quỹ tơng hỗ... 1.2.4.3. Các tổ chức có liên quan đến TTCK gồm cơ quan quản lý và giám sát hoạt động chứng khoán ( Bộ Tài Chính, Uỷ ban chứng khoán nhà nớc ), Sở giao dịch chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, tổ chức lu ký và thanh toán bù trừ, các tổ chức hỗ trợ, các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm. 1.3. Vai trò của ngân hàng thơng mại trên thị trờng chứng khoán 1.3.1. NHTM tạo hàng hoá cho TTCK 1.3.1.1. Cổ phiếu và trái phiếu ngân hàng Cổ phiếu ngân hàng là một loại chứng khoán vốn đợc phát hành dới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của ngời mua đối với tài sản hoặc vốn của ngân hàng. Cổ phiếu là một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán là vô hạn Trái phiếu ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trờng vốn dới hình thức giấy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó cam kết trả lãi và gốc cho ngời mua ( hoặc ngời sở hữu ) sau một thời gian nhất định. Về phía ngời mua trái phiếu ngân hàng là giấy chứng nhận việc đầu t vốn và quyền đợc hởng thu nhập của ngời mua trên số tiền mua trái phiếu ngân hàng. a, NHTM mới thành lập phát hành cổ phiếu để thành lập ngân hàng thơng mại cổ phần ( NHTMCP ) Kể từ khi có pháp lệnh ngân hàng (1990), hệ thống NHTM nớc ta, ngoài các ngân hàng thơng mại quốc doanh, các NHTMCP cũng đợc phép thành lập và hoạt động dới sự kiểm soát của ngân hàng nhà nớc. Trong pháp lệnh ngân hàng nhà nớc có ghi “ NHTMCP là ngân hàng thành lập dới hình thức công ty cổ phần trong đó một cá nhân hoặc một tổ chức không đợc sở hữu của ngân hàng không quá tỷ lệ do ngân hàng nhà nớc quy định. Nh vậy khi mới thành lập NHTM phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Sau khi xác định vốn điều lệ, từ đó mới tính đợc số cổ phần cần thiết phát hành với mệnh giá là bao nhiêu. Tổng mệnh giá phát đợc tính bằng vốn điều lệ. Tổng mệnh giá phát hành chia cho mệnh giá một cổ phiếu sẽ ra số lợng cổ phiếu cần phát hành. Khi mới thành lập, các NHTM huy động vốn bằng cách phát hành và bán cổ phiếu là thích hợp nhất vì nó là con đờng ngắn nhất , tiện lợi và tiết kiệm nhất trong việc tìm kiếm nguồn vốn để hoạt động. Mặt khác nó tạo ra hàng hoá cung cấp cho TTCK. Về phía các thành viên tham gia mua cổ phiếu có quyền lợi và trách nhiệm gắn liền với hoạt động của ngân hàng tuỳ theo cổ phần mà họ nắm giữ. Tóm lại: Các NHTMCP đã tạo ra một khối lợng khá lớn chứng khoán, nó nh một hoạt động thúc đẩy sự phát triển không ngừng của thị trờng chứng khoán. b, NHTMCP và Quốc Doanh phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn bổ sung cho quá trình hoạt động Các NHTMCP và quốc doanh trong quá trình hoạt động, khi có nhu cầu vốn để mở rộng quy mô và lĩnh vực kinh doanh có thể huy động vốn dới các hình thức: NHTM dùng đòn bẩy lãi suất để thu hút tiền gửi từ công chúng. Thông qua việc quản lý các khoản tiền gửi của khách hàng. Các NHTMCP có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu dài hạn và các NHTMCP Quốc doanh đợc phép phát hành trái phiếu. Trong các hình thức huy động vốn trên thì hình thức huy động bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu là phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Tại Việt Nam, chính phủ đã và đang khuyến khích các NHTM huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Tuy nhiên tuỳ vào tình hình của thị trờng cũng nh tình hình kinh doanh của ngân hàng mà lựa chọn nên phát hành cổ phiếu và trái phiếu vì mỗi loại đều có u nhợc điểm nhất định. Mặt khác các NHTM thờng xuyên phải tăng vốn điều lệ đảm bảo tỷ lệ an toàn theo thông