Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam

Mục lục Trang Lời nói đầu 3 Chương I: Lí luận chung về bảo hộ và kinh nghiệm áp dụng các biện pháp phi thuế quan của một số nước trên thế giới” I/ Xu hướng toàn cầu hóa 5 II/ Sự cần thiết của các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước 7 III/ Kinh nghiệm áp dụng các biện pháp phi thuế quan của một số nước trên thế giới 24 Chương II: Đánh giá các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam trong thời gian qua (1996 – 2000) I/ Thực trạng thương mại và khả năng cạnh tranh của Việt Nam thời kỳ 19

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Xây dựng một số biện pháp phi thuế bảo hộ sản xuất của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
96 – 2000 38 II/ Các biện pháp phi thuế quan liên quan đến nhập khẩu Việt Nam đã sử dụng 50 III/ Đánh giá tác động của các biện pháp phi thuế quan Việt Nam đã sử dụng 63 Chương III: Đề xuất các biện pháp phi thuế quan Việt Nam có thể áp dụng trong thời gian tới I/ Cơ sở khoa học để duy trì các biện pháp phi thuế quan trong việc bảo hộ sản xuất. 69 II/ Một số đề xuất về các NTM Việt Nam sẽ sử dụng để bảo hộ 71 Kết luận 91 Tài liệu tham khảo 92 Lời nói đầu Xu hướng toàn cầu hoá hiện đang được các quốc gia trên thế giới coi là giải pháp tất yếu để đẩy mạnh và tháo gỡ những khó khăn của vấn đề tăng trưởng kinh tế. Cũng như các nước khác trên thế giới, việc Việt Nam không ngừng tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế không nằm ngoài mục tiêu khai thác những ưu thế sẵn có trong nước cũng như tận dụng những yếu tố bên ngoài về thị trường, vốn, công nghệ, phương pháp quản lí tiên tiến. Tuy nhiên trước bối cảnh kinh tế thế giới với nhiều biến động phức tạp và nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế lạc hậu, có xuất phát điểm thấp so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới như hiện nay thì việc phải đối mặt với những bất lợi và tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập là điều không thể tránh khỏi. Để hạn chế những bất lợi và tác động tiêu cực đó đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp nhất định và một trong số đó là việc bảo hộ tích cực nền kinh tế. Bên cạnh thuế quan là công cụ bảo hộ đã được các định chế thương mại quốc tế thừa nhận thì các biện pháp phi thuế quan cũng được rất nhiều quốc gia sử dụng trong thời gian qua bởi những ưu điểm như khả năng tác động nhanh, mạnh, phong phú và có thể đáp ứng nhiều mục tiêu trong cùng một thời điểm. Tuy nhiên mặt trái của các biện pháp phi thuế quan vốn gây ra nhiều tranh cãi là chúng bao gồm nhiều biện pháp chưa được thừa nhận bởi các tổ chức thương mại quốc tế và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế của một quốc gia, một khu vực cũng như toàn bộ nền kinh tế thế giới. Vì vậy, có thể khẳng định việc nghiên cứu các biện pháp phi thuế quan là điều hết sức cần thiết với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Đối với một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam, công tác nghiên cưú về các biện pháp phi thuế con có vai trò quan trọng hơn rất nhiều bởi nó giúp cho chúng ta hiểu thêm về môi trường pháp lí của các quốc gia khác từ đó có thể tìm ra hướng tiếp cận tối ưu thị trường khu vực và quốc tế. Ngoài ra kinh nghiệm rút ra trong quá trình nghiên cứu cũng có giá trị không nhỏ đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống các công cụ bảo hộ phi thuế để chúng thực sự hữu ích và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Với đề tài này ngoài việc thống kê, phân loại những biện pháp phi quan thuế đã được sử dụng trên thế giới, kinh nghiệm áp dụng của một số nước như Mĩ, Thái Lan và thực tiễn áp dụng của Việt Nam tôi cũng xin đưa ra một vài ý kiến cá nhân mang tính chất tham khảo đối với vấn đề xác định các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam trong thời gian tới. Do lần đầu tiên thực hiện một công việc nghiên cứu quy mô, đề tài này không thể tránh khỏi những hạn chế. Kính mong các thầy cô và các bạn góp ý để cho đề tài được toàn vẹn hơn. Xin chân thành cảm ơn! Chương I: Lí luận chung về bảo hộ và kinh nghiệm áP dụng các biện pháp phi thuế quan của một số nước trên thế giới I/ Xu hướng toàn cầu hóa: Toàn cầu hoá là một xu hướng vận động nổi bật hiện nay trong nền kinh tế thế giới. Nó lôi cuốn tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ vào một nền kinh tế toàn cầu thống nhất và duy nhất. Tất cả những quốc gia và vùng lãnh thổ nào không hội nhập vào quá trình này tất yếu sẽ rơi vào tình trạng tụt hậu trong phát triển. Toàn cầu hóa kinh tế được thể hiện rõ nét thông qua hai quá tình chủ yếu là toàn cầu hóa thị trường và toàn cầu sản xuất. Toàn cầu hóa thị trường được thể hiện ở sự loại bỏ dần các quá trình và rào cản chia cắt thị trường để hình thành một thị trường có tính toàn cầu. Các yếu tố cơ bản như cung cầu, giá cả được hình thành và vận động thống nhất trên toàn cầu. Toàn cầu hóa sản xuất được thể hiện thông qua việc hình thành mạng lưới sản xuất mang tính toàn cầu, công nghệ cao được sử dụng phổ biến và các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa… Ngoài ra, toàn cầu hoá còn được thể hiện thông qua các khía cạnh về xã hội, văn hóa, chính trị … Toàn cầu hóa được thúc đẩy bởi các lực lượng nhất định. Trước hết, đó là quá trình cắt giảm thuế quan giữa các quốc gia để có nền thương mại tự do hóa hơn, giảm dần các rào cản bảo hộ hữu hình hoặc vô hình. Hàng hóa và dịch vụ được lưu chuyển dễ dàng giữa các nước và vùng lãnh thổ với khối lượng và cường độ ngày càng tăng. Tiếp theo là quá trình tự do hóa về đầu tư với việc mở rộng của đầu tư quốc tế trên phạm vi và quy mô lớn, các hiệp định thúc đẩy tự do hóa đầu tư được ký kết. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và tác động của các tập đoàn, công ty đa quốc gia đang thúc đẩy theo chiều sâu quá trình toàn cầu hóa. Các quốc gia, vùng lãnh thổ cũng đang tăng cường những nỗ lực để hội nhập quốc tế, mở cửa thị trường, chuyển đổi cơ cấu và cơ chế kinh tế, đào tạo nguồn nhân lực để tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia và vùng lãnh thổ phải hành động dựa trên những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế nhất định trong thương mại và đầu tư, dịch vụ như “nguyên tắc có đi có lại, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia …”. Vấn đề này không phải quốc gia nào cũng có thể dễ dàng thực hiện được. Thực tế cho thấy, quá trình toàn cầu hóa đang làm cho nền kinh tế của các quốc gia từng buớc vận động theo xu hướng mới, chuyển đổi nền kinh tế, đưa nền kinh tế sang giai đoạn phát triển mới với cấp độ cao hơn và phạm vi lớn hơn. Không thể nói chỉ có các nền kinh tế của các nước XHCN cũ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường là ở trong giai đoạn chuyển đổi mà kể cả các nền kinh tế có trình độ phát triển cao như nền kinh tế Mĩ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu … cũng ở trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin và kinh tế tri thức. Sự chuyển đổi này trở thành một hiện tượng phổ biến hiện nay. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế của các quốc gia đang đặt ra hàng loạt các vấn đề cần phải xử lý, đặc biệt là chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển sang cơ cấu kinh tế có các ngành sử dụng công nghệ cao, các ngành phát huy được lợi thế so sánh và các ngành có khả năng cạnh tranh lâu dài trên thị trường, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và những cải cách về hệ thống quản lý kinh tế phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa cũng được đề cao. Nói tóm lại, toàn cầu hóa diễn ra có tính gia tốc. Đây là một quá trình khách quan và là một xu hướng vận động chủ yếu của nền kinh tế thế giới hiện nay. Việt Nam đang chủ động, tích cực tham gia vào quá trình toàn cầu hóa để thực hiện mục tiêu hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cũng đang tiến hành xây dựng lộ trình phù hợp, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và tiếp đến là kinh tế toàn cầu. II/ Sự cần thiết của các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước: 1.Sự cần thiết của các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước: 1.1. Tính thiết yếu chung của bảo hộ đối với các quốc gia trên thế giới: Bảo hộ là công cụ phổ biến được chính phủ các nước sử dụng để nâng đỡ các doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân hoặc các doanh nghiệp tập trung nguồn nhân lực và tài chính lớn. Minh hoạ thực tế rõ ràng nhất có thể nhận thấy ở các nước đang phát triển như các nước châu Mĩ latinh, Asean nơi tồn tại số lượng lớn các doanh nghiệp nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước ở các quốc gia này đều là các doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề cạnh tranh trên thị trường nội địa cũng như quốc tế mà nguyên nhân sâu xa có thể là thiếu vốn, hạn chế trong vấn đề đào tạo nhân lực hoặc thậm chí là yếu kém trong khâu quản lí... Mặc dù vậy việc giải thể các doanh nghiệp này là vấn đề nan giải bởi hầu hết các doanh nghiệp này thu hút một lực lượng lao động lớn hoặc được đầu tư những nguồn tài chính không nhỏ. Hậu quả của việc giải thể có thể là những cú sốc lớn cả về kinh tế và chính trị. Hơn nữa nguyên nhân chính phủ không giải thể các doanh nghiệp này còn có thể là do họ vẫn còn đặt niềm tin vào khả năng biến chuyển tình thế của đội ngũ lãnh đạo hoặc đây là những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực được ưu tiên phát triển theo chiến lược dài hạn. Một lí do không thể không đề cập đến khi duy trì các biện pháp bảo hộ là mong muốn cải thiện các ngành sản xuất nội địa. Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới đều có những chiến lược phát triển kinh tế nhất định và trong đó luôn xác định những lĩnh vực ưu tiên đặc biệt. Nhưng để các doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực này đạt được hiệu quả tối ưu và nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế nhà nước luôn phải có những ưu đãi đặc biệt. Ví dụ điển hình là Mĩ một nước được coi là có nền kinh tế phát triển nhất thế giới trong thời gian qua vẫn duy trì khá nhiều phương thức bảo hộ đối với lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có cả những phương thức đi ngược lại lợi ích thương mại quốc tế và bị nhiều phản kháng của các quốc gia khác trên thế giới. Một lí do riêng đối với các nước đang và chậm phát triển là họ phải thường xuyên xem xét vấn đề duy trì một cán cân thanh toán có lợi và cải thiện nguồn ngân sách. Có thể dễ dàng nhận thấy các quốc gia đang và chậm phát triển hầu hết đều có một cán cân thanh toán bị thâm hụt và một nguồn ngân sách hạn hẹp vốn được tài trợ chủ yếu thông qua thu thuế và vay nợ nước ngoài. Để tránh tình trạng đó các quốc gia có thể áp dụng nhiều hình thức bảo hộ khác nhau nhằm phát triển những ngành hàng thay thế nhập khẩu hoặc hướng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết hay xa xỉ từ đó hạn chế chi tiêu ngoại tệ và thu về nhiều hơn thông qua xuất khẩu. Xuất phát từ nguyên nhân thứ nhất bảo hộ còn giúp các quốc gia trên thế giới duy trì việc làm cho những tổ chức hoặc nhóm người nhất định và giảm bớt những sức ép về chính trị từ các tổ chức đoàn thể. Nguyên nhân này là một trong những nguyên nhân chủ yếu để chính phủ các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi duy trì các biện pháp bảo hộ đối với một số ngành nhất định. Điều này cũng tương tự đối với vấn đề bảo hộ một số ngành ở các quốc gia có nền kinh tế khá phát triển như Mĩ và các nước thuộc liên minh châu Âu. Để bảo hộ ngành công nghiệp dệt may vốn là ngành kinh tế thu hút khá nhiều lao động EU đã