Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện của thế giới và khu vực ngày nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của nhân tố bên ngoài, biến nó thành nhân tố bên trong, thì quốc gia đó tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Nước nào thu hút được nhiều và sử dụng có hiệu quả vố

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đầu tư trực tiếp nước ngoài thì ở nước đó, nền kinh tế phát triển nhanh, giảm được gánh nợ nước ngoài, vì vậy, trên thế giới đang diễn ra cạnh tranh gay gắt nhằm thu hút vốn ĐTNN. Ở Việt Nam , trong quá trình đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách hợp tác ĐTNN là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là chủ trương nhất quán và lâu dài của đất nước ta. CHƯƠNG I: XEM XÉT VAI TRÒ CỦA VỐN VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA VỐN: 1.1.1. Phân loại nguồn vốn * Vốn với tăng trưởng kinh tế bao gồm : vốn sản xuất và vốn đầu tư Vốn sản xuất: là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định và vốn lưu động Vốn đầu tư: được hình thành từ vốn sản xuất thông qua hoạt động đầu tư. + Vốn đầu tư vào tài sản cố định: bao gồm vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sửa chữa lớn + Vốn đầu tư vào tài sản lưu động * Nguồn hình thành vốn sản xuất: + Trong nước: - Tiết kiệm dân cư - Tiết kiệm của chính phủ - Tiết kiệm của doanh nghiệp + Ngoài nước: - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) - Nguồn viện trơ phát triển chính thức ( ODA ) - Nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ ( NGO ) - Nguồn vốn tín dụng thương mại 1.1.2. Cơ sở lý thuyết của vốn tới tăng trưởng kinh tế MH Harrod Domar MH Cobb Doughlas MH Solow 1.1.2.1. MH Harrod Domar Công thức: Trong đó: S : Tỷ lệ tiết kiệm K : Hệ số ICOR MH cho thấy mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế và vốn, tỷ lệ nghịch giữa tăng trưởng và hệ số ICOR 1.1.2.2. MH Cobb Doughlas Công thức: Y = A. Kα.Lβ => Trong đó: A : Công nghệ MH cho thấy A tác động đến tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, hay tác động đến tăng trưởng bền vững 1.1.2.3. MH Solow Công thức: Y = f( K, L) => => y = f( k ) Trong đó: y: Thu nhập bình quân k : Tích lũy bình quân Giả thiết: Năng suất lao động cận biên của vốn giảm dần Quan điểm về tiết kiệm với tăng trưởng kinh tế: Kt +1 = Kt . (1-δ ) + It = Kt ( 1- δ ) + St = Kt ( 1- δ ) + Y.st kt+1 = kt (1- δ ) + st Nhận xét: Năng suất cận biên của vốn giảm dần vì vậy phải giảm mức tăng tích lũy vốn cho phù hợp với mức tăng của lao động làm cho k tăng đến trạng thái dừng dẫn đến y tiến đến trạng thái dừng. Như vậy trong dài hạn tỷ lệ tiết kiệm không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, mà chỉ làm cho mức thu nhập bình quân cao hơn.Tăng trưởng kinh tế khi này phụ thuộc vào tiến bộ kỹ thuật Kết luận Như vậy trong 3 mô hình xét ở trên, chỉ có MH Harrod Domar xét đến ảnh hưởng của vốn tới tăng trưởng kinh tế, hai mô hình còn lại chỉ ra mối liên hệ của tăng trưởng với tiến bộ khoa học kỹ thuật MH Harrod Domar giải thích mối liên hệ thuận chiều giữa vốn và tăng trưởng trong ngắn hạn, hai mô hình còn lại giải thích sự phụ thuộc của tăng trưởng kinh tế trong dài hạn với tiến bộ khoa học kỹ thuật 1.2. MỐI QUAN HỆ CỦA VỐN VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1.2.1. Vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế + Vốn có vai trò vô cùng quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo mô hình Harrod - Domar thì đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành, hay toàn bộ nền kinh tế sẽ đều phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho đơn vị đó. + Vấn đề đặt ra là vốn liên hệ với tăng trưởng kinh