lệ quốc tế từ 8% trở lên. Để tăng vốn điều lệ các NHTM phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Với việc NHTMCP và Quốc doanh phát hành cổ phiếu và trái phiếu để bổ sung vốn cho quá trình hoạt động đã làm tăng lợng cung chứng khoán trên thị trờng chứng khoán. Việc các NHTM phát hành cổ phiếu, trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt nó góp phần tăng hàng hoá cho TTCK , mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng trởng của nền kinh tế. Các chứng khoán ngân hàng đã, đang và sẽ là một hàng hoá hấp dẫn tạo sự sôi động cho TTCK do hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả mang lại mức cổ tức, lãi suất cao cho các nhà đầu t. 1.3.1.2. Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc và hình thành các công ty cổ phần Ngân hàng tham gia vào việc thành lập các công ty cổ phần hoặc cổ phần các doanh nghiệp nhà nớc với một tỷ lệ cổ phiếu đáng kể, để có đủ điều kiện tham gia quản trị kinh doanh, tín nhiệm. Công ty cổ phần dù mới thành lập hay đã cổ phần hoá vốn vẫn còn hạn hẹp so với yêu cầu kỹ thuật và công nghệ hiện đại, do đó ngân hàng phải là các trợ thủ đắc lực cho các công ty cổ phần vay tín dụng. Nh vậy, chính chế độ tín dụng của ngân hàng đã xã hội các nguồn vốn, giải quyết mâu thuẫn trong sự vận động của các nguồn vốn giữa các thành phần kinh tế, xoá bỏ tính chất t nhân, cá biệt của nguồn vốn trong công ty cổ phần. Một doanh nghiệp có thể bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình bằng một khoản vay nợ ngân hàng. Các ngân hàng là ngời đầu tiên đã lập ra việc kiểm tra các hoạt động của công ty, họ quyết định có cho vay hay không và có nên tiếp tục cấp tín dụng hay không? Một ngân hàng sẽ cung cấp tín dụng nếu biết rằng một công ty thành công, cuối cùng có thể hoạt động kinh doanh trên thị trờng chứng khoán. Nh vậy kỷ cơng tài chính của ngân hàng sẽ đa công ty vào thị trờng chứng khoán, sau đó thị trờng chứng khoán sẽ bổ sung một kỷ luật tài chính với công ty. 1.3.1.3. NHTM với vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trớc khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Bảo lãnh phát hành bao gồm cả việc t vấn tài chính và phân phối chứng khoán. Tổ chức bảo lãnh đợc hởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định. Trái phiếu chính phủ do chính phủ hoặc những ngành đặc biệt nh giao thông, bu điện, điện đợc chính phủ uỷ quyền phát hành. Trái phiếu chính phủ là giấy nợ của chính phủ. Trái phiếu chính phủ đợc đảm bảo chắc chắn bởi uy tín của chính phủ và tài sản của quốc gia, trái phiếu chính phủ có khả năng cầm cố và chuyển nhợng. Tại một số thị trờng tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trờng trái phiếu chính phủ với t cách là các đại lý sơ cấp hoặc bảo lãnh phát hành. Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phơng thức phổ biến nhất đối với trái phiếu chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có u thế khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu chính phủ còn đợc chào bán qua trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống kho bạc nhà nớc 1.3.1.4. NHTM thành lập các công ty chứng khoán hạch toán độc lập thực hiện vai trò bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các tổ chức phát hành Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trờng chứng khoán. Tại Việt Nam theo quy định số 04/1998/QD-UBCK 3 ngày 3/10/1998 của uỷ ban chứng khoán nhà nớc thì công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hớp tại Việt Nam, đợc uỷ ban chứng khoán nhà nớc cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Một trong những nguyên tắc của thị trờng chứng khoán là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu nhà đầu t và nhà phát hành không đợc mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các công ty chứng khoán sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả ngời đầu t và ngời phát hành. Và khi thực hiện công việc này, công ty chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua thị trờng chứng khoán. Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng, đòi hỏi các tổ chức phát hành phải cần đến các công ty chứng khoán t vấn cho đợt phát hành và thực hiện phân phối bảo lãnh chứng khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của công ty chứng khoán. Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có thể sẽ kí một hợp đồng t vấn quản lý để t vấn cho tổ chức phát hành về các loại chứng khoán cần phát hành, số lợng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phơng thức phân phối chứng khoán tới nhà đầu t thích hợp. Để đợc cho phép bảo lãnh, phát hành, công ty chứng khoán phải đệ trình một phơng án bán và cam kết bảo lãnh lên Uỷ ban chứng khoán nhà nớc. Khi các nội dung phát hành đợc Uỷ ban chứng khoán nhà nớc thông qua. Công ty chứng khoán có thể trực tiếp kí hợp đồng bảo lãnh hoặc thành lập các nghiệp đoàn bảo lãnh để kí hợp đồng bảo lãnh giữa nghiệp đoàn và tổ chức phát hành. Khi Uỷ ban chứng khoán cho phép phát hành chứng khoán và đến thời hạn giấy phép có hiệu lực, công ty chứng khoán (nghiệp đoàn bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán. Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán chứng khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán trừ đi phí bảo lãnh. Có hai cách phát hành hộ chứng khoán nh sau: Cách một: Phát hành hộ chứng khoán để hởng phí hoa hồng. Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán và ngời phát hành sẽ kí một hợp đồng. Nếu ngân hàng không bán hết bất cứ một chứng khoán nào thì có thể trả lại cho ngời phát hành mà không bị phạt. Thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán có nhiều điểm lợi: đảm bảo an toàn về vốn hoạt độngcủa mình, thu đợc hoa hồng. Hoa hồng là tỷ lệ phần trăm tiền doanh số bán, do đó phát hành càng nhiều chứng khoán thì càng có thu nhập, phát hành đợc ít thì thu nhập có ít. Công ty chứng khoán không chịu trách nhiệm về việc có bán đợc chứng khoán hay không? Thông thờng lệ phí phát hành cổ phiếu cao hơn lệ phí phát hành trái phiếu và công trái nhà nớc bởi vì cổ phiếu có tính thanh khoản thấp hơn, khó bán đợc. Cách hai: Các công ty cổ phần sử dụng phơng thức phát hành cổ phiếu để huy động vốn, đặc biệt phát hành cổ phiếu để thành lập công ty, họ muốn đợt phát hành cổ phiếu đảm bảo thành công nên thờng nhờ công ty chứng khoán bao tiêu toán bộ cổ phiếu phát hành. Khi nhận bao tiêu các cổ phiếu đợc phát hành của một công ty nào đó, công ty chứng khoán nhận mua toàn bộ chứng khoán của công ty phát hành. Sau đó sẽ bán lại theo giá định sẵn cho ngời mua riêng biệt và đợc hởng phí bằng chênh lệch giữa giá bán và giá mua phải trả cho công ty phát hành, ngoài ra còn đợc hỏng một số quyền lợi nh đợc chia một số cổ phần sáng lập hoặc giữ một số ghế trong hội đồng quản trị hay đợc độc quyền về nghiệp vụ tài chính của doanh nghiệp. Công ty chứng khoán phải đảm bảo bán hết số chứng khoán đảm bảo hoa tiêu, nếu không phải mua lại hết không đợc trả lại cho ngời phát hành. NHTM thực hiện bao tiêu chứng khoán phát hành thờng chịu nhiều rủi ro hơn là làm trung gian hởng hoa hồng.