Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ---------------- NGUYỄN THỊ NGỌC ANH YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ HỒNG MY Thái nguyên, 2008 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................................... 1 Lý do chọn đề tài ................................

pdf102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2116 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
..........................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề ..........................................................................................................................................3 3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................................ 12 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................ 13 5. Mục đích của luận văn ...................................................................................................................... 13 6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................................................... 13 7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................................................ 14 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ................................................................................................................. 15 1.1. Không gian kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương .................................... 15 1.1.1. Không gian mang màu sắc địa phủ âm giới .................................................. 15 1.1.2. Núi rừng hoang vu chứa đầy sự huyền bí ....................................................... 22 1.1.3. Không gian chập chờn trong cõi vô thức ........................................................ 27 1.2. Thời gian biến ảo ............................................................................................................................. 33 1.2.1. Thời gian hư ảo, phi tuyến tính không xác thực ......................................... 34 1.2.2. Thời gian trong cõi vô thức..................................................................................... 37 CHƯƠNG 2: NHÂN VẬT KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ........................................................................................................................ 41 2.1. Nhân vật người điên ...................................................................................................................... 42 2.2. Nhân vật biến hình, hư ảo .......................................................................................................... 47 2.3. Nhân vật chuyển tiếp ..................................................................................................................... 57 2.4. Nhân vật ma quái ............................................................................................................................. 59 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG THỨC TẠO DỰNG CÁC YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ............................................................................ 65 3.1. Xây dựng kết cấu lồng ghép cốt truyện .............................................................................. 65 3.2. Tạo những hình ảnh và môtip trần thuật mang ý nghĩa biểu tượng ................... 69 3.2.1. Những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng..................................................... 69 3.2.2. Môtip trần thuật ............................................................................................................. 75 3.3. Sử dụng các yếu tố ngôn ngữ giàu khả năng gợi tả sự kỳ ảo................ ............. ...............85 KẾT LUẬN ................................................................................................................................................... 92 THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 96 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ..............................................100 PHỤ LỤC ........................................................................................................101 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Sử dụng yếu tố kỳ ảo là một trong những thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu giúp các nhà văn thể hiện quan niệm về cuộc sống và con người. Trong văn học viết Việt Nam, yếu tố kỳ ảo tuy xuất hiện với mức độ đậm nhạt khác nhau nhưng thời kỳ nào cũng có (tiêu biểu như: Lĩnh Nam chích quái, Truyền kỳ mạn lục - văn xuôi trung đại; Trại Bồ Tùng Linh, Ai hát giữa rừng khuya, Yêu ngôn, Hậu thiên đường, Giàn thiêu - văn xuôi hiện đại). Từ giai đoạn sau 1986, yếu tố kỳ ảo trong văn học có chiều hướng gia tăng và trở thành “một hiện tượng văn học” trong sáng tác của Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Việt Hà, Phạm Thị Hoài, Thuận, Châu Diên, Hoàng Diệu, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hoài... Các nhà văn này đồng thời cũng là các cây bút tích cực đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết về nhiều phương diện: kết cấu, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ... Họ đã góp phần làm mới diện mạo tiểu thuyết Việt Nam trong mấy thập niên vừa qua. 1.2. Chất liệu kỳ ảo đã tạo nên những bước đột phá trong nghệ thuật tự sự đương đại. Song, trong thực tế, cũng còn một khoảng cách khá xa giữa việc sử dụng yếu tố kỳ ảo của nhà văn với khả năng tiếp nhận yếu tố kỳ ảo của độc giả. Ngày nay, sự phát triển siêu tốc của khoa học, kỹ thuật có tác dụng kích thích khả năng tiếp nhận của độc giả, giúp họ có nhu cầu tìm đến cái mới, nhanh chóng thích ứng và tiếp nhận cái mới. Văn học kỳ ảo tỏ ra thích hợp với công chúng độc giả thời hiện đại. Trong công nghệ thông tin, hàng loạt các trò chơi thế giới ảo đã tạo thành lực tương tác hướng người ta tìm đến văn học kỳ ảo. Tuy nhiên, việc tiếp nhận cái kỳ ảo trong công nghệ thông tin với tiếp nhận cái kỳ ảo trong văn học lại là những phương diện khác nhau. Bởi vì, cái kỳ ảo trong thế giới Game là cái kỳ ảo được lập trình, cài đặt sẵn để người chơi có thể dễ dàng nhập cuộc; còn kỳ ảo trong văn học là sản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 phẩm sáng tạo riêng, đòi hỏi độc giả phải đồng sáng tạo cao độ với nhà văn, giàu kinh nghiệm và vốn sống, cộng với một năng lực đọc hiểu tác phẩm văn học kỳ ảo nhất định thì mới nhận thấy sự hấp dẫn của chúng... Do vậy, trong thực tế, không ít người ngại đọc tác phẩm có yếu tố kỳ ảo, hoặc nếu tìm đọc thì cùng gặp khó khăn khi tiếp nhận. 1.3. Nhưng, không bị trói buộc bởi quán tính tiếp nhận của một số độc giả, nhiều cây bút văn xuôi của chúng ta những năm gần đây vẫn nỗ lực tìm kiếm và thể nghiệm sức biểu hiện cuộc sống của “cái kỳ ảo” trong văn học. Nguyễn Bình Phương là một trong số đó. Với Nguyễn Bình Phương, yếu tố kì ảo đã trở thành một công cụ đắc dụng trong việc chuyển tải ý tưởng, một yếu tố "không thể thiếu" trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Yếu tố kì ảo cũng khiến tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương mang nét khác lạ so với tiểu thuyết của lớp nhà văn trước. 1.4. Yếu tố kỳ ảo đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình văn học nước ta. Nhiều hiện tượng văn học kỳ ảo đã được “giải mã” trong các sách chuyên luận, luận văn khoa học (Cái kỳ ảo trong tác phẩm của Balzac - Lê Nguyên Cẩn, Đặc sắc thể tài Yêu ngôn của Nguyễn Tuân - Nguyễn Thị Thanh Vân...) giúp người đọc cảm nhận được cái hay, cái đẹp của những tác phẩm văn học này. Trên hành trình khám phá miền đất văn học kì ảo nhiều bí ẩn, một số cây bút nghiên cứu phê bình văn học đã hướng tới một “mảnh đất mới”: sáng tác của Nguyễn Bình Phương. Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đã được khai phá nhưng chưa đạt được mức độ toàn diện, hệ thống. Tóm lại, sự gia tăng yếu tố kỳ ảo trong văn học những năm gần đây đòi hỏi sự gia tăng tương ứng các công trình nghiên cứu về cái kỳ ảo. Có như vậy, nghiên cứu phê bình văn học mới tiếp cận và tác động kịp thời, hữu ích tới thực tế sáng tác văn học. Khám phá văn học kỳ ảo, đi sâu vào các công trình nghệ thuật kỳ lạ và hấp dẫn đó, hoạt động nghiên cứu văn học tiếp tục vai trò Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 người đồng hành đáng tin cậy của nhà văn, góp phần thúc đẩy văn học phát triển. Đặc biệt, cần có một công trình nghiên cứu hệ thống, toàn diện hơn về yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương nhằm đánh giá đúng mức sức sáng tạo đóng góp của tác giả đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Đó chính là những lí do cơ bản khiến chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương”. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1.Tình hình nghiên cứu chung về Nguyễn Bình Phƣơng Nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh ngày 29 tháng 12 năm 1865 tại Thái Nguyên. Thời chiến tranh, tác giả cùng gia đình sơ tán về xã Linh Nham thuộc huyện Đồng Hỷ, đến năm 1979 mới trở lại thành phố Thái Nguyên. Nguyễn Bình Phương học hết phổ thông trung học năm 1985 rồi vào bộ đội; năm 1989 vào học trường viết văn Nguyễn Du; ra trường công tác một năm ở Đoàn kịch nói Quân đội; sau đó là biên tập viên của Nhà xuất bản Quân đội và hiện nay công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nguyễn Bình Phương viết văn bằng niềm đam mê, nhạy cảm cộng với tri thức văn chương của một cây bút được đào tạo qua trường lớp. Tác giả viết đều tay ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, tản văn... Cho đến nay, Nguyễn Bình Phương đã xuất bản các tập thơ: Khách của trần gian (1986), Lam chướng (1992), Xa thân (1997) cùng một số tiểu luận, truyện ngắn; tiêu biểu có truyện ngắn Đi in trên báo Văn nghệ trẻ (số ra ngày 10 tháng 1 năm 1999). Truyện ngắn này đã gây được sự chú ý của dư luận. Sau cuốn tiểu thuyết đầu tay: Vào cõi (Nxb Thanh niên, 1991), Nguyễn Bình Phương tập trung vào thể loại tiểu thuyết. Và cũng chính tiểu thuyết đã làm cho bút danh nhà văn trở nên quen thuộc trong đời sống văn học. Nguyễn Bình Phương được bạn đọc biết đến nhiều hơn với sự xuất hiện liên tiếp những cuốn tiểu thuyết có cách viết mới cả về hình thức lẫn nội dung: Bả giời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 (Nxb Quân đội nhân dân, 2004), Những đứa trẻ chết già, (Nxb Văn học, 1994), Người đi vắng (Nxb Văn học, 1999), Trí nhớ suy tàn (Nxb Thanh niên, 2000), Thoạt kỳ thuỷ (Nxb Hội nhà văn, 2004), Ngồi (Nxb Đà Nẵng, 2006). Trong khoảng chưa đầy chục năm, không kể các thể loại khác, Nguyễn Bình Phương đã có tới bảy cuốn tiểu thuyết được xuất bản. Cũng như các cây bút văn xuôi Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Dương Thu Hương, Thuận, Nguyễn Việt Hà, Bảo Ninh... Nguyễn Bình Phương đã nỗ lực "bứt phá" tìm hướng đi mới cho tiểu thuyết. Với quan niệm “Nghệ thuật tiểu thuyết, ở một chừng mực nào chính đó là nghệ thuật của sự nối kết các điểm chính với nhau chứ không phải sự nhẫn nại đi theo lộ trình tuần tự, đều đặn của thời gian và sự kiện” [40;7]. Nguyễn Bình Phương viết trong sự "trôi dạt" cảm xúc, đào sâu vào miền vô thức. Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương có những khác lạ về kết cấu, xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật... Chính sự khác lạ ấy đã thu hút giới nghiên cứu phê bình văn học. Nguyễn Bình Phương đã được báo chí trong nước cũng như các tạp chí trên mạng giới thiệu qua các báo: Pháp luật, Văn hoá, Văn nghệ trẻ, Tạp chí Hợp Lưu...; trên các trang Webside: bên cạnh đó còn có các bài báo cáo khoa học, luận văn tốt nghiệp đại học, luận văn cao học Ngữ văn... Tập hợp tài liệu nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương, chúng tôi thấy những người đi trước đã quan tâm tới các phương diện sau: * Chân dung nhà văn Phùng Văn Khai đã dựng nên chân dung nhà văn Nguyễn Bình Phương từ ngoại hình đến tinh thần và sự nghiệp sáng tác văn chương: "Nguyễn Bình Phương có một khuôn mặt rất buồn. Anh ít nói trong các đám đông hoặc hai người với nhau. Nhưng anh chăm chú mọi người, chăm chú vào câu chuyện và rất sắc sảo, độc đáo trong suy nghĩ” [31;52], "Nếu coi văn chương là một nghề thì cái nghề ấy đã đeo gông đóng số Nguyễn Bình Phương(...). Yêu nghề Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 đến ngơ ngẩn, yêu đến hành xác, tâm linh, sùng tín như anh quả là của hiếm” [31,17]. Nhà nghiên cứu này đã đánh giá: "Trữ lượng văn xuôi Nguyễn Bình Phương là một trữ lượng tiềm tàng mà nhà khai thác đang vào độ thuận để đưa ra những đời sống, những thân phận, những tư tưởng, những thắc mắc, những lo toan, những dự báo cho chính đời sống này [31,91]. Theo Phùng Văn Khai: “Chỉ một thời gian không xa nữa, với nội lực sáng tạo của nhà văn, chúng ta sẽ có một cái gì đó về văn xuôi đương đại, một cái gì đó mà phải nói thật rằng chúng ta đã chờ đợi từ lâu, không phải để phủ định những thành tựu văn xuôi trước đó mà là một bước phát triển tiếp nối” [31;98]. * Kết cấu trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng Đây là yếu tố đổi mới đầu tiên của Nguyễn Bình Phương được các nhà phê bình nghiên cứu văn học tập trung khám phá. Thụy Khuê là người sớm quan tâm tới sáng tác của Nguyễn Bình Phương, đã viết nhiều bài phê bình về những cuốn tiểu thuyết của nhà văn. Trong bài “Thoạt kỳ thuỷ trong vùng đất Cậm Cam hoang vu của Nguyễn Bình Phương”, Thụy Khuê nêu cảm nhận về mặt nội dung của cuốn tiểu thuyết: “Thoạt kỳ thuỷ là một bài thơ đẫm máu và nước mắt, đẫm tang thương, đầy huyễn hoặc, viết về hành trình của một cộng đồng, dù đã nửa phần điên loạn, vẫn không biết mình đang đi dần đến toàn phần điên loạn”; và về hình thức nghệ thuật: “Thoạt kỳ thuỷ là cuốn tiểu thuyết khác thường, khó đọc bởi lối hành văn và cấu trúc truyện rất lạ... Đây không phải là trang viết truyền thống vì vậy cần cách đọc không truyền thống. Những yếu tố vừa kịch, vừa phi kịch, vừa thơ, vừa phi thơ là những mấu chốt cấu trúc tiểu thuyết” [33]. Thụy Khuê cũng đã chỉ ra một hướng tiếp cận mới đối với tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ: cần tập trung khám phá sự giao thoa của các thể loại kịch, thơ, tiểu thuyết trong tác phẩm này. Cùng chung với suy nghĩ của Thụy Khuê về sự đan xen của nhiều thể loại trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, Hoàng Cẩm Giang trong đề tài : “Cấu trúc thể loại tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI” Luận văn Thạc sỹ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã chỉ ra vấn đề cấu trúc tác phẩm và sự phá vỡ đặc trưng thể loại. Tác giả nhận xét: “xen kẽ giữa các dòng tự sự, người đọc liên tục bắt gặp những khúc đoạn lạ - mang chức năng “ngoại đề” - vốn không nằm trong “chính mạch tự sự”... để lại những khoảng trống mênh mang trên văn bản”. Nguyễn Thị Ngọc Hân trong www.tienve.org đã tìm ra đặc điểm xoắn kép nhiều mạch chảy song song trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương: “Nguyễn Bình Phương và một số cây bút đương đại lại không đi theo lối kết cấu cũ. Anh đã phá tung mọi đường biên, rào cản để tạo ra sự tự do tối đa cho tác phẩm. Ở đó, các mạch truyện đan xen, móc nối nhằng nhịt: có những tác phẩm có hai mạch chảy song song đến cuối tác phẩm đã hoà vào một mạch chung, có những tác phẩm được xây dựng nên bởi rất nhiều mạch tạo thành kiểu đa giọng điệu độc đáo”. Hồ Bích Ngọc trong Luận văn Thạc sỹ năm 2006 (Đại học Sư phạm Hà Nội) đã khái quát về cấu trúc tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong lĩnh vực khai thác tiềm năng thể loại để hiện đại hoá tiểu thuyết, chỉ ra sự đổi mới, hiện đại hoá tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương về kết cấu, về nhân vật và về ngôn ngữ, giọng điệu. Tác giả Nguyễn Chí Hoan trong www.evan.com.vn với bài viết “Hành trình qua trống rỗng” quan tâm đến vấn đề kỹ thuật của tiểu thuyết Ngồi ở lối kết cấu lập thể, kết cấu thời gian đồng nhận, lối hành văn với sự giản yếu của các câu văn. Tác giả cũng chỉ ra mặt hạn chế của tác phẩm “bị kỹ thuật kết cấu kéo căng ra quá mức, khiến cho tham vọng luận đề của cuốn sách trở nên giống như một tham vọng khái quát bằng kỹ thuật dựng truyện hơn là những hoa trái của một trải nghiệm thực sự”. Bùi Thị Thu khi nghiên cứu; “Một số đặc điểm đáng chú ý của tiểu thuyết ngắn ở Việt Nam những năm gần đây” - Khoá luận tốt nghiệp đại học (Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005) đã khảo sát một số tiểu tuyết đương đại trong đó có tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Tác giả đã chỉ ra những đặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 trưng trong cấu trúc, ngôn ngữ, giọng điệu của các tiểu thuyết nói trên là cấu trúc phức hợp, cấu trúc hệ thống biểu tượng, sự khiêu khích người đọc của ngôn ngữ và tính đối thoại của giọng điệu. Đồng thời Thụy Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Hân, Nguyễn Chí Hoan... cũng đã đi vào phân tích những đổi mới của Nguyễn Bình Phương trong việc phá vỡ kiểu kết cấu tiểu thuyết truyền thống để thể nghiệm sự cách tân theo hướng kết cấu xoắn kép nhiều mảnh, kết cấu phân mảnh, cấu trúc liên văn bản..... * Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng Nguyễn Mạnh Hùng, Hoàng Thị Quỳnh Nga, Bùi Thị Thu, Hoàng Cẩm Giang tập trung vào tìm hiểu các loại hình nhân vật tiêu biểu và phương thức xây dựng nhân vật của nhà văn. Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng có bài “Người đi vắng, ai đọc Nguyễn Bình Phương? Hay nỗi cô đơn của tiểu thuyết cuối thế kỷ?” đã phát hiện ra “nhân vật của Nguyễn Bình Phương dấu kín những ám ảnh của mình và sống với nó” [29]. Hoàng Cẩm Giang phát hiện ra kiểu nhân vật ký hiệu – biểu tượng, nhân vật biến mất trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ở Luận văn Thạc sỹ "Cấu trúc thể loại tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, 2006". Các tác giả trên đều nhận thấy sự đổi mới của Nguyễn Bình Phương trong việc chối từ những quan điểm xây dựng nhân vật truyền thống điển hình để khám phá ra nhiều dạng thức nhân vật mới mang ý nghĩa biểu tượng cao. * Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng Ngôn ngữ tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng bước đầu được giới nghiên cứu phê bình văn học quan tâm. Hoàng Thị Quỳnh Nga, trong Báo cáo khoa học năm 2004 đã tìm hiểu phương diện “Lời câm của nhân vật Tính trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ”. Nội dung của lời câm biểu hiện những ám ảnh của bạo lực, cái chết, của máu và của trăng. Hình thức của lời câm là ngôn ngữ chắp dính, sự phá vỡ quan hệ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 lôgic giữa các câu, các câu ngắn, câu đặc biệt, câu bị khuyết thành phần hoặc bị bẻ gãy không theo một trật tự nào. Tác giả Hồ Bích Ngọc trong Luận văn Thạc sỹ năm 2006 (Đại học Sư phạm Hà Nội) “Nguyễn Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thể loại để hiện đại hoá tiểu thuyết” đã phát hiện ra những câu văn ngắn, phi ngữ pháp; khoảng trắng giữa hai dòng đối thoại và các hình thức nhại ngôn ngữ như sử dụng ngôn ngữ của lối chép sử biên niên, ngôn ngữ cắt dán – những phiến đoạn của đời sống. Các tác giả đã chỉ ra đặc trưng về ngôn ngữ của Nguyễn Bình Phương thể hiện ở một số phương diện như tạo câu văn ngắn, phi lôgíc; mảng trắng trong đối thoại; lời của người âm; lời câm của nhân vật... 2.2. Tình hình nghiên cứu về cái kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng. * Khái niệm yếu tố kỳ ảo trong văn học Kỳ ảo vốn là một khái niệm xuất phát từ thời cổ đại. Cách hiểu về nó cũng thay đổi theo thời gian. Theo từ điển ngôn ngữ Pháp, “kỳ ảo” là tính từ, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp“Phantastitos”, tiếng La tinh“Phantasticus” để chỉ những gì được tạo nên bởi trí tưởng tượng chứ không tồn tại trong thực tế. Các từ ngữ Hy Lạp và La Tinh trên đều có liên quan với từ “Phantasia” (tiếng Pháp: “Fantasie”, tiếng Anh: “Fantasy”) có nghĩa là trí tưởng tượng phóng túng. Trong tiếng Việt, “kỳ ảo” là từ Hán Việt “kỳ” là “lạ lùng”, “ảo” là không có thật. Cái kỳ ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp trong thực tế. Trên thế giới, người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ cái kỳ ảo là một học giả người Anh tên là Joseph Addison (1672-1719). Theo ông, những sáng tác kỳ ảo “tạo ra một khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thoả mãn trí tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường của những con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 trí nhớ của chúng ta những câu chuyện ma mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với những nỗi khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải lệ thuộc vào nó một cách tự nhiên” [35;43]. Sau đó có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm kỳ ảo như Roger Caillor, Tz.Todorov, M.Schemider... Các nhà nghiên cứu văn học phương Tây đề cập tới bản chất của kỳ ảo là sự do dự, gắn liền với sợ hãi, nó được tạo ra từ những giấc mơ, sự mê tín, hối hận, từ sự kích thích quá độ của trí não hay tâm linh... Ở Việt Nam, Lê Nguyên Cẩn trong chuyên luận“Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac” đã làm rõ nội hàm thuật ngữ kỳ ảo trong văn học: “Cái kỳ ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật. Nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo. Nó có mặt trong văn học dân gian và văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực ảo và tồn tại độc lập, không hoà tan vào các dạng thức khác nhau của tưởng tượng... Yếu tố kỳ ảo trong văn học tạo nên sự đứt gãy trong chuỗi liên kết vũ trụ, tạo ra sự do dự, phân vân trong lòng độc giả. Nó là quãng lặng, là sự ngắt mạch, là sự xâm lấn của cái siêu nhiên trong cuộc sống đời thường, là sự xâm lấn của cái phi lôgic trong một thế giới lôgic” [19;56]. Tác giả Ngô Tự Lập có ý kiến rằng: “Kỳ ảo, đó chính là mê lộ nghệ thuật cũng như trong lĩnh vực nghệ thuật khác, nó xuất hiện ở mọi nơi khi trật tự đã trở nên vừa bó buộc vừa đáng ghét vừa đáng sợ và tính hợp lý của trật tự ấy bị đặt thành câu hỏi. Tuy nhiên những thiết chế văn minh càng chặt chẽ, càng ráo riết thì sự xuất hiện của nó càng kịch tính như những gì chúng ta chứng kiến ở phương Tây” [30;10]. Nhìn chung, những tài liệu nghiên cứu về văn học kỳ ảo đã dần dần làm sáng rõ quan niệm: 1. Yếu tố kỳ ảo trong văn học thuộc phạm trù tư duy nghệ thuật, là sản phẩm trí tưởng tượng của người nghệ sĩ. Nó phản ánh trình độ hư cấu nghệ thuật ở mức độ cao. Yếu tố kỳ ảo có thể xuất hiện ở nhiều phương diện trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 thế giới nghệ thuật của nhà văn từ chất liệu phản ánh, phương thức phản ánh đến tầng lớp ý nghĩa, từ đó tạo nên hiệu ứng tiếp nhận ở người đọc. 2. Yếu tố kỳ ảo là phương tiện nghệ thuật để nhà văn bộc lộ quan niệm về đời sống, về con người. 3. Những biểu hiện chủ yếu của yếu tố kỳ ảo trong văn học là: không gian, thời gian chứa đựng các yếu tố siêu nhiên; nhân vật kì dị, biến hóa, giấc mơ... Quan niệm đó là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu quá trình nghiên cứu của những người đi trước về yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương và tiếp tục đi sâu hơn vào vấn đề này. * Tình hình nghiên cứu về cái kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng: Trong số những tài liệu nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương đã trình bày có một số bài viết trực tiếp đề cập đến yếu tố kỳ ảo, đó là: Hoàng Thị Quỳnh Nga với “Dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương”; Đoàn Minh Tâm với “Những đặc trưng của bút pháp hiện thực huyền ảo trong Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương”; Nguyễn Chí Hoan với bài viết “Cấp độ hiện thực và sự hão huyền của ý thức trong Thoạt kỳ thuỷ”; Đoàn Cầm Thi với “Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên”... Tác giả Hoàng Thị Quỳnh Nga đã chỉ ra hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương ở hiện thực lai ghép: thành thị - nông thôn, yếu tố thực - ảo. Nhân vật của Nguyễn Bình Phương được gọi tên là “nhân vật tàn khuyết về tâm lý”, bao gồm nhân vật mắc bệnh và nhân vật chịu ám ảnh. Trong các báo cáo khoa học về “Lời câm của nhân vật Tính trong Thoạt kỳ thuỷ”,“Dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong Người đi vắng”, tác giả đã chỉ ra những sáng tạo riêng của Nguyễn Bình Phương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 trong việc sáng tạo ra một thế giới nhân vật chịu nhiều ám ảnh; một thứ ngôn ngữ đặc biệt của giấc mơ, ngôn ngữ lời câm chắp dính, phi lôgic. Thụy Khuê trong