đưa ra những thoả thuận về hạn chế xuất khẩu tự nguyện với các nước khác đặc biệt là các nước có nguồn nguyên liệu phong phú và lực lượng nhân công rẻ mạt. Đối với các quốc gia có tiềm lực cả về kinh tế và chính trị các biện pháp bảo hộ còn có thể được duy trì như một công cụ chính trị để đơn phương gây sức ép với các quốc gia khác. Mặc dù đây là mục đích hết sức cá biệt trong một thế giới ngày càng phát triển theo hướng đa cực song trên thế giới hiện tượng này đã và đang tiếp tục xảy ra. Mĩ là quốc gia lạm dụng công cụ bảo hộ nhiều nhất vào mục đích này. Trong luật pháp Hoa Kì có những điều khoản đặc biệt cho phép quốc hội đưa ra những biện pháp thương mại đơn phương đối với bất cứ quốc gia nào được coi là có thể đe doạ đến vấn đề an ninh của nước Mĩ. 1.2. Sự cần thiết phải bảo hộ đối với Việt Nam: Những lí do chủ yếu đối với vấn đề bảo hộ nền kinh tế Việt Nam xuất phát từ hai yếu tố chủ quan và khách quan trong đó yếu tố chủ quan là thực trạng nền kinh tế Việt Nam và yếu tố khách quan là bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay. Theo đánh giá chung thì nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế lạc hậu, đang chuyển hoá từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa được tạo lập một cách đồng bộ và còn nhiều khiếm khuyết. Hệ thống các qui phạm pháp luật công cụ quan trọng để quản lí nhà nước của Việt Nam hiện nay cũng bị đánh giá là thiếu nhất quán và quá chồng chéo, chưa tạo ra được môi trường pháp lí bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các chính sách tài chính tiền tệ, xuất nhập khẩu cũng trong tình trạng tương tự. Vì vậy, trong quá trình xây dựng một môi trường kinh tế giàu tính cạnh tranh và lành mạnh hơn nhà nước cũng cần có sự nâng đỡ hợp lí đối với các một số lĩnh vực nhất định để tạo thế đòn bẩy cho toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó không thể phủ nhận một thực trạng là các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém về năng lực quản lí, nguồn nhân lực, khả năng thích nghi và mang nặng tư tưởng dựa dẫm của một thời kì dài bao cấp. Việc ngay lập tức thúc ép các doanh nghiệp này tự tạo lập một thế đứng vững chắc trên thị trường trong nước đã là một nhiệm vụ quá khó khăn chứ chưa đề cập đến thị trường khu vực và quốc tế. Hơn nữa ngay cả khi các doanh nghiệp Việt Nam đã có một tiềm lực nhất định cũng không thể cho rằng họ không còn cần tới sự bảo trợ của nhà nước nữa. Những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ cao ngoài mong muốn nhận được sự hỗ trợ về vốn thì sự hỗ trợ trong vấn đề nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới cũng hết sức quan trọng đôí với họ. Cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đang xây dựng cho mình một chiến lược phát triển kinh tế trong đó ưu tiên phát triển một số ngành. Các ngành này là những ngành công nghiệp có tiềm năng song còn gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh cần được sự hỗ trợ tích cực của nhà nước và cả những ngành nhất thiết phải ưu tiên phát triển do các lí do khác như chính trị và xã hội. Đây là lí do cơ bản nhất để Việt Nam duy trì các hình thức bảo hộ nhưng với đặc thù mang nhiều màu sắc chính trị hơn là kinh tế các hình thức bảo hộ của Việt Nam trong thời gian qua chưa hẳn đã phát huy được tính chất tích cực đối với nền kinh tế. Đứng trước xu thế khách quan của tự do hoá thương mại và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng cần duy trì các phương thức bảo hộ vì những nguyên nhân nhất định. Thứ nhất trong quá trình tự do hoá thương mại nền kinh tế Việt Nam không thể tránh được những tác động xấu như sự xâm nhập của hàng hoá, sự lũng đoạn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Nếu không có chiến lược bảo hộ sản xuất phù hợp nền kinh tế của chúng ta sẽ phát triển bất cân xứng và phụ thuộc nặng nề vào các yếu tố bên ngoài. Thứ hai để hoà nhập vào một nền kinh tế chung vốn đã phát triển hơn chúng ta rất nhiều Việt Nam cần cải thiện khả năng cạnh tranh trên phương diện quốc gia cũng như trên phương diện doanh nghiệp/ngành. Các biện pháp hỗ trợ mang tính cấp thiết sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tạo được những lợi thế nhất định trong quá trình bắt kịp nhịp độ phát triển chung và tạo điều kiện cho chúng ta tranh thủ hoàn thiện các yếu tố còn lại . Cuối cùng cũng không thể không đề cập đến một lí do ít được đề cập đến đó là để tạo lập một thế vững chắc trên trường quốc tế bảo hộ cũng là một công cụ để chúng ta có thể mang ra “mặc cả” để đổi lấy những ưu đãi chính trị nhất định. 2.Các phương thức bảo hộ sản xuất trong nước: 2.1.Thuế và thuế quan: Ngoài mục đích chính là thu ngân sách thuế còn là một biện pháp hướng dẫn tiêu dùng và trong một chừng mực nào đó là một biện pháp hạn chế nhập khẩu hữu hiệu.Việc đánh thuế nội địa hay thuế quan cao vào một mặt hàng nhập khẩu sẽ có tác động không nhỏ tới việc thu hẹp cầu trong nước từ đó dẫn đến hạn chế nhập khẩu những mặt hàng này. Bên cạnh thuế và thuế quan thì các biện pháp phi thuế cũng là một trong những công cụ hữu hiệu để bảo hộ sản xuất trong nước. Đây cũng chính là nội dung mà đề tài muốn đề cập tới. 2.2. Các biện pháp phi thuế:(NTM- non-tarrif measure) Các biện pháp phi thuế được định nghĩa như tất cả các biện pháp khác ngoài các biện pháp thuế quan được qui định về mặt pháp lí hay đơn thuần tồn tại trên thực tế có ảnh hưởng đến mức độ hoặc phương hướng nhập khẩu. Các biện pháp phi thuế quan có thể mang một hay nhiều thuộc tính khác nhau như áp dụng ở biên giới hay nội địa, được duy trì một cách chủ động hay bị động, nhằm mục đích bảo hộ hay không bảo hộ, phù hợp hay không phù hợp với thông lệ quốc tế... 2.2.1.Ưu điểm: a.Phong phú về hình thức : nhiều biện pháp phi thuế khác nhau có thể đáp ứng cùng một mục tiêu, áp dụng cho cùng một mặt hàng Các NTM trong thực tế rất phong phú về hình thức nên tác động, khả năng và mức độ đáp ứng mục tiêu của chúng cũng rất đa dạng. Do đó, nếu sử dụng NTM để phục vụ một mục tiêu đề ra thì có thể có nhiều sự lựa chọn, kết hợp hơn mà không bị gò bó chật hẹp trong khuôn khổ một công cụ duy nhất như thuế quan. Ví dụ: để nhằm hạn chế nhập khẩu một mặt hàng bất kì, có thể đồng thời áp dụng các biện pháp hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu không tự động, đầu mối nhập khẩu, phụ thu nhập khẩu. b.Đáp ứng nhiều mục tiêu: một NTM có thể đồng thời đáp ứng nhiều mục tiêu với hiệu quả cao Mỗi quốc gia thường theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh tế, thương mại của mình. Các mục tiêu đó có thể là: (i) bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích phát triển một số ngành nghề; (ii) bảo vệ an toàn sức khỏe con người, động thực vật, môi trường; (iii) hạn chế tiêu dùng; (iv) đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán; (v) bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, v.v... Các NTM có thể đồng thời phục vụ hiệu quả nhiều mục tiêu khác nhau khi việc sử dụng công cụ thuế quan không khả thi hoặc không hữu hiệu bằng. Ví dụ: quy định về vệ sinh kiểm dịch đối với nông sản nhập khẩu vừa đảm bảo an toàn sức khỏe con người, động thực vật lại vừa gián tiếp bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước một cách hợp pháp. Hay cấp phép không tự động đối với dược phẩm nhập khẩu vừa giúp bảo hộ ngành dược nội địa, dành đặc quyền cho một số đầu mối nhập khẩu nhất định, quản lý chuyên ngành một mặt hàng quan trọng đối với sức khỏe con người, còn có tác dụng phân biệt đối xử với một số nước cung cấp nhất định. c.Nhiều NTM chưa bị cam kết ràng buộc cắt giảm hay loại bỏ Do NTM thường mang tính mập mờ, mức độ ảnh hưởng không rõ ràng như những thay đổi định lượng của thuế quan, nên tác động của chúng có thể lớn nhưng lại là tác động ngầm, có thể che đậy hoặc biện hộ bằng cách này hay cách khác. Hiện nay các hiệp định của WTO chỉ mới điều chỉnh việc sử dụng một số NTM nhất định. Trong đó, tất cả các NTM hạn chế định lượng đều không được phép áp dụng, trừ trường hợp ngoại lệ. Một số NTM khác tuy có thể nhằm mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước nhưng vẫn được WTO cho phép áp dụng với điều kiện tuân thủ những quy định cụ thể, rõ ràng, khách quan. Chẳng hạn như tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp kiểm dịch động thực vật, tự vệ, thuế chống bán phá giá, các biện pháp chống trợ cấp, thuế đối kháng, hỗ trợ nông nghiệp dạng hộp xanh. Ngoài ra, vẫn có thể tiếp tục áp dụng mà chưa bị yêu cầu cắt giảm hay loại bỏ những NTM chưa xác định được sự phù hợp hay không phù hợp với các quy định của WTO. Những NTM này có thể do WTO chưa có quy định điều chỉnh hoặc có quy định nhưng rất chung chung và trên thực tế rất khó có thể xác định được tính phù hợp hay không phù hợp với quy định đó, hoặc chúng vẫn là một thực tế được thừa nhận chung. Chẳng hạn như yêu cầu đặt cọc, trả thuế nhập khẩu trước, v.v... 2.2.2.Nhược điểm: a.Không rõ ràng và khó dự đoán Các NTM trên thực tế thường được vận dụng dựa trên cơ sở dự đoán chủ quan, thậm chí tuỳ tiện, của nhà chức trách về sản xuất và nhu cầu tiêu thụ trong nước. Chẳng hạn để xác định hạn ngạch nhập khẩu phân bón trong năm tới, Chính phủ phải dự kiến được công suất sản xuất trong nước có khả năng đáp ứng được bao nhiêu phần trăm tổng nhu cầu về phân bón của toàn ngành nông nghiệp. Trong bối cảnh nền kinh tế ngày nay rất phức tạp và thường xuyên biến động, việc đưa ra một dự đoán tương đối chính xác là rất khó khăn. Nếu dự đoán không chính xác sẽ có ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước. Ví dụ như gây ra thiếu hụt trầm trọng nguồn cung cấp phân bón khi sản xuất trong nước vào thời vụ, đẩy giá tăng vọt (sốt nóng) hoặc trái lại, dẫn đến tình trạng cung vượt cầu quá lớn trên thị trường làm giá sụt giảm (sốt lạnh). Điều này đồng nghĩa với việc các quyết định sản xuất và kinh doanh sẽ chịu rủi ro cao hơn. Sử dụng NTM cũng thường làm nhiễu tín hiệu chỉ dẫn quyết định của người sản xuất và người tiêu dùng trong nước, tín hiệu chỉ dẫn việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế (chính là giá thị trường), phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thực sự. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư sản xuất kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế. Tác động của các NTM thường khó có thể lượng hóa được rõ ràng như tác động của thuế quan. Nếu mức bảo hộ thông qua thuế quan đối với một sản phẩm có thể dễ dàng được xác định bằng chính thuế suất đánh lên sản phẩm đó thì mức độ bảo hộ thông qua NTM là tổng mức bảo hộ của các NTM riêng rẽ áp dụng cho cùng một sản phẩm. Bản thân mức độ bảo hộ của mỗi NTM cũng chỉ có thể được ước lượng một cách tương đối. Cũng vì mức độ bảo hộ của các NTM không dễ xác định nên rất khó xây dựng một lộ trình tự do hóa thương mại rõ ràng như với bảo hộ chỉ bằng thuế quan. b.Khó khăn, tốn kém trong quản lý Vì khó dự đoán nên các NTM thường đòi hỏi chi phí quản lý cao và tiêu tốn nhân lực của nhà nước để duy trì hệ thống điều hành, kiểm soát bằng NTMs. Một số NTM thuộc thẩm quyền và phạm vi quản lý của nhiều cơ quan với những mục tiêu khác nhau, đôi khi còn mâu thuẫn nhau, nên có thể gây khó khăn cho bản thân các nhà hoạch định chính sách, quản lý, và các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế trong việc xây dựng, sử dụng, tiếp cận thông tin cũng như đánh giá tác động của các NTM này. Các doanh nghiệp sản xuất chưa chú trọng đến tiếp cận thông tin và chưa có ý thức xây dựng, đề xuất các NTM để bảo hộ sản xuất, còn trông chờ vào nhà nước tự quy định. Do đó, thực tế là các doanh nghiệp thường phải tốn kém chi phí vận động hành lang để cơ quan chức năng ra quyết định áp dụng NTM nhất định có lợi cho mình. Ngoài ra, có những NTM bị động là những NTM tồn tại trên thực tế ngoài ý muốn của các nhà hoạch định chính sách như bộ máy quản lý thương mại quan liêu, năng lực thấp của các nhân viên hải quan, các văn bản pháp lý không được công bố công khai,... c.Không tăng thu ngân sách, gây bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp: Việc sử dụng các NTM phục vụ mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho nhà nước mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đãi, đặc quyền, như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế. 2.3. Sự kết hợp giữa hai biện pháp để bảo hộ sản xuất trong nước. Các biện pháp thuế quan và NTM là hai công cụ bảo hộ sản xuất quan trọng đối với mọi quốc gia. Do mỗi công cụ đều có điểm mạnh, yếu đặc thù nên chúng thường được sử dụng bổ sung lẫn nhau nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Mặc dù về lý thuyết, WTO và các định chế thương mại khu vực thường chỉ thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất nhưng thực tế đã chứng minh rằng các nước không ngừng sử dụng các NTM mới, vừa đáp ứng mục đích bảo hộ, vừa không trái với thông lệ quốc tế. Mức độ hiệu quả của bảo hộ có tăng lên nhiều hay không còn phụ thuộc vào tính linh hoạt có chọn lọc, có định hướng của chính phủ các nước trong việc áp dụng các NTM bổ trợ cho biện pháp thuế quan. Nếu biết kết hợp hài hòa và tinh tế hai công cụ này, sản xuất trong nước sẽ được bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn để nâng cao sức cạnh tranh nhằm từng bước thích nghi với các định chế và nguyên tắc chung của môi trường thương mại quốc tế. 3. Các NTMs được sử dụng để bảo hộ: 3.1. Những căn cứ phân loại 3.1.1. Bảo hộ sản xuất trong nước: Đây là thuộc tính quan trọng nhất của một NTM mà các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc khi đưa ra quyết định có áp dụng chúng hay không. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào vấn đề phân tích và đánh giá thực trạng kinh tế trong nước từ đó lựa chọn ngành bảo hộ, thời gian và mức độ bảo hộ. 3.1.2.Phù hợp với qui định của các tổ chức kinh tế quốc tế: Khi xây dựng chính sách thương mại nhằm hội nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế cần quan tâm đến những qui định của những tổ chức này đặc biệt là những biện pháp đã có cam kết cắt giảm. Hiện tại Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và APEC do đó việc cắt giảm những biện pháp phi thuế cho phù hợp với những tổ chức này là vấn đề bắt buộc. Ngoài ra muốn trở thành thành viên chính thức của WTO-một tổ chức thương mại có quy mô toàn cầu trong một tương lai gần, Việt Nam cần phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa những biện pháp thuế quan cũng như phi thuế.. Các nguyên tắc và qui định của WTO thông thường cũng là những chuẩn mực cho mối quan hệ giữa các quốc gia với các thể chế tài chính tiền tệ hay cho các tổ chức thương mại khác. Do đó có thể khẳng định chắc chắn rằng việc thực hiện triệt để bước đầu các cam kết mở đường cho Việt Nam tham gia WTO cũng đồng thời giúp Việt Nam phần nào đáp ứng được những cam kết trong ASEAN và APEC. 3.2. Phân loại các NTM: Trên cơ sở các thuộc tính nói trên của các NTM có thể phân loại các NTM này thành bốn nhóm lớn với các thuộc tính sau: - PH: phù hợp với những nguyên tắc và qui định của các tổ chức thương mại quốc tế. - KPH: không phù hợp với những qui định của các tổ chức thương mại quốc tế. - BH: có mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước. - KBH : không có mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước 3.2.1.Nhóm 1:KPH Các NTM thuộc nhóm này hoặc là vi phạm rõ ràng qui định của WTO ( ví dụ áp dụng giá nhập khẩu tối thiểu để xác định trị giá tính thuế hải quan), hoặc chỉ phù hợp trong những trường hợp đặc biệt (ví dụ cấm nhập khẩu hàng hoá có hại cho môi trường). Do đó tất cả các biện pháp hạn chế nhập khẩu sau đây đều thuộc nhóm này: a.Các biện pháp quản lý định lượng Hạn ngạch: là qui định của nhà nước về số lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó được nhập khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định. Bao gồm: Hạn ngạch toàn cầu (6210) Các chữ số trong ngoặc đơn là mã số theo thống kê của UNCTAD. Không xác định (6211) Xác định đối với các thành phần xuất khẩu (6212) Hạn ngạch song phương (6220) Hạn ngạch theo mùa (6230) Hạn ngạch liên quan đến thực hiện xuất khẩu (6250) Hạn ngạch liên quan đến bán hàng hoá nội địa (6250) Hạn ngạch của các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (6270) Ngăn cấm (6300). Bao gồm: Cấm hoàn toàn (6310):trừ trường hợp đối với lí do môi trường, sức khoẻ, thuần phong mĩ tục,an ninh quốc phòng. Ngừng cấp giấy phép (6320) Cấm theo mùa (6330) Cấm tạm thời (6340) Đa dạng nhập khẩu (6350) Cấm trên cơ sở nguồn gốc (cấm vận) (6360) Cấm đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (6370) Các thoả thuận hạn chế xuất khẩu (6600): các hạn chế được đặt ra bởi nước nhập khẩu nhưng được nước xuất khẩu quản lí. Các thoả thuận hạn chế xuất khẩu tự nguyện (6610) Các thoả thuận tiếp thị có trật tự (6620) Thoả thuận đa dạng (6630) Thoả thuận hạn ngạch (6631) Thoả thuận tư vấn (6632) Thoả thuận hợp tác hành chính (6633) Thoả thuận hạn chế xuất khẩu hàng dệt may ngoài MFA(6640) Cấp phép không tự động (6100) được xác định như là các thủ tục hành chính được sử dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, đòi hỏi đệ trình đơn hay các tài liệu khác (không liên quan tới mục đích hải quan) tới các cơ quan hành chính thích hợp là điều kiện tiên quyết để được phép nhập khẩu. Giấy phép không có tiêu chuẩn thanh toán cụ thể (6110) Giấy phép đối với người mua chọn lọc (6120) Giấy phép đối với việc sử dụng cụ thể (6130) Liên quan tới thương mại xuất khẩu (6131) Đối với mục đích ngoài xuất khẩu( 6132 Giấy phép liên quan đến sản phẩm địa phương (6140): Bán hàng hoá địa phương (6141) Yêu cầu nội dung địa phương (6142) Thương mại trao đổi hoặc tính toán (6143) Giấy phép liên quan đến ngoại hối không chính thức (6150) Chuyển đổi ngoại tệ bên ngoài (6151) Chuyển đổi ngoại tệ của chính các nhà nhập khẩu (6152) b.Các biện pháp tương đương thuế quan Được định nghĩa như những biện pháp làm tăng chi phí theo cách tương tự đối với các biện pháp thuế quan. Bao gồm: Phụ phí hải quan (2100): còn được gọi là phí thu thêm hoặc thuế bổ sung là một phương tiện chính sách thương mại độc lập để tăng thu nhập tài chính hoặc bảo hộ công nghiệp trong nước. Thuế và chi phí bổ sung (2200): Chi phí bổ sung bao gồm thuế và lệ phí khác nhau đặt ra đối với hàng hàng hoá nhập khẩu cùng với thuế và phụ phí hải quan . Thuế đối với các giao dịch chuyển đổi ngoại tệ (2210) Thuế gián tem (2220) Lệ phí giấy phép nhâp khẩu (2230) Lệ phí hoá đơn lãnh sự (2240) Thuế thống kê (2250) Thuế đối với các phương tiện giao thông (2260) Thuế và phụ phí đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (2270), và những loại thuế khác (2280) Thuế và chi phí nội địa đánh vào nhập khẩu (2300) Thuế hàng hoá chung (2310) Thuế hàng hoá (2320) Thuế và phí tổn đối với hàng hoá thuộc hạng mục sản phẩm nhạy cảm (2370) Đánh giá hải quan theo qui định (2400) Thuế hải quan và các chi phí khác đối với nhập khẩu chọn lọc có được áp dụng trên cơ sở đánh giá theo qui định về hàng hoá. Biện pháp này được đưa ra như một phương tiện để tránh gian lận hoặc bảo vệ công nghiệp trong nước. Đánh giá hải quan theo qui định làm biến đổi thuế theo gía hàng thành một dạng thuế đặc biệt. Các biện pháp tượng đương thuế quan khác (2900). c.Các biện pháp tài chính (4000) Các biện pháp qui định sự tham gia và chi phí của việc chuyển đổi ngoại tệ đối với việc nhập khẩu và xác định các điều kiện thanh toán. Các yêu cầu thanh toán trước (4100) Thanh toán trước các giá trị giao dịch nhập khẩu trong một thời gian cho phép trước khi nhập khẩu và\ hoặc thuế nhập khẩu liên quan được yêu cầu tại thời điểm giao dịch hoặc cấp giấy phép nhập khẩu. Yêu cầu giới hạn tiền mặt (4120) Nghĩa vụ gửi toàn bộ số tiền liên quan đến giá trị giao dịch hoặc một phần được xác định của số tiền đó trong ngân hàng ngoại thương trước khi mở thư tín dụng; việc thanh toán có thể được yêu cầu bằng ngoại tệ. Tiền gửi có thể trả lại đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (4170): Việc gửi lại tiền gửi là chi phí được trả lại khi các thùng ._.hàng hoặc các sản phẩm đã sử dụng được trả lại hệ thống giao nhận. Tỷ giá hối đoái đa dạng (4200) Xác định tỉ giá hối đoái chính thức hạn chế (4300) Uỷ quyền ngân hàng (4320) Yêu cầu giao lại chuyển đổi ngoại tệ (4400) Các qui định liên quan đến các điều kiện chi trả đối với nhập khẩu (4500) Các qui định cụ thể liên quan đến các điều kiện thanh toán của quá trình nhập khẩu và việc đạt được và sử dụng tín dụng (nước ngoài và trong nước) đối với vấn đề nhập khẩu tài chính. Trì hoãn chuyển giao xếp hàng (4600) d. Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp: Các hạn chế đối với công ty cụ thể (đầu mối xuất nhập khẩu) (6700): Phê chuẩn chọn lọc các nhà nhập khẩu (6710) Hạn ngạch đối với công ty cụ thể (6720) Các biện pháp độc quyền (7000) Các biện pháp tạo nên một tình huống độc quyền,bằng cách đưa ra các quyền riêng biệt cho một hoặc một nhóm hạn chế các nhà kinh doanh vì những lí do xã hội tài chính hoặc kinh tế. Bao gồm: Một kênh đối với nhập khẩu (7100) : tất cả việc nhập khẩu hoặc việc nhập khẩu một loại hàng hoá chọn lọc phải thông qua các cơ quan nhà nước hoặc các doanh nghiệp do nhà nước quản lí. Đôi khi các khu vực tư nhân cũng dược ưu đãi những quyền nhập khẩu riêng biệt. Bao gồm: Quản lí thương mại nhà nước (7110) Cơ quan nhập khẩu duy nhất (7120) Các dịch vụ quốc gia bắt buộc (7200): các quyền riêng biệt được chính phủ thừa nhận về bảo hiểm quốc gia và các công ty vận tải biển đối với toàn bộ hoặc một phần cụ thể của việc nhập khẩu. Bảo hiểm quốc gia bắt buộc (7210) Vận tải quốc gia bắt buộc (7220) e.Các biện pháp liên quan đến đầu tư (9100) Các biện pháp này bao gồm các chính sách phi thuế trong nước phân biệt đối xử hoặc tạo ra những khó khăn trong sản xuất hoặc đầu tư của các nhóm công ty từ đó ảnh hưởng gián tiếp đến mức độ và thành phần xuất nhập khẩu. 3.2.2. Nhóm 2 : PH và KBH Các NTM thuộc nhóm này là các biện pháp hạn chế nhập khẩu dựa trên những tiêu chuẩn rõ ràng được thừa nhận chung không mang tính chất bảo hộ. Các biện pháp kĩ thuật (8000) Là các biện pháp đề cập đến sản phẩm có đặc trưng liên quan đến vấn đề kĩ thuật như chất lượng, an toàn, kích cỡ, trong đó bao gồm các điều khoản hành chính có thể được yêu cầu áp dụng cho một sản phẩm như thuật ngữ, kí hiệu, thử nghiệm, đóng gói, đóng dấu và các yêu cầu dán nhãn. Các qui định kĩ thuật (8100) Các qui định đưa ra các yêu cầu kĩ thuật, trực tiếp hoặc bằng việc đề cập đến hoặc kết hợp nội dung của việc định rõ kĩ thuật, tiêu chuẩn hoặc mã số thực hiện để bảo vệ sức khoẻ con người (qui định vệ sinh); bảo vệ sức khoẻ thực vật (qui định về vệ sinh thực vật); bảo vệ môi trường và bảo vệ cuộc sống hoang dã; bảo đảm an toàn con người; bảo đảm an ninh quốc gia, ngăn ngừa các hoạt động gian lận . Các yêu cầu đậc trưng của sản phẩm (8110) Yêu cầu đánh dấu (8120): các biện pháp xác định thông tin qui định việc đóng gói hàng hoá phải được thực hiện cho việc vận chuyển; hải quan (nước xuất xứ, cân nặng, kí hiệu đối với nội dung nguy hiểm,...) Yêu cầu nhãn mác (8130): Các biện pháp qui định loại hình kích cỡ của việc in gói hàng hoặc/ và xác định thông tin nên được cung cấp cho khách hàng. Yêu cầu đóng gói (8140).: Các biện pháp qui định cách thức về hàng hoá phù hợp với nước nhập khẩu về việc điều khiển thiết bị hoặc vì các lí do khác và xác định nguyên liệu đóng gói được sử dụng. Thử nghiệm, kiểm tra và yêu cầu kiểm dịch (8150) : Thử nghiệm bắt buộc các mẫu sản phẩm bởi một phòng thí nghiệm được uỷ quyền trong nước nhập khẩu, kiểm tra hàng hoá bởi các cơ quan thẩm quyền về sức khoẻ trước khi ra khỏi hải quan hoặc yêu cầu kiểm dịch đối với động thực vật sống. Thẩm tra trước khi bốc hàng lên tàu (8200): Quản lí chất lượng, số lượng và giá cả bắt buộc của hàng hoá trước khi di chuyển hàng từ nước xuất khẩu,có hiệu lực bởi một cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu uỷ thác. Quản lí giá nhằm mục đích tránh dưới mức và trên mức hoá đơn do đó thuế hải quan không bị trốn tránh hoặc chuyển đổi ngoại tệ không bị thất thoát. 3.2.3. Nhóm 3 : PH & BH Các NTM thuộc nhóm này là các biện pháp có mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước nhưng được các tổ chức thương mại quốc tế thừa nhận.Các biện pháp thuộc nhóm này được gọi là các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời bao gồm: Các biện pháp chống bán phá giá (3400) Các biện pháp chống bán phá giá là các qui định về mức thuế nhập khẩu đặc biệt khi giá hàng hoá của các nước xuất khẩu bán phá giá vào nước nhập khẩu. Điều tra chống bán phá giá (3410) Thuế chống bán phá giá (3420) Cam kết giá cả (3430) Các biện pháp chống trợ cấp (3500): Đánh thuế nhập khẩu đặc biệt để chống trợ cấp của chính phủ nước ngoài đối với mặt hàng này. Bao gồm: Điều tra chống trợ cấp (3510) Thuế chống trợ cấp (3520) Cam kết giá cả (3530) Hỗ trợ nông nghiệp dạng hộp xanh 3.2.4. Các NTM chưa có qui định cụ thể của các tổ chức thương mại quốc tế : Các NTMs thuộc nhóm này là những biện pháp rất khó xác định được chúng có phù hợp hay không phù hợp với các qui định của các tổ chức thương mại quốc tế. Mặt khác chúng có thể đã được qui định song còn khá chung chung. Có thể chia các NTMs này thành hai nhóm nhỏ sau: a. Các biện pháp nhằm mục tiêu bảo hộ rõ ràng có tác dụng nhất định trong từng hoàn cảnh cụ thể, đây là các biện pháp tài chính chưa bị ràng buộc bởi bất cứ tổ chức nào: Tiền gửi nhập khẩu trước (4110): Nghĩa vụ gửi trước phần trăm giá trị của các giao dịch nhập khẩu trong một thời gian cho phép trước khi nhập khẩu, các khoản tiền gửi này không được tính lãi xuất. Trả trước thuế hải quan (4130): Thanh toán trước toàn bộ hoặc một phần không cho phép sinh lãi xuất. b. Các biện pháp dẫn đến hạn chế nhập khẩu nhưng phát sinh một cách ngẫu nhiên chứ không do các nhà hoạch định chính sách chủ động vạch ra. Các biện pháp này có tác động xấu đến thương mại nhưng chưa bị các tổ chức thương mại yêu cầu loại bỏ. Các thủ tục đặc biệt (8310): Các thủ tục không rõ ràng liên quan đến việc quản lí hành chính của bất cứ biện pháp nào được nước nhập khẩu áp dụng như nghĩa vụ nộp thông tin sản phẩm chi tiết hơn yêu cầu thông thường trên cơ sở yêu cầu khai hải quan, yêu cầu sử dụng các địa điểm nhập cảnh cụ thể,... Năng lực yếu kém của hải quan (8320): thể hiện qua khả năng về chuyên môn trong quá trình kiểm tra hàng hoá, làm thủ tục thông quan. Tham nhũng (8350): là một trong những yếu tố phát sinh ngoài tầm kiểm soát của các nhà hoạch định chính sách, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thương mại cần phải loại bỏ. Biểu thuế hay thay đổi và thông tin về biểu thuế khó tiếp cận Các văn bản liên quan đến thương mại không được công bố kịp thời, công khai III.Kinh nghiệm áp dụng các NTM của một số nước: 1. Thực tiễn áp dụng các NTM của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới và là một trong những thành viên sáng lập của GATT (WTO ngày nay). Mặc dù có tiềm năng to lớn trong hầu hết mọi lĩnh vực sản xuất, nhưng theo qui luật về lợi thế cạnh tranh tương đối, trong những năm qua, Hoa Kỳ đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn nhằm bảo hộ cho những ngành sản xuất đã suy giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. 1.1. Các biện pháp hạn chế định lượng: 1.1.1. Cấm: Hoa Kỳ có qui định cấm nhập khẩu cá ngừ với lí do tránh bắt phải cá heo một cách không cố ý khi đánh bắt cá ngừ. Luật bảo vệ động vật có vú ở biển ban hành vào năm 1972 của Hoa Kỳ cấm nhập khẩu cá ngừ và các sản phẩm chế biến liên quan từ Mêhicô và các nước khác nếu phương pháp đánh bắt cá ngừ dẫn đến bắt cả cá heo. Để ngăn ngừa các nước khác tránh bị điều chỉnh bởi luật đó, Hoa Kỳ còn yêu cầu các nước đang nhập khẩu cá ngừ cần có biện pháp hạn chế tương tự nhập khẩu cá ngừ và các sản phẩm liên quan từ các nước trên. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn cấm cả nhập khẩu những sản phẩm này từ những nước không tuân thủ yêu cầu của mình. Hoa Kỳ lập luận là các biện pháp trên được đưa ra để bảo vệ cá heo và là các biện pháp "cần thiết để bảo vệ con người, động vật và thực vật" (Điều XX(b), GATT 1994) và "liên quan tới bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm" (Điều XX(g), GATT 1994). Do đó các biện pháp này tuân thủ những qui định ngoại lệ của GATT về việc cấm hạn chế số lượng nhập khẩu. Tuy nhiên các Ban xét xử đã chỉ ra rằng các biện pháp này vi phạm những qui định của GATT 1994 do chúng không đưa ra được mối quan hệ trực tiếp giữa mục tiêu hợp pháp của nó và các biện pháp hạn chế số lượng cũng như không minh chứng được sự cần thiết và tính thích hợp của các biện pháp này nhằm đạt được mục tiêu đó. 1.1.2. Hạn ngạch: Hoa Kì hạn chế nhập khẩu tôm và sản phẩm từ tôm. Chính phủ này đặt ra yêu cầu các nhà đánh bắt tôm phải đệ trình chứng nhận rằng chính phủ của họ có các qui định giống như mình đối với lưới đánh tôm để bảo vệ rùa biển. Nếu thiếu chứng nhận đó, Hoa Kỳ sẽ không nhập khẩu tôm từ những nước chấp nhận những phương pháp đánh bắt tôm gây nguy hại cho rùa biển. Ban đầu luật này chỉ áp dụng với các nước vùng Caribê và vịnh Mêhicô. Nhưng từ giữa năm 1996 luật này được áp dụng với tất cả các nước trên thế giới. Trường hợp ngoại lệ được áp dụng với tôm nhập khẩu được nuôi tại các trang trại, được đánh bắt bằng phương pháp thủ công, hay tôm từ vùng nước lạnh nơi mà rùa biển không sống được. Nhiều thành viên cho rằng biện pháp này của Hoa Kỳ đã vi phạm Điều XI, GATT 1994 về hạn chế số lượng và không biện minh được theo bất cứ qui định nào của Điều XX, GATT 1994 về các trường hợp ngoại lệ. 1.1.3. Hạn ngạch thuế quan: Mặc dù là nhà sản xuất nông nghiệp lớn nhất trên thế giới nhưng Hoa Kỳ duy trì danh mục rất lớn các nông sản chịu hạn ngạch thuế quan. Đáng chú ý là mức hạn ngạch mà Hoa Kỳ cam kết cao hơn mức nhập khẩu thực tế rất nhiều. Điều này chứng tỏ Hoa Kỳ đã rất thành công trong quá trình đàm phán về nông nghiệp. Những nông sản chính chịu hạn ngạch thuế quan là thịt bò, một số loại sữa, bơ, pho mát, đường, sôcôla, nguyên liệu sản xuất thuốc lá, bông... 1.2. Các qui định về kĩ thuật: Luật Hoa Kì đòi hỏi tất cả xe ô tô con và xe tải nhẹ phải mang nhãn chỉ ra phần trăm hàm lượng nội địa của Hoa Kỳ và Canada. Cụ thể là nhãn phải chỉ ra: - Phần trăm hàm lượng của các chi tiết Hoa Kỳ và Canada (trên cơ sở model-by-model); - Nước, bang và thành phố lắp ráp cuối cùng; - Nếu các nước không phải là Hoa Kỳ và Canada cung cấp từ 15% chi tiết trong xe trở lên, nhãn phải chỉ ra hai nước cung cấp nhiều chi tiết nhất cũng như phần trăm chi tiết do mỗi nước cung cấp; - Nước xuất xứ của động cơ và nước gia công (nước thêm 50% giá trị trở lên hoặc gia tăng giá trị nhiều nhất). Luật này có giá trị từ tháng 10/1994. Người vi phạm bị phạt 1000 USD cho mỗi xe. Lời giải thích cho hệ thống này là nó cung cấp cho người tiêu dùng thông tin cần thiết để quyết định việc mua sắm về phần trăm giá xe được sản xuất tại Hoa Kỳ và Canada. Nhưng trên thực tế hệ thống là một điều khoản "mua hàng Mĩ " nhằm động viên người tiêu dùng mua hàng nội địa. Hệ thống này có nhiều điểm tạo ra sự phân biệt đối xử với các nhà sản xuất nước ngoài. Hơn nữa nó làm tăng chi phí cho các nhà sản xuất cũng như bán xe ô tô để tính toán hàm lượng theo yêu cầu, do đó tạo ra trở ngại không cần thiết đối với thương mại và có thể vi phạm Điều II:1 và 2 của Hiệp định TBT. 1.3. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời: 1.3.1. Chống bán phá giá: Luật về chống bán phá giá có lẽ là nguồn lớn nhất che giấu chủ nghĩa bảo hộ của Hoa Kỳ và nhiều nước khác đã than phiền về vấn đề này. Hoa Kỳ đã có nhiều sửa đổi để luật về chống phá giá của nó phù hợp với Hiệp định về chống phá giá. Tuy nhiên còn hai điểm đáng lưu ý: Thứ nhất, trong một số lĩnh vực, luật về thực thi của Hoa Kỳ có thể được giải thích hay được áp dụng theo cách thức không phù hợp với Hiệp định chống phá giá. Thứ hai, thậm chí trong những lĩnh vực mà luật thực thi dường như đã rõ ràng, vẫn có mối lo ngại về triển khai thực sự theo các qui định của nó vẫn vi phạm Hiệp định chống phá giá. 1.3.2. Thuế đối kháng Tháng 1/1993, Hoa Kỳ đã đặt thuế đối kháng lên một số loại thép nhập khẩu từ Pháp, Đức và Anh. Bên cạnh đó Hoa Kì cũng ép các nước khác như Nhật và Nga phải hạn chế xuất khẩu tự nguyện mặt hàng này sang thị trường của mình. 1.3.3. Trợ cấp: EU đã chỉ ra rằng trong việc tính trợ cấp, Hoa Kỳ đã sử dụng phương pháp tuỳ tiện không phù hợp với Điều 4.2 của Hiệp định Trợ cấp (trước Vòng Uruguay) với qui định "thuế đối kháng không được cao quá mức trợ cấp". Một Ban xét xử đã được thành lập và đã công bố báo cáo vào tháng 11/1994 nhưng báo cáo này vẫn chưa được thông qua. Cũng theo liên minh châu Âu thì các biện pháp trợ cấp của Mĩ vi phạm "tính cụ thể" trong qui định của WTO với 4 tiêu chí sau: (a) trợ cấp chỉ được sử dụng bởi một số công ty; (b) hầu hết trợ cấp chỉ được sử dụng bởi một số công ty; (c) phần lớn trợ cấp được ban cho một số công ty hay ngành; (c) các cơ quan chức năng phán xử tuỳ tiện về mức trợ cấp. Ngày 18/11/1997, liên minh châu Âu cho biết đã đề nghị tham vấn song phương với Hoa Kỳ tại WTO vì những thiệt hại của các công ty EU do hệ thống miễn thuế xuất khẩu của Hoa Kỳ. Theo EU, hệ thống này giảm thuế thu nhập đối với những hàng hoá được xuất khẩu bởi "các công ty bán hàng nước ngoài" (foreign sales corporations - FSCs). Hầu hết các công ty đó là những chi nhánh của các công ty Hoa Kỳ. Việc miễn giảm dựa trên điều kiện là hầu hết hàng xuất khẩu được sản xuất tại Hoa Kỳ. EU lập luận rằng điều này tạo ra trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp này ưu tiên hàng nội hơn là hàng nhập khẩu. Cả hai loại trợ cấp này đều vi phạm Hiệp định Trợ cấp. 1.4. Qui tắc xuất xứ Hoa Kỳ áp dụng nguyên tắc "biến đổi cơ bản" như là nguyên tắc cơ sở trong việc xác định xuất xứ của sản phẩm. Nguyên tắc này được giải nghĩa khác nhau trong các hiệp định và các chương trình thương mại của Hoa Kỳ. Qui tắc xuất xứ của Mỹ được phát triển thông qua sự giải thích của Hải quan và các vụ kiện. Nói chung, hải quan xác định xuất xứ của một sản phẩm được sản xuất gia công tại hai nước trở lên trên cơ sở sản phẩm "được biến đổi cơ bản" thành một mặt hàng mới và khác biệt ở đâu. Do hải quan và toà án quyết định một sản phẩm đã trải qua "biến đổi cơ bản" trên cơ sở từng trường hợp nên việc xác định xuất xứ là cực kỳ khó dự đoán. Điều này là không phù hợp với Điều X:3 của GATT và Điều 2(e) của Hiệp định Qui tắc xuất xứ rằng các qui định thương mại phải được áp dụng theo một cách thức hợp lý và thống nhất. Chính Hoa Kỳ cũng thừa nhận là cách tiếp cận theo từng trường hợp là thiếu tính dự đoán. Với mong muốn cải thiện tình hình, làm cho qui tắc xuất xứ rõ ràng và khách quan hơn, năm 1993 Chính phủ Hoa Kỳ đã đề xuất sửa đổi qui tắc xuất xứ áp dụng với nhập khẩu của nó. Qui tắc sửa đổi sẽ xác định xuất xứ theo sự thay đổi phân loại dòng thuế. Tuy nhiên một số vấn đề vẫn còn tồn tại: Tiêu chuẩn để xác định xuất xứ các linh kiện được sử dụng cho đồng hồ và máy in