Để giảm bớt rủi ro các NHTM sử dụng các biện pháp: liên kết hai hay nhiều ngân hàng với nhau hình thành nhóm bảo lãnh phát hành chứng khoán để phân tán rủi ro, tìm hiểu kỹ về tình hình của công ty trớc khi đảm bảo hoa tiêu. Số tiền phí mà các NHTM nhận đợc khi thực hiện nghiệp vụ bao tiêu phát hành chứng khoán thờng cao hơn phí hoa hồng. 1.3.2. NHTM là cầu nối giữa nhà đầu t và thị trờng chứng khoán 1.3.2.1. NHTM với vai trò là ngời môi giới chứng khoán Tại Việt Nam khi thành lập Sở giao dịch chứng khoán, có thể nói ngân hàng là ứng cử viên có nhiều u thế nhất vào chức danh ngời môi giới chứng khoán, bởi lẽ: Ngân hàng là ngời hiểu biết khá tờng tận về các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ( thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán ... của ngân hàng). Ngân hàng là có sẵn các phơng tiện kỹ thuật cần thiết phù hợp với yêu cầu của ngời môi giới. Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn liên quan chặt chẽ và gần gũi với những nghiệp vụ về chứng khoán. Với vai trò là ngời môi giới chứng khoán, trên thực tế ngân hàng chỉ thực hiện yêu cầu của khách hàng là lấy danh nghĩa của mình để mua hoặc bán chứng khoán cho khách hàng và đợc hởng một khoản hoa hồng theo thoả thuận. Với chức năng này, ngân hàng không phải bỏ ra một đồng vốn kinh doanh nào, mọi khoản chi phí do khách hàng chịu trách nhiệm cung cấp. Hơn nữa, vì có quyền thay mặt và quyền không phải thông báo cho khách hàng biết đã mua chứng khoán cua ai hoặc đã bán cho ai, ngân hàng có thể bán ngay số chứng khoán của mình cho khách hàng hoặc mua luôn số chứng khoán của khách hàng cho mình nếu thấy có lợi. Chẳng hạn, khi một khách hàng uỷ quyền cho ngân hàng mua cổ phiếu của một công ty nào đó với giá “rẻ nhất” tại thời điểm quy định thì ngân hàng sẽ không nhất thiết phải mua cổ phiếu đó tại sở giao dịch chứng khoán, mà có thể lấy chúng từ dự trữ của mình để bán cho khách hàng. Tất nhiên trong các trờng hợp nh vậy, ngân hàng phải nắm vững tỷ giá chính thức để xác định mức giá bán cho khách hàng. 1.3.2.2. NHTM cung cấp các dịch vụ tạo thuận lợi cho các nhà đầu t trên TTCK a, Dịch vụ lu giữ quản lý hộ chứng khoán Tại pháp lệnh ngân hàng đã viết: “ NHTM có thể thực hiện các nghiệp vụ về cất giữ, mua bán, chuyển nhợng, quản lý các chứng khoán và các giấy tờ có giá khác”. Chứng từ có giá ở đây là các cổ phiếu, trái phiếu... nó có giá trị nh tiền nên cần đợc bảo quản và lu trữ cẩn thận. Những nhà đầu t cầm chứng khoán trong tay với khối lợng lớn sẽ không đảm bảo an toàn, họ có nhu cầu nhờ ai đó quản lý hộ. NHTM là một tổ chức rất có u thế về lĩnh vực này vì đã từng thực hiện các nghiệp vụ quản lý hộ vàng bạc, đá quý và những tài sản giá trị khác. Nghiệp vụ lu giữ, bảo quản chứng khoán cho khách hàng của NHTM là dịch vụ cho thuê két sắt đối với những cá nhân, những công ty, xí nghiệp có nguồn chứng khoán lớn muốn tìm kiếm một nhu cầu an toàn hoặc đối với các ngân hàng nhỏ không đủ phơng tiện giữ chứng khoán cho khách hàng, có thể gửi chứng khoán tại ngân hàng lớn. Về phía ngân hàng thơng mại khi thực hiện dịch vụ lu giữ, bảo quản hộ chứng khoán hộ khách hàng có ích lợi nh: NHTM có thể sử dụng chứng khoán lu giữ, bảo quản hộ thế chấp cho một khoản vay của ngân hàng hoặc mở rộng các dịch vụ khác cho khách hàng ( nhận lãi chứng khoán hộ, giao hoán và thanh toán chứng khoán...) theo sự uỷ quyền của khách hàng. Khi thực hiện dịch vụ này, ngân hàng thu đợc khoản phí dịch vụ từ khách hàng. Trong tơng lai dịch vụ này sẽ không ngừng đợc mở rộng, nó trở thành một nguồn lợi lớn cho khách hàng mà gần nh không bị rủi ro. Về phía khá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0601.doc