bài viết “Thế tĩnh toạ trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương” đã đề cập tới nhận thức bên trong của nhân vật dựa vào triết học hiện sinh: “trái với quy ước xác định và chỉ định, tiểu thuyết Ngồi dựa trên sự bất định trong một không gian ảo: đó là không gian suy tưởng của kẻ ngồi thiền. Bất định và sắc không trở thành yếu tố chính trong tác phẩm... cho nên tất cả đều có thể thật mà có thể giả, có thể chỉ là một giấc mộng”. Đoàn Minh Tâm (Văn nghệ Trẻ ngày 14/1/2007) khái quát “Những đặc trưng của bút pháp huyền ảo trong tiểu thuyết Ngồi” ở ba dạng: bút pháp huyền ảo phi lý của Kafka, bút pháp huyền ảo siêu nhiên và huyền ảo tâm lý. Qua đó thấy được những ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo đậm nét trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương nói riêng và trong sáng tác văn chương nói chung. Báo cáo khoa học của Đặng Thị Lan Anh đã trình bày kết quả nghiên cứu cái vô thức trong phân tâm học và cái vô thức trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ: “để cái kỳ ảo xuất hiện ồ ạt giữa cõi thực sẽ sa vào vụn vặt, cấu trúc sẽ mất đi tính mạch lạc”. Nguyễn Chí Hoan trong bài viết “Cấp độ hiện thực và sự hão huyền của ý thức trong Thoạt kỳ thuỷ” đã khẳng định “Nguyễn Bình Phương là nhà văn Việt Nam đã đẩy cuộc thăm dò vô thức đi xa nhất” [28]. Đoàn Cầm Thi trong “Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên đã đưa ra nhận định: “Với Thoạt kỳ thuỷ, chúng ta đọc lại Hàn Mặc Tử qua con mắt khác. Nhưng giá trị của nó còn cao hơn thế: Tôi tin rằng thử nghiệm mới này của Nguyễn Bình Phương, như mọi tác phẩm nghệ thuật đích thực, sẽ góp phần biến đổi thẩm mỹ người đọc đương thời. Bằng ngôn ngữ người điên” [46]. Những bài nghiên cứu trên các khía cạnh kỳ ảo tạo nên những điểm khác lạ trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Xung quanh những ý kiến về cái kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương có những mức độ đánh giá, tiếp nhận khác nhau. Lời khẳng định, khích lệ nhiều; song lời “phê” hàm ý nhắc nhở, thậm chí cả “phủ định sạch trơn” không phải là không có. Nguyễn Hoà với bài viết “Một cách lý giải về thực trạng tiểu thuyết Việt Nam đương đại” cho rằng những cố gắng cách tân của một số tác giả trong đó có Nguyễn Bình Phương “chưa thật sự tạo nên những đột biến trong tư duy thể loại... và môtíp nhân vật bị chi phối bởi trạng thái bệnh lý tâm thần, điên trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương có thể cung cấp một cái nhìn bất thường về cuộc sống và con người, nhưng sự trở đi trở lại của môtíp này dường như đang đẩy tác giả tới nguy cơ đơn điệu nhàm chán” [39;209]. Ý kiến của nhà văn khác theo Phùng Văn Khai ghi lại trong “Tản mạn Nguyễn Bình Phương”: “Phương thiếu đời sống thực tế nên luôn luôn trốn trong tháp ngà mờ mờ sương khói do chính mình tạo ra” [31;86]. Những nhận xét đó có nhưng không nhiều. Nhìn chung, hầu hết những người nghiên cứu Nguyễn Bình Phương đều khẳng định đóng góp của nhà văn vào sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại về các phương diện: cấu trúc, nhân vật, ngôn ngữ và sử dụng yếu tố kỳ ảo... Tuy nhiên, chưa có ai nghiên cứu một cách hệ thống về những yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Vì thế cần có một đề tài khoa học có tính hệ thống, toàn diện hơn về vấn đề này. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1.Năm cuốn tiểu thuyết có nhiều yếu tố kỳ ảo của Nguyễn Bình Phương: - Những đứa trẻ chết già (Nxb Văn học, 1994) - Người đi vắng (Nxb Văn học, 1999) - Trí nhớ suy tàn (Nxb Thanh niên, 2000) - Thoạt kỳ thuỷ (Nxb Hội nhà văn, 2004) - Ngồi (Nxb Đà Nẵng, 2006) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 3.2. Một số các tác phẩm khác có yếu tố kỳ ảo để so sánh, đối chiếu. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu thi pháp học: Vận dụng lí thuyết thi pháp về không gian, thời gian, nghệ thuật và thi pháp nhân vật để làm sáng tỏ yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. 4.2. Phƣơng pháp hệ thống: Nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong mối quan hệ hệ thống với các phương diện khác trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương. 4.3. Phƣơng pháp thống kê, khảo sát: Nhằm nhận biết những tín hiệu “kỳ ảo” của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương làm cơ sở để hệ thống hoá thành những luận điểm khoa học của vấn đề. 4.4. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh: Làm rõ đặc điểm và giá trị nghệ thuật của các yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, đối chiếu so sánh với các đối tượng văn học khác để thấy được nét mới mẻ, độc đáo của nhà văn. 5. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬN VĂN 5.1. Xuất phát từ những vấn đề lý thuyết cơ bản về cái kỳ ảo trong văn học, luận văn sẽ khảo sát, phân tích và miêu tả các dạng thức biểu hiện của yếu tố kỳ ảo, khám phá giá trị của yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. 5.2. Tìm ra phương thức tiếp cận những yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nói riêng và trong tiểu thuyết đương đại nói chung. 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 6.1. Có được những kết luận khoa học về yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, tiếp tục mở rộng con đường đi vào thế giới nghệ thuật của tác giả. 6.2. Góp phần giải mã các yếu tố kỳ ảo trong văn học và cách tiếp cận văn học kỳ ảo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 6.3. Đóng góp một tài liệu học tập, nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương và văn học Việt Nam đương đại... 7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Phần nội dung được triển khai trong 3 chương: Chương 1: Không gian và thời gian kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Chương 2: Nhân vật kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Chương 3: Phương thức tạo dựng các yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 NỘI DUNG Chƣơng 1 KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN KỲ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG 1.1. Không gian kỳ ảo ._.trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng Trong sáng tác văn học, không gian nghệ thuật là “một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng thẩm mĩ” [44;72]. Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật nào cũng có không gian nghệ thuật của nó. Không gian nghệ thuật tồn tại dưới các dạng: hiện thực, siêu thực. Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương chứa đựng nhiều yếu tố kỳ ảo tạo nên không gian của chiều sâu tâm tưởng, không gian của cõi âm, không gian của núi rừng hoang vu - nơi mà cảm nhận về cuộc sống cứ chập chờn đan cài giữa âm và dương, hư và thực; và những linh cảm, điềm báo cứ quẩn quanh bủa vây con người. Không gian kỳ ảo xâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống và tâm hồn nhân vật. Đó có thể là không gian ở cõi trần với vô vàn cái kỳ lạ, không gian cõi âm, không gian trong cõi vô thức, không gian tâm linh của con người như không gian địa phủ, âm giới trong Những đứa trẻ chết già; không gian cõi tâm linh, vô thức của những nhân vật trí thức trong Trí nhớ suy tàn và Ngồi. 1. 