tế như thế nào? Nguồn vốn (bao gồm cả vốn trong nước và vốn nước ngoài) có được giả sử đều được đem đi đầu tư, từ đó hình thành nguồn vốn đầu tư. Nhưng vốn sản xuất mới là nguồn vốn trực tiếp tác động vào quá trình sản xuất và như vậy nó tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế Hoạt động đầu tư đóng một vai trò quan trọng để biến vốn đầu tư thành vốn sản xuất làm sao để đạt hiệu quả cao nhất, chống thất thoát, lãng phí. 1.2.2. Tác động của vốn tới tăng trưởng kinh tế - Gọi vốn đầu tư là : I - Gọi vốn sản xuất là : k - Hao mòn tài sản cố định : Dp ** Tác động đến tổng cầu Giả sử trong nền kinh tế đầu tư tăng ( I ­) có nghĩa là nhu cầu về mua sắm máy móc, thiết bị, vật liệu xây dựng… tăng lên làm cho đường cầu về hàng hóa dịch chuyển sang phải so với điểm cân bằng. Điều này làm cho giá tăng so với điểm cân bằng. Đồng thời cũng làm tăng sản lượng trong nền kinh tế. ** Tác động đến tổng cung Khi đầu tư tăng ( I ­) kéo theo vốn sản xuất tăng (k ­), nghĩa là khả năng sản xuất, năng lực sản xuất, quy mô sản xuất của nền kinh tế tăng. Sự thay đổi này sẽ làm tổng cung của nền kinh tế tăng (AS ­), AS dịch chuyển sang phải so với điểm cân bằng, do đó mức giá giảm xuống so với mức giá tại điểm cân bằng. Đồng thời cũng làm sản lượng nền kinh tế tăng. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là cần có sự kết hợp, đan xen lẫn nhau , tác động liên tục vào nền kinh tế của vốn đầu tư và vốn sản xuất. + Trong ngắn hạn: Sự gia tăng vốn đầu tư sẽ làm tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng gây ra hiện tượng lạm phát (tăng trưởng đi kèm lạm phát ) Khi toàn bộ vốn đầu tư được hoạt động đầu tư biến thành vốn sản xuất, thì sản phẩm cung ứng trên thị trường sẽ tăng từ đó làm kinh tế tăng trưởng mà vẫn đảm bảo giải quyết vấn đề lạm phát. Như vậy vốn là điều kiện tiên quyết tác động tới tăng trưởng kinh tế của một quốc gia trong ngắn hạn. + Trong dài hạn: Xét trong dài hạn, tỷ lệ tiết kiệm (đầu tư) tăng không phải luôn luôn thay đổi thuận chiều với tăng trưởng Do năng suất cận biên của vốn giảm dần dẫn đến giảm tích lũy vốn bình quân để phù hợp với mức tăng lao động và trong dài hạn K sẽ đạt tới trạng thái dừng đồng nghĩa với nền kinh tế cũng ở trạng thái dừng, khi đó sẽ không có tăng trưởng kinh tế. 1.3. THỰC TẾ Ở VIỆT NAM 1.3.1. Tăng trưởng xét theo các yếu tố đầu vào Tăng trưởng do các yếu tố đầu vào đóng góp: bao gồm ba yếu tố: + Số lượng vốn đầu tư + Số lượng lao động + Yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%. 1.3.1.1. Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý: + Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua. + Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số lượng lao động. Sự quan trọng này được xét trên hai mặt: Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. + Nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay. Điều đó cũng nói lên một thực tế: nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu. 1.3.1.2. Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao: + Hiệu quả sử dụng vốn thông qua hệ số ICOR. (Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại). ICOR qua các thời kỳ như sau: Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995). Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp Bảng 1 : ICOR giai đoạn 1995-2007 Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê + Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/vốn đầu tư (có nghĩa là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm qua các thời kỳ: Thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng. Thời kỳ 1996-2000 còn 3,0 đồng/đồng. Thời kỳ 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng. Thời kỳ 2006-2007 còn 2,46 đồng/đồng. 1.3.1.3. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế thấp Năm 2007 mới đạt 25.886.000 đồng/người (1600 USD). Nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607.000 đồng/người (600 USD). Nhóm ngành công nghiệp - xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072.000 đồng/người (3438 USD). Nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159.000 đồng/người. (2.385 USD). Các con số trên còn thấp so với năng suất lao động chung của thế giới (trên 14.600 USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6.500 USD/người). Với năng suất thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi. Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp, nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất lao động thấp,... nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao, tạo sức ép làm tăng lạm phát. Sức ép này cộng hưởng với lạm phát trên thế giới trong khi đồng Việt Nam được neo giá chặt với USD mà USD lại mất giá lớn so với các đồng tiền mà Việt Nam có quan hệ buôn bán lớn nhất lại càng tạo ra sưc ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các nước. Bảng 2: Đóp góp của các yếu tố đầu vào tới tăng trưởng GDP ở Việt Nam Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê Xem xét tốc độ tăng GDP và sự biến động của tỷ lệ tiết kiệm. đầu tư trong GDP cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam từ đầu thập niên 1990 gắn liền với việc gia tăng mạnh mẽ của tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong GDP. + Thời kỳ 1986 – 1990: tỷ lệ tiết kiệm trong nước và đầu tư thấp, chỉ lần lượt là 2.4% và 12.6% thì tốc độ tăng trưởng cũng chỉ đạt 4.3%. + Thời kỳ 1991 -1995: khi tỷ lệ tiết kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư lên tới 14.7% và 22.3%, thì tốc độ tăng GDP tăng mạnh lên đến 8.2%. + Thời kỳ 1996-2000: tỷ lệ tiết kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư trong GDP đạt 25.9% và 33.2%, tốc độ tăng GDP giảm nhẹ xuống còn 7%. + Thời kỳ 2001-2007: tỷ lệ tiết kiệm trong nước và tỷ lệ tăng GDP tăng mạnh lên đến 32.1% và 38.8% thì tốc độ tăng GDP là 7.62%. Sự sụt giảm của tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1998-2003 một phần là do khủng hoảng tài chính, một phần là do cơ chế chính sách ngày càng không theo kịp tình hình mới làm hiệu quả của vốn giảm sút nhanh, dẫn đến tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng nhanh trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn chưa phục hồi sau cuộc khủng hoảng Bảng 3 Thời kỳ 19986-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2007 Tỷ lệ Tk 2.4% 14.7% 25.9% 32.1% Tỷ lệ đầu tư 12.6% 22.3% 33.2% 38.8% Tăng trưởng kinh tế 4.3% 8.2% 7% 7.62% Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê Hình 4: Quan hệ giữa tăng trưởng vốn đầu tư và tăng GDP Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê 1.3.2. Tăng trưởng kinh tế theo yếu tố đầu ra Tăng trưởng kinh tế xét ở yếu tố đầu ra có ba yếu tố đóng góp: + Đó là sự đóng góp của tiêu dùng cuối cùng + Tích lũy tài sản + Xuất khẩu ròng (xuất khẩu ròng được tính bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) Có một số nhận xét được rút ra từ đóng góp của các yếu tố đầu ra đối với tăng trưởng kinh tế: + Tăng trưởng kinh tế chủ yếu do tăng trưởng tiêu dùng cuối cùng. Điều đó được lý giải là do quy mô GDP của Việt Nam còn thấp, nên tỷ trọng tiêu dùng cuối cùng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên dưới 70%); mức tiêu dùng bình quân đầu người trong nhiều năm còn thấp nên nhu cầu và tốc độ tăng thường khá cao (mấy năm liên tục tăng trên 7%, gần bằng với tốc độ tăng của GDP). Một nét quan trọng là tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường ngày một chiếm tỷ trọng lớn, do tốc độ tăng qua các năm (đã loại trừ yếu tố giá) gần đây liên tục tăng hai chữ số (năm 2002 tăng 11,2%, năm 2003 tăng 15,2%, năm 2004 tăng 10,8%, năm 2005 tăng 11,3%, năm 2006 tăng 12,5%, năm 2007 tăng 11,4%). Khi tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường tăng nhanh và trở thành động lực của tăng trưởng kinh tế thì một mặt nó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, mặt khác tạo áp lực tăng cung tiền tệ, tạo áp lực lạm phát. + Tăng trưởng kinh tế do tăng trưởng tích lũy tài sản chiếm tỷ trọng khá cao. Đây cũng là một tín hiệu tốt thể hiện tâm lý tiết kiệm để dành cho tích lũy của khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh việc trực tiếp đầu tư tăng trưởng, có một phần không nhỏ đã được để dành dưới dạng cất trữ hoặc chạy lòng vòng qua các kênh gây ra những cơn sốt nóng hoặc lạnh ở các kênh này mà không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh. Hiện có hàng trăm tỷ đồng vốn đầu tư đang được chôn vào bất động sản, vàng. + Tăng trưởng xuất khẩu ròng hiện đang mang dấu âm do nhập siêu gia tăng mạnh cả về quy mô, cả về tỷ lệ so với xuất khẩu. Nhập siêu cả về hàng hóa, cả về dịch vụ. Riêng về hàng hóa, năm 2007 lớn gấp 2,5 lần năm 2006, năm nay mới qua 3 tháng mà đã gấp 3,8 lần cùng kỳ, khả năng cả năm có thể gấp rưỡi hoặc cao hơn so với năm trước Bảng 5: Tốc độ tăng trưởng bình quân của vốn đầu tư toàn xã hội Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê 1.3.3. Vai trò của các nguồn vốn và mối quan hệ giữa các nguồn vốn: Vốn trong nước có vai trò ổn định, là nội lực, còn vốn nước ngoài đóng vai trò bổ xung, quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Vốn ngoài nước là nguồn vốn bổ sung quan trọng phục vụ cho chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt là với các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển vốn là những nước còn nghèo, tích luỹ nội bộ thấp, nên để có tăng trưởng kinh tế cao thì các nước này không chỉ dựa vào tích luỹ trong nước mà phải dựa vào nguồn vốn tích luỹ từ bên ngoài. Điều này sẽ cho phép các nước đang phát triển tiếp cận công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại. Tuy nhiên, việc có tiếp cận được các công nghệ hiện đại hay chỉ là các công nghệ thải loại của các nước phát triển lại tuỳ thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư trong việc chủ động hoàn thiện môi trường đầu tư hay không? Vốn ngoài nước tạo công ăn việc làm, cho phép các nước đang phát triển học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng quản lý dây chuyền sản xuất hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như ý thức lao động công nghiệp của đội ngũ công nhân trong nước. Vốn trong nước là nội lực, là quyết định giúp ổn định nền kinh tế. Đây là nguồn vốn mà có thể chủ động huy động và sử dụng, không bị phụ thuộc vào bất cứ yếu tố nào. Nguồn vốn trong nước cân đối đầu tư giữa các vùng, tập trung vào những vùng ít được chú trọng đầu tư, nhằm đạt được hiệu quả cả về mặt kinh tế và xã hội. Vốn trong nước sẽ quyết định tỷ lệ vốn nước ngoài. Thứ nhất: nó là cơ sở để phát triển các cơ sở hạ tầng KT-XH tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Thứ 2: nó tạo nguồn vốn đối ứng, là cơ sở để cân đối và xem xét nguồn vốn nước ngoài được phép đầu tư. Đặc biệt ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển nên tập trung thu hút các nguồn vốn nước ngoài đặc biệt là ODA và FDI. ODA và FDI là 2 nguồn vốn có sự khác biệt rõ rệt. Nếu như ODA là nguồn vốn 1 chiều, xuất phát từ những nước có thu nhập cao, các nước phát triển, các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho các nước đang phát triển về các mặt như hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đầu tư giáo dục …,thì FDI lại là nguồn vốn đa chiều, chủ yếu là các nước đang phát triển nhận vốn đầu tư từ các nước khác, nhưng các nước đang phát triển cũng có thể đầu tư ra các nước khác nhằm mục đích lợi nhuận. Nếu như các nước được nhận nguồn ODA hoặc là thường chịu sự ràng buộc về chính trị xã hội, hoặc sẽ tạo lên những gánh nặng vay nợ sẽ phải trả trong tương lai, thì với nguồn vốn FDI lại không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào, không tạo ra các khoản vay nợ, 2 bên cùng có lợi, bên đi đầu tư thu được nhiều lợi nhuận từ việc tận dụng được các nguồn lực giá rẻ, thị trường tiêu thụ rộng lớn…, bên nhận đầu tư thì thu hút được vốn, công nghệ kỹ thuật và tạo công ăn việc làm cho người dân. Chính vì vậy nguồn vốn FDI thường chỉ mang lại lợi ích về kinh tế, còn ODA thì mang cả lợi ích kinh tế cả lợi ích xã hội. Và vấn đề đặt ra đối với nguồn vồn FDI là vấn đề kinh tế gắn với môi trường còn ODA thường dẫn đến mâu thuẫn giữa kinh tế và xã hội. CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA FDI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỂ ĐẢM BẢO VỐN FDI CHO THỜI KỲ 2006 - 2010 2.1. TỔNG QUAN CHUNG VỀ FDI 2.1.1. Khái niệm Theo IMF : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) “là hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi ích lâu dài của nhà đầu tư tại một doanh nghiệp ở nước khác với nước của nhà đầu tư,trong đó nhà đầu tư phải có vai trò có ý nghĩa quyết định trong quản lý doanh nghiệp “. Một số tổ chức quốc tế, như OECD, định nghĩa FDI theo nghĩa rộng hơn: bao gồm các hoạt động kinh tế của các cá nhân và pháp nhân, kể cả việc cho vay dài hạn hoặc sử dụng  nguồn lợi nhuận tại nước sở tại nhằm mục đích tạo dựng các quan hệ kinh tế lâu dài và mang lại khả năng gây ảnh hưởng thực sự về quản lý. Theo pháp luật Việt Nam (Luật đầu tư 2005 và các văn bản pháp luật lien quan ), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để tiến hành các hoạt động đầu tư và nhà đầu tư phải tham gia quản lý hoạt động đầu tư. 2.1.2. Đặc điểm + Nhà đầu tư (các thể nhân, pháp nhân có vốn đầu tư) không phải là chủ thể của nước nhận vốn đầu tư. + Chủ đầu tư nước ngoài (bên nước ngoài ) phải góp một lượng vốn lớn hơn mức tối thiểu do luật pháp nước chủ nhà quy định. + Tính chất trực tiếp tham gia quản lý dự án đầu tư: nhà đầu tư nước ngoài có quyền tham gia quản lý trực tiếp dư án đầu tư với mức độ tuỳ theo tỷ lệ góp vốn. Đặc điểm này gây tranh luận nhiều nhất vì rất khó xác định thế nào là quản lý trực tiếp + Hành vi thực hiện FDI có thể khác nhau như: đầu tư thành lập doanh nghiệp mới, mở rộng các doanh nghiệp FDI sẵn có, mua cổ phiếu của doanh nghiệp nội địa vượt quá giới hạn phân định FDI với đầu tư mua cổ phiếu thông thường hạn phân định FDI với đầu tư mua cổ phiếu thông thường (FPI), cho vay dài hạn kèm các điều kiện kiểm soát v.v... + Kết quả sản xuất kinh doanh của dự án đầu tư hoàn toàn tuỳ thuộc vào thị trường, khả năng kinh doanh của nhà đầu tư và được phân chia cho các chủ đầu tư theo tỷ lệ góp vốn. Như vậy, FDI là một kênh đầu tư nước ngoài thuộc nhóm đầu tư tư nhân. FDI có thể được thực hiện thông qua việc bỏ vốn tài chính hoặc phi tài chính để thành lập một doanh nghiệp mới hoặc mua lại những doanh nghiệp  đang hoạt động. Hình thức trách nhiệm pháp lý của các doanh nghiệp FDI tuỳ theo từng nước quy định, nhưng thông thường là hai hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ phần.  2.1.3. Các hình thức đầu tư FDI và các hình thức tổ chức đầu tư FDI 2. 1.3.1. Các hình thức đầu tư FDI Trên thế giới hiên nay phổ biến các hình thức đầu tư FDI chủ yếu sau: + Buôn bán đối ứng (Counter Trade): là hình thức đơn giản nhất của FDI và chỉ áp dụng đối với những nước có chính sách hạn chế nhập khẩu và hạn chế đầu tư chặt chẽ. Theo hình thức này,bên nước ngoài cung cấp thiết bị,vật tư khan hiếm cho một doanh nghiệp trong nước để nhận được hàng hoá của nước chủ nhà,thường là nông sản có khả năng tiêu thụ trên thị trường thế giới. Ở Việt Nam, hình thức này được áp dụng trước khi có Luật đầu tư nước ngoài (1987) và đến nay hầu như không sử dụng nữa. Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là hình thức đầu tư, theo đó bên nước ngoài và bên chủ nhà cam kết thực hiện các nghĩa vụ và được hưởng các quyền lợi tương xứng ghi trong một hợp đồng hợp tác kinh doanh. + Liên doanh (Joint-Veture): là hình thức thành lập một doanh nghiệp giữa một hoặc một số bên nước ngoài với một hoặc một số bên của nước chủ nhà. Đây là hình thức khá phát triển ở các nước đang phát triển, đặc biệt ở các nước chuyển đổi như Nga, Trung Quốc, Việt Nam… + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Theo hình thức này, nhà đầu tư nước ngoài thành lập một pháp nhân mới theo luật pháp nước chủ nhà. Doanh nghiệp này thuộc quyền sở hữu 100% của nhà đầu tư nước ngoài. Đây là hình thức được nhiều nhà đầu tư FDI ưa thích. + BOT, BTO, BT: Đây là một hình thức đầu tư tương đối mới và được áp dụng cho cả kênh FDI và kênh đầu tư trong nước. Hình thức này có xu hướng phát triển trong những năm gần đây.  2.1.3.2. Một số hình thức tổ chức đầu tư FDI + Khu chế xuất (Export processing zone-EPZ): Theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá chủ yếu vì mục đích xuất khẩu. Đó là khu vực biệt lập có chế độ mậu dịch và thuế quan của nước sở tại. Theo nghĩa hẹp, khu chế xuất là một khu vực riêng biệt, có ấn định ranh giới, ấn định cả sự kiểm tra riêng đối với các luồng hàng hoá vào và ra khu vực đó. + Khu công nghiệp tập trung: Là một khu vực được xây dựng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có sẵn các nhà máy và các dịch vụ tiện nghi cho con người sinh sống. 2.1.4. Tác động tiêu cực từ FDI + Nhà đầu tư nước ngoài có thể kiểm soát thị trường địa phương, làm mất tính độc lập, tự chủ về kinh tế, phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài; + FDI chính là công cụ phá vỡ hàng rào thuế quan, làm mất tác dụng của công cụ này trong bảo hộ thị trường trong nước; + Tạo ra sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước, có thể dẫn đến suy giảm sản xuất của các doanh nghiệp trong nước; + Gây ra tình trạng chảy máu chất xám, phân hoá đội ngũ cán bộ, tham nhũng... + Vốn đầu tư chảy ra nước ngoài sẽ làm giảm tăng trưởng GDP và việc làm trong nước; + Khi các công ty lớn đầu tư ra nước ngoài sản xuất các mặt hàng cùng loại sẽ tạo nên khả năng cạnh tranh mới giữa các doanh nghiệp ngoài nước với chính doanh nghiệp trong nước, thậm chí cạnh tranh với chính doanh nghiệp đầu tư. 2.2. VAI TRÒ CỦA KHU VỰC FDI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Các nghiên cứu gần đây đều rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu. Phần dưới đây sẽ khái quát vai trò của FDI tổng thể nền kinh tế. Tính đến nay, cả nước có khoảng 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 98 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài đạt khoảng 40 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 và duy trì ở mức 17-18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ năm 2001 đến nay. Riêng năm 2007, thu hút ĐTNN đạt 20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm gần 20% tổng vốn ĐTNN trong 20 năm qua. ĐTNN đã thực sự góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam từ tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam trong một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viẽn thông, khí hoá dầu, tin học, ô tô... Trong 20 năm qua, ĐTNN cũng đã đem lại cho Việt Nam những cơ hội được tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Nhờ đó năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam cũng được nâng lên. 2.2.1. FDI đối với vốn dầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này như đã phân tích ở trên, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31 %, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm 15,5 % trong tổng đầu tư toàn xã hội. Đồ thị 4 Trong suốt một thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Năm 2004, khu vực FDI đóng góp 15,2 % vào GDP so với tỷ lệ đóng góp 6,4% của khu vực này năm 1994. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước. 2.2.2. FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu Như trên đã đề cập, FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp.Nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng v.v. Cùng với việc cung cấp vốn,thong qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận đầu tư,do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ,kỹ thuật tiên tiến hiện đại(thực tế,có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần),những kinh nghiệm quản lý,năng lực marketing, đội ngũ lao động được đào tạo,rèn luyện về mọi mặt Năm 2004, khu vực có vốn FDI đóng góp tới 35,68% (giá so sánh năm 1994) tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, trong khi tỷ lệ này chỉ là 25,1% năm 1995. Đến nay, khu vực có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí,ô tô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng da giày; 25% thực phẩm đồ uống... Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành trong suốt giai đoạn 1995-2003, trừ năm 2001. Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này tuy cao, đạt 15,7% nhưng thấp hơn mức chung của toàn ngành,chủ yếu do tốc độ tăng rất cao của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước (22,8%). Trong một thập kỷ trở lại đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong khi đó năm 2004 con số này đã là 26,5 tỷ đô la, tăng gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng giá trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6 %13 năm 2004. Cần lưu ý rằng, mặc dù FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp có qui mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính. 2.2.3. FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử dụng khoảng 730 ngàn lao động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam so với tỷ trọng này năm1996 là 0,7%. Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ năng cao. Đó cũng là một cách lý giải cho mức thu nhập trung bình của lao động trong khu vực này cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Hơn nữa, số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể thay thế dần các chuyên gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm những chức vụ quản lý doanh nghiệp và điều khiển các qui trình công nghệ hiện đại. Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lao động gián tiếp được tạo ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam. 2.2.4. FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục Thuế, năm 2002, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà nước, tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tính riêng giai đoạn 1996-2002, khu vực này đóng góp (trực tiếp) vào ngân sách trung bình ở mức khoảng 6%16. Tỷ trọng đóng góp nhỏ là do các doanh nghiệp FDI được hưởng chính sách khuyến khích của Chí._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6134.doc
Tài liệu liên quan