được cân nhắc cho cả quá trình lắp ráp và giám định cũng như việc gia công các bộ phận chính. - Chọn lựa một trong ba tiêu chuẩn về lắp ráp và giám định khi xác định xuất xứ của các sản phẩm bán dẫn ngăn cản tính khách quan, nhất quán của việc xác định xuất xứ. Riêng đối với mặt hàng dệt may tháng 10 năm 1995 Hoa Kỳ đã sửa đổi qui tắc xuất xứ đối với mặt hàng này (Điều 334 của Luật về việc thực hiện Hiệp định WTO). Những sửa đổi chính là: - Với hàng dệt, trước kia nước xuất xứ là nước tiến hành cắt, nay là nước tiến hành may; - Với hàng dệt kim (đan), trước kia xuất xứ là nước tiến hành nhuộm, in và hai công đoạn khác (qui tắc "2+2"), nay là nước tiến hành dệt bất chấp các công đoạn khác. Mục tiêu của sự sửa đổi là thích ứng với hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt với Trung quốc và Hàn quốc khi mà công đoạn cắt tiến hành chủ yếu ở Hongkong và may ở Trung quốc, và hàng dệt kim ở Hàn quốc được gia công theo dạng "2+2" tại Nhật bản. Tháng 6 năm 1997, EU đã đề nghị tham vấn song phương với Hoa Kỳ về sửa đổi này. EU nhập dệt kim lụa từ Trung quốc và dệt kim bông từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ai cập, gia công chúng thành khăn quàng và các mặt hàng khác sau đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ như là sản phẩm của EU. Theo qui định mới thì những sản phẩm này không được mang nhãn hiệu "Sản xuất tại EU" nữa, và sẽ rơi vào hạn ngạch của Hoa Kỳ cho các nước dệt chúng. Một số nước khác trong đó có Nhật bản, Thái lan, Thuỵ sỹ, Hongkong đã tham gia tham vấn. Tuy nhiên những tham vấn tiếp theo đã bị hoãn lại do Hoa Kỳ và EU có một thoả thuận tạm thời. Đến nay WTO vẫn chưa được thông báo về thoả thuận này, đặc biệt là nó có được áp dụng trên cơ sở MFN hay không. 1.5. Các biện pháp đơn phương: Một đặc điểm nổi bật trong các biện pháp phi thuế của Hoa Kỳ là các biện pháp đơn phương được quốc gia này tự đưa ra có tác dụng hạn chế thương mại rất lớn. Có thể kể ra một số biện pháp đáng chú ý nhất như sau: 1.5.1 Biện pháp đảm bảo an ninh quốc gia: với lý do bảo đảm an ninh quốc gia, Hoa Kỳ đã hạn chế nhập khẩu từ các nước bị coi là có thể đe doạ đến an ninh của Hoa Kỳ, chẳng hạn như Cu ba, Angola, Ruanda... 1.5.2. Các hành động thương mại đơn phương: Điều 301 của Luật Thương mại Hoa Kỳ (1974), Super 301, Special 301 cho phép Hoa Kỳ có thể áp dụng các biện pháp đơn phương hạn chế thương mại với các nước mà Hoa Kỳ cho là có phương hại tới lợi ích của mình. Luật Helm-Burton hạn chế không chỉ các công ty Hoa Kỳ mà thậm chí cả các công ty và thể nhân của các nước khác tiến hành đầu tư buôn bán với Cu ba. Hoa Kỳ cũng ban hành và thực thi biện pháp hạn chế thương mại với Iran. 2. Thực tiễn áp dụng các NTM của Thái Lan. 2.1.Các biện pháp quản lí định lượng: 2.1.1. Cấm: Thái Lan cấm nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu để bảo vệ an ninh, môi trường hay đạo đức xã hội phù hợp với các qui định của WTO. Tuy nhiên, Thái Lan cũng cấm nhập khẩu một số mặt hàng vì lí do bảo vệ sản xuất trong nước khó có thể biện minh được theo mọi tiêu chuẩn của WTO. Ví dụ như một số loại đá xây dựng, mô tô đã qua sử dụng, hay các trò chơi được điều khiển bằng cơ học hay điện tử. Một số sản phẩm khác bị cấm nhập khẩu có điều kiện, chẳng hạn như kerosene, mô tô, một số loại xe buýt.. 2.1.2. Hạn ngạch nhập khẩu. Thái Lan đặt các hạn chế số lượng nhập khẩu theo Điều 5 và các qui định khác của Luật xuất khẩu và nhập khâủ năm 1979. Các hạn chế số lượng không chỉ để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự và đạo đức xã hội, mà còn cả vì mục đích kinh tế như bảo vệ công nghiệp trong nước. Những mặt hàng cụ thể được liệt kê trong các nghị định hoàng gia hay thông tư của Bộ thương mại. Hiện nay Thái Lan chỉ áp dụng hạn ngạch nhập khẩu áp đối với số ít các mặt hàng như máy móc, giấy, hóa chất, máy nông nghiệp, bình chứa gas để nấu nướng, máy cưa đĩa còn lại chuyển sang quản lí chủ yếu bằng biện pháp cấp phép nhập khẩu. b. Cấp phép nhập khẩu. Thái Lan duy trì ba kiểu cấp phép: cấp phép tự động, cấp phép không tự động và "các biện pháp đặc biệt". Cấp phép không tự động áp dụng cho hầu hết các sản phẩm, đặc biệt là nông sản. "Biện pháp đặc biệt" chỉ áp dụng với cá ngừ (giữ gìn môi trường) và gỗ từ Miến điện (do duy trì quan hệ chính trị tốt). Ngoài lí do bảo vệ sức khoẻ và đạo đức xã hội, cấp phép nhập khẩu được duy trì chủ yếu để bảo vệ sản xuất trong nước. Thái Lan đã giảm số nhóm hàng nhập khẩu cần có giấy phép từ 42 (năm 1995-96) xuống còn 23 (năm 1997). Các mặt hàng phải có giấy phép mới được nhập khẩu bao gồm nguyên vật liệu, dược phẩm, xăng dầu, hàng công nghiệp, hàng dệt, nông sản và tất cả các loại lương thực thực phẩm phục vụ tiêu dùng của con người. Giấy phép nhập khẩu không tự động cũng được áp dụng đối với động cơ, bộ phận, phụ tùng đã qua sử dụng của xe máy có dung tích không quá 50cc, và bánh xe có bán kính không quá 10 inches. Gần đây Thái Lan đã chuyển biện pháp cấp phép đối với 23 nhóm nông sản sang hạn ngạch thuế quan và thuế hóa các NTM đối với các nông sản này. Hầu hết chúng là nông sản nguyên liệu thô (nông sản chưa chế biến) bao gồm sữa chưa cô đặc, khoai tây, hành, tỏi, cà phê, chè, hạt tiêu, ngô, gạo, đậu tương, lá thuốc lá. Thuế suất trong hạn ngạch ban đầu đối với các nông sản này thay đổi từ 20% đến 60%. Thuế suất ngoài hạn ngạch thay đổi từ 40% đến 242%. Bên cạnh yêu cầu về cấp phép nhập khẩu thuộc thẩm quyền của Bộ Thương mại, nhập khẩu các sản phẩm lương thực thực phẩm, thuốc men, mỹ phẩm, chất độc hại, chất gây nghiện, chất kích thích, các dụng cụ và trang thiết bị y tế còn phải được sự chấp thuận của Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm của Thái Lan. Nhìn chung, các quy định nhập khẩu lương thực, thực phẩm, thuốc men của Thái Lan là một rào cản đối với nhập khẩu do thời gian chậm trễ kéo dài trước khi được chấp thuận đưa vào thị trường và hệ thống giấy phép nhập khẩu độc quyền. 2.2.Các biện pháp tương đương thuế quan: 2.2.1.Xác định Trị giá tính thuế hải quan Giá trị hải quan ở Thái Lan nói chung dựa trên giá trị giao dịch của hàng hoá nhập khẩu. Nhưng có khoảng 10% trường hợp khi mà giá trị giao dịch khai báo bị coi là không xác đáng phải sử dụng hệ thống "giá kiểm tra". Theo hệ thống này, có sự so sánh giữa giá trị giao dịch được khai báo với giá trong bảng giá do Hải quan xây dựng. Hệ thống giá kiểm tra được sử dụng chủ yếu cho một số sản phẩm nhất định (và đôi khi cho nhập khẩu từ một số nước nhất định). Những tiêu chuẩn để sử dụng hệ thống này được dựa trên những chỉ dẫn từ Cục trưởng Hải quan. Khi giá trị khai báo thấp hơn giá kiểm tra thì giá kiểm tra sẽ được áp dụng. Trong giai đoạn 1996-1999, Cục Hải quan Thái Lan thường sử dụng giá hóa đơn cao nhất của sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ bất kỳ nước nào trong thời gian trước đó để xác định trị giá tính thuế. Các nhân viên hải quan Thái Lan sử dụng công thức giá CIF để tính giá trị chịu thuế, hoặc công thức giá FOB + 10% cước vận tải + 5% phí bảo hiểm. Như vậy có thể nhận thấy rằng thủ tục và phương pháp xác định trị giá tính thuế hải quan của Thái Lan khá tuỳ tiện, phụ thuộc vào cách áp dụng của các nhân viên hải quan. Tuy nhiên từ tháng 5/2000, Thái Lan đã sử dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế nhập khẩu theo trị giá giao dịch như quy định trong Hiệp định về xác định trị giá thuế quan của WTO. 2.2.2. Phụ thu: Thái Lan vẫn duy trì phụ thu và các thuế nhập khẩu đặc biệt đối với cá (fish meal), bột mỳ và meslin, ngô cho chăn nuôi, thép tấm và thép lá. Mục tiêu của phụ thu nhập khẩu là duy trì mức giá thích hợp cho các nhà sản xuất trong nước. Cơ sở pháp lý đối với phụ thu là Luật xuất khẩu và nhập khẩu năm 1979. Nhập khẩu không theo qui chế MFN còn phải chịu phụ thu bổ sung. Năm 1992 Thái Lan đã bỏ phụ thu nhập khẩu (từ 20% đến 50%) đối với xe có động cơ như là một phần của các biện pháp tự do hoá liên quan tới ngành công nghiệp này. Ban Đầu tư (BOI) có quyền đặt phụ thu nhập khẩu theo Điều 49 của Luật Khuyến khích Đầu tư (1977) để bảo vệ các ngành công nghiệp đang nhận được khuyến khích đầu tư để chống lại việc phá giá hay cấu trúc thuế không thích hợp (tức là thuế đối với nguyên liệu cao hơn với thành phẩm). Phụ thu không được vượt quá 50% giá nhập khẩu của hàng liên quan và giai đoạn áp dụng ban đầu chỉ giới hạn là một năm, sau đó có thể được gia hạn. BOI áp dụng khá nhiều phụ thu trong những năm 1970 và 1980, nhưng sau đó giảm nhanh chóng. Phụ thu cuối cùng được áp dụng cho thiếc năm 1991 và bị bãi bỏ vào năm 1994. 2.3. Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp: Hầu hết 22 doanh nghiệp thương mại nhà nước (DNTMNN) của Thái Lan được thành lập từ những thập kỷ 50 và 60. Một số doanh nghiệp này là những nhà nhập khẩu độc quyền, ví dụ Public Warehouse Organization đối với khoai tây và chè. Không có đầy đủ số liệu thống kê về mức xuất khẩu và nhập khẩu của các doanh nghiệp này. Tuy nhiên ảnh hưởng của các doanh nghiệp này lên kinh tế Thái lan đang ngày càng giảm dần. Một số DNTMNN có những đặc quyền nhất định liên quan tới sản xuất trong nước, ví dụ như Liquor Distillery Organazation hay Thailand Tobacco Monopoly. Hai doanh nghiệp có ảnh hưởng nhất là Public Warehouse Organization của Bộ Thương mại và Marketing Organization for Farmers của Bộ Nông nghiệp. Cả hai doanh nghiệp này đều liên quan tới mua bán nông sản. Một số doanh nghiệp có đặc quyền được ưu tiên 10% về giá khi bán hàng cho chính phủ. Để thực hiện việc quản lý thuế hoá và hạn ngạch thuế quan cho 23 nhóm nông sản, phân bổ hạn ngạch nhập khẩu chỉ cấp cho các DNTMNN. Ví dụ hạn ngạch nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu và thành phẩm chỉ cấp cho Tobacco Monopoly, hạn ngạch nhập khẩu khoai tây chỉ cấp cho Public Warehouse Organization, và hành (onion seeds) cho Onion Growers' Cooperative. 2.4. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời: 2.4.1. Chống bán phá giá và thuế đối kháng: Một tiểu ban thuộc Bộ thương mại giám sát việc thực hiện các qui định về thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng (1991). Các biện pháp được thực thi trên cơ sở đơn khiếu nại của các nhà sản xuất chính ở trong nước có liên quan. Thuế chống phá giá chỉ được đặt ra trong thời gian 5 năm không được phép kéo dài hơn và không có thủ tục rà soát tự động.Thuế chống phá giá mới chỉ được đặt ra với nhập khẩu hydrogen peroxide từ ấn Độ năm 1994, mức thuế tạm thời và cuối cùng là 30% kéo dài từ 6/1994 đến 11/1994. 2.4.2.Trợ cấp Ngân hàng Trung ương Thái Lan được giao nhiệm vụ hỗ trợ tài chính đối với các dự án ưu tiên thông qua chương trình tái tài trợ tín dụng công nghiệp. Mỗi công ty, với tổng tài sản cố định không vượt quá 200 triệu baht đều được phân bổ định mức tín dụng để phát hành lệnh phiếu. Tổng giá trị tái tài trợ là 50% mệnh giá lệnh phiếu. Uỷ ban quốc gia về Xúc tiến đầu tư và xuất khẩu chịu trách nhiệm quản lý chương trình này. Chương trình này hướng mục tiêu vào hỗ trợ tài chính cho các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông thôn. 2.5. Các biện pháp liên quan đến đầu tư: 2.5.1.Yêu cầu về tỷ lệ nội địa: Thái lan đã có yêu cầu về hàm lượng nội địa đối với sản xuất ô tô con (54% hàm lượng nội địa), xe tải nhẹ (65-80%), xe tải và xe buýt (40-50%), xe máy (70%) và sản phẩm sữa (phải mua tối thiểu 50 tấn sữa nguyên liệu địa phương một ngày trong năm hoạt động đầu tiên). Sữa đã chế biến và sản phẩm sữa, động cơ của ô tô xe máy, động cơ diesel cho nông nghiệp và các động cơ đa năng khác cũng phải tuân theo đồi hỏi hàm lượng nội địa. Xe ô tô con và xe tải nhẹ thoả mãn yêu cầu hàm lượng nội địa sẽ được miễn thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, Thái Lan đã cam kết loại bỏ toàn bộ các yêu cầu về nội địa hóa vào cuối năm 1999 theo quy định của Hiệp định TRIMs của WTO. Thái Lan đã tiến hành sửa đổi các văn bản pháp luật trong nước để loại bỏ dần yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá trong năm 1999, phù hợp với thời hạn quá độ cho phép trong Hiệp định TRIMs. 2.5.2.Khuyến khích đầu tư. Uỷ ban đầu tư (Board of Investment-BOI) của Thái Lan đưa ra những ưu đãi và khuyến khích đầu tư đối với các công ty nước ngoài đạt những mục tiêu cụ thể về tỷ lệ xuất khẩu hoặc chấp nhận các yêu cầu về cân bằng thương mại. Hình thức khuyến khích có thể là miễn, giảm thuế, phí, thuế nhập khẩu, quỹ khuyến khích xuất khẩu và các hình thức ưu đãi thuế khác. Nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài, khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế khu vực vừa qua, BOI đã tạm thời nới lỏng nhiều điều kiện về miễn thuế và phí. Chương trình khuyến khích xuất khẩu đưa ra các hình thức ưu đãi chủ yếu sau: miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, khấu trừ 5% phần thu nhập tăng lên của năm trước do xuất khẩu khỏi phần thu nhập chịu thuế, v.v... Tuy nhiên, Luật khuyến khích đầu tư không quy định tiêu chuẩn cụ thể để được hưởng những ưu đãi, khuyến khích này. 2.5.3.Yêu cầu xuất khẩu: Yêu cầu về xuất khẩu sản phẩm vẫn còn là một điều kiện đối với các nhà đầu tư nước ngoài để giữ trên 49% vốn đăng ký trong một doanh nghiệp cũng như được hưởng các khuyến khích trên cơ sở đầu tư tại một số vùng nhất định. Từ 1993 BOI không còn đặt ra yêu cầu xuất khẩu đối với các ngành cụ thể như là một điều kiện để nhận được các ưu đãi, trừ ống hình cho ti vi mầu 12 đến 27 inch, nhưng từ 1995 yêu cầu xuất khẩu cũng bị huỷ bỏ với các dự án mới cho sản phẩm này. Theo Hiệp định TRIMs, BOI sẽ dần dần loại bỏ yêu cầu xuất khẩu. 2.6. Qui tắc xuất xứ: Nhập khẩu vào Thái Lan nói chung không cần phải có chứng nhận về xuất xứ, trừ nhập khẩu hưởng ưu đãi trong ASEAN và các mặt hàng trong các thoả thuận hàng hoá quốc tế. Các thành viên ASEAN đã thoả thuận là "biến đổi cơ bản" có thể được sử dụng như những tiêu chuẩn bổ sung trong việc xác định xuất xứ ASEAN đối với các sản phẩm dệt may. Các qui tắc trước đó qui định sản phẩm được coi là xuất xứ ASEAN nếu ít nhất 40% giá trị sản phẩm được tạo ra từ các thành viên ASEAN. Để đảm bảo các qui tắc xuất sứ của Thái lan phù hợp với WTO, Thái Lan đã thành lập Nhóm làm việc về qui tắc xuất xứ năm 1995 thuộc Bộ Tài chính. 2.7. Các thủ tục hải quan: Thời gian thông quan nói chung không dài hơn một ngày và có thể ngắn đi sau khi thực hiện hệ thống ASYCUDA (UNCTAD) nhằm máy tính hoá các thủ tục hải quan. Cục Hải quan cũng nỗ lực để xây dựng những điểm thông quan mới. Dịch vụ hải quan "một cửa" đã tồn tại ở hầu hết các điểm thông quan. Từ tháng 12 năm 1994 Chính phủ đã bắt đầu áp dụng một hệ thống cho các hàng hoá được nhập khẩu tạm thời trên cơ sở miễn thuế (A.T.A Carnet System) Chương II: Đánh giá các biện pháp phi thuế của Việt Nam trong thời gian qua (1996-2000) I.Thực trạng thương mại và khả năng cạnh tranh của Việt Nam thời kì 1996-2000. 1.Thực trạng thương mại: Trái với tình hình suy thoái của nền kinh tế nói chung trong giai đoạn 1996 - 2000 ngoại thương Việt Nam đã đạt được sự phát triển rất đáng khích lệ cả về quy mô, tốc độ tăng trưởng và diện mặt hàng, đóng góp tích cực vào GDP, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước, phục vụ tốt cho các ngành sản xuất trong nước, và góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. 1.1.Xuất khẩu Xuất khẩu trong thời kỳ 1996 - 2000 đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao, bình quân 20,8% một năm (trong đó năm 2000 tăng 24%). Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả giai đoạn đã đạt 51,34 tỷ USD (trong đó năm 2000 đạt 14,308 tỷ USD), đưa mức xuất khẩu bình quân đầu người tăng lên 151,2 USD/người vào năm 1999 và khoảng180 USD/người vào năm 2000. Sự phát triển nhanh chóng của xuất khẩu đạt được là do sự mở rộng không ngừng diện mặt hàng xuất khẩu, sự tăng trưởng cũng như sự phát triển v._. được các NTBs với một số ít nông sản). Do đó có thể cải cách biện pháp hạn ngạch theo hướng sau: Công bố công khai mức hạn ngạch và mức tăng trưởng là một tín hiệu rõ ràng để các doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong việc đưa ra các quyết định đầu tư cũng như tạo ra áp lực cạnh tranh tăng dần với họ. Đồng thời, trong khi vẫn duy trì một số hạn ngạch cần mở rộng việc đấu thầu hạn ngạch, cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tham gia đấu thầu khi thoả mãn những tiêu chuẩn chung mang tính khách quan. Việc đấu thầu hạn ngạch sẽ làm tăng tính cạnh tranh, tăng thu ngân sách cũng như làm giảm giảm tham nhũng hoặc lợi dụng quota của một số doanh nghiệp . 2.1.2.Các biện pháp quản lý giá Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là nhân tố được coi là quan trọng nhất quyết định đến ứng xử của các doanh nghiệp. Các biện pháp quản lý hành chính đối với giá đã làm lệch lạc tín hiệu giá và do đó làm bóp méo cạnh tranh. Vì vậy, ngoài quản lý giá đối với các mặt hàng độc quyền tự nhiên như điện, nước v.v... cần loại bỏ tất cả các biện pháp quản lý giá mang tính hành chính khác. Các biện pháp phụ thu đã được áp dụng đối với nhiều mặt hàng xuất, nhập khẩu ở những giai đoạn khác nhau chủ yếu để ổn định giá, nhưng đôi khi cũng để bảo hộ sản xuất trong nước hay tăng thu ngân sách. Các phụ thu này cũng hay thay đổi và do đó không thể dự đoán trước được và gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp. Các biện pháp phụ thu nhìn chung cũng nằm trong diện cần loại bỏ theo các nghĩa vụ Việt nam đã cam kết đối với AFTA và sẽ phải thực hiện trong khuôn khổ WTO. Chính vì vậy cần rà soát lại hệ thống phụ thu hiện đang được áp dụng theo hướng: Xây dựng và công bố công khai lịch trình cắt giảm phụ thu với mục đích ngân sách hay bảo hộ. Trong trường hợp thích hợp, có thể thay thế một số phụ thu bằng thuế trong nước (ví dụ đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với xăng dầu). Trong những trường hợp mất cân bằng cán cân thương mại: có thể áp dụng phụ thu với tất cả mặt hàng trong một giai đoạn nhất định (đây là biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán phù hợp với các qui định của các định chế quốc tế và đã từng được nhiều nước như Hungary, Bulgaria áp dụng thành công). 2.1.3. Rà soát lại các doanh nghiệp thương mại nhà nước Hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước mang tính độc quyền có ảnh hưởng không nhỏ đến cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Hơn nữa, hoạt động của một số doanh nghiệp thương mại nhà nước cũng có tác động hạn chế nhập khẩu. Trong tiến trình đổi mới quản lý doanh nghiệp và cải tổ chính sách thương mại thì rà soát và đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước là một bộ phận không thể thiếu, trong đó cần tập trung đổi mới theo hướng: Bỏ bớt các đặc quyền về nhập khẩu; Mở rộng quyền kinh doanh dịch vụ phân phối. 2.1.4.Chính sách nội địa hoá Mặc dù Việt nam thường nhắc đến định hướng xuất khẩu như là một phương hướng chính của nền kinh tế, tuy nhiên thực tế chính sách trong thời gian qua không thực sự diễn biến như vậy. Xu hướng nhấn mạnh đến chiến lược “nội địa hoá” đã xuất hiện ở nhiều ngành như ô tô, xe máy, điện tử, động cơ, v.v... Ngoài việc xu hướng trên đi ngược lại định hướng “hướng về xuất khẩu”, còn có một nguy cơ tiềm ẩn nữa là các chính sách trên trong nhiều trường hợp đã vi phạm một số định chế quốc tế, mà điển hình là Hiệp định các biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMs) của WTO. Việc loại bỏ các biện pháp TRIMs là một nghĩa vụ không thể tránh khỏi trong đàm phán thương mại quốc tế với WTO cũng như một số cuộc đàm phán song phương. Chính vì vậy, Việt Nam cần: Xác định rõ và công bố các biện pháp đầu tư không phù hợp với Hiệp định TRIMs; Xây dựng chương trình loại bỏ các biện pháp trên và công bố công khai chương trình này. Không phải mọi biện pháp TRIMs không phù hợp với WTO đều có ảnh hưởng xấu đối với nền kinh tế (ví dụ một số biện pháp TRIMs được áp dụng để khuyến khích xuất khẩu). Một số nước như Malaysia đã áp dụng các biện pháp này một cách khéo léo và do vậy đã định hướng được luồng đầu tư nước nước ngoài vào những ngành mà họ thực sự cần thiết. Chính vì vậy, lịch trình loại bỏ TRIMs cần hết sức thận trọng, tránh ảnh hưởng đột ngột đến các doanh nghiệp đang hoạt động. Song song với việc loại bỏ TRIMs cũng có thể nghiên cứu áp dụng một số biện pháp khác có tác động tương tự nhưng không trái với các qui định hiện hành của các tổ chức quốc tế. 2.1.5. Chính sách về ngoại hối Một trong những quan ngại thường trực đối với các nhà hoạch định chính sách thương mại của Việt nam là cán cân thanh toán và nhu cầu về ngoại tệ của đất nước. Quả thực trong thời gian qua hầu như chưa bao giờ cán cân thương mại của Việt nam cân bằng hoặc nghiêng về xuất khẩu. Chính vì vậy, một số biện pháp hạn chế nhập khẩu đã được áp dụng nhằm mục tiêu trên chứ không phải là nhằm mục đích bảo hộ (ví dụ điển hình là việc buộc các doanh nghiệp phải tự cân đối ngoại tệ trong một khoảng thời gian trước đây hoặc hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng không vượt quá 20% kim ngạch xuất khẩu). Đặc điểm của các biện pháp về ngoại hối là chúng thường thiếu rõ ràng, khó dự đoán trước và trong nhiều trường hợp rất khó quản lý. Chính vì vậy, cần đưa ra được một số cơ chế khác cũng nhằm mục tiêu tương tự nhưng mang tính minh bạch cao hơn, ít gây ảnh hưởng đột ngột đối với các doanh nghiệp hơn. Các biện pháp tự vệ để bảo vệ cán cân thanh toán được qui định trong Hiệp định GATT (Điều XII) của WTO là ví dụ có thể tham khảo. 2.1.6.Cải tiến thủ tục hành chính Hệ thống quản lý chuyên ngành hiện nay đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết cần sớm khắc phục. Những nhược điểm đó là: có quá nhiều cơ quan quản lý, thủ tục trong nhiều trường hợp còn quá phức tạp và đôi khi mang tính tuỳ tiện, hiệu quả kiểm soát cán cân thương mại nói chung thấp v.v...Chính vì vậy trong thời gian tới cần khắc phục bằng cách: Giảm bớt các mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành; Nâng cao hơn nữa tính rõ ràng trong cấp phép; Thông báo công khai theo các qui định của Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu của WTO (tiến tới tuân thủ hoàn toàn Hiệp định này). 2.2.Đề xuất một số NTM mới: 2.2.1.Hạn ngạch thuế quan: Nội dung: Hạn ngạch thuế quan thực ra là một biến tướng của biện pháp hạn chế định lượng theo đó cho phép duy trì mức thuế suất thấp đối với hàng nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn ngạch và mức thuế suất cao hơn đối với hàng nhập khẩu nằm ngoài hạn ngạch. Có thể nói hạn ngạch thuế quan là một đặc trưng của thương mại nông sản. Hạn ngạch thuế quan liên quan trực tiếp đến tiếp cận hiện tại và tiếp cận tối thiểu. Đối với các sản phẩm đã được thuế hoá các nước thành viên WTO cam kết đưa ra mức tiếp cận thị trường hiện tại. Nghĩa là mức tiếp cận thị trường ít nhất phải tương đương với lượng nhập khẩu trung bình của giai đoạn 86-89 tại mức thuế trước khi thuế hoá. Đối với các nước gia nhập sau thì giai đoạn cơ sở có thể là 3 năm gần nhất. đối với các sản phẩm đã được thuế hoá nhưng trước đó vì một lí do nào đó chưa có nhập khẩu thì áp dụng tiếp cận tối thiểu. Nghĩa là mức tiếp cận cho hàng nhập khẩu ít nhất là 3% lượng tiêu dùng nội địa và mức tiếp cận này được mở rộng lên 5% trong một thời gian nhất định (5 năm). ý nghĩa: Hạn ngạch thuế quan có thể coi là một biện pháp phi thuế khá hiện đại bởi những lí do sau: - phù hợp với những qui định của các tổ chức thương mại quốc tế - bảo hộ tích cực nền kinh tế bởi thông qua hạn ngạch thuế quan có thể hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu song vẫn đảm bảo cung cầu của thị trường trong nước. Đây có thể coi là một biện pháp hạn chế nhập khẩu khá đối với Việt Nam, cần có thêm nhiều nghiên cứu về những kinh nghiệm áp dụng của các nước khác để trong thời gian tới chúng ta có thể đưa vào sử dụng một cách hiệu quả. 2.2.2.Thuế thời vụ: Nội dung: Thuế thời vụ là hình thức qui định mức thuế khác nhau cho cùng một loại sản phẩm tuỳ thuộc vào thời điểm chịu thuế của sản phẩm. Ví dụ tại thời điểm vụ mùa của một loại sản phẩm, khi sản phẩm này trở lên bão hoà ở thị trường nội địa, để khuyến khích tiêu dùng mặt hàng này trong nước, chúng ta có thể đánh một mức thuế cao đối với hàng nhập khẩu do đó ngăn chặn sản phẩm đồng loại ở nước ngoài tràn vào. Ngoài thời điểm này nhu cầu tiêu thụ mặt hàng ở trong nước vẫn lớn trong khi cung trong nước không đáp ứng đủ cầu chúng ta có thể qui định mức thuế suất thấp thậm chí tới 0% để kích cung. ý nghĩa: Thuế thời vụ cũng như các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời khác được sự thừa nhận rộng rãi của các tổ chức thương mại quốc tế. Thuế thời vụ có ưu điểm rất lớn là tính chất linh hoạt. Có thể áp dụng thuế thời vụ trong bất cứ thời điểm nào khi có sự biến động mất cân đối giữa cung và cầuvà khắc phục được nhược điểm bóp méo thị trường của các biện pháp khác. 2.2.3 Tự vệ và tự vệ đặc biệt: Nội dung: Theo điều II Hiệp định tự vệ của WTO các thành viên có thể áp dụng biện pháp tự vệ đối với một sản phẩm không phân biệt xuất xứ khi thành viên này đã xác định theo những qui định chặt chẽ rằng số lượng nhập khẩu đang tăng lên một cách tuyệt đối hoặc tương đối của sản phẩm này đang gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm nhập khẩu đó. Nước có qui định về biện pháp tự vệ được quyền áp dụng các biện pháp khẩn thiết trong trường hợp hàng hoá nhập khẩu đe doạ đến nền kinh tế của quốc gia này. Tương tự như vậy điều khoản tự vệ đặc biệt được qui định trong điều V Hiệp định nông nghiệp của WTO như sau: nếu sản phẩm nông nghiệp của một quốc gia thành viên đã được thuế hoá và bảo lưu điều khoản tự vệ đặc biệt trong biểu cam kết quốc gia thì được quốc gia này được phép áp dụng các biện pháp tương tự như biện pháp tự vệ khi lượng nhập khẩu vượt quá số lượng giới hạn nhập khẩu hoặc khi giá nhập khẩu xuống thấp hơn mức giá giới hạn. Biện pháp này được phép áp dụng mà không cần bất cứ một sự chứng minh nào về việc các lĩnh vực có liên quan trong nước bị tổn thương hay bị đe doạ tổn thương. ý nghĩa: Biện pháp này có tầm quan trọng rất lớn bởi khả năng phát huy tác động nhanh chóng và mạnh mẽ của nó. Tuy nhiên một nhược điểm không thể phủ nhận của biện pháp này là nó không thể được duy trì trong một thời gian dài và dễ gây ra các hành động trả đũa. Trong thời gian qua Việt Nam đã áp dụng các biện pháp này để bảo vệ một số ngành sản xuất trong nước đặc biệt là các mặt hàng nông sản. Tuy vậy cho tới nay Việt Nam vẫn chưa có các văn bản luật qui định cụ thể để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp này. Đây có thể coi là một khiếm khuyết lớn của các nhà hoạch định chính sách bởi biện pháp này không những phù hợp với thông lệ quốc tế mà còn có tác động bảo hộ rất nhanh chóng và kịp thời. 2.2.4. Trợ cấp: Nội dung: Trợ cấp là việc một lợi ích được chuyển giao nhờ có sự hỗ trợ của chính phủ về giá hay thu nhập, hay có sự đóng góp tài chính của chính phủ hay các tổ chức nhà nước, chẳng hạn như chuyển giao trực tiếp các khoản tiền hay bảo lãnh tín dụng; hoặc bỏ qua các khoản tiền lẽ ra phải thu cho ngân sách nhà nước, chẳng hạn như các ưu đãi về thuế (trừ thuế gián thu); hoặc chính phủ cung cấp các hàng hoá và dịch vụ không thuộc nhóm cơ sở hạ tầng, hay thông qua việc mua hàng hoá. ý nghĩa: Trợ cấp một biện pháp rất có lợi cho Việt Nam vào thời điểm này với những lí do chính sau đây: Trợ cấp là phổ biến và tất yếu. Trợ cấp là một công cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở tất cả các nước. Trong bối cảnh thị trường không hoàn hảo, chính phủ các nước đều muốn ngăn cản các công ty nước khác tham gia cạnh tranh để giành thị trường béo bở cho công ty nước mình. Do đó, chính phủ phải chủ động tiến hành trợ cấp cho công ty, sản phẩm trong nước. Xuất phát từ lý thuyết chiến lược này, mọi quốc gia đều nhận thấy trợ cấp là cần thiết và đều tiến hành trợ cấp dưới hình thức này hay hình thức khác. Trợ cấp được WTO cho phép. Điều XVI:1 của GATT 1994 và Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO cho phép các nước duy trì các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước thành viên khác. Điều 27 của Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển hợp pháp và quan trọng của các thành viên đang phát triển và quy định dành đãi ngộ đặc biệt và khác biệt liên quan đến trợ cấp cho các thành viên này. Trợ cấp góp phần phát triển kinh tế - xã hội tổng thể. a.Trợ cấp góp phần phát triển công nghiệp nội địa: Mọi quốc gia đều mong muốn xây dựng và phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn hoặc ngành có tầm quan trọng chiến lược đối với lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng, v.v... Để đạt mục tiêu này, chính phủ các nước có thể trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho ngành đó. Nhờ vậy, lợi thế cạnh tranh của những ngành được trợ cấp sẽ tăng lên, do đó mở rộng tiềm năng xuất khẩu và tham gia mạnh mẽ hơn vào thị trường thế giới. Trợ cấp cho các ngành sản xuất trong nước có tác dụng hạn chế nhập khẩu sản phẩm cạnh tranh vào trong nước, đồng thời có thể làm giảm tác dụng của cam kết ràng buộc hoặc cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ WTO. Trợ cấp xuất khẩu có thể làm vô hiệu hóa thuế nhập khẩu mà nước khác đánh lên sản phẩm xuất khẩu của nước trợ cấp, làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu của nước trợ cấp so với hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường thứ ba. Đối với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn nhỏ bé về quy mô, yếu kém về năng lực cạnh tranh thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng quy mô, góp phần khởi động và đẩy nhanh sự phát triển của ngành. Đối với những công ty mới gia nhập thị trường, thiếu vốn để trang trải chi phí rất cao trong thời gian đầu, khó cạnh tranh nổi với những công ty lớn đã trụ vững trên thị trường thì hỗ trợ của chính phủ có thể bù đắp cho những khoản thua lỗ phát sinh trong những năm đầu, đưa công ty vào quỹ đạo phát triển ổn định. b.Trợ cấp góp phần phát triển vùng . Chính sách hỗ trợ vùng khó khăn giúp thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, chênh lệch thu nhập cũng như trình độ và quy mô phát triển giữa các vùng trong cùng một nước. Nhờ trợ cấp của chính phủ, các nhà đầu tư được bù đắp phần nào chi phí đầu tư cao hơn mức bình thường khi quyết định lập cơ sở sản xuất kinh doanh tại một địa bàn khó khăn hoặc đang cần được phát triển. c.Trợ cấp góp phần điều chỉnh cơ cấu. Trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp, bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá sản. Sự hỗ trợ của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh chóng, thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều chỉnh khả năng thích nghi và cạnh tranh trong thời kỳ quá độ do những khó khăn mà môi trường thương mại quốc tế tạo ra. Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành sản xuất kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh vực hoạt động không hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động được diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần thúc đẩy phân bổ nguồn lực thích hợp, hiệu quả và khuyến khích nhập khẩu sản phẩm cạnh tranh từ bên ngoài thay vì tự cố gắng sản xuất và cung cấp những sản phẩm kém cạnh tranh với chi phí đầu tư tốn kém. d.Trợ cấp đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Trợ cấp giúp nhà sản xuất trong nước cung cấp nhiều hàng hóa hơn trong điều kiện chi phí sản xuất không thay đổi. Do đó người tiêu dùng sẽ được lợi do mua được nhiều hàng hóa với giá rẻ hơn. Mặc dù mang tính chất bảo hộ sản xuất trong nước nhưng trong trường hợp này trợ cấp lại đem lại lợi ích cho người tiêu dùng vì giá sản phẩm liên quan được giảm xuống. e.Trợ cấp kích thích sự lan truyền của hiệu ứng tích cực và khắc phục hiệu ứng tiêu cực. Theo nguyên lý sự lan truyền của hiệu ứng tích cực (external benefit), trợ cấp còn có khả năng tạo ra hiệu ứng tích cực theo dây chuyền. Ví dụ, việc chính phủ hỗ trợ ngành viễn thông sẽ góp phần phát triển cơ sở hạ tầng thông tin của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các ngành khác hạ giá thành sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh. Như vậy, lợi ích của trợ cấp có thể lan rộng sang các ngành khác ngoài chính bản thân ngành được trợ cấp trực tiếp. Bên cạnh tác dụng kích thích sự lan truyền của hiệu ứng tích cực, trợ cấp còn có thể khắc phục các thất bại của thị trường một cách có hiệu quả. Ví dụ, một công ty bỏ công sức đào tạo nhân công, đầu tư vào nghiên cứu công nghệ mới nhưng rồi công nghệ mới bị sao chép hoặc nhân công đã được đào tạo lại bị lôi kéo và sử dụng bởi đối thủ cạnh tranh không phải tốn công sức và chi phí ban đầu để đầu tư cho đào tạo hoặc nghiên cứu. Chi phí đối thủ phải bỏ ra rất nhỏ (trả lương cao hơn một chút cho người lao động đã được đào tạo so với mức lương cũ của họ, ...) trong khi lợi ích thu về lại rất lớn. Còn công ty ban đầu khó duy trì được khả năng cạnh tranh như trước trên thương trường vì chi phí sản phẩm bao hàm cả chi phí đào tạo kiến thức cho công nhân, v.v... Do tác động ngoại ứng này, nếu không có sự hỗ trợ từ phía chính phủ, không công ty nào muốn đầu tư vào đào tạo nghề nghiệp chuyên môn cho nhân viên hoặc đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển, cải tiến công nghệ trong khi những hoạt động này lại rất cần thiết cho sự phát triển ngành và xã hội trên tổng thể. 4.Trợ cấp có thể được sử dụng như một công cụ để mặc cả. Nếu một nước không duy trì trợ cấp thì vị thế mặc cả của nước đó trong đàm phán thương mại có thể kém hơn một nước duy trì trợ cấp. Chẳng hạn, nước duy trì trợ cấp có thể chấp nhận loại bỏ một số biện pháp trợ cấp hoặc cắt giảm mức trợ cấp nhất định để đánh đổi lấy nhân nhượng giảm thuế của nước khác. 2.2.5. Các biện pháp chống bán phá giá. Nội dung: Việc bán phá giá một sản phẩm là việc sản phẩm này được đưa vào hoạt động thương mại của một nước khác với mức giá trị thấp hơn thông thường. Bán phá giá xảy ra nếu giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước đến một nước khác thấp hơn giá so sánh của các sản phẩm tương tự dùng để tiêu thụ tại nước xuất khẩu trong những điều kiện thương mại thông thường. Biện pháp chống bán phá giá là biện pháp đặt ra mức thuế suất cao đối với hàng bán phá giá để ngăn chăn không cho các mặt hàng này thâm nhập thị trường trong nước. ý nghĩa: 1.Đối phó với hành vi thương mại không lành mạnh của nước khác. Khi một nước trợ cấp cho ngành công nghiệp nội địa hoặc ngành sản xuất xuất khẩu, lợi thế cạnh tranh tự nhiên của các đối tượng tham gia thị trường sẽ bị bóp méo. Hàng xuất khẩu của các nước không trợ cấp khó xâm nhập vào thị trường nước trợ cấp cho dù có lợi thế cạnh tranh cao hơn trong thị trường cạnh tranh tự do. Hàng nhập khẩu được trợ cấp tràn vào gây thiệt hại cho sản xuất nội địa của các nước nhập khẩu. Để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó, các nước bị ảnh hưởng có thể sử dụng thuế đối kháng đánh vào hàng nhập khẩu được trợ cấp nhằm triệt tiêu tác động tiêu cực của trợ cấp hoặc nhằm khắc phục, bù đắp những tổn thất bị mất do hành động trợ cấp của nước khác gây ra. Trong trường hợp ngoại lệ đặc biệt, điều VI.6 GATT 1994 còn cho phép nước nhập khẩu được phép đánh thuế đối kháng lên hàng nhập khẩu được trợ cấp của một nước xuất khẩu khi trợ cấp của nước xuất khẩu này gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho ngành sản xuất của nước khác cùng cạnh tranh xuất khẩu sang thị trường nước nhập khẩu. 2.Các biện pháp chống phá giá có thể đem lại nguồn thu cho ngân sách Thay vì áp dụng các biện pháp có thể gây tốn kém nguồn lực xã hội để hạn chế nhập khẩu hàng hóa được trợ cấp như trị giá tính thuế tối thiểu, hạn ngạch..., nước bị ảnh hưởng có thể sử dụng biện pháp thuế đối kháng. Thuế đối kháng là một khoản thuế có giá trị tương đương với giá trị trợ cấp,trong trường hợp nhất định do tính chất không rõ ràng của nó nước nhập khẩu có thể đặt ra mức thuế cao hơn mức trợ cấp của nước xuất khẩu từ đó làm tăng thu ngân sách. 3.Tác dụng mang tính chất cản trở thương mại của thuế đối kháng. Nhiều khi tác động về mặt tài chính của bản thân thuế đối kháng đối với nhà xuất khẩu của nước tiến hành trợ cấp là không đáng kể, nhưng sự không chắc chắn, bất ổn định, chi phí về pháp luật và các chậm trễ liên quan đến quá trình thủ tục điều tra về trợ cấp lại có tác động tiêu cực rất lớn gây cản trở đáng kể đến hoạt động xuất nhập khẩu và có thể được sử dụng một cách tinh vi làm một rào cản thương mại được ngụy trang khéo léo. Trong thời gian qua Việt Nam chưa áp dụng biện pháp này dù số lượng các mặt hàng nhập khẩu bán phá giá trên thị trường của ta không nhỏ đặc biệt là hàng hoá từ Trung Quốc Biện pháp này rất cần thiết đối với Việt Nam trong quá trình mở cửa thị trường và trong tương lai gần một văn bản chính thức ra đời qui định chi tiết về vấn đề này là điều đã được tiên liệu trước. Tuy vậy do tính chất nhạy cảm của biện pháp (những qui định chặt chẽ của WTO và những tác động tiêu cực tới quan các quan hệ kinh tế quốc tế) Việt Nam cần có sự nghiên cứu kĩ lưỡng trước khi áp dụng vào thực tế. 2.2.6.Các biện pháp kĩ thuật, kiểm dịch động thực vật và các biện pháp liên quan đến môi trường khác. Nội dung: - Quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn: Theo Phụ lục 1 của Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, các yêu cầu này có thể liên quan tới kích thước, hình dáng, thiết kế, độ dài và các chức năng của sản phẩm. Các yêu cầu này cũng có thể quy định về nhãn mác, đóng gói, ký hiệu sản phẩm và mở rộng tới các quy trình và phương pháp sản xuất liên quan tới sản phẩm. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật là ở chỗ sự tuân thủ các tiêu chuẩn là mang tính tự nguyện trong khi sự tuân thủ với các quy định kỹ thuật là bắt buộc. Trên thực tế, nếu một sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng các yêu cầu của quy định kỹ thuật thì nó sẽ không được phép bán ra thị trường. Còn đối với tiêu chuẩn, nếu hàng nhập khẩu không tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn đặt ra thì vẫn được phép bán ra thị trường, mặc dù có thể bị người tiêu dùng tẩy chay. Mục đích của các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn là bảo vệ an toàn, sức khoẻ của con người, bảo vệ sức khoẻ, đời sống động thực vật, bảo vệ môi trường, ngăn chặn các hành vi lừa dối. - Các thủ tục đánh giá sự phù hợp: Các thủ tục đánh giá sự phù hợp bao gồm xét nghiệm, thẩm tra xác thực, kiểm định, chứng nhận được sử dụng để đảm bảo rằng các sản phẩm đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật do các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn đặt ra. - Biện pháp kiểm dịch động vật và thực vật: bao gồm tất cả các luật, nghị định, qui định, yêu cầu và thủ tục liên quan như các tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng; các phương pháp sản xuất và chế biến; các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp thuận; những xử lý cách ly bao gồm các yêu cầu liên quan gắn với vận chuyển cây trồng và vật nuôi, hay các chất nuôi dưỡng chúng trong quá trình vận chuyển; những qui định về các phương pháp thống kê, thủ tục chọn mẫu và các phương pháp đánh giá rủi ro liên quan; các yêu cầu về đóng gói và nhãn mác liên quan trực tiếp tới an toàn thực phẩm. ý nghĩa: Các biện pháp qui định chất lượng, kiểm tra sự phù hợp, kiểm dịch động thực vật giúp hạn chế những mặt hàng kém chất lượng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Ngăn chặn sự thâm nhập thái quá của hàng hoá nước ngoài, cân bằng cung cầu trong nước. Các biện pháp này cũng có tác dụng nâng cao trình độ kĩ thuật công nghệ của các ngành đặc biệt là các ngành công nghiệp hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay nhu cầu tiêu thụ nông sản của các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam không còn chịu chi phối nhiều bởi yếu tố giá cả như trước kia mà bởi nhiều yếu tố khác như môi trường, sức khoẻ con người. Tương tự như vậy các mặt hàng có chất lượng kĩ thuật cao, đặc biệt là các mặt hàng máy móc thiết bị hiện đại phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng được quan tâm nhiều hơn về vấn đề chất lượng. Thời gian qua Việt nam đã có qui định về vấn đề kiểm dịch động thực vật các biện pháp kĩ thuật cũng đã được ban hành tuy nhiên công tác quản lí còn nhiều hạn chế. Trong khi đó Hiệp định về các hàng rào kĩ thuật đối với thương mại (hiệp định TBT), Hiệp định về vệ sinh kiểm dịch động thực vật (hiệp định SPS) của WTO đã cho phép các nước thành viên được sử dụng các biện pháp kĩ thuật các biện pháp vệ sinh kiểm dịch được coi là thích hợp hoặc cần thiết để bảo vệ sức khoẻ con người, đời sống con người, động thực vật, bảo vệ môi trường và quyền lợi của người tiêu dùng, với điều kiện là các biện pháp đó không tạo ra sự phân biệt đối sử tuỳ tiện hay hạn chế vô lí đôí với thương mại quốc tế. Nếu biết khéo léo vận dụng trên cơ sở tính "thích hợp" và "cần thiết" thì Việt Nam không những lựa chọn được cho mình các mặt hàng có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn có thể lợi dụng biện pháp này để cản trở hàng hoá nước ngoài mà vẫn biện minh được là không trái với qui định của WTO. Để hợp thức hoá hai biện pháp này Tổng cục đo lường và chất lượng Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện danh mục các mặt hàng có yêu cầu qui định chất lượng tiêu chuẩn Việt Nam, xây dựng danh mục các mặt hàng phải kiểm tra SPS bắt buộc. Ngoài các biện pháp qui định về vấn đề kiểm dịch động thực vật và tiêu chuẩn kĩ thuật còn có rất nhiều qui định mà Việt Nam có thể viên dẫn đến vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ các sinh vật quí hiếm mà mục đích là ngăn chặn các mặt hàng nhập khẩu của nước ngoài. Tại thời điểm hiện tại chúng ta khó có thể đưa ra một khung pháp lí cho các biên pháp này song việc nghiên cứu các biện pháp liên quan đến môi trường ít nhất cũng giúp cho chúng ta có căn cứ xác đáng để buộc các đối tác loại bỏ những biện pháp cản trở hàng hoá Việt Nam với lí do bảo vệ môi trường. 2.2.7.Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: Nội dung: Trước 1995 do GATT cấm sử dụng hạn ngạch nhập khẩu, nên một số nước đã sử dụng biện pháp hạn chế xuất khẩu "tình nguyện". Hạn chế xuất khẩu tình nguyện là một thoả thuận song phương giữa hai chính phủ. Khi ngành công nghiệp của nước nhập khẩu đang phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu tương tự nước này sẽ gây áp lực với nước xuất khẩu để đàm phán về số lượng xuất khẩu. Thông thường kết quả của sự đàm phán là nước xuất khẩu sẽ giới hạn xuất khẩu một số sản phẩm nhất định tới nước nhập khẩu từ đó giảm bớt áp lực cạnh tranh cho các ngành hàng tương tự của nước nhập khẩu. Các nhà xuất khẩu bị "bắt buộc" chấp nhận số lượng đó và bị đe doạ nhận được các hành động khắc nghiệt hơn nếu không chấp nhận thoả thuận tự nguyện hạn chế số lượng xuất khẩu. Chính phủ xuất khẩu hoặc chính các nhà xuất khẩu quản lý thoả thuận này. Hạn chế xuất khẩu tình nguyện từng là một công cụ quan trọng hạn chế thương mại và đã được sử dụng khá rộng rãi. ý nghĩa: Trong khi hạn ngạch được áp dụng chung thì hạn chế xuất khẩu tình nguyện chỉ áp dụng với một số nước xuất khẩu chủ yếu, do đó nếu áp dụng biện pháp này kín đáo thì không ảnh hưởng đến những cam kết trong quá trình gia nhập các định chế thương mại Hạn chế xuất khẩu tình nguyện mang tính chất linh hoạt hơn bởi nước nhập khẩu có khả năng lựa chọn các thành viên kí kết thoả thuận. Có một số nước trên thế giới đã sử dụng biện pháp này trong đó nước sử dụng nhiều nhất biện pháp này phải kể đến Mĩ. Để bảo hộ ngành công nghiệp thép Mĩ đã ép Nhật và Liên Xô phải hạn chế xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường của mình thông qua những nhân nhượng mang tính chất chính trị. Về lí thuyết cũng như thực tiễn có thể nói biện pháp này chỉ mang tính chất tham khảo đối với Việt Nam bởi chúng ta không thể gây sức ép đối với các nước khác. với một địa vị kinh tế và chính trị như hiện tại. Kết luận Khoá luận đã trình bày khái quát về các biện pháp phi thuế được sử dụng trên thế giới trong thời gian qua, các qui định của WTO - tổ chức thương mại mà Việt Nam đang xúc tiến đàm phán để được kết nạp. Khoá luận cũng đã đi sâu vào phân tích các biện pháp phi thuế Việt Nam đã áp dụng trong thời gian từ 1996 tới 2000, ảnh hưởng của các biện pháp phi thuế, và khả năng cắt giảm các biện pháp này trong một số ngành. Nhưng trên hết thông qua khoá luận này người trình bày đã đưa ra những ý kiến riêng dựa trên quá trình nghiên cứu khá kĩ lưỡng dưới hình thức đề xuất một số biện pháp phi thuế Việt Nam có thể áp dụng trong thời gian tới. Có thể nói các biện pháp phi thuế đã là những biện pháp khá quen thuộc với các nhà hoạch định chính sách trong thời gian qua. Mặc dù vậy như đã khẳng định đây là những công cụ quản lí thương mại hết sức nhạy cảm, khó định lượng và vẫn cần đầu tư nhiều thời gian để đi sâu vào nghiên cứu. Hơn nữa các biện pháp phi thuế mà chúng ta đã áp dụng trong thời gian qua chưa hẳn là những biện pháp thích hợp và tối ưu đối với nền kinh tế Việt Nam cũng như phù hợp với các thông lệ quốc tế.. Chính vì vậy, tôi hi vọng luận văn này dù chưa hoàn chỉnh, sẽ đóng góp phần nào vào quá trình nghiên cứu các biện pháp phi thuế và những đề xuất đưa ra là thiết thực và hữu ích. Hi vọng rằng các biện pháp phi thuế sẽ là một trong những công cụ hữu ích để nền kinh tế Việt Nam gặt hái được nhiều thành quả hơn trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Tài liệu tham khảo: 1. CIE 1998, Vietnam's Trade Policies 1998. 2. CIE 1999, Non-tariff barriers in Vietnam, September 1999. 3. Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Việt Nam, Bộ Công nghiệp 1998 4. Đề tài " Nghiên cứu tổng quan các biện pháp phi thuế của Việt Nam", Vụ chính sách đa biên, bộ Thương mại 1999 5. Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - Nhà xuất bản giáo dục 1997 6. Hội nhập Việt Nam với ASEAN: Nghiên cứu các biện pháp phi thuế quan ảnh hưởng đến thương mại- Nhà xuất bản công an nhân dân Hà Nội-1999 7. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kì 8. Kinh tế Việt Nam 1999-200, 2000-2001- Thời báo kinh tế Việt Nam 9. Thoả thuận Trung Quốc- Hoa Kì về việc Trung Quốc gia nhập WTO, 1999 10. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, UNIDO và viện chiến lược phát triển, 1998 11. Văn kiện đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX- Nhà xuất bản chính trị quốc gia- Hà Nội 2001 12. WTO Secretariat 1999, US Trade Policies Review. 13. WTO Secretariat 1997, Thailand Trade Review ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33272.doc
Tài liệu liên quan