1.1. Không gian mang màu sắc địa phủ, âm giới Đó là những khung cảnh âm u, gợi không khí chết chóc hoang lạnh. Trong Những đứa trẻ chết già, không gian mang màu sắc âm giới hiện hình với những âm thanh lạ, với bóng ma, ánh sáng... mang đặc điểm riêng của cõi âm ti, địa phủ. Không gian của cõi âm có khi ám ảnh cõi trần bởi những tiếng vọng âm u từ dưới lòng đất. Nơi gốc si vào những đêm trăng “vợ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 ông Bồi què đi ăn giỗ ở nhà họ hàng làng bên cạnh về, qua chỗ cây si bà ta nghe thấy tiếng người, chính xác hơn là tiếng đàn ông kêu thầm thì ở đó” [3;199]. Rồi những âm thanh đó lại tự nhiên biến đi “Ngọn Rùng đen thẫm in trên nền trời. Khói hương bốc ngùn ngụt. Ngay cả tiếng thầm thào ở gốc si cũng biến mất như kẻ tuân theo một mệnh lệnh nghiêm khắc” [3;59]. Có khi kỳ lạ hơn là những cái chết từ bao nhiêu năm tự nhiên trôi về. Sau khi cái xác của ông Trạch – một người làng chết mất xác ở chiến trường bao nhiêu năm nay tự dưng xuất hiện dưới gốc si thì có hàng loạt những cái xác của dân làng chết nơi đất khách quê người cũng tự tìm về. “Rồi mọi thứ cũng trở nên thường tình đến mức thành lệ. Hễ gia đình nhà ai có người chết ở nơi xa, cứ ra chỗ gốc si thế nào cũng thấy xác” [3;202]. Những hồn ma, xác chết hiện hình trở về khiến cuộc sống làng Phan trở nên u ám, hoang lạnh như cõi âm. Trong tác phẩm còn có khung cảnh bãi tha ma với “những vì sao đột nhiên rùng mình”, “một vì sao mé Tây phình to rồi lao vút xuống”, “đám cỏ úa vàng cứ run rẩy, dãy dụa” và những ngôi mộ tự nhiên phát sáng, tiếng khóc ai oán vọng lên, những vết chân thú tự nhiên ứa máu, hình ảnh con Nghê hiện về trong dáng hình kỳ lạ... Không gian cõi âm còn hiện lên qua hình ảnh chiếc xe trâu lọc cọc nặng nề đi trong hoàng hôn rề rà mệt mỏi; không điểm xuất phát, không điểm dừng lại. Nó cứ đi, đi mãi trong cõi vô tận, chở theo bao nhiêu điều bí ẩn, rùng rợn: “Không khí ảm đạm và lưu cữu. Hoàng hôn trung du bao giờ cũng rề rà, mệt mỏi. Những quả đồi chầm chậm lùi lại, chầm chậm xuất hiện. Đôi chỗ, chè hoang mọc xanh lên tận chóp đồi. Hương chè nhả ra, đặc chát” [3;18], “người âm dường như đang di chuyển, họ thấy những quả đồi chầm chậm lùi lại... như thế chết vẫn tiếp tục sống một đời sống không có âm thanh, hay âm thanh trong cõi trần, người trần không nghe thấy được” [3;40]. Chiếc xe trâu kỳ lạ đó là cách để trí tưởng tượng của nhà văn “du linh” vào quá khứ đã tàn để có thể khám phá bí mật của con người từ thời nguyên thuỷ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Theo quan niệm của người Việt Nam xưa, thế giới của người âm gián cách trên bàn thờ, trong cây đa, cây đề, trong núi Voi, hang ông Tạ... Cõi địa phủ ấy, cất giấu linh hồn của tạo vật để tạo ra những “điềm” báo về cõi dương gian mà theo kinh nghiệm dân gian sẽ biết đó là điềm gở hay điềm lành. Từ đó, con người có những cách giải điềm, giải hạn khác nhau. Trong những Những đứa trẻ chết già, cũng có những điềm gở nhân vật nhận biết từ không gian âm giới. Trong tiểu thuyết Người đi vắng có không gian của bãi tha ma với những âm thanh ghê rợn cùng với ánh sáng đom đóm ma quái và những đốm lân tinh xanh lét. Người ta cảm thấy: “Hình như có những âm thanh lạ vọng ra từ bãi tha ma, tiếng rì rầm hổn hển lúc dâng lên hạ xuống khi ùa đến gần rồi lùi xa chập chờn mê hoặc... Đom đóm tự nhiên dạt ra, tán loạn, hốt hoảng”. Nơi ấy đêm đêm còn có tiếng rì rầm chuyện trò của các hồn ma, kể về cuộc đời, số phận của mình với bao nỗi niềm oan trái, bao ám ảnh tàn khốc: “Tiếng thét lại cất lên từ bãi tha ma thê lương, tuyệt vọng giữa cơn mưa thốc tháo”. Hay khung cảnh ma quái rợn ngợp như trò chơi ú tim đầy bí ẩn: “những tiếng thều thào cất lên cùng tiếng gõ cành cạch vào cửa kính”. Nhạc điệu của âm giới là những âm thanh: kình kịch, rì rầm, hổn hển, chập chờn, sột soạt, thều thào, cành cạnh...; những âm thanh nhỏ, yếu, mơ hồ, không rõ nét làm nên “tiếng vọng nghe âm u” tự cõi âm vọng về. Âm thanh xuất hiện mỗi lúc với mỗi âm điệu, sắc nhịp riêng, khi xa khi gần, khi đau thương ai oán, lúc não nùng man dại...; như lời yêu thương vụng trộm, như tiếng kêu oan, như lời đe dọa ác độc... tất cả xô bồ hiện về giữa cõi trần gợi ám ảnh ghê rợn. Trong những âm thanh ma quái vọng lên từ tiểu thuyết Người đi vắng, lời người cõi âm xuất hiện nhiều nhất, với những giọng điệu khác nhau: lúc thì thầm ai oán, khi dậm dọa thách thức, khi oan trái tức tưởi hoặc âu yếm nhẹ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 nhàng... Lời cõi âm vọng lên cả ban ngày lẫn ban đêm, trong không gian ảo – thực, trong tiềm thức, trong vô thức. Bảng khảo sát sau cho thấy các dạng biểu hiện của lời người cõi âm đã biến thành hồn ma trong tác phẩm. Bảng 1.1. Khảo sát lời người cõi âm trong tiểu thuyết Người đi vắng Chủ thể (lời người cõi âm) Nội dung Thời gian xuất hiện Giọng điệu Một thanh niên Kêu than mình bị oan và mình không giết người. Nằm mơ và đã bóp cổ một người đàn ông trong khi ông ta bị sốt cao Đêm Kể lể, than vãn, kêu ca Họa sĩ – đồng đội của Thắng Luôn trở về gọi “Thắng ơi” Chết vì bị Thắng bắn oan vào trán. Mơ được vẽ nốt bức chân dung về 40 khuôn mặt Đêm, trong giấc ngủ của Thắng) Day dứt, trăn trở Nam – học sinh cấp 3 Kể chuyện lớp học có cô giáo dạy môn sinh học với giờ thực hành mổ ếch. Thuật lại tỉ mỉ cái chết của mình do tai nạn ô tô ở cổng trường khi tan học 2h đêm bãi tha ma Linh Nham Buồn, đau xót và tiếc nuối Đứa trẻ mô côi Ru em ngủ bằng những câu chuyện kể về mẹ, về ông thiến lợn (chính là bố chúng) (Ngôi mả) Nhẹ nhàng đầy yêu thương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Tử thi trên chiếc băng ca tự tử cắt mạch máu ở cổ tay trái (Một thanh niên có khuôn mặt dài, mũi mỏng, cằm nhọn, lông mày lưỡi mác) Kể về mối tình với người con gái tên Tuyết. Thảm kịch xảy ra: giết kẻ đã hãm hiếp Tuyết, sau đó thả Tuyết xuống dòng sông. Đau xót Người đàn bà bị chồng ruồng bỏ Nói về một vụ giết người, thủ phạm không bị tuyên án. Cuộc đời bất hạnh của người đàn bà bị chồng đánh đập, ruồng bỏ theo nhân tình. Ba năm sau, chồng trở về, chị ta chết vì bị chồng lấy búa bổ giữa đỉnh đầu và chồng chị cũng chết do xô xát với vợ. Cay đắng và oan ức Cái thai Tâm sự với Dế rằng nó tự bỏ đi vì mẹ nó không muốn có nó. Hờn dỗi, trách móc Cô gái trẻ Thắt cổ tự tử ở cây bàng vì bị người yêu phụ bạc. Giãi bày, chia sẻ mong được giải thoát linh hồn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Qua bảng khảo sát trên, ta thấy hiện lên dấu ấn cõi âm đậm đặc. Với lời người cõi âm, cuộc đời những người đã chết được tiếp nối giúp người ta hiểu thêm nhiều điều về cuộc sống. Các hồn ma đều chịu chung số phận đau khổ, khi sống thì oan ức, khi chết thì trở thành những oan hồn không tìm được nơi hoá giải nỗi oan khổ đã mang theo xuống dưới mồ. Lời người âm đã giúp ta nhận ra rằng, đâu phải ba thước đất có thể vùi lấp đi tất cả. Còn bao nhiêu khao khát cần được thực hiện, bao nhiêu ẩn ức cần giải toả, bao nỗi đau cần xoa dịu... Hãy nghe giọng dỗi hờn rất trẻ con của một cái thai đã chết: “Mình là một cái thai, mình bỏ đi mặc dù chẳng bao giờ tự ái. Người đàn bà ấy không thích thì mình đi...”, hoặc tâm sự buồn buồn mà đau xót của đứa trẻ bị xe ô tô cán chết: “Con vẫn nhớ lời mẹ dặn nhưng không hiểu sao lúc ấy con quên mất cứ thế chạy thẳng từ cổng ra. Chú lái xe cũng hiền... bánh xe to quá mẹ ạ... con chẳng đau đớn gì, chỉ tội buồn, rất buồn, tất cả những cái gì đen đen bên cạnh cũng buồn”... Một bức tranh về cõi sống hiện lên từ cõi chết với nỗi đau của lòng mẹ, khuôn mặt đầm đìa máu của người đàn bà. Lời cõi âm vọng về biết bao điều đau đớn mà những đứa trẻ, những người mẹ... đã trải qua. Có khi lời cõi âm trong tác phẩm dã dựng lại những vụ án mà người sống không tìm ra cách phá án. Trong thế giới của cõi âm, mọi tội lỗi, cái xấu được phơi bày không giấu giếm: “tình cảm vợ chồng dẫn đến một vụ án mạng về cái chết kỳ bí của người chồng và sự mất tích của người vợ; tình yêu đôi lứa lại gây ra cái chết oan uổng tức tưởi cho người con gái nông nổi; tình mẫu tử lại buộc những đứa trẻ chưa kịp thành hình phải lặng lẽ bỏ đi trong oán giận” [41].... Qua các dạng biểu hiện của lời người cõi âm, ngòi bút tác giả đã đưa chúng ta đến một nơi bí mật có thể chứng kiến biết bao số phận, cảnh đời oan trái. Nguyễn Bình Phương mượn lời người đã chết để khám phá về người còn sống. Hồn ma và lời những bóng ma mang tính kỳ ảo nhưng những yếu tố của đời sống được phản ánh lại mang tính chân thực. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Không gian cõi âm còn xuất hiện qua ánh sáng lạnh lẽo, đầy ám khí: “Con mèo chụm chân giương đôi mắt xanh lét nhìn ra khu vườn um tùm... cạnh cửa sổ, ánh sáng lờ mờ soi lên chiếc phản bỏ không”, “trăng sáng lạnh giữa bãi cỏ mấp mô”... Thứ ánh sáng ma quái đó khi thì thu gọn trong một chấm nhỏ trong mắt mèo, khi trải dài bàng bạc vô định bao trùm khắp không gian, có khi tan chảy thành dòng sông mờ ảo, làm toát lên một không khí lạnh lạnh rợn rợn. Trong Những đứa trẻ chết già, có không gian mộ nơi diễn ra nhiều biến hoá kỳ ảo. Không gian mộ của tác phẩm không còn là điểm không gian khép kín "đào sâu, chôn chặt" mà là sự biến đổi khôn lường gắn liền với định mệnh về kho báu của một dòng họ. Gần cuối tác phẩm, khi mọi yếu tố được hội tụ đầy đủ cho hành trình mở cửa kho báu truyền từ ngàn đời của nhà cụ Trường thì một biến cố xảy ra: Ba ngôi mộ của những người thân đã được gia đình cụ canh giữ cẩn thận bỗng phát sáng, biến dạng: “Cùng một lúc cả ba ngôi mộ nhấp nháy phát sáng. Ánh sáng xanh lét, nhoáng nhoàng tạo nên một không khí ma quái rùng rợn. Rồi có tiếng cười the thé cất lên. Qua ánh chớp mọi người nhìn thấy một chiếc xe trâu vụt loãng thành làn khói mỏng mảnh tan vào không khí lấp lánh” [3;299]; cả ba ngôi mộ bay vút lên không trung: “một cơn gió thốc mạnh kèm theo tiếng nổ kinh hoàng. Cả quả đồi rùng mình bửa đôi. Ba ngôi mộ bay vút lên thành ba vệt đen thẫm sau đó mất hút vào giữa khoảng không vô tận. Ở kẽ nứt của quả đồi, khói phun lên dày đặc, trong đó thấp thoáng hàng đoàn người lả lướt bay, mặt ngoái về phía Bắc” [3;307]. Những ngôi mộ biến mất, cuộc giành giật kho báu cũng kết thúc thảm thương, ảo tưởng của những kẻ tham lam cũng tan thành mây khói. Không gian bãi tha ma hiện diện hầu hết trong các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương với những đốm lân tinh màu xanh, vệt sáng hắt lên, tiếng kêu thì thầm ai oán... Khung cảnh đó thường hiện ra giữa núi rừng Thái Nguyên vào lúc hoàng hôn bảng lảng, trong những đêm đen hay ngập chìm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 trong những cơn mưa: “đom đóm bị trăng át đi chỉ còn là vô vàn đốm sáng mờ nhạt thoi thóp như đống lá cháy đang tàn. Tiếng chó tru lên lúc gần lúc xa nghe day dứt” [6;93]. Thụy Khuê đã phát hiện trong Người đi vắng có tính chất hiện thực linh ảo âm dương. Tiểu thuyết tạo cho người đọc cảm giác bị lạc vào vùng đất bị ma ám, nơi những linh hồn vẩn vơ đi lại. Đọc Nguyễn Bình Phương người ta thường đặt câu hỏi vì sao nhà văn hay viết về không gian mang màu sắc địa phủ, âm giới như vậy? Có thể tìm lời giải đáp từ quan niệm sáng tác của nhà văn. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo Thể thao, Nguyễn Bình Phương đã nói: hành trình sống của mỗi con người là một cuộc trôi dạt, với tư cách công dân, tôi trôi dạt trong các sự kiện xã hội; với tư cách nghệ sĩ, tôi trôi dạt trong các nhân vật. Nhà văn đã trôi dạt cả vào những vùng địa hạt “cấm” trong cảm nhận trực giác là cõi âm, cõi tâm linh, vô thức ngàn đời bí hiểm. Đẩy ngòi bút tiểu thuyết của mình "trôi dạt" trong cõi âm ti, địa phủ đó, Nguyễn Bình Phương đã mở rộng giới hạn phản ánh hiện thực của tiểu thuyết theo quan niệm của nhà văn. Viết về cõi âm, về cuộc sống với những bóng ma, âm thanh, màu sắc, cả sự hoài thai sinh nở..., Nguyễn Bình Phương đã dùng yếu tố kỳ ảo để vẽ lên màn sương huyền bí bao phủ không gian cõi âm như một phương tiện để truyền tải thông điệp về cuộc sống. 1. 1.2. Núi rừng hoang vu chứa đầy sự huyền bí Ở Thái Nguyên, người ta rất quen với những cái tên Linh Nham, làng Phan, núi Hột... Nhưng đọc tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, cũng những địa danh ấy người đọc lại lạc vào một thế giới kỳ bí, hoang sơ thời “Thoạt kỳ thuỷ”. Khung cảnh núi rừng thâm u với những địa danh làng Phan, núi Rùng, núi Hột, dòng Linh Nham, sông Cái, xóm Soi... là những không gian có thực của vùng bán sơn địa Thái Nguyên, cũng là không gian nghệ thuật của nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 văn. “Núi Voi”, “Linh Nham” đầy lam chướng ấy chứa nhiều điều huyền bí, hư ảo mang tính siêu thực. Trong Những đứa trẻ chết già, không gian núi rừng bí hiểm vây đặc mọi chốn: “Ngày mùng bảy tháng sáu giờ Dậu, dân làng thấy trong đáy ao nhà Trường hấp bốc lên cột khí trắng hình con rắn”; “Ngày 9 tháng đó, phía Tây có đám mây màu đỏ xuất hiện, hình dáng không khác gì người đàn ông cụt đầu, tay cầm dao quắm”; “Tháng 8 ngày mùng 10, làng bị mưa tơi bời... Rạng sáng ngày 12, mưa tạnh. Đang trưa, tự dưng doi đất bồi dưới chân cầu Linh Nham nứt toác, sâu thẳm, không ai dám đến gần. Từ kẽ nứt đó có tiếng vọng lên ầm ì như sấm ”. Cảnh núi rừng hoang vu với những hình ảnh kỳ bí về bầu trời, khu rừng, những ngọn đồi, dòng sông và cùng với thứ ánh sáng, âm thanh ma mị cứ trở đi trở lại trong tác phẩm, tạo cảm giác vừa tò mò vừa rùng rợn, đồng thời cũng kích thích trí tưởng tượng và khả năng khám phá hiện thực của người đọc. Sự huyền bí của không gian trong Những đứa trẻ chết già thể hiện trong bảng khảo sát sau: Bảng1.2. Khảo sát sự huyền bí của không gian trong Những đứa trẻ chết già Yếu tố không gian Sự huyền bí Bầu trời làng Phan “Đột ngột nứt toác ra. Từ đỉnh trời, một chiếc cột sắt khổng lồ vùn vụt xuyên thẳng vệ đường” [3;282] “Xám ngoét, nặng võng xuống” [3;224] “Thi thoảng lại rung rinh chao đảo” [3;232] Khu rừng Linh Nham “Như chiếc quan tài đen lập lờ giữa màn sương run rẩy huyền bí” [3;96] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Đồi “Phập phồng cháy chéo nhau” [3;289] “Quả đồi chao bên nọ, bên kia” [3;299] “Cả quả đồi rùng mình bửa đôi: ba ngôi mộ nay vút lên thành ba vệt đen thẫm sau đó bay mất vào khoảng không vô tận” [3;307] Sông Linh Nham “Sau trận huyết chiến đẫm máu nhuộm đỏ cả dòng Linh Nham ấy, đêm đêm các oan hồn còn hiện về kêu gào, khóc lóc đòi trả lại đầu” [3;209] “Rì rầm ai oán” [3;115] Ánh sáng “Làng Phan co mình dưới ánh sáng lờ đờ uể oải” “Những ánh lân tinh lập lòa, thứ ánh sáng xanh lơ kỳ quái chẳng khác gì mắt mèo hoang”. Rõ ràng, tác giả đã có chủ ý tô đậm sự huyền bí của không gian trong tác phẩm gợi lên miền đất hoang sơ, man dại, bí hiểm của rừng thiêng nước độc heo hút thuở xa xưa. Từ thủa khai thiên lập địa đến mãi về sau, dân làng Phan đã truyền tụng bao giai thoại về những đám mây cụt đầu, con cá trê khổng lồ, những tiếng nổ hãi hùng.... Rồi những chuyện kinh dị về việc tìm kho báu của gia đình cụ Trường. Môi trường dày đặc âm khí chưa thoát khỏi nét hoang dại sơ khai. Bao bọc lấy làng Phan là ám ảnh về một miền đất, một không gian đêm nhiều hơn ngày, nơi mà mọi điều dữ dội đều có thể xảy ra. Không gian ngập chìm trong bóng tối và khí lạnh ghê người, ở đó ánh sáng chỉ là những tia nắng yếu ớt đang lịm dần vào cái chết “Ánh sáng thoi thóp lê lết rút về nơi cố hữu của mình sau dãy đồi”. Làng Phan đầy huyền bí: “Cứ về đêm, mọi âm thanh của người và vật đều biến mất. Những con chó không sủa thành tiếng chỉ thấy mõm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 chúng ló ra, nhậm vào như hình ảnh trong giấc mơ”. Đó là một không gian ma ảo chập chờn, chứa đầy hiện tượng kỳ lạ mà không ai có thể lý giải nổi. Trong tác phẩm, Nguyễn Bình Phương đã sử dụng gam màu sáng lạnh của sương khói, của mồ mả và âm thanh dồn dập, xối xả của những cơn mưa dữ gợi cảm giác về sự huỷ diệt tàn khốc. Tưởng như một cơn đại hồng thủy sắp ập tới làng Phan. Vạn vật, con người và sự sống đều bị đẩy xuống vực thẳm chết chóc: “Đang trưa, tự dưng doi đất bồi dưới chân cầu Linh Nham nứt toác, sâu hoắm, không ai đến gần”, “Trời vàng rực sau lớp rừng cháy tơ tướp đang cố sức hồi sinh”, “Ngày 17, dòng Linh Nham bị sạt lở hàng chục mét”, “Ngày 21, nước sông Linh Nham cạn sạch”, “Cánh rừng sau làng Phan bỗng nhiên xao động, hai bên bờ sông ngày càng toát ra và tiếng kêu kỳ lạ cứ rú rít lạnh người”, “Những cánh đồng trở nên héo rũ, cây cối, đá sỏi tan rữa thành tro bụi, không thể trồng gì trên đó...”. Dường như cái chết đang rình rập, xâm lấn, hủy diệt sự sống và cõi sống. Với Thoạt kỳ thủy Nguyễn Bình Phương đã tạo nên một không gian mang tính biểu tượng về một cõi hỗn mang từ một địa danh xác thực là làng Linh Sơn, không xa Đồng Hỷ Thái Nguyên là mấy: “Bên rặng bạch đàn rì rầm đen, những đám sương loé sáng. Từng luồng trắng vươn đến, uốn cong, va chạm rồi ngả ra, sáp lại, quằn quại, rạp xuống, xắn bện thành một mớ hỗn độn, bùng nhùng” [6;36]. Hình ảnh Núi Hột thật khủng khiếp: “Quả núi bị vẹt một nửa, trông như cơ thể mất thịt, lộ ra màu trắng pha chút đỏ của máu” [6;12], hoặc: “núi ở trên đầu, một khối nhọn hoắt đâm vào cổ lợn” [6;50]. Ở đó có hàng đàn hang dơi ẩn hiện bay qua bay lại như những bóng ma giữa các nhũ đá óng ánh. Âm thanh của núi rừng: “Gió từ núi Hột mang đến những tiếng rì rầm man dại” [6;54]. Và toàn cảnh thiên nhiên chứa đầy ám khí: “Ao Lang đen thẫm, lầm lì, bí ẩn như khuôn mặt người câm” [6;41]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Không gian núi rừng ma quái bí ẩn đã trở thành nỗi sợ hãi, triền miên, ám ảnh các nhân vật: “Khi về, trời đã khuya ông Phùng thấy bên kia sông dân xóm Soi đi thành vòng tròn trắng đục ma quái” [6;25] rồi “Bè vó ông Bồi lập lòe sáng. Sương loãng ra. Bên kia sông, bóng người gánh nước chập chờn” [6;65]. Khi Nguyễn Bình Phương bước vào nghề văn, Thái Nguyên đã có “điện, đường, trường, trạm”, không còn lạc hậu so với trước đó và so với nhiều miền đất khác. Linh Nham cũng chỉ cách thành phố một cây cầu, một dòng sông, không còn u tối nữa. Vậy tại sao Nguyễn Bình Phương lại viết về Thái Nguyên hoang dại kỳ bí như thế? Có lẽ đây là cảm quan nghệ thuật ẩn sâu trong tâm thức của nhà văn. Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Thái Nguyên – một vùng trung du đồng bằng Bắc bộ, thời chiến tranh nhà văn cùng gia đình sơ tán về xã Linh Nham, huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Mảnh đất đó xưa kia là vùng núi đá khi dựng đứng khi nhấp nhô dàn trải với dòng sông hoang vắng, núi rừng thâm u với những câu chuyện kỳ bí về con người, thiên nhiên. Có lẽ, dáng vẻ thiên nhiên cùng những giai thoại về không gian núi rừng trở thành nỗi ám ảnh kích thích trí tưởng tượng của nhà văn. Và những cái tên núi Rùng, Linh Sơn, núi Hột... với những dáng hình kỳ lạ cứ trở đi trở lại trong các sáng tác của nhà văn. Song, điều quan trọng là dựng nên không gian rừng núi hoang vu kỳ bí, Nguyễn Bình Phương có điều kiện thể hiện những quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người. Trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, người ta bắt gặp những không gian nghệ thuật khác với không gian của Nguyễn Bình Phương: không gian mờ ảo lung linh trong Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà và Chinatown của Thuận mang tính cá nhân hóa, phản ánh tâm linh của từng nhân vật. Trong Cơ hội của Chúa, “mỗi nhân vật bị ám ảnh bởi một không gian mang sắc màu tính cách và số phận riêng biệt” [25;96]: Hoàng với không gian linh thiêng của nhà thờ, của chúa Jesus; Tâm với không gian đô hộ, thương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 trường; Thủy với không gian học trò và những day dứt vì không thể níu giữ nổi mối tình đầu thơ mộng đã qua... Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương xuất hiện nhiều không gian rừng núi. Nói tới rừng là người ta liên tưởng tới sự tối tăm, hoang vu và rậm rạp nên “nó tượng trưng cho vô thức. Đi vào rừng là hành trình bước vào thế giới vô thức – bản năng của con người ” [14;786]. Không gian rừng núi là cái nền để Nguyễn Bình Phương phản ánh hành trình ấy có khi là sự vật lộn giữa sự sống và cái chết, phản ánh cuộc tranh đấu của con người với dục vọng của chính mình, phản ánh hậu quả của những ảo tưởng về giàu sang. 1. 1.3. Không gian chập chờn trong cõi vô thức Khái niệm vô thức theo Từ điển tiếng Việt là “những suy nghĩ, cảm giác ở ngoài ý thức, là những gì bản thân con người hoàn toàn không ý thức được” [38;98]. Theo Tâm lí học: Chủ thể của vô thức là “tập hợp các quá trình hình hành động và trạng thái mà chủ thể không ý thức được xuất xứ của chúng”. Đối tượng khám phá và chiếm lĩnh của vô thức là “hình thức khám phá tâm lí trong đó hình ảnh của hiện thực và thái độ của chủ thể đối với hiện thực cấu kết với nhau thành một thể thống nhất hòa nhập” [17;6]. Các dạng tồn tại của vô thức là thói quen và những trạng thái không thể giải thích được như mộng du, mê sảng hay những hành động không biết trước và không kiểm soát được. Lí thuyết Phân tâm học quan niệm vô thức là vùng chứa toàn bộ những nhu cầu bản năng bị dồn nén, cấm kị, không được phát lộ ra ngoài “là những lục địa tiềm ẩn, chôn vùi, dấu kín ngay trong mỗi chúng ta” [24;16]. Freud đặc biệt coi trọng biểu hiện của vô thức qua những giấc mơ bằng cả một hệ thống biểu tượng giải mã và những hành vi sai lạc, chủ yếu là những trạng thái mộng mị, mê sảng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Từ những khái niệm cơ bản về vô thức, có thể khái quát như sau: - Vô thức là lĩnh vực thuộc về tinh thần mang đậm dấu ấn của tâm linh, dự cảm. Nó nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức, nó thể hiện miền sâu tâm lí của con người. Vô thức thường xuất hiện trong trạng thái chấn động tinh thần, tâm lí... - Vô thức biểu hiện ở các dạng thức: mộng mị, giấc mơ, trạng thái mê sảng, những ẩn ức hay sự kiềm chế bản năng, những dục vọng, bản năng nguyên thủy của con người. Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có những miền không gian trong cõi vô thức: không gian của những giấc mơ, không gian dự cảm, không gian tâm linh. Không gian của vô thức thường được hiện lên qua dự cảm về ngày tận thế, về lời sấm truyền ngày tận thế, về sắc màu đỏ của máu và chết chóc trong Thoạt kỳ thủy. Nhìn không gian thủa Thoạt kỳ thuỷ, ta nhận thấy: “Nắng thoi thóp đỏ quạch rọi vào mặt” và “Dòng sông khựng lại. Nó bị kéo lên như tấm vải... và dòng sông bị dứt khỏi đôi bờ” [6;161]. Không gian bóng tối đi vào vô thức của Linh Sơn, trong mối quan hệ giữa con người với con người và “trong từng âm thanh, màu sắc, chuyển động của tự nhiên” [17;20]; “Linh Sơn nhiều người điên, họ hay tụ tập ở cột số hát í a” [6;16] và “chó tru ằng ặc. Những người điên cũng tru ằng ặc” [6;107]. Có thể nhận thấy biểu hiện của không gian cõi vô thức qua các yếu tố không gian mang ý nghĩa tâm linh của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương qua bảng tóm tắt sau: Bảng1.3. Khảo sát yếu tố không gian mang ý nghĩa tâm linh trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương Tên tác phẩm Không gian Những đứa trẻ chết già - Khi hai ngôi mộ của gia đình cụ Trường được chôn nơi đỉnh đồi lập tức có con chim đen ập về sinh sống, bay lượn cho đến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 khi kho cửa được mở. Người đi vắng - Sáng cả vùng thức dậy đã thấy vết chân ngài in trên đá. Lạ một nỗi vết chân mới in nửa đêm về sáng đã lạnh ngắt như hàng nghìn năm. - Ngài giáng là có chuyện nhưng lần này chẳng biết lành hay dữ. Lần ngài về gần đây nhất là năm Ất Tị, năm ấy ông Đội Cấn làm cuộc binh biến, cả Thái Nguyên chao đảo, sông Cầu rống suốt đêm... Giờ ngài lại về, một cái gì đó đang đến. - Thái Tuế xuất hiện: Đất quặn lên, tụt hẫng xuống sàng sang hai bên... Bầu trời vụt tối sầm lại, một tiếng thét của ai đó như âm thanh trầm trầm kéo dài xuống hố móng... đúng chỗ tay thợ vừa bổ cuốc xuống, một cái bọc lùng nhùng trồi lên lớp da nhẵn màu đất sét. Cái xác thịt đó lớn dần dần, chảy tràn sang hai bên phủ kín mặt móng và bắt đầu dâng cao như một khối bùn lỏng. Khi tiếng trầm trầm tắt đi, ánh sáng tăng một độ trở về bình thường. Tất cả mọi người đều giật mình kinh hãi. Cái móng biến mất. Mặt đất bằng phẳng như cũ, như chưa hề bị đào xuống sâu gần một mét. Thoạt kỳ thủy - Không khí mù mịt, cuồn cuộn. Tiếng đập tràn lan khắp nơi khô khốc, lanh lảnh, triền miên bất tận. - Trời nắng, xám, mê man như người hấp hối. Ngồi - Ở bờ nước sát với mép vườn nhà Trương có một vùng sáng kỳ lạ, nó long lanh, rờn rợn như có tấm gương hắt từ dưới đáy hồ lên. Đó chính là tinh rồng. Trí nhớ suy tàn - Ba vạch lượn song song xuất hiện. Như vậy, cả năm cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đã khảo sát đều có không gian tâm linh, không gian của cõi vô thức, mơ hồ, vô hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 nhưng vẫn tồn tại trong thế giới tinh thần của con người. Nguyễn Bình Phương đã sử dụng yếu tố kỳ ảo để khám phá thế giới tâm linh bí ẩn đó. Theo Từ điển tiếng Việt (NXB KHXH – 1991) định nghĩa: “Tâm linh là khả năng đoán trước được việc nên xảy ra theo quan niệm duy tâm”. Trong bài viết về Một phương diện đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau năm 1975, Nguyễn Thị Bình cho rằng: “Tâm linh có thể có sự tham gia của ý thức, nhưng thường là với một vai trò không thật rõ rệt. Toàn bộ cái đời sống bên trong gắn với tín ngưỡng, niềm tin, những thế lực siêu hình cùng các mối quan hệ bí ẩn của con người, những sức mạnh thuộc về “linh giác”, “trực cảm”, những khả năng kỳ lạ khoa học chưa giải thích được nhưng có thể diễn tả bằng nghệ thuật, những xúc cảm về cái linh thiêng cùng những khoảnh khắc vụt sáng của toàn bộ tâm thức như có sự mách bảo của một nhà thông thái vô hình, phải chăng đó là tâm linh ” [28]. Văn học nghệ thuật tìm đến với tâm linh như cách thể hiện quan niệm, tư tưởng về con người và hiện thực một cách sâu sắc, toàn diện ở mọi khía cạnh, đi sâu vào những vấn đề bí ẩn của loài người mà đến nay chưa có câu trả lời chính xác. Tâm linh là yếu tố liên quan tới tâm hồn, tinh thần, trực giác, linh giác, vô thức..., là một thế giới của niềm tin thiêng liêng mang màu sắc tôn giáo đầy bí ẩn. Tâm linh thể hiện khát vọng tự hoàn thiện, khát vọng tự giải thoát để tạo trạng thái cân bằng cho con người. Ngòi bút tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đã đưa người đọc nhập sâu vào cõi tâm linh như một con đường để chiếm lĩnh hiện thực, mảng hiện thực không thể trông, nhìn, cầm, nắm trực tiếp mà chỉ có thể cảm nhận bằng “linh giác”. Không gian của Những đứa trẻ chết già mang tính định mệnh, dự cảm bất an và thể hiện sự tha hoá trong quan hệ giữa thiên nhiên và con người ẩn hiện trong sự linh ứng của đất trời. Tính chất điềm báo: tự nhiên có con chim đen đến bay lượn quanh ngôi mộ, có các sự kiện, hiện tượng đặc biệt bí hiểm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 xảy ra... Vạn vật như đang đắm chìm trong thuở hồng hoang. Thiên nhiên, con người như đang trên đường dẫn tới sự huỷ diệt. Trong tiểu thuyết Người đi vắng: không gian có sự xuất hiện của vết chân thần thánh, khung cảnh thay đổi khi Thái Tuế hiện hình, dự cảm điều bất hạnh sẽ xảy đến với nhân vật. Ở đây, nhà văn đã miêu tả một hiện thực chứa đầy điều kỳ ảo, một cuộc sống thường nhật chất chứa sự hoang đường. Từ xưa tới nay, trong quan niệm của nhân dân ta thì Thần Thánh là một hiện tượng thuộc về đời sống tâm lí, được mọi người sùng kính và tôn thờ. Thái Tuế được coi là ông vua cai quản một vùng đất. Thái Tuế khi xây nhà động chạm tới long mạch của đất gợi một linh cảm về hậu quả khốc liệt giáng xuống con người. Thái Tuế chính là biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng của đất. Thiên nhiên có qui luật riêng của nó, con người không phải lúc nào cũng có thể biến đổi thiên nhiên hay có sức mạnh phi thường bắt thiên nhiên phải qui phục. Vì thế không gian vô thức trong Người đi vắng đã giúp nhà văn nêu một dự cảm không lành về môi trường sống nếu con người xâm phạm thiên nhiên một cách thô bạo, trắng trợn. Không gian của Thoạt kỳ thuỷ luôn gắn liền với bầu không khí u ám, sắc màu ảm đạm gợi ra viễn cảnh của cuộc sống âm u, lạnh lẽo hoang vu thời tiền sử. Con người như đang sống trong cơn quặn mình hấp hối, mê sảng và sắp đi đến chỗ diệt vong. Trong Ngồi, không gian chập chờn trong cõi vô thức của nhân vật Khẩn, Kim... cho ta cảm giác về một sự khác lạ, ma quái đang diễn ra giữa t._.trong những giấc mơ, trong trạng thái nửa say nửa tỉnh, nửa hư nửa thực, khi ranh giới giữa hiện thực và ảo giác bị xoá nhoà. Linh cảm luôn song hành trong cuộc đời nhân vật. Có thể do môi trường sống đầy những rủi ro, phức tạp, họ không thể thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt và căng thẳng cho nên luôn sống trong lo âu, sợ hãi và nhiều linh cảm. Biểu hiện của linh cảm khi rõ rệt, khi mơ hồ. Linh cảm nếu mơ hồ thì đó chỉ là những nét tâm lý thoáng qua ẩn hiện. Linh cảm rõ bao nhiêu thì hậu quả của nó càng đậm nét, khốc liệt bấy nhiêu. Linh cảm không phải sự duy tâm hoặc là hệ quả của đời sống nội tâm phức tạp mà nó mang tính tất yếu xã hội. Sống giữa bộn bề lo toan, cuộc sống đầy bất trắc, luôn cảnh giác đề phòng, luôn lo âu sợ hãi, con người dễ dự cảm điều bất an. Những linh cảm đó chưa đủ lớn và đủ sức để biến mỗi người trở thành ngoại cảm, tiên tri nhưng đó thực sự là năng lực kỳ diệu của con người. Nguyễn Bình Phương đã nhận thấy đằng sau vẻ ngoài có khi xộc xệch, bất cần, méo mó, dị dạng, vô cảm, thế giới tâm hồn của con người lại cực kỳ nhạy cảm. Môtip linh cảm chính là một phương tiện nhà văn dùng để biểu hiện sự phong phú của nội tâm con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 Trong thực tế, có những dự cảm xấu không xảy ra, song cũng có những linh cảm xấu không thể tránh được. Lúc đó, người ta thường vin vào số phận. Ngòi bút Nguyễn Bình Phương đã khai thác và bộc lộ cả những "phần tối" đó trong tâm linh mỗi người. Linh cảm là phương thức hữu hiệu để nhà văn vén bức màn huyền bí của cuộc sống. Xuất phát từ cảm quan nhạy bén với “phần khuất” của hiện thực, từ trái tim nhân hậu và đa cảm, nhà văn luôn thấp thỏm, lo âu cho sinh mạng con người. Tác giả đi vào con đường “linh cảm” để phát hiện và cảm thông cho những tâm hồn cô đơn, những ham muốn đáng thương hay những khát vọng không thành. Nhà văn không phải là kẻ đồng loã với “bóng tối” trong tâm linh mà là người đến để xoa dịu nỗi đau cho những tâm hồn bị tổn thương sâu sắc. Bên cạnh đó, Nguyễn Bình Phương cũng lên tiếng cảnh tỉnh con người về cuộc sống vốn có những cạm bẫy và bất hạnh khôn lường. Bởi vậy, con người chúng ta phải nhạy cảm với sự thật và mọi biến cố để phòng hoặc đối diện với chính nó và vượt qua nó. Nguyễn Bình Phương đã góp phần đổi mới phương thức phản ánh hiện thực qua việc sử dụng môtip linh cảm. Tuy nhiên, những biểu hiện của đời sống tâm linh con người vẫn còn mở ra nhiều khoảng trời mới, cần tiếp tục khám phá. 3.3. Sử dụng các yếu tố ngôn ngữ giàu khả năng gợi tả sự kỳ ảo Ngôn ngữ tiểu thuyết đương đại không chỉ là ngôn ngữ tả chân hay ngôn ngữ bay bổng mà theo Baktin: “Những tiếng nói và ngôn ngữ khác nhau được đưa vào tiểu thuyết và ở đó chúng được tổ chức thành một hệ thống nghệ thuật hoàn chỉnh” [37;128]. Cũng như nhiều cây bút đương đại khác, Nguyễn Bình Phương đã nỗ lực tìm tòi, đổi mới ngôn ngữ. Đọc tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, có người cho rằng: “... ma và con người, quỉ thần và con người biệt lập hoặc hội nhập vào nhau trong một thứ ánh sáng hoặc bóng tối với những liều lượng khó đoán định của phù thủy ngôn ngữ” [30;21]. Đúng vậy, bản thân ngôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 ngữ không mang chất kì ảo nhưng bàn tay sáng tạo của tác giả đã chọn lựa, nhào nặn, tinh luyện, chưng cất chúng để tạo nên “bầu khí quyển” kỳ ảo trong tác phẩm. Thế giới nghệ thuật kỳ ảo đã được Nguyễn Bình Phương tạo dựng thành công nhờ những “pháp thuật” từ ngữ đắc dụng của nhà văn. 3.3.1. Sử dụng phó từ mang tính chất đột biến Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương sử dụng khá cao các phó từ như: bỗng chốc, bỗng nhiên, tự nhiên, tự dưng, bỗng, đột nhiên... chỉ tính chất bất thường, đột biến của sự vật, hiện tượng. Đằng sau đó là những động từ mà khi chúng kết hợp với nhau tạo ra không khí kỳ ảo, ma quái cho câu chuyện và gây bất ngờ với người đọc. Đó có thể là hiện tượng kỳ bí, lạ lùng của thiên nhiên: “Cánh rừng làng Phan bỗng chốc xao động”; “bầu trời đột ngột nứt toác ra”. Không gian như tan ra hòa vào hư vô mênh mông “Căn phòng bỗng nhiên dãn ra, các bức tường biến mất, chỉ còn lại bốn phía mênh mông vô tận không đường chân trời” hay không gian được đẩy lên cao tạo chiều sâu thăm thẳm “Trần nhà bỗng dâng cao, nhòa đi, đẩy những bông hoa tan ra khỏi tầm mắt và mây xuất hiện. Mây vẩy cá trắng muốt dán kín nửa bầu trời trên đầu, một nửa ở ngang mắt thì xa thăm thẳm trong màu xanh nhạt”. Thiên nhiên biến ảo, trở nên kỳ bí, hoang đường: “Trăng to bằng cái đấu, sáng trắng ngày càng cao lên, khi tới giữa đỉnh thì đột nhiên bầu trời mang một vẻ uy nghiêm huyền bí”. Có khi phó từ đứng ở đầu câu gây cảm giác bất ngờ cao độ cho người đọc: “Thốt nhiên lũ chim đồng thanh ré lên rồi bị xé làm hai” [6;288] và “Bỗng trời đất rung ầm ầm, quả đồi chao bên nọ, chao bên kia”. Hoặc thuật lại hàng loạt các biến cố lạ lùng xảy ra ở làng Phan trong Những đứa trẻ chết già: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 “Cùng với bí mật quyến rũ đến ghê người, làng tự dưng bị lâm vào một tình trạng chưa từng xảy ra bao giờ. Đó là sự mất tiếng. Cứ về đêm, mọi âm thanh của người và vật biến mất” [3;57]. “Ngày 21, sông Linh Nham cạnh sạch. Ao nhà bà Liêm tự dưng đầy ắp nước, trong ao có con cá trê đỏ to bằng bụng chân, mắt mù, đuôi dài như chiếc khăