Xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Công ty là kết quả của một trong những phương thức liên kết thông qua con đường góp vốn của nhiều chủ đầu tư với mục đích tìm kiếm lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh. Thực tiễn ở nước ta, công ty đã và đang trở thành loại hình thức doanh nghiệp phổ biến và ngày càng được ưa chuộng trên thương trường kinh doanh. Chính từ vai trò, vị trí của công ty trong đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có sự điều chỉnh pháp luật tương ứng đối với sự ra đời, tồn tại

doc179 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và phát triển của loại hình doanh nghiệp này. Ngày 21/12/1990, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật Công ty và ngày 22/6/1994, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5 đã sửa đổi một số điều khoản của Luật Công ty ngày 21/12/1990. Sự ra đời của Luật Công ty đã tạo ra những cơ sở pháp lý cho các quan hệ liên kết, hùn vốn kinh doanh theo hình thức công ty. Đó là những cơ sở pháp lý để bảo đảm an toàn cho người có vốn yên tâm góp vốn đầu tư kinh doanh. Hơn tám năm thi hành Luật Công ty đã có gần 10.000 công ty trách nhiệm hữu hạn, 223 công ty cổ phần được thành lập và đi vào hoạt động với tổng số vốn điều lệ lên đến 12 ngàn tỷ đồng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mặc dù Luật Công ty đã qua một lần sửa đổi nhưng với tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường thì hệ thống pháp luật về công ty đã bộc lộ những hạn chế, bất cập so với yêu cầu của thực tiễn hoạt động công ty. Một trong những bất cập đó là việc điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Chẳng hạn, Điều 8 Luật công ty 1990 quy định: "Thành viên công ty có quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng phần vốn góp" là không chính xác, đã làm cho sự nhận thức bị sai lệch trong quá trình áp dụng pháp luật về quan hệ giữa thành viên và công ty đối với tài sản của công ty. Quy định đó, đã gây ra không ít khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện và bảo vệ lợi ích của thành viên tham gia công ty và hoạt động công ty. Tháo gỡ khó khăn vướng mắc này là một trong những mục đích ra đời của Luật Doanh nghiệp - được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/6/1999 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2000. Sau một năm thi hành Luật Doanh nghiệp, gần 13.500 doanh nghiệp được thành lập, tạo thêm 300.000 chỗ lao động, huy động khoảng 1 tỷ USD vốn nhàn rỗi trong dân vào kinh doanh. Công ty đối vốn là những công ty mà sự liên kết chủ yếu dựa trên phần vốn góp của các thành viên tham. Đặc điểm quan trọng nhất của loại hình công ty này là công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty. Các thành viên tham gia công ty chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong khoản vốn mà họ đã góp vào công ty. Công ty đối vốn tồn tại dưới hai dạng cơ bản là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong những chế định pháp luật về công ty, quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là một trong những chế định trung tâm chi phối toàn bộ quá trình hình thành, tồn tại, phát triển và chấm dứt hoạt động của công ty đối vốn trên thực tế. Nghiên cứu chế định quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn sẽ góp phần làm rõ các quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên kết, hùn vốn theo hình thức công ty đối vốn cũng như góp phần xác lập một hệ thống hình thức pháp lý thích hợp về các mối quan hệ trong nội bộ công ty, các quan hệ giữa công ty với bên thứ ba cả về lý luận và thực tiễn của hoạt động công ty. Nghiên cứu sự điều chỉnh pháp luật đối với quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn không chỉ đặt ra đối với các nhà doanh nghiệp mà còn là một nhu cầu cấp thiết đối với cơ quan có thẩm quyền tiến hành hệ thống hóa pháp luật, cả đối với cán bộ quản lý kinh tế, các nhà khoa học v.v... Đề tài "Xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta" được nghiên cứu nhằm đáp ứng một phần những yêu cầu mà lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên thế giới, công ty và việc nghiên cứu về công ty đã có từ lâu và ở nhiều mức độ khác nhau. ở nước ta, vấn đề "quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở Việt Nam" vẫn còn là vấn đề phức tạp và nan giải đối với việc nghiên cứu về công ty cả về lý luận và thực tiễn. Trong điều kiện nước ta mới bước sang nền kinh tế thị trường, hoạt động công ty và nghiên cứu về công ty là một vấn đề còn nhiều mới mẻ. Vì vậy, trong những phạm vi và mức độ nhất định cũng mới có một số công trình khoa học của một số tác giả nghiên cứu về công ty dưới các giác độ khác nhau về kinh tế, pháp lý... Chẳng hạn: "Luật thương mại Việt Nam dẫn giải" của Lê Tài Triển - Sài Gòn 1972; Đề tài KX 03-13, Bộ Tư pháp: "Pháp luật kinh tế ở Việt Nam"; Giáo trình Luật kinh tế của khoa Luật, trường Đại học KHXH&NV năm 1998; Giáo trình Luật kinh tế của trường Đại học Luật Hà Nội năm 1997; bài "ảnh hưởng chế định quyền tài sản trong Bộ Luật Dân sự đối với Luật Công ty hiện hành" của tác giả Nguyễn Hoàng Anh đăng trên Diễn đàn doanh nghiệp số 20, 21/1996; bài "Mối quan hệ giữa cấu trúc vốn của công ty với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán", bài viết "Công ty cổ phần có phải là giải pháp hoàn chỉnh" của PGS.TS Lê Hồng Hạnh, Tạp chí Luật học, số 4, 5/1996; "Đánh giá tổng kết luật công ty" của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tháng 4/1998; bài "Quyền tự chủ về vốn và tài sản của doanh nghiệp nhà nước" của TS Nguyễn Như Phát, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1999; bài "Về những điểm mới của Luật Doanh nghiệp" của TS Trần Đình Hảo, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/1999; bài "Điều hành và giám sát công ty ở Mỹ và Nhật Bản" của Nobuyuki Yasuda và Trần Thị Lệ Thủy, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2000; bài "Thấy gì qua hơn 6 tháng thực hiện Luật Doanh nghiệp" của TS Dương Đăng Huệ, Báo Pháp luật, chuyên đề tháng 8/2000... Nội dung và kết quả nghiên cứu trong hầu hết các công trình nghiên cứu trên cho thấy, các tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất mang tính nguyên tắc về công ty như thủ tục thành lập, điều hành quản lý, quyền và nghĩa vụ của công ty, cấu trúc vốn trong hoạt động công ty... Theo đó, vấn đề sở hữu tài sản của công ty đối vốn, ít nhiều đã được đề cập trong những công trình này ở những phương diện chung nhất và dường như chưa phải là trọng tâm nghiên cứu của các công trình đó hay là đối tượng của các cuộc tranh luận khoa học. Ngay trong luận văn thạc sĩ luật học của tác giả về đề tài "Quyền sở hữu tài sản của công ty", cũng mới chỉ là những nghiên cứu luận giải bước đầu về mối quan hệ giữa sở hữu và chuyển dịch sở hữu của thành viên với công ty và giữa thành viên với thành viên đối với khối tài sản mà họ góp vào công ty hoặc bước đầu nêu lên một số đặc điểm của căn cứ xác lập quyền sở hữu của công ty đối vốn v.v... Luận văn cũng đã chỉ ra những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu luận giải chi tiết hơn và sâu hơn. Nói một cách khác, những khía cạnh chi tiết về sự điều chỉnh pháp luật đối với việc xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta còn đang ở trạng thái "ngỏ", ở nhiều phương diện cần có sự tiếp tục nghiên cứu luận giải của khoa học pháp lý. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm phân tích và luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta xét theo các căn cứ xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty từ phương diện hình thành, tồn tại và chấm dứt hoạt động của công ty. Từ việc phân tích khái niệm, đặc điểm quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn, luận án phân tích các căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn từ việc góp vốn, từ các khoản vay, từ lợi nhuận của công ty và từ các nguồn khác. Từ nghiên cứu nguồn gốc và căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn, luận án phân tích những nội dung và phương thức thực thi quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Thông qua đó, luận án phân tích để làm rõ ai là người thực thi quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn, mức độ và phạm vi chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó. Để nghiên cứu tổng quan quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn, luận án cũng phân tích và luận giải những căn cứ pháp lý nhằm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn trong các trường hợp theo ý chí của chủ sở hữu và trong các trường hợp giải thể và phá sản công ty đối vốn... Thực hiện mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu về mặt lý luận nguồn gốc, căn cứ xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Việc nghiên cứu này phải xuất phát từ những đặc trưng pháp lý của các quan hệ liên kết, hùn vốn theo hình thức công ty đối vốn. Từ đó rút ra những đặc điểm pháp lý của phương thức chuyển dịch sở hữu và cơ chế thực thi quyền sở hữu theo từng loại hình công ty đối vốn là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. - Nghiên cứu nội dung của pháp luật hiện hành ở Việt Nam về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn và việc vận dụng các quy định đó trong thực tiễn, qua đó rút ra những điểm bất cập của pháp luật cần phải có hướng hoàn thiện. Việc nghiên cứu này có so sánh với Luật Công ty năm 1990 của Việt Nam và pháp luật công ty của một số nước. - Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam đối với việc xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu của luận án là quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta, cụ thể là sẽ nghiên cứu quá trình xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. - Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án được nghiên cứu trong phạm vi lý luận chung của quốc tế về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn và thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về loại hình quyền sở hữu này. Quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là một vấn đề phức tạp. Nghiên cứu một cách đầy đủ về nó cần phải bao quát cả quá trình xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn dưới cả giác độ kinh tế và pháp lý. Với mục đích nghiên cứu được đặt ra ở trên, luận án giới hạn tập trung nghiên cứu những vấn đề có tính nguyên tắc và chung nhất về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn như: các quan hệ xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn dưới giác độ pháp lý về mặt lý luận và bước đầu đối chiếu với thực tiễn điều chỉnh pháp luật hiện hành về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta. Cụ thể, luận án đề cập căn cứ xác lập, việc thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn theo Luật Doanh nghiệp 1999 và các luật liên quan khác. Đó là việc xác lập, thực thi và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp. Tác giả của luận án cũng ý thức được rằng: trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ luật học, không có điều kiện và không thể luận giải mọi khía cạnh và phương diện về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta. Vì vậy có những vấn đề khác chẳng hạn như: vấn đề xác lập quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn từ quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, công ty đối vốn theo quy định của luật đầu tư nước ngoài v.v... là những vấn đề đặc thù và phức tạp cần phải được tiếp tục nghiên cứu, luận giải một cách chuyên biệt ở các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý tiếp theo sau này. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận án vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là quan điểm về vai trò quyết định của kinh tế đối với pháp luật và vai trò sáng tạo của pháp luật đối với sự phát triển kinh tế. Đồng thời, tác giả đã đặc biệt chú ý đến việc vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp so sánh, đối chiếu, diễn giải quy nạp... để nghiên cứu nội dung luận án. 6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án Với mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra, nội dung của luận án sẽ đưa ra những vấn đề mới sau: - Lần đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh pháp luật về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta. - Chỉ ra một số quy định bất cập trong các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. - Đưa ra một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về căn cứ xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta. Tác giả luận án hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc nâng cao ý thức pháp luật về một vấn đề mới là thực thi quyền sở hữu tài sản trong cơ chế tổ chức và vận hành của công ty đối vốn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về công ty, sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là nhằm đáp ứng yêu cầu linh hoạt và năng động cũng như bảo đảm an toàn trong việc chuyển dịch quyền sở hữu tài sản của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. 7. Kết cấu của luận án Từ cách đặt vấn đề, xác định mục đích và nhiệm vụ của đề tài như trình bày ở trên, luận án được bố cục như sau: Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án được chia làm ba chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Chương 2: Thực trạng pháp luật về xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở Việt Nam. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở Việt Nam. Tác giả mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp đối với bản luận án này để công trình nghiên cứu được đầy đủ và toàn diện hơn. Chương 1 một số vấn đề Lý Luận cơ bản Về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn 1.1. quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội chi phối sự ra đời của việc liên kết hùn vốn và hình thành sở hữu tài sản của công ty đối vốn Công ty nói chung và công ty đối vốn nói riêng ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử và kinh tế - xã hội nhất định. Lịch sử phát triển của công ty gắn với lịch sử phát triển của các hoạt động thương mại và sự phát triển của lực lượng sản xuất với những tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sự phát triển của các hoạt động thương mại đòi hỏi phải có sự liên kết hùn vốn của các thương gia với nhau để buôn bán. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một mức độ nhất định đòi hỏi nhu cầu tích tụ và tập trung tư bản lớn, theo Các Mác: Tích lũy - tức là sự tăng dần tư bản nhờ tái sản xuất chuyển từ hình thức vận động hình xoáy trôn ốc - là một phương thức hết sức chậm chạp so với sự tập trung là cách chỉ cần thay đổi sự bố trí về lực lượng của các bộ phận gộp thành tư bản xã hội. Nếu như cứ phải chờ đến khi tích lũy làm cho số tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới cũng vẫn chưa có đường sắt [8, tr. 119]. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu khách quan phải tích lũy tư bản để tái sản xuất và mở rộng sản xuất. Cũng chính nhu cầu huy động vốn cho hoạt động kinh doanh đã thúc đẩy các nhà tư bản phải tìm đến những hình thức tổ chức kinh doanh mới "qua các công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt" [8, tr. 119]. Công ty cổ phần có khả năng thu hút vốn nhanh chóng và khả năng thanh khoản cao nhằm đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh của nhà tư bản. Sự hùn vốn theo hình thức công ty chính là nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế. Hơn nữa, nền kinh tế ngày càng phát triển thì càng có nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, tạo ra những cơ hội và khả năng thu hút nhà đầu tư tìm đến những miền đất mới để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn trong những ngành nghề mà họ đang tiến hành hoạt động kinh doanh. Sự liên kết hùn vốn theo những hình thức pháp lý nhất định cũng sẽ giúp nhà tư bản đầu tư với các nhà tư bản khác trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau. Sự liên kết đó giúp các nhà tư bản tập trung được trí tuệ, khả năng và kinh nghiệm để quản lý kinh doanh tốt hơn, sẽ phân tán được những rủi ro có thể xảy ra. Như vậy, chính nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đã đòi hỏi cần có sự liên kết, hùn vốn. Đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu tư muốn liên kết, hùn vốn để chia sẻ những gánh nặng rủi ro (nếu có) trong hoạt động kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Sự ra đời của những quan hệ liên kết, hùn vốn đã đáp ứng được một phần nhu cầu khách quan của quá trình huy động, bảo toàn và phát triển vốn trong hoạt động kinh doanh đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chính từ vai trò, vị trí cũng như sự tồn tại và phát triển của các quan hệ liên kết, hùn vốn trên thương trường đòi hỏi phải có những hình thức pháp lý thích hợp để điều chỉnh các quan hệ đó. Lúc này, các chủ sở hữu không chỉ tác động vào tài sản một cách trực tiếp, mà còn thông qua người khác để khai thác lợi ích từ tài sản. Để "không bỏ tất cả trứng vào một giỏ", họ có thể kinh doanh nhiều ngành nghề khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau. Việc góp vốn, mua cổ phiếu, mua trái phiếu ở nhiều công ty khác nhau giúp chủ sở hữu vốn khai thác được khả năng sinh lời tối đa của đồng vốn, đồng thời phân tán được rủi ro và bảo đảm an toàn đồng vốn của họ. Theo các nhà nghiên cứu, để có hình thức tồn tại tương đối hoàn thiện và đa dạng như ngày nay, những hình thức pháp lý đó đã trải qua quá trình phát triển lâu dài. Những hình thức pháp lý của sự liên kết hùn vốn xuất hiện sơ khai từ thời kỳ La Mã, được hoàn thiện dần ở châu Âu vào thế kỷ XIII, tiến tới có mô hình hoàn chỉnh vào thế kỷ XVII và được phát triển mạnh từ cuối thể kỷ XIX đến nay. Từ nhu cầu của các chủ sở hữu vốn, trên thực tế của hoạt động kinh doanh đã xuất hiện nhiều loại liên kết. Mỗi một loại liên kết đều phải đáp ứng việc khai thác lợi ích từ tài sản của chủ sở hữu (tức khả năng sinh lời từ đồng vốn). Sự sinh lời đó phải được pháp luật thừa nhận và được bảo đảm an toàn về mặt pháp lý. Vì vậy, pháp luật phải có cơ chế điều chỉnh thích hợp đối với mỗi hình thức liên kết. Ngay trong luật La Mã, người ta đã thấy xuất hiện các chế định về liên kết hợp đồng, về các quan hệ nợ nần giữa các thương gia, đặc biệt nội dung cơ bản của chế định về sở hữu vẫn còn giá trị pháp lý cho đến ngày nay. Trong chế định về liên kết "Luật La Mã chia thành hai loại liên kết khác nhau là Societas và Universitas. Universitas là mô hình và các ý tưởng để sinh ra lý thuyết về pháp nhân" [36, tr. 113]. Trong giao dịch với bên thứ ba, Universitas có năng lực pháp lý độc lập, nó có tài sản riêng độc lập với tài sản của thành viên, tự chịu trách nhiệm về những khoản nợ, tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn, sự thay đổi thành viên không làm ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của Universitas. Ngược lại, Societas không phải là một thực thể pháp lý độc lập, nó không có tài sản riêng, trong các quan hệ nợ nần từng thành viên phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của mình và họ cùng tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn. Do đó, "sự thay đổi thành viên của Societas là lý do để giải thể Societas" [36, tr. 114]. Như vậy, trong nền kinh tế có những hình thức khác nhau để các chủ sở hữu có thể hoặc là trực tiếp kinh doanh khai thác lợi ích từ tài sản của mình hoặc là thông qua những hình thức liên kết giản đơn được điều chỉnh bằng luật Dân sự. Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi phải có các hình thức mới cho các chủ sở hữu vốn và tài sản có thể chuyển giao và thông qua người khác (cá nhân hoặc tổ chức) kinh doanh khai thác và mang lại lợi ích từ tài sản cho chính mình. Quả thật "mỗi khi sự phát triển của công thương nghiệp tạo ra những hình thức giao tiếp mới, chẳng hạn như công ty bảo hiểm.v.v thì pháp luật buộc phải luôn luôn chấp nhận đó là những hình thức mới của việc chiếm hữu" [10, tr. 93]. Đáp ứng đòi hỏi của hoạt động kinh doanh đã xuất hiện nhiều hình thức pháp lý điều chỉnh sự liên kết giữa các chủ sở hữu vốn. Vào khoảng thế kỷ thứ XIII ở châu Âu đã xuất hiện các loại hình công ty đối nhân trong lĩnh vực thương mại ở một vài thành phố. Các hội hợp tư (Commenda) là tiền thân của công ty hợp vốn đơn giản và công ty nặc danh ngày nay, theo đó những người góp vốn (Commendator) chuyển tiền hoặc hàng hóa cho người kinh doanh (Tractato) để cùng tiến hành hoạt động kinh doanh. Sự liên kết (Societar fratrum) giữa các thương gia trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải có hình thức pháp lý thích hợp điều chỉnh. Hình thức hợp danh ra đời dựa trên cơ sở liên kết về nhân thân giữa các thành viên mà khởi thủy của nó là kinh tế gia đình. Khi các thương gia chết, con cái của họ cùng nhau tiếp tục kinh doanh và cùng bình đẳng với nhau. Với hình thức pháp lý công ty hợp danh, tất cả các thành viên tham gia đều liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Vì không có sự tách bạch tài sản đưa vào hợp danh với phần tài sản thuộc sở hữu của thành viên nên khi thực hiện hành vi góp vốn, các thành viên hợp danh không nhất thiết làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty. Khi tiến hành kinh doanh "thành viên công ty nhân danh công ty để kinh doanh. Để tham gia vào mô hình công ty này, các thành viên phải có tư cách thương gia và phải ghi tên vào sổ thương mại" [36, tr. 183]. Mặc dù công ty hợp danh là thực thể độc lập nhưng các thành viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty. Vì vậy, sự phá sản của thành viên rất có thể là lý do kéo theo sự phá sản của công ty, đây chính là hạn chế của mô hình hợp danh, đặc biệt là đối với các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải có sự huy động vốn lớn hơn và sự tồn tại của thực thể kinh tế mang tính lâu dài. Khắc phục hạn chế này, hình thức hợp vốn đơn giản xuất hiện. Đây là hình thức mà thành viên tham gia được chia làm hai nhóm: nhóm thành viên góp vốn và nhóm thành viên nhận vốn, trong đó nhóm thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn, còn nhóm thành viên nhận vốn có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên này phải có tư cách thương nhân). Tính chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên nhận vốn tạo cho họ một địa vị pháp lý ưu việt hơn các thành viên góp vốn. Họ có quyền quản lý công ty, trực tiếp điều hành công ty và đại diện cho công ty trong các quan hệ với bên ngoài. Sự ra đời của hình thức hợp vốn đơn giản lúc đầu để đáp ứng nhu cầu của những người có vốn, muốn kinh doanh kiếm lời song lại không muốn xuất hiện với tư cách là một thương nhân trước công chúng. Mặt khác, một số thương nhân muốn kinh doanh nhưng lại lo ngại tính chịu trách nhiệm liên đới vô hạn của hình thức hợp danh. Theo các tác giả người Pháp, mầm mống của hình thực hợp vốn đơn giản xuất hiện thịnh hành ở một số tỉnh thuộc Italia do sự thúc đẩy của nhu cầu về thương mại hàng hải. Năm 1673 ở Pháp đã có luật quy định về hình thức hợp vốn này. Hiện nay trên thế giới, hình thức hợp vốn đơn giản ít tồn tại và thông thường đó là công ty hợp danh cũ buộc phải chuyển sang hình thức này khi có một thành viên qua đời nhằm tạo điều kiện cho người thừa kế chưa thành niên trở thành người góp vốn vì các thành viên trong công ty hợp danh phải là những thương nhân có đủ năng lực mà pháp luật quy định. Ngoài hình thức hợp vốn đơn giản ở một số nước còn có công ty hợp vốn cổ phần. Đây là loại hình hợp vốn mà các thành viên được chia thành hai nhóm: 1) Nhóm của những người góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm về nợ nần của công ty bằng số vốn đã góp, được hưởng phần lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của công ty, tuy nhiên khác với các với thành viên góp vốn trong công ty hợp vốn đơn giản, ở đây việc góp vốn của họ không còn đơn giản nữa mà đã được thể hiện dưới hình thức các cổ phần. Người sở hữu cổ phần là các cổ đông. Vì thế có thể coi đây là một dạng công ty "hybride" (trộn lẫn giữa công ty đối nhân và công ty cổ phần). 2) Nhóm còn lại hay ít nhất còn một thành viên (thành viên nhận vốn) phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Chính vì đặc điểm trộn lẫn này mà công ty hợp vốn theo cổ phần có những đặc điểm của cả công ty đối nhân và công ty cổ phần. Sự liên kết về vốn ra đời muộn hơn vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Hình thức hợp vốn là tiền đề làm xuất hiện công ty đối vốn. Đây là loại hình công ty trong đó mối quan hệ của các thành viên được xác định dựa vào tỷ lệ vốn góp. Lúc đầu có thể góp vốn theo tỷ lệ xác định, nhưng về sau sẽ có nhiều thang bậc khác nhau. Những người góp vốn với tỷ lệ cao sẽ được hưởng phần lớn hơn lợi nhuận của công ty. Do vậy, cần phải có mô hình tổ chức quản lý với những thang, bậc khác nhau về quyền lực tạo lập từ việc góp vốn và nhu cầu của các thành viên tham gia công ty. Với các quy định của Dân luật truyền thống về quyền sở hữu và tài sản đã trở nên hạn hẹp. Chẳng hạn đối với tài sản, chủ sở hữu sẽ trực tiếp khai thác lợi ích thông qua việc thực hiện ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Sự điều chỉnh này không thể thỏa mãn được nhu cầu của chủ sở hữu góp vốn để thành lập một tổ chức kinh tế và thông qua tổ chức đó để khai thác lợi ích từ tài sản góp vốn của mình. Cần phải có một cơ chế điều chỉnh sao cho lợi ích của tổ chức kinh tế phù hợp với lợi ích của các chủ sở hữu tham gia góp vốn. Vấn đề đặt ra là sau khi góp vốn, chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho công ty, các thành viên được xác lập quyền lực nào đối với công ty và từ thời điểm nào? theo hình thức nào? và ở mức độ nào? Vượt lên trên sự điều chỉnh chật hẹp của dân luật và xuất phát từ những nguyên tắc của dân luật truyền thống, Luật Công ty ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi kinh tế xã hội ấy. Luật công ty hiện đại ra đời cùng với thời kỳ tự do hóa tư sản nhằm đáp ứng đòi hỏi của hoạt động kinh doanh. Các thành viên tham gia công ty có thể thỏa thuận cơ chế kiểm soát, điều hành quản lý công ty. Mục đích đặt ra đối với cơ chế kiểm soát, điều hành quản lý công ty là nhằm đảm bảo rằng số vốn được góp của họ bỏ ra sẽ có khả năng sinh lời, sẽ được bảo đảm an toàn pháp lý và trong những trường hợp cần thiết họ sẽ lựa chọn mô hình hội vốn theo hình thức công ty cổ phần để có khả năng chuyển đổi linh hoạt (khả năng thanh khoản) đáp ứng nhu cầu của chủ sở hữu tài sản. Những người có vốn và tài sản sẽ cân nhắc các ưu thế và hạn chế của các hình thức pháp lý khác nhau về công ty để lựa chọn một hình thức phù hợp. Chẳng hạn, họ chọn mô hình công ty đối vốn vì đây là một thực thể pháp lý được giới hạn sự rủi ro tài chính của chủ sở hữu trên số vốn đã đầu tư. Hoặc những người hội vốn muốn tự định ra cơ chế quyền lực thì thành viên hội vốn phải là những người quen biết nhau, hiểu được khả năng, kinh nghiệm của nhau và số lượng thành viên tham gia thường ít. Họ sẽ thỏa thuận và phân công nhau đảm nhiệm việc quản lý và điều hành công ty. Do đó, mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ là phù hợp với họ. Hoặc, trong trường hợp nhu cầu kinh doanh cần hội vốn công cộng thì các chủ sở hữu vốn sẽ lựa chọn mô hình công ty cổ phần. Căn cứ vào ưu thế và hạn chế của hội vốn công cộng mà cấu trúc quyền lực trong công ty cổ phần khác với công ty trách nhiệm hữu hạn. Trước hết, hội vốn công cộng cho phép công khai huy động vốn bằng cách bán cổ phiếu cho dân cư và công khai vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Trong số những người mua bán cổ phiếu (trái phiếu) sẽ có những người không hiểu biết về kinh doanh, vì vậy để họ tin tưởng việc đầu tư vốn của họ được bảo đảm an toàn và có khả năng sinh lời thì phải có cơ chế để các thành viên lựa chọn trong số họ những người có khả năng, có uy tín để bầu vào bộ máy quản lý và điều hành công ty. Hơn nữa, để đáp ứng tính linh hoạt của hoạt động kinh doanh và sự mềm dẻo trong việc sử dụng vốn, người hội vốn đã thỏa thuận mức độ quyền lực đối với từng loại cổ phần. Ví dụ, sở hữu cổ phiếu ưu đãi biểu quyết có nhiều quyền lực trong quản lý điều hành hơn so với cổ phiếu ưu đãi cổ tức hoặc cổ phiếu phổ thông. Như vậy, lựa chọn mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần là việc của chủ sở hữu vốn và tài sản. Mức độ điều chỉnh của pháp luật cũng tùy thuộc vào tính chất hội vốn mà đưa ra những quy phạm tùy nghi, quy phạm hướng dẫn hay quy phạm mệnh lệnh. Chẳng hạn, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty mà sự hình thành ngoài yếu tố hội vốn, các thành viên còn quan tâm đến việc trực tiếp điều hành, quản lý công ty. Vì vậy, công ty trách nhiệm hữu hạn không phải điều chỉnh bởi nhiều quy định pháp luật có tính chất bắt buộc như công ty cổ phần. Khác với công ty trách nhiệm hữu hạn, sự ra đời của công ty cổ phần từ nhu cầu hội vốn công cộng. Việc công khai gọi vốn trong công chúng dễ tạo ra sự lạm dụng hoạt động công ty để lừa đảo, đầu cơ, để thâu tóm quyền lực v.v... Vì vậy, mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với công ty này ngay từ quá trình thành lập đã phải ràng buộc bởi những quy định mang tính bắt buộc, ví dụ quy định tư cách của sáng lập viên, quy định về điều kiện gọi vốn hoặc quy định tổ chức quyền lực trong công ty. Theo quy định của pháp luật một số nước, cơ chế quyền lực này sẽ quyết định về tổ chức và cấu trúc quyền lực công ty, các công ty hoạt động theo luật tư và chịu rất ít sự giám sát của nhà nước. Ngay Bộ Luật Thương mại (Code de Commerce) Pháp năm 1807 đã thể chế các quan điểm tự do hóa trong kinh doanh. Việc thành lập công ty xuất phát từ lợi ích của nhà đầu tư, nhà nước chỉ thừa nhận sự ra đời của công ty khi có những điều kiện hợp lệ. Song để bảo vệ lợi ích của thành viên góp vốn và an toàn của hoạt động kinh doanh, về sau nhiều nước ở châu Âu ban hành luật Thương mại quy định việc thành lập công ty cần giấy phép của Nhà nước. Đến năm 1870, hầu hết các nước đều bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép thành lập công ty. Công dân hoàn toàn có quyền tự do thành lập và hoạt động công ty. Nhà nước chỉ đưa ra một số quy định bắt buộc. Ví dụ: công ty có nghĩa vụ đăng ký tại tòa án trước khi hoạt động, tòa án căn cứ vào lời khai của người thành lập công ty và kết quả thẩm định của các chuyên gia kiểm toán độc lập để đăng ký theo các quy định của pháp luật. Do sự tự do hóa hoạt động kinh doanh nên đã xảy ra nhiều vụ lừa đảo lớn trong công chúng. Vì vậy, nhà nước đã hoàn thiện thêm các quy phạm bắt buộc để hạn chế lừa đảo trong kinh doanh theo hình thức công ty đối vốn. Như vậy, xuất phát từ tính chất liên kết và đặc điểm hội vốn mà ._.xuất hiện công ty đối vốn là loại hình công ty thỏa mãn đa dạng lợi ích và nhu cầu của thành viên góp vốn, đồng thời nó phải đáp ứng được tính linh hoạt, sự mềm dẻo trong quá trình sử dụng vốn của họ. Chính nhu cầu này đòi hỏi sự điều chỉnh của pháp luật phải "hình thức hóa" ở những mức độ khác nhau, để bảo đảm quyền lợi cho các chủ sở hữu vốn và tài sản, đồng thời bảo đảm hoạt động của một thực thể pháp lý được thừa nhận có tư cách độc lập tham gia vào thương trường kinh doanh là công ty đối vốn. Quá trình phát triển của lịch sử về sự liên kết, hùn vốn và sự ra đời của công ty đã cho thấy luật công ty thuộc về luật tư, sự phát triển của nó gắn liền với lịch sử phát triển thương mại. Nhà nước ngày càng hạn chế sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động của công ty, không duy trì chế độ cấp giấy phép thành lập hay giấy phép hoạt động mà chỉ quy định các công ty chỉ có nghĩa vụ đăng ký để được ghi tên vào danh bạ thương mại. Hầu hết luật pháp các nước đều thừa nhận tư cách pháp lý của công ty đối vốn từ thời điểm thực hiện xong thủ tục đăng ký kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Từ thời điểm này, công ty có tư cách pháp nhân, có tài sản riêng tách bạch với tài sản của các thành viên tham gia công ty. Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm bằng phần vốn tham gia vào công ty, còn công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản thuộc sở hữu của công ty. Vậy quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là gì? 1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn Quyền sở hữu được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật ghi nhận, điều chỉnh và bảo vệ trạng thái chiếm hữu của cải vật chất của những chủ thể nhất định. Công ty đối vốn là một pháp nhân, là một trong những chủ sở hữu tài sản được pháp luật ghi nhận. Vì vậy, quyền sở hữu tài sản công ty đối vốn là tổng hợp các quy phạm pháp luật ghi nhận, điều chỉnh và bảo vệ trạng thái chiếm hữu những tài sản thuộc công ty. Việc ghi nhận, điều chỉnh và bảo vệ trạng thái chiếm hữu tài sản của công ty nhằm: thứ nhất, xác nhận khả năng sở hữu tài sản và xác nhận về mặt pháp lý trạng thái thực tế của công ty trong việc chiếm hữu các tài sản của mình; thứ hai, pháp luật xác định quyền hạn của công ty trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản; thứ ba, pháp luật xác định những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công ty trước những chủ thể khác. Hiểu theo nghĩa khách quan như trên thì quyền sở hữu tài sản của công ty thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau như Luật Nhà nước, Luật Hành chính, Luật Dân sự, Luật Tài chính, Ngân hàng, Luật Đất đai. Ví dụ luật Nhà nước công nhận và bảo vệ về hình thức sở hữu của tổ chức (công ty - một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân). Luật Dân sự quy định căn cứ xác lập và chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của pháp nhân (công ty đối vốn là một pháp nhân) và quy định các quyền năng của chủ sở hữu và những người khác đối với tài sản. Những ngành luật khác như luật Đất đai, luật Tài chính, Ngân hàng, luật Công ty quy định các phương thức xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối với các loại tài sản cụ thể; luật Dân sự, luật Hành chính, luật Hình sự quy định các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công ty. Theo Đại từ điển kinh tế thị trường của Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa thì "quyền sở hữu là một loại trong vật quyền dân luật, chỉ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, thu lợi, phân xử vật sở hữu của mình và loại bỏ sự can thiệp của người khác, của chủ thể dân sự trong phạm vi quy định của pháp luật" [17, tr. 1952]. Theo khái niệm này, thì quyền sở hữu tài sản của công ty là một loại vật quyền theo đó công ty có quyền chiếm hữu, sử dụng, thu lợi và phân xử (định đoạt) tài sản của công ty. Vì vậy, "quyền sở hữu tài sản của công ty mang những đặc trưng chung của vật quyền" [17, tr. 1951] và còn có những đặc trưng riêng như: 1) Công ty có toàn quyền chi phối tài sản của công ty thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, thu lợi và định đoạt đối với tài sản; 2) Quyền sở hữu tài sản của công ty là cơ sở để công ty thực hiện quyền sử dụng và quyền đảm bảo tài sản; 3) Quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là loại vật quyền có tính chất năng động, quyền năng của nó có thể tách ra và trở về với công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. Theo khái niệm trên thì quyền sở hữu tài sản của công ty chỉ được hiểu với nội dung đồng nghĩa với quyền năng của chủ sở hữu (công ty với tư cách là chủ sở hữu). Vấn đề hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận là: với ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt liệu đã đủ với chủ sở hữu chưa? Với ba quyền năng đó có thể chứng tỏ đặc điểm pháp lý của quyền chủ sở hữu và phân biệt nó với quyền năng của những chủ thể khác không? Vấn đề là trong lý luận cũng như trong thực tiễn, trong nhiều trường hợp các chủ thể khác không phải là chủ sở hữu cũng có những quyền năng đó, không chỉ từng quyền năng riêng biệt mà kể cả tập hợp ba quyền năng nêu trên. Tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, "tự bản thân quyền năng trong mọi trường hợp chưa đủ để khái quát nội dung quyền sở hữu. Hơn nữa, sẽ là sai lầm nếu coi đó là khả năng đúng duy nhất để thể hiện quyền hạn của chủ sở hữu" [56, tr. 24]. Ngay trong luật La Mã cổ đại cũng không quy định quyền của chủ sở hữu "đóng kín" ở ba quyền năng nêu trên. Cùng với quyền sở hữu, thời bấy giờ trong luật La Mã đã quy định quyền chiếm hữu, quyền sử dụng là những loại vật quyền hoàn toàn độc lập. Tiếp nhận hạt nhân hợp lý của luật La Mã, pháp luật của các nước như Pháp, Đức, Nhật Bản... quy định về quyền sở hữu tư nhân thiêng liêng, tuyệt đối và quy định về các loại vật quyền của các chủ thể khác nhau (quyền sử dụng, quyền địa dịch...). Chẳng hạn Điều 344 Bộ luật dân sự Pháp quy định "Quyền sở hữu là quyền thụ hưởng và định đoạt tài sản một cách tuyệt đối với điều kiện không được sử dụng quyền này trái với quy định của pháp luật. Pháp luật Anh, Mỹ cũng liệt kê 11 quyền năng của chủ sở hữu" [56, tr. 24]. Ngoài ra, trên thực tế khả năng kết hợp các loại quyền năng trên sẽ còn nhiều phương án với cùng một tài sản. Vậy, quyền sở hữu có những đặc điểm riêng để phân biệt nó với các loại vật quyền khác. Cũng như đặc điểm pháp lý của quyền sở hữu nói chung, quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn không phải chỉ thể hiện ở số lượng ba quyền năng của chủ sở hữu, hoặc ở nội dung ba quyền năng, mà còn thể hiện ở bản chất của những quyền năng đó. Trên thực tế, nội dung các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt luôn gắn liền với chủ sở hữu, nó cũng có thể tách rời khi nền kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định. Sự tách rời nội dung của quyền sở hữu trải qua một quá trình, ban đầu khi nền kinh tế còn ở trình độ thấp, chủ sở hữu tài sản là người chiếm hữu, người sử dụng, người định đoạt tài sản một cách trực tiếp. Khi nền kinh tế phát triển, đặc biệt trong thời kỳ sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, nhà tư bản với tư cách là người chiếm hữu tư bản đồng thời cũng là người chủ kinh doanh, thì lúc này các quyền năng của quyền sở hữu có thể gắn liền với chủ sở hữu, nó cũng có thể tách rời chủ sở hữu. Ví dụ người sở hữu tài sản sử dụng tài sản của mình để trực tiếp kinh doanh hoặc thông qua người khác kinh doanh. Trong những trường hợp như vậy, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tách rời nhau. Theo Mác, lúc này "Tư bản sở hữu tách rời tư bản hoạt động, hay tư bản hoạt động tách rời tư bản chức năng". Trong quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa, quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất là tiền đề làm phát sinh, tồn tại quan hệ hàng hóa tiền tệ; nó quy định địa vị của con người trong xã hội có giai cấp; nó cũng là tiêu chí để đánh giá sự tiến bộ của xã hội. Sự biến đổi của quan hệ sở hữu vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, vừa là hình thức xã hội để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, bất cứ một sự thay đổi nào của quan hệ sở hữu đều là kết quả tất yếu, khách quan tạo nên lực lượng sản xuất mới. Từ nhận thức như vậy, tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, theo nghĩa chủ quan "quyền sở hữu là khả năng đặc biệt tối đa của chủ sở hữu làm chủ hoàn toàn về mặt kinh tế đối với tài sản của mình, thể hiện quyền chiếm giữ, sử dụng và định đoạt tài sản của mình theo sự xét đoán của riêng mình, nghĩa là thực hiện bất kỳ hành vi nào đối với tài sản đó mà không trái với quy định của pháp luật" [56, tr. 25]. Khái niệm này đã nêu rõ đặc trưng của quyền sở hữu không chỉ ở trạng thái tĩnh mà còn nêu được "động thái" của việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu. Từ những vấn đề phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: quyền sở hữu tài sản của công ty là khả năng đặc biệt tối đa của công ty làm chủ hoàn toàn về mặt kinh tế đối với tài sản của mình, công ty có quyền chiếm giữ, sử dụng và định đoạt tài sản của công ty và thực hiện các giao dịch đối với tài sản vì lợi ích của công ty và không trái với các quy định của pháp luật. Để tìm hiểu rõ hơn đặc trưng của quyền sở hữu tài sản của công ty, luận án sẽ phân tích cấu thành về chủ thể, khách thể và nội dung của quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. 1.1.3. Cấu thành quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn 1.1.3.1. Chủ thể quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn Chủ thể quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn có những đặc điểm sau: Thứ nhất, chủ thể quyền sở hữu công ty đối vốn là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân Trước hết, chủ thể quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Khác với tổ chức xã hội, công ty đối vốn là một tổ chức kinh doanh. Vì vậy, trong quá trình thành lập cũng như hoạt động, hành vi kinh doanh luôn luôn là mục đích của việc hội vốn là hành vi có tính chất liên tục trong quá trình tồn tại của công ty theo đúng lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh đã đăng ký. Khác với công ty đối nhân - một thực thể pháp lý không có sự tách bạch về tài sản giữa phần của thực thể đó và của chủ sở hữu, công ty đối vốn là một thực thể có tài sản độc lập tách bạch với tài sản của thành viên tham gia vào công ty. Trong quá trình thành lập, khi thực hiện xong nghĩa vụ góp vốn, thì phần vốn góp của thành viên chuyển thành sở hữu của công ty, công ty phải chịu trách nhiệm đối với tài sản của mình. Tiêu chí lợi nhuận luôn là động lực và mục tiêu của công ty. Khi tiến hành hoạt động, công ty đối vốn chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình với tư cách là một tổ chức kinh tế. Với mô hình thiết kế về pháp lý như vậy, luật pháp đã thừa nhận công ty đối vốn là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hưởng quy chế trách nhiệm hữu hạn. Tư cách pháp nhân của công ty đối vốn thể hiện nó là một thực thể pháp lý: - Được thành lập một cách hợp pháp; - Có tài sản độc lập; - Tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình bằng tài sản của công ty; - Là nguyên đơn hay bị đơn trước các cơ quan tài phán. Sự thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty đối vốn thể hiện tình trạng tách bạch về quyền sở hữu tài sản của nó với quyền sở hữu tài sản của thành viên đã thành lập ra nó. Điều đó đòi hỏi: trong việc góp vốn vào công ty, quyền sở hữu vốn và tài sản góp vốn của thành viên công ty phải được chuyển dịch sang cho công ty và lúc đó công ty đối vốn với tư cách là thực thể pháp lý độc lập, có tư cách pháp nhân sẽ là chủ thể quyền sở hữu vốn và tài sản đã góp đó. Công ty là chủ thể thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của công ty vì mục đích kinh doanh. Thứ hai, công ty đối vốn là một tổ chức kinh tế phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Công ty đối vốn muốn được thừa nhận là tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân, sáng lập viên công ty phải tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết theo quy định của pháp luật tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trước đó, các thành viên hội vốn đã bàn bạc, thỏa thuận và nhất trí với nhau về điều lệ công ty, chỉ định người quản lý công ty và các công việc cần thiết như đặt tên gọi, đặt trụ sở, ký một số hợp đồng mua bán... Khi hội đủ những yếu tố và điều kiện để công ty ra đời, sáng lập viên sẽ tiến hành thủ tục đăng ký việc thành lập công ty tại cơ quan có thẩm quyền. Luật pháp một số nước gọi thủ tục này là thủ tục đăng ký kinh doanh. Đăng ký kinh doanh là thủ tục hành chính tư pháp, là khâu cuối cùng của quá trình thành lập công ty nhằm khai sinh công ty. Mục đích của thủ tục này nhằm thừa nhận địa vị pháp lý của công ty và thông tin chính thức, công khai về hoạt động của công ty với công chúng. ở nhiều nước phương Tây người ta giao nhiệm vụ này cho Tòa án (cơ quan tư pháp) thực hiện. Phần lớn các nước ở châu á, việc đăng ký kinh doanh do cơ quan hành pháp thực hiện. ở Việt Nam hiện nay, việc đăng ký kinh doanh thuộc thẩm quyền của phòng đăng ký kinh doanh (theo quy định của Luật Doanh nghiệp). Chỉ sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty mới được nhà nước thừa nhận địa vị pháp lý trên thương trường. Việc đăng ký kinh doanh buộc những chủ sở hữu có nhu cầu hội vốn thành lập công ty phải là những chủ thể trước hết chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước và bên thứ ba về tính chính xác và trung thực của các thông tin được khai báo. Ngoài ra, quy định như vậy còn thúc đẩy những bên có liên quan kiểm soát lẫn nhau trong khi thiết lập các giao dịch pháp lý trong quá trình thành lập công ty. Chỉ sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty đối vốn mới có tư cách pháp nhân hay nói cách khác: hành vi đăng ký kinh doanh làm phát sinh địa vị pháp lý của công ty. Cũng từ thời điểm này mới làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Tính cá thể hóa pháp nhân đòi hỏi công ty phải có tên gọi riêng. Tên gọi của công ty do sáng lập viên công ty tự lựa chọn và ghi vào điều lệ của công ty. Do đó, việc thay đổi tên gọi công ty phải sửa đổi điều lệ và đăng ký lại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời thông báo công khai cho khách hàng và mọi người biết để tiện liên hệ. Quyền sở hữu vốn và tài sản của của công ty phải mang tên chủ sở hữu là công ty. Khi tài sản góp vốn chưa hoặc không sang tên sở hữu cho công ty thì công ty chưa được coi là chủ sở hữu hợp pháp đối với vốn và tài sản đó. Còn đối với thành viên góp vốn thì chưa được coi là đã thực hiện xong nghĩa vụ góp vốn và chưa được giải phóng khỏi nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm đối với khoản nợ của công ty. Địa vị pháp lý của công ty do pháp luật của nước mà công ty mang quốc tịch quyết định. Quốc tịch của công ty là mối liên hệ pháp lý giữa công ty với pháp luật của một nước nhất định, là sự lệ thuộc về mặt pháp lý của công ty vào một quốc gia. Nếu như quốc tịch của một thể nhân là một thuộc tính xác định khó thay đổi thì quốc tịch của một pháp nhân lại có thể thay đổi theo từng điều kiện nhất định của luật pháp mỗi nước. Một công ty có thể được coi là công ty trong nước ở phương diện này, nhưng lại có thể được coi là công ty nước ngoài ở phương diện khác. Việc xác định địa vị pháp lý của công ty có ý nghĩa nhằm xác định quyền sở hữu tài sản của công ty bị chi phối bởi luật nào? Chẳng hạn, Luật ở nơi công ty mang quốc tịch hay luật ở nơi có tài sản. Theo pháp luật và thực tiễn pháp lý của các nước trên thế giới, nhìn chung quốc tịch của công ty thường được xác định theo những cơ sở sau: - Theo nơi thành lập, tức là nơi cấp giấy phép thành lập và đăng ký điều lệ của công ty (luật Anh, Mỹ thường áp dụng tiêu chuẩn này). - Theo trung tâm quản lý, tức là nơi đặt trụ sở quản lý điều hành chính của Hội đồng quản trị công ty (luật Đức, Pháp thường áp dụng). - Theo trung tâm sản xuất kinh doanh, tức là nơi hoạt động sản xuất hoặc kinh doanh chính của công ty (luật các nước phát triển như Ai Cập, Xiri thường áp dụng).. Như vậy, kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty đối vốn mới có tư cách pháp nhân và bắt đầu thực hiện các giao dịch nhân danh công ty, trách nhiệm tài sản phát sinh là trách nhiệm của công ty. Các hoạt động trước đó liên quan đến việc thành lập công ty thuộc trách nhiệm cá nhân của các sáng lập viên và họ phải chịu trách nhiệm vô hạn về những thiệt hại phát sinh. Chỉ sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, với tư cách là chủ thể quyền sở hữu tài sản công ty mới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của mình. Các thành viên công ty có thể thỏa thuận việc công ty tiếp nhận các nghĩa vụ đã phát sinh trước khi đăng ký kinh doanh nếu các nghĩa vụ đó phát sinh do từ việc thành lập công ty. Đặc điểm này cho thấy, mối quan hệ góp vốn giữa thành viên công ty và công ty chỉ có thể thực thi được một khi công ty đã chính thức được thành lập bằng việc được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong một số trường hợp đòi hỏi phải có giấy phép thành lập và hoạt động (Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm) sẽ không thực tế nếu quy định một trong những điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động của công ty là các thành viên phải góp đủ số vốn điều lệ hoặc vốn pháp định, vì rằng công ty chưa được thừa nhận về mặt pháp lý thì thành viên cũng không thể góp vốn cho công ty được. Thứ ba, chủ thể quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là một tổ chức kinh tế mà việc thực thi quyền sở hữu tài sản của mình không những chỉ tuân theo các quy định của pháp luật mà còn tùy thuộc vào ý chí và mục đích của các thành viên công ty. Thành viên công ty trực tiếp chi phối, quyết định hoặc thông qua bộ máy tổ chức điều hành của công ty để thực thi quyền sở hữu tài sản. Cũng như các chủ thể khác, với tư cách là chủ thể quyền sở hữu tài sản, công ty đối vốn có đầy đủ cả ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Nếu cá nhân - chủ thể của quyền sở hữu tự quyết định việc thực hiện các quyền năng của mình một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thì với tư cách là một tổ chức, công ty đối vốn thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu phải theo một cơ chế. Cơ chế này được thực hiện thông qua bộ máy tổ chức (cơ cấu nội bộ của công ty). Bộ máy tổ chức tùy thuộc vào sự thỏa thuận, định đoạt của các thành viên tham gia công ty. Với bản chất là công ty đối vốn, các thành viên tham gia thành lập công ty đều quan tâm đến việc khai thác khả năng sinh lời đối với phần vốn góp của mình vào công ty và tùy theo mức độ tỷ lệ vốn góp mà chi phối đến hoạt động hoặc tham gia quản lý điều hành công ty. Trên thực tế, một số chủ đầu tư không chỉ có nhu cầu góp vốn, họ còn có nhu cầu mong muốn tham gia vào việc quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Nhưng cũng có những người khác lại vừa quan tâm đến khả năng sinh lời của đồng vốn, vừa quan tâm đến khả năng chuyển đổi linh hoạt đồng vốn của mình. Vì vậy, từ nhu cầu của hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải có những hình thức pháp lý thích hợp đối với việc tổ chức bộ máy của công ty đối vốn. Từ thực tiễn hoạt động của công ty và sự điều chỉnh pháp luật, mô hình tổ chức bộ máy phải phù hợp với lợi ích của thành viên tham gia. Họ có thể thỏa thuận với nhau để ghi nhận vào hợp đồng và điều lệ công ty những thang, bậc khác nhau về quyền lực. Chẳng hạn, thành viên nào sẽ chi phối, thành viên nào sẽ tham gia điều hành hoặc quản lý công ty. Điều quan trọng là bộ máy tổ chức và cấu trúc quyền lực của công ty phải nhằm bảo đảm an toàn cho các chủ sở hữu vốn yên tâm đầu tư vào công ty đối vốn. Tùy theo các loại hình công ty đối vốn: công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn mà việc tổ chức bộ máy và cấu trúc quyền lực khác nhau. Trong công ty cổ phần, số lượng cổ phiếu mà cổ đông sở hữu sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của họ đối với công ty thể theo điều lệ công ty và các quy định pháp luật về công ty. Trong số các cổ đông có những cổ đông có nhiều kiến thức về kinh doanh nhưng cũng có nhiều cổ đông không có kiến thức về kinh doanh, mặt khác giữa họ rất ít hoặc thậm chí không có sự hiểu biết lẫn nhau. Vì vậy, để tránh việc trong công ty quyền lực chỉ thuộc vào một nhóm cổ đông làm nảy sinh sự phân hóa và tranh chấp lợi ích, pháp luật đã quy định cơ chế kiểm soát và điều hành để tránh sự lợi dụng quyền lực công ty. Khác với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn ngoài yếu tố vốn, các thành viên tham gia công ty còn quan tâm đến yếu tố nhân thân. Vì vậy, cấu trúc quyền lực của công ty trách nhiệm hữu hạn có sự kết hợp đặc điểm của công ty đối nhân và công ty cổ phần. Công ty trách nhiệm hữu hạn kết hợp được ưu điểm về chế độ trách nhiệm hữu hạn của công ty cổ phần và ưu điểm các thành viên quen biết nhau của công ty đối nhân. Nó khắc phục được nhược điểm về sự phức tạp khi thành lập và điều hành của công ty cổ phần và nhược điểm không phân chia rủi ro của công ty đối nhân. Thành viên công ty thường là những người quen biết và đều có nguyện vọng mong muốn hợp tác với nhau để làm ăn, do vậy họ tự đặt ra cơ chế tự quản lý và tự kiểm soát. Ngoài hai hình thức phổ biến của loại hình công ty đối vốn là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần thì pháp luật ở một số nước cho phép tồn tại loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ. Công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ là sản phẩm đặc biệt của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với quá trình phát triển của công ty đối vốn. Đây là loại hình công ty có thể ra đời khi một thành viên muốn tận dụng ưu thế của chế độ trách nhiệm hữu hạn để tách bạch tài sản, tránh rủi ro hoặc khi toàn bộ tài sản của công ty chuyển vào tay một thành viên duy nhất và thành viên đó vẫn có khả năng tiếp tục duy trì, phát triển công ty, lúc này, công ty trở thành công ty một chủ. Trong trường hợp này pháp luật vẫn thừa nhận thành viên đó vẫn có quyền được giải phóng khỏi trách nhiệm cá nhân. Trách nhiệm tài sản thuộc về công ty - một thực thể có tư cách pháp nhân chịu trách nhiệm độc lập về mặt pháp lý với chủ sở hữu, vì xét về phương diện pháp lý, đó là đặc tính của công ty đối vốn nói chung. Song, không phải pháp luật tất cả các nước đều thừa nhận công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ, vì theo định nghĩa chung về công ty thì công ty là sự liên kết giữa các chủ đầu tư bằng một sự kiện góp vốn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Trong khi đó, công ty một chủ không có sự kiện liên kết góp vốn nên không phải là công ty theo quan niệm truyền thống. Theo luật của Italia, Tây Ban Nha và các nước Nam Mỹ không cho phép thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ. Còn trong hệ thống pháp luật của Đức, Anh, Mỹ lại thừa nhận công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ. ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp đã thừa nhận công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ do một tổ chức thành lập. Do vậy, nghiên cứu lịch sử phát triển và quyền sở hữu của loại hình công ty này có ý nghĩa mang tính toàn diện về việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động công ty ở nước ta, nhất là đối với các quan hệ về sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Qua nghiên cứu đặc điểm pháp lý về chủ thể quyền sở hữu công ty đối vốn cho thấy: - Công ty đối vốn là một trong những loại hình chủ thể kinh tế phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Trong các loại hình công ty đối vốn, công ty cổ phần cho phép huy động vốn và giải phóng vốn nhanh, cho phép thực hiện các dự án lớn vì có thể huy động nguồn vốn lớn. - Công ty đối vốn là một tổ chức mà tài sản ban đầu của công ty khi thành lập thuộc nhiều chủ sở hữu khác nhau và được chuyển giao cho công ty bằng việc góp vốn thành lập công ty, trong đó các thành viên công ty cũng rất quan tâm đến việc công ty khai thác lợi ích từ tài sản phục vụ cho chính các chủ sở hữu. Điều này đòi hỏi phải thiết lập cấu trúc quyền lực công ty sao cho một mặt, thúc đẩy hiệu quả hoạt động công ty, mặt khác, phải vì và cho chính lợi ích của thành viên công ty. - Công ty đối vốn tồn tại không phụ thuộc vào sự biến động của các chủ sở hữu góp vốn. Tính ổn định của công ty là ưu thế để công ty thực hiện giao dịch với các bên thứ ba. 1.1.3.2. Khách thể quyền sở hữu tài sản công ty đối vốn Khách thể của quyền sở hữu tài sản của công ty là tài sản của công ty. Từ nhu cầu điều chỉnh khai thác lợi ích của chủ sở hữu công ty, tài sản của công ty được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Các nhà tài chính học đã phân loại tài sản của doanh nghiệp thành tài sản cố định (tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình) và tài sản lưu động. Các nhà luật học nghiên cứu đặc điểm khách thể của quyền sở hữu tài sản của công ty dưới các góc độ khai thác lợi ích từ tài sản thỏa mãn nhu cầu của chủ sở hữu. Theo quan điểm pháp lý dân sự, cũng như tài sản của các chủ thể khác tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Đối với vật có thực lại được chia ra thành động sản và bất động sản. Vật có thực phải là một bộ phận của thế giới vật chất, phải có lợi ích cho công ty và phải đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh cũng như các hoạt động khác của công ty. Trong quá trình hoạt động, công ty phải chiếm hữu, sử dụng và định đoạt được vật có thực đó để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Tiền là giá trị đại diện cho giá trị thực của hàng hóa và là phương tiện lưu thông trong giao lưu dân sự. Với tư cách là khách thể của quyền sở hữu tài sản của công ty, tài sản là tiền cần được phân biệt bản chất kinh tế với vốn của công ty. Trước hết, muốn có vốn phải có tiền, song có tiền, thậm chí có những khoản tiền rất lớn cũng không phải là vốn. Tiền được gọi là vốn phải đồng thời thỏa mãn những điều kiện sau đây: Một là, tiền phải đại diện cho một lượng hàng hóa nhất định (được bảo đảm bằng một lượng tài sản có thực). Hai là, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung một lượng tiền đến một hạn độ nào đó mới làm cho nó có đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh, cho dù là nhỏ nhất. Nếu tiền nằm rải rác ở khắp nơi, không được thu gom lại thành "món lớn" thì chẳng làm được việc gì. vì thế một công ty muốn khởi nghiệp thì nhất thiết phải có một lượng vốn đủ lớn. Để có vốn, công ty phải tìm các biện pháp khai thác, thu hút các nguồn tiền tệ nhàn rỗi thành một "món lớn" để đầu tư kinh doanh. Ba là, khi đã có đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. "Cách vận động và phương thức vận động của tiền lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định" [18, tr. 97]. Tiền biểu hiện thành vốn của công ty phải thông qua hành vi chuyển quyền sở hữu đối với tiền của thành viên góp vốn vào tài khoản của công ty hoặc theo sự thỏa thuận của các bên chuyển vào tài khoản ký thác tại một ngân hàng hoặc một tài khoản trung gian theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ công ty để thực hiện nghĩa vụ góp vốn và sau đó sẽ được công ty cấp giấy chứng nhận góp vốn... Giấy tờ trị giá được bằng tiền là tài sản của công ty phải đáp ứng được yêu cầu của việc góp vốn và yêu cầu hoạt động kinh doanh của công ty. Những giấy tờ trị giá được bằng tiền bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, ngân phiếu, séc, giấy ủy nhiệm chi, kỳ phiếu, tín phiếu, công trái... Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường việc xác định giấy tờ trị giá được bằng tiền là tài sản của công ty đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn hoạt động kinh doanh, góp phần làm cho hoạt động kinh doanh đa dạng, phong phú và sống động. Tài sản của công ty còn bao gồm cả các quyền tài sản. Đây là những quyền gắn liền với tài sản mà khi thực hiện các quyền đó công ty sẽ có được một tài sản. Chẳng hạn như quyền đòi nợ, quyền sở hữu đối với phát minh, sáng chế, tên gọi, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa... Các quyền này phải đáp ứng được yêu cầu trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao khi công ty thực hiện hoạt động kinh doanh. Như vậy, với tư cách là khách thể của quyền sở hữu, tài sản của công ty là toàn bộ tài sản được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Tùy theo yêu cầu đòi hỏi của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mà mức độ đầu tư và cơ cấu tài sản của công ty có sự khác nhau. Nếu xét theo công dụng và quan hệ pháp lý chi phối thì tài sản của công ty tồn tại dưới dạng: tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản dùng để đầu tư tài chính. Căn cứ vào đặc điểm của từng loại tài sản mà pháp luật và điều lệ công ty đặt ra cơ chế của việc xác lập, thực thi quyền sở hữu tương ứng với từng loại tài sản để bảo đảm sự vận động, phát triển đối với khối tài sản thuộc sở hữu công ty. Đối với tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, có chức năng là tư liệu sản xuất và trong quá trình kinh doanh tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng năng lực sản xuất và giá trị của chúng bị giảm dần (tài sản cố định đã bị hao mòn). Công ty phải đầu tư khoản chi phí lớn cho nó, vì trong nền kinh tế thị trường, để cạnh tranh trên thị trường, tài sản cố định quyết định tốc độ tăng trưởng, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của công ty. Tài sản cố định hữu hình của công ty là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như: đất kinh doanh, nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và những phương tiện, công cụ khác trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định vô hình của công ty là những tài sản không có hình thái vật chất, cụ thể là giá trị của bằng sáng chế, bản quyền tác giả; thị quyền, nhãn hiệu thương mại, quyền đặc nhượng khai thác... Hình thái giá trị của tài sản cố định là vốn cố định. Việc thu hồi vốn cố định thường kéo dài, thời gian hoàn vốn lâu nên nếu tính toán thiếu khoa học thì rất dễ làm thất thoát vốn cố định. Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình, việc phát triển, bảo toàn vốn cố định là khâu trọng tâm của công tác quản lý, sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh của công ty. Quyết định số phận pháp lý đối với tài sản này có thể và thường là thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng hoặc Hội đồng quản trị thể theo quy định của Điều lệ công ty. Tài sản lưu động là các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông gồm: Tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như nguyên vật liệu chính,vật liệu phụ, nhiên liệu v.v... và tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm dở dang đang chế tạo, bán thành phẩm, chi phí đợi phân bổ. Tài sản lưu thông gồm sản phẩm hàng hóa chưa tiêu thụ (hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản phải thu. Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm và vì vậy giá trị của nó cũng được chuyển dịch t._.g ty của các chủ sở hữu góp vốn là để thu lợi nhuận, việc cho thuê công ty cũng chính là một hình thức kinh doanh để thu lợi nhuận. - Mục đích của việc cho thuê công ty cũng là để tạo điều kiện cho người thuê sử dụng, khai thác công ty trong những điều kiện nhất định để hoạt động không cần đầu tư lớn ban đầu để kinh doanh trên cơ sở công ty đã có. Quyền cho thuê công ty là một loại quyền thuộc chủ sở hữu công ty quyết định. Vì vậy thực hiện những hành vi này phải được biểu quyết tại Đại hội đồng. Mục đích của hành vi cho thuê công ty chính là thực hiện các quyền của chủ sở hữu theo quy định của Luật Dân sự. Song việc cho thuê công ty là một vấn đề pháp lý hết sức phức tạp vì nó liên quan đến nhiều vấn đề về lợi ích của nhiều chủ thể, nếu chỉ dừng lại ở khía cạnh dân sự thì không thể giải quyết triệt để vấn đề lợi ích của các chủ sở hữu công ty. Vì vậy trong pháp luật kinh tế cần có một giới hạn pháp lý để điều chỉnh những vấn đề này. Việc cho thuê công ty là một vấn đề pháp lý hết sức phức tạp vì nó đụng chạm đến nhiều vấn đề như việc thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước, việc giải quyết các khoản nợ, các hợp đồng có trước khi cho thuê, vấn đề việc làm cho người lao động, vấn đề nảy sinh khi vi phạm hợp đồng... Do vậy, kèm theo quy định về cho thuê công ty, Nhà nước phải có các quy định khác liên quan như hợp đồng thuê công ty, các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên thuê và bên cho thuê, các quy định khác để giải quyết những vấn đề phát sinh từ việc cho thuê công ty. Như vậy khi cho thuê công ty cần chú ý đến những vấn đề sau: - Đối tượng cho thuê: cần mô tả chính xác. - Tiền thuê, phương thức thanh toán. - Quyền và nghĩa vụ của bên thuê. - Quyền và nghĩa vụ của công ty cho thuê. - Vấn đề việc làm cho công nhân. - Thời điểm bắt đầu và thời hạn kết thúc hợp đồng. - Trình tự xử lý các vấn đề phát sinh sau khi kết thúc hợp đồng. - Phương thức giải quyết tranh chấp. 3.2.2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn - Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn trong trường hợp nhượng bán và thanh lý tài sản: Trong hoạt động kinh doanh, vấn đề nhượng bán và thanh lý tài sản đều được quy định trong luật pháp các nước. Tài sản của công ty gồm tất cả các động sản, bất động sản và quyền tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng (tài sản công ty đi thuê) của công ty được thể hiện trong sổ sách kế toán. Thanh lý tài sản là quá trình bán toàn bộ hiện trạng tài sản của công ty thành tiền mặt để thực thi các quyền và nghĩa vụ tài sản của công ty với các bên có liên quan và đối với thành viên công ty. Vấn đề nhượng bán và thanh lý tài sản của công ty có thể xảy ra trong các hoàn cảnh: khi công ty đang hoạt động, khi công ty chấm dứt hoạt động trong các trường hợp giải thể hoặc phá sản. Khi thực hiện nhượng bán và thanh lý tài sản, cần phải chú ý bảo vệ và giải quyết hài hòa lợi ích của công ty, thành viên và bên thứ ba. Vì vậy, vấn đề nhượng bán và thanh lý tài sản không chỉ được quy định chặt chẽ trong luật mà còn được quy định cụ thể trong điều lệ của công ty. Trong trường hợp công ty đang hoạt động, công ty nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu quả hơn; hoặc công ty tiến hành thanh lý đối với những tài sản hư hỏng, không có khả năng phục hồi; tài sản lạc hậu kỹ thuật không có nhu cầu sử dụng. Nhượng bán hoặc thanh lý đối với tài sản là toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của công ty theo quyết định của giám đốc có sự chấp thuận của Hội đồng quản trị hoặc biểu quyết tại Đại hội đồng tùy thuộc vào giá trị tài sản hoặc giá trị còn lại của tài sản. Khi nhượng bán, thanh lý tài sản, công ty phải lập Hội đồng đánh giá thực trạng về mặt kỹ thuật, thẩm định giá trị tài sản. Tài sản đem nhượng bán phải tổ chức đấu giá, thông báo công khai. Nếu tài sản đem thanh lý dưới hình thức dỡ bỏ, hủy, phải tổ chức Hội đồng thanh lý do Tổng giám đốc hoặc Giám đốc công ty quyết định. Theo các quy định của Luật Doanh nghiệp, hầu như vấn đề nhượng bán và thanh lý tài sản là những nội dung còn bỏ ngỏ. Thực tế đã phát sinh đòi hỏi cần phải có các quy định pháp luật về nhượng bán và thanh lý tài sản của công ty để giải quyết các mối quan hệ giữa các lợi ích của chủ sở hữu. Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này dựa trên hai nguyên tắc: thứ nhất tôn trọng quyền tự định đoạt của công ty với tư cách là chủ sở hữu khối tài sản của công ty, thứ hai khi nào cần có sự can thiệp của công quyền đến vấn đề thanh lý và nhượng bán. Từ hai nguyên tắc trên, theo chúng tôi cần phải có những quy định chung liên quan đến vấn đề nhượng bán và thanh lý tài sản, đó là: - Các quy định có liên quan đến thành lập Ban thanh lý: + Người có thẩm quyền thành lập Ban thanh lý. + Tư cách pháp lý của thành viên Ban thanh lý. + Thẩm quyền của Ban thanh lý. - Các quy định pháp luật về thứ tự thanh toán, cách thức thanh toán: + Thứ tự thanh toán: Thanh toán cho chủ nợ và thanh toán cho cổ đông. + Phương thức đấu giá. + Cách tính giá trị còn lại của tài sản... Để cụ thể hóa các quy định của pháp luật, điều lệ của công ty phải quy định quy chế hoạt động của Ban thanh lý tài sản. Như vậy, Nhà nước điều chỉnh bằng pháp luật về trình tự, thủ tục thành lập Ban thanh lý. Còn công ty, với tư cách là chủ sở hữu tài sản của mình thực hiện quyền định đoạt tài sản thanh lý theo ý chí của công ty và được quy định cụ thể bằng điều lệ công ty. Tất cả những quy định chặt chẽ đó nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ sở hữu tham gia hoạt động công ty. Trong trường hợp thanh lý tài sản khi công ty giải thể thì khi có quyết định giải thể, Đại hội đồng cổ đông thành lập hội đồng thanh lý. Hội đồng thanh lý thay thế Hội đồng quản trị, cùng với kiểm soát viên làm nhiệm vụ thanh lý theo thời gian quy định và thể lệ tài chính hiện hành. Bản chất pháp lý của giải thể công ty nhằm chấm dứt tư cách pháp nhân của công ty, chính là chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty. Trên thực tế quá trình này phải giải quyết mối quan hệ tài sản giữa công ty với bên ngoài, giữa thành viên với thành viên, thành viên với công ty. Vì vậy, thanh lý tài sản khi công ty giải thể là việc chuyển thành tiền mặt các tài sản của công ty để thanh toán các khoản nợ và phần tài sản còn lại sẽ chia cho thành viên tương ứng với phần vốn góp của họ. Để tiến hành các hoạt động, thành viên của Ban thanh lý có thể do cơ quan ra quyết định giải thể bổ nhiệm, có thể do Đại hội đồng bầu ra theo các quy định trong điều lệ công ty hay quyết định của đa số thành viên nếu điều lệ không quy định. Ban thanh lý tài sản khi công ty giải thể có các thẩm quyền sau: - Tiến hành đăng ký giải thể công ty, thông báo cho mọi người có liên quan biết tình trạng giải thể của công ty, đăng thông báo giải thể công ty, lập biểu thống kê ghi rõ việc phân tích và đánh giá tài sản của công ty, triệu tập hội đồng các cổ đông theo quy định... - Tiến hành việc hoàn trả nợ và thu hồi nợ: Người chịu trách nhiệm thanh toán công ty đứng ra trả dần các khoản nợ của công ty theo yêu cầu của các chủ nợ. ở đây pháp luật không quy định một trình tự thanh toán bắt buộc, người nào có yêu cầu hợp lý và cần thiết hơn sẽ được thanh toán trước. Đây là một điểm khác biệt so với trường hợp phá sản công ty, ở trường hợp phá sản pháp luật đảm bảo một sự bình đẳng giữa các chủ nợ với nhau thông qua việc đưa ra thứ tự ưu tiên nhất định bắt buộc. Đối với các khoản vốn vay nợ có kỳ hạn, lãi suất theo kỳ hạn vẫn được tính mặc dù công ty đã giải thể trước kỳ hạn hoàn trả nợ vay. Đây cũng là một điểm khác biệt nữa của trường hợp giải thể công ty so với trường hợp phá sản công ty. Trong trường hợp phá sản, pháp luật quy định công ty không phải trả lãi các khoản nợ kể từ khi ngừng thanh toán nợ. Người chịu trách nhiệm thanh toán công ty không chỉ có nhiệm vụ tiến hành việc hoàn trả nợ mà còn có nhiệm vụ thu hồi nợ cho công ty. Chẳng hạn như các khoản nợ của khách hàng, các khoản nợ của người vay công ty, các khoản nợ của thành viên như là phần vốn hứa đóng góp khi thành lập công ty mà đến khi công ty giải thể vẫn chưa nộp đủ... - Tiến hành việc hoàn trả vốn: Các thành viên có thể được hoàn trả lại phần vốn đóng góp của mình bằng tài sản vì chỉ thành viên đóng góp bằng quyền hưởng dụng mới được bảo đảm là sẽ thu hồi về tài sản mà họ đã giao cho công ty sử dụng. Rất có thể (trong nhiều nguyên nhân giải thể đã nêu) khi công ty đã thanh toán hết nợ nần thì nó cũng chẳng còn gì hoàn vốn ban đầu nữa. Khi ấy, các thành viên đành phải chấp nhận sự mất mát mà không thể kiện công ty vì thua lỗ. Vì vậy, việc hoàn trả vốn cho các thành viên sẽ được tiến hành hay không, hoàn trả bằng hay ít hơn giá trị ban đầu phần vốn đóng góp phụ thuộc vào công ty có còn tài sản hay không khi công ty đã thanh toán hết tất cả các khoản nợ nần của mình. Khi nợ đã trả xong, vốn đã hoàn hết, mục tiêu thanh toán đã hoàn thành thì công ty sẽ chấm dứt thời kỳ thanh toán. Để kết thúc công việc thanh toán người chịu trách nhiệm thanh toán công ty triệu tập các thành viên lại và báo cáo về các kết quả thanh toán cuối cùng của công ty để các thành viên thông qua và sau đó tiến hành các thủ tục để công bố kết quả thanh toán công ty. Việc công bố kết thúc thời kỳ thanh toán này đánh dấu sự chấm dứt hoạt động của pháp nhân (công ty), cũng chính là chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty. - Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chấm dứt quyền chủ sở hữu công ty đối vốn trong trường hợp bán công ty: Quyền bán công ty cũng là một trong những quyền định đoạt của chủ sở hữu công ty nhưng luật pháp nước ta chưa ghi nhận. Việc bán công ty có thể tạo điều kiện cho người có vốn, có nhu cầu kinh doanh, không chỉ muốn kinh doanh mặt hàng công ty đó đang kinh doanh mà còn muốn mua cả giá trị vật chất và giá trị phi vật chất thuộc công ty. Bằng quyền được bán công ty có thể cứu vãn công ty ra khỏi tình trạng bị giải thể hoặc phá sản. Quyền bán công ty thể hiện nguyên tắc tự do kinh doanh, đây là cả một vấn đề phức tạp, bao gồm các yếu tố pháp lý và yếu tố kinh tế. Khi quy định quyền được bán công ty cần chú ý đến các vấn đề sau: - Xác định đối tượng mua bán: - Xác định bạn hàng. - Xác định giá bán. - Thời gian chuyển giao đối tượng mua bán. - Vấn đề chuyển giao quyền sử dụng đất đai, các tài sản có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu khác. - Các hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể. - Phương thức quản lý kinh doanh, hoạt động kinh doanh của công ty trong suốt quá trình bán công ty. - Các vấn đề về thuế. - Phương thức thanh toán. - Phương thức giải quyết các vấn đề phát sinh, xử lý các tranh chấp. - Công bố việc mua bán công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng. 3.2.2.4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn Về lý thuyết, công ty đối vốn không chịu sự chi phối hay can thiệp sâu của một cơ quan nhà nước nào theo kiểu cơ quan chủ quản mà chịu sự quản lý Nhà nước thông qua các chính sách, luật pháp... Theo quy định tại chương VIII (từ Điều 114 đến Điều 118) của Luật Doanh nghiệp, một trong những nội dung quản lý Nhà nước là kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp; giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua chế độ báo cáo tài chính định kỳ và báo cáo khác (Điều 114). Cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Điều 115). Điều 117 quy định trình tự thủ tục tiến hành thanh tra doanh nghiệp. Tuy nhiên, khung pháp lý này chưa giải đáp được hai vấn đề cơ bản: cơ quan nào là đầu mối, chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện vai trò quản lý Nhà nước đối với quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp nói chung và quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn nói riêng; và công cụ chủ yếu quan trọng nhất để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này là gì ? Theo quy định hiện nay, đối với các doanh nghiệp nhà nước một mặt đang trực thuộc các bộ, các tổng cục... với tư cách là "cơ quan chủ quản". Bên cạnh đó, các bộ, các ngành khác như Tài chính, Thương mại, Khoa học - Công nghệ và Môi trường, Hải quan, Thanh tra... cũng quản lý doanh nghiệp trong phạm chức năng của mình. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong đó có các công ty đối vốn và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì không quy định thuộc cơ quan chủ quản nào. Vì vậy, tất cả các ngành, các cấp trong bộ máy công quyền đều thực hiện vai trò của "cơ quan chủ quản", gây cho doanh nghiệp rất nhiều khó khăn, đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng quá tải về tiếp nhận, xử lý thông tin, chỉ đạo về tiếp đón các nhà chức trách các cấp. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp phải cắt cử một bộ phận chuyên viên làm báo cáo gửi các nơi. Do đó, việc khắc phục tình trạng nêu trên là một đòi hỏi cấp bách. Để giải quyết vấn đề này, cần phải tăng cường vai trò quản lý nhà nước không chỉ ở khâu thành lập công ty mà còn trong cả quá trình công ty hoạt động (thực hiện hoặc chấm dứt quyền sở hữu tài sản). Thực hiện thẩm quyền này cần có cơ quan đăng ký vốn và tài sản của công ty, còn các bộ, các ngành không trực tiếp quản lý công ty, mà chỉ nghiên cứu đề ra các chính sách, chế độ, những quy định cần thiết về kinh tế - kỹ thuật cho hoạt động của các công ty. Quy định như vậy sẽ phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh của các cơ quan trong bộ máy nhà nước sẽ tạo ra mặt bằng pháp lý cho các công ty hoạt động bình đẳng như các doanh nghiệp khác. Hiện nay đã hình thành một cơ quan đầu mối thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp. Cơ quan đầu mối này đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và cung cấp thông tin về doanh nghiệp cho các cơ quan khác, đồng thời cũng là nơi để doanh nghiệp có thể tìm hiểu thông tin và phản ánh những bức xúc của mình nhằm đạt những mục tiêu và bằng những công cụ được quy định trong luật. Song cần phải tuyên truyền thẩm quyền của cơ quan này để mọi người biết. Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp không có điều khoản nào quy định riêng về vấn đề công cụ để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Khoản 5 Điều 114 Luật Doanh nghiệp quy định "... thông qua chế độ báo cáo tài chính định kỳ với các báo cáo khác", tuy nhiên, quy định như vậy là chưa đủ và chưa rõ ràng. Nếu dựa vào các quy định về kế toán - thống kê hiện hành thì quả thật, việc quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nói chung và công ty đối vốn nói riêng là không thể thực hiện được một cách hữu hiệu. Chế độ kiểm toán - thống kê trong các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đã và đang bị "thả nổi". Điều này thể hiện ở chỗ: Pháp lệnh về kế toán - thống kê ban hành năm 1998 đến nay đã có nhiều điểm lạc hậu nhưng chưa được bổ sung, sửa đổi; Bộ Tài chính - cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này - dường như chỉ đặt ra nhiệm vụ quản lý công tác kế toán thống kê và chính sách tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước; cán bộ kế toán, đặc biệt là kế toán trưởng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang bị vô hiệu hóa; công tác kiểm toán chưa được quản lý thống nhất, báo cáo quyết toán hàng năm của doanh nghiệp bị quá nhiều cơ quan kiểm tra (cơ quan kiểm toán nhà nước, cơ quan thuế, cục quản lý vốn và tài sản) do đó chất lượng kiểm toán chưa cao... Vấn đề đặt ra là phải xây dựng một chế độ kế toán thống kê mới phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, đồng thời có thể áp dụng chung cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm thể hiện một cách minh bạch quyền sở hữu về vốn và tài sản doanh nghiệp nói chung và công ty đối vốn nói riêng. Kết luận chương 3 Từ những vấn đề lý luận và nghiên cứu thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề quyền sở hữu tài sản của công ty đối chứng tỏ quyền sở hữu tài sản của công ty cũng như quyền sở hữu nói chung luôn là vấn đề được mọi chủ thể quan tâm, bởi vì sở hữu là một trong những nguồn nuôi các động lực kinh tế và phát huy các động lực kinh tế. Đánh giá quá trình hoàn thiện pháp luật về công ty cho thấy các nhà làm luật đã từng bước quan tâm điều chỉnh vấn đề sở hữu, mối quan hệ giữa giữa thành viên với công ty trong quá trình xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền chủ sở hữu của họ đối với công ty và quá trình xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền sở hữu của công ty đối với tài sản của công ty. Song quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn thể hiện trong các quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều hạn chế và lúng túng. Tuy nhiên chương 3 của luận án đã nêu ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Đó là các phương hướng như đảm bảo tính đồng bộ liên thông giữa xác quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật và tính đặc thù, chuyên biệt trong từng lĩnh vực cụ thể về quyền sở hữu nói chung và quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn nói riêng. Từ phương hướng hoàn thiện đó, tác giả luận án đã mạnh dạn chỉ ra một số giải pháp cơ bản để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này: Thứ nhất, về nhận thức cần tuyên truyền, giáo dục, giải thích để nâng cao nhận thức về các khái niệm phần vốn góp, góp vốn, vốn điều lệ, chủ sở hữu công ty, quyền sở hữu tài sản của công ty. Thứ hai, bổ sung các quy định cụ thể về định giá tài sản góp vốn, bổ sung các quy định về chuyển dịch sở hữu, bổ sung các quy định về thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty. Thứ ba, hoàn thiện các điều kiện bảo đảm cho quá trình chuyển dịch quyền sở hữu từ thành viên góp vốn sang công ty và ngược lại. Ví dụ thiết lập hệ thống các cơ quan đăng ký quyền sở hữu tài sản của công ty, hệ thống các cơ quan giám định chuyên ngành v.v... Kết luận Quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật về công ty. Nó không chỉ gắn bó mật thiết với công ty, với các thành viên công ty mà nó còn là một vấn đề mà các bên giao dịch với công ty luôn luôn quan tâm. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu quyền sở hữu tài sản của công ty với tư cách là một quan hệ pháp luật một cách chi tiết và cụ thể là điều rất cần thiết. Nó không chỉ có ý nghĩa về mặt học thuật mà còn có ý nghĩa thực tế to lớn. Việc nghiên cứu vấn đề này không chỉ nhằm nâng cao kiến thức pháp luật mà còn góp phần giúp các nhà làm luật, các nhà thi hành luật có cách nhìn toàn diện hơn nữa về vấn đề này. Trong công trình của mình bằng các kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã là sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc "Xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta". Kết quả của quá trình nghiên cứu là cơ sở cho tác giả luận án đưa ra những kết luận chủ yếu sau đây: 1- Quyền sở hữu tài sản của công ty là khả năng của công ty làm chủ hoàn toàn về mặt kinh tế đối với tài sản của mình, là các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của công ty và thực hiện các giao dịch đối với tài sản vì lợi ích của công ty và không trái với các quy định của pháp luật. Là chủ thể quyền sở hữu tài sản, công ty có đầy đủ ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của công ty. Thời điểm công ty đối vốn được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là thời điểm xuất hiện quyền sở hữu tài sản của công ty. 2- Khoản vốn góp dù rất quan trọng nhưng chỉ là một trong những căn cứ để xác lập quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Các khoản vốn góp của các thành viên hợp thành vốn điều lệ của công ty. Ngoài vốn điều lệ, quyền sở hữu tài sản của công ty còn được xác lập từ khoản vốn vay, từ lợi nhuận công ty v.v... Tùy theo từng căn cứ xác lập mà nội dung, điều kiện của việc xác lập quyền sở hữu tài sản của công ty được điều chỉnh bằng các hình thức pháp lý thích hợp là hợp đồng, điều lệ công ty hoặc các quy định của pháp luật. 3- Việc thực thi quyền năng của chủ sở hữu theo một cơ chế đặc thù. Tính đặc thù đó được thể hiện: thứ nhất, việc thực thi quyền năng của chủ sở hữu tài sản của công ty đối vốn trong một chừng mực nhất định chịu sự chi phối kiểm soát bởi chủ sở hữu công ty (hoặc nhóm thành viên nắm quyền chủ sở hữu công ty) thể theo hợp đồng công ty, điều lệ công ty cũng như các quy chế nội bộ; thứ hai, việc thực thi quyền lực đó phải tuân theo một cơ chế phân bổ quyền lực theo tỷ lệ vốn góp, thành viên (cổ đông) nào có số vốn góp chiếm tỷ lệ cao hơn sẽ có quyền lực chi phối, kiểm soát, điều hành công ty nhiều hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp, thể theo điều lệ công ty, thành viên (cổ đông) thiểu số hiện đang nắm giữ quyền lực chi phối, kiểm soát, điều hành công ty thì họ được coi là chủ sở hữu công ty tại thời điểm đó hoặc tuy là thành viên thiểu số nhưng thể theo điều lệ họ vẫn nắm giữ một phần quyền lực chi phối, kiểm soát, điều hành công ty thì vẫn có thể được coi là đồng sở hữu công ty. 4- Việc điều chỉnh pháp luật về căn cứ xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty thường xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của Luật Dân sự và bằng các quy định thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật như pháp luật kinh tế, pháp luật về tài chính - ngân hàng, pháp luật về đất đai v.v... 5- So với Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã khắc phục được nhiều thiếu sót, bất cập trong việc quy định quyền sở hữu tài sản của công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Tuy vậy, các quy định của Luật Doanh nghiệp về xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn vẫn còn những điểm chưa phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta như chúng tôi đã chỉ ra trong luận án. 6- Quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là một loại quan hệ vô cùng phức tạp. Thực tiễn thi hành Luật Doanh nghiệp đòi hỏi tiếp tục hoàn thiện các quy định về quyền sở hữu tài sản của công ty nhằm đáp ứng nhu cầu của hoạt động kinh doanh và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Yêu cầu đặt ra là phải có những quy định đồng bộ, rõ ràng, cụ thể về xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty để không chỉ bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động công ty trong việc khai thác khả năng sinh lợi từ tài sản của mình, mà còn bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho các chủ thể tham gia vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 7- Quá trình nghiên cứu công trình đã giúp cho tác giả luận án đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục chuyển dịch sở hữu từ thành viên góp vốn; hoàn thiện pháp luật về cơ chế phân bổ quyền lực trong bộ máy quản lý và điều hành để thực thi quyền sở hữu tài sản tùy theo từng loại hình công ty; hoàn thiện pháp luật liên quan đến chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn như thanh lý, bán tài sản trong quá trình hoạt động của công ty, thanh toán tài sản khi công ty giải thể, công ty bị tuyên bố phá sản. 8- Các vấn đề liên quan đến việc xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài cũng như vấn đề xác lập quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn từ quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước v.v... có tính đặc thù vừa phức tạp, vừa lý thú, do vậy rất cần được nghiên cứu, luận giải trong các công trình nghiên cứu riêng. những công trình liên quan đến luận án đã được công bố Lê Thị Châu (1997), Quyền sở hữu tài sản của công ty, Nxb Lao động, Hà Nội. Lê Thị Châu (1997), "Hình thức pháp lý điều chỉnh quan hệ hùn vốn trong công ty đối vốn ở nước ta", Dân chủ pháp luật, (6), tr. 4-5. Lê Thị Châu (2000), "Tư cách pháp lý của các chủ thể tham gia hoạt động trong công ty đối vốn", Luật học, (1), tr. 3-7. Lê Thị Châu (2000), "Tư cách pháp lý của các chủ thể tham gia công ty đối vốn theo Luật Doanh nghiệp năm 1999", Nhà nước và pháp luật, (3), tr. 46-54. Danh mục tài liệu tham khảo Akhmeduev A. (1991), Phi Nhà nước hóa và sự phát triển các hình thức sở hữu, "Voprovsư Economiki", No 4. Nguyễn Mạnh Bách (1992), Pháp luật kinh doanh, Nxb Pháp lý. Belousow D. (1989), Phát triển các quan hệ sở hữu và quản lý, "Voprosư Economiki", No 6. Bộ Tư pháp (1997), Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật Dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1995), Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bộ Tư pháp (1993), Chuyên đề Luật Phá sản. Bộ Tư pháp (1993), Pháp luật kinh tế ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo đề tài KX.03-13 C. Mác (1975), Tư bản, Quyển thứ nhất, Tập III, Nxb Sự thật, Hà Nội. C. Mác (1969), Các học thuyết về giá trị thặng dư, P.2, Nxb Sự thật, Hà Nội. C. Mác và Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Thị Châu (1996), Quyền sở hữu tài sản của công ty, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật. Cherkovee V. (1989), Những vấn đề lý luận về phát triển của sở hữu xã hội chủ nghĩa, "Voprosư Econnomiki", No 5. PGS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn (1993), "Đôi điều suy nghĩ về học thuyết C. Mác với sự nghiệp đổi mới của chúng ta", Triết học, (3). Cor Bas S. (1987), Những tranh luận về chế độ sở hữu ở Trung Quốc, "Voprosư Economiki", No 12. (1996), Diễn đàn doanh nghiệp số 19, 20, 21, 22. Lê Văn Dương (1991), "Chế độ sở hữu và lợi ích của người lao động", Triết học, (2). (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, Hà Nội. Đại học Tài chính kế toán Hà Nội (1993), Tài chính học, Nxb Thống kê. Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình luật kinh tế, Nxb Công an nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội. TS Đoàn Văn Hạnh (1998), Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, Nxb Thống kê. PGS.TS Lê Hồng Hạnh (1996), "Cấu trúc vốn của công ty", Luật học, (3 + 4), Đại học Luật Hà Nội. PGS.TS Lê Hồng Hạnh, "Các công ty trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ", Luật học, Đại học Luật Hà Nội. TS Trần Đình Hảo (1999), "Về những điểm mới của Luật Doanh nghiệp", Luật học, (8), Đại học Luật Hà Nội. TS Hà Thị Mai Hiên (1995), "Một số vấn đề lý luận về quyền sở hữu", Thông tin lý luận, (9). TS Nguyễn Am Hiểu, "Hình thức pháp lý của doanh nghiệp...", Dân chủ pháp luật, Bộ Tư pháp. (1995), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Khổng Doãn Hợi (1990), "Đa dạng hóa sở hữu và chức năng quản lý kinh tế của nhà nước ta", Thông tin lý luận, (4). Đỗ Minh Hợp (1995), "Cơ chế thị trường và mối quan hệ tiềm tàng trong "Chính sách kinh tế mới" của Lênin", Triết học, (2). Nguyễn Huy (1989), "Thực trạng kinh tế - xã hội hiện nay. Nguyên nhân và lối thoát", Thông tin lý luận, số (4+5). Kejzerov N.M (1991), Sở hữu trí tuệ, "Philosovakie nauki", No 2. Nguyễn Đức Kha (1990), "Một phương pháp tiếp cận quan hệ sở hữu ở nước ta", Thông tin lý luận, (4). Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (1997), Giáo trình luật kinh tế, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. Konoraskbv V (1989), ý nghĩa của luận điểm về khôi phục sở hữu cá nhân dưới chủ nghĩa xã hội, "Economicheskie nauki", No II. Kulikov V. (1990), Sự đa dạng của các hình thực sở hữu xã hội chủ nghĩa, "Economicheskie nauki", No 1. TS Trương Mộc Lâm (1991), Tài chính doanh nghiệp sản xuất, Nxb Thống kê. (1995), Luật Công ty ngày 21.12.1990, Nxb Giao thông vận tải. (1995), Luật Doanh nghiệp nhà nước ngày 20/4/1995, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. (1999), Luật Doanh nghiệp ngày 23/4/1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. TS Nguyễn Minh Mẫn (1999), "Một số vấn đề pháp lý về tổ chức hoạt động của Tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam", Luật học, (1), Đại học Luật Hà Nội. TS Nguyễn Minh Mẫn (1993), Góp phần nghiên cứu thực trạng luật Thương mại Việt Nam và kinh nghiệm pháp điển hóa luật Thương mại trên thế giới, Kỷ yếu đề tài khoa học KX.03-13, Bộ Tư pháp. Ngô Quang Minh (1992), "Kinh tế quốc doanh ở nước ta - con đường, triển vọng phát triển", Nghiên cứu lý luận, (2). Mozolir V.P. (1992), Về quyền sở hữu tư nhân, "Sovetskoje Gosudarstvo pravo", N0 1. Đoàn Ngọc Nhã (1989), "Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ - nền kinh tế quá độ", Nghiên cứu lý luận, (4). TS Phạm Duy Nghĩa (1998), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,. NOBUYUKI YASUDA và Trần Thị Lệ Thủy (2000), "Điều hành và giám sát công ty ở Mỹ và Nhật Bản", Nhà nước và Pháp luật, (1). TS Nguyễn Như Phát (1999), "Dự thảo Luật Doanh nghiệp: Một số vấn đề phương pháp luận", Luật học, (5). TS Nguyễn Như Phát (1999), "Quyền tự chủ về vốn và tài sản của doanh nghiệp nhà nước", Nhà nước và Pháp luật, (3). Pohelisev D. (1990), Sở hữu và xã hội chủ nghĩa, "Communist", No 12. Raizbepg B. (1991), Quan hệ sở hữu, "Dolovagja dzuzn", No 20. (1950), Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành. Lưu Văn Sùng (1991), "Sở hữu trong thời kỳ đi lên CNXH ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (12). (1994), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (1). Phan Văn Tiệm (1996), "Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước", Tài chính, (8). TS Trịnh Đức Thảo (1999), "Khái niệm về khung pháp luật và khung pháp luật kinh tế", Nhà nước và Pháp luật, (10). Hoàng Thị Thành (1990), "Các quan hệ sở hữu và động lực của nền kinh tế", Thông tin lý luận, (3). Tòa án nhân dân tối cao (1997), Giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế lao động, hành chính, Hà Nội. GS.TS Vũ Huy Từ, Nguyễn Kế Tuấn (1992), Sổ tay quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Trường Cán bộ quản lý giao thông vận tải (1995), Giáo trình Luật Công ty, Nxb Giao thông vận tải. Đào Trí úc (1993), Những vấn đề cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (1998), Đánh giá Tổng kết Luật công ty và kiến nghị những định hướng sửa đổi chủ yếu. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (1999), Báo cáo nghiên cứu so sánh Luật Công ty ở bốn quốc gia Đông Nam á: Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philippine, Dự án UNDP VIE/97/016. Trọng Quang - Hàm Long (2001), "Đầu xuôi nhưng đuôi không lọt", Báo Hà Nội mới, số 306. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2758.DOC
Tài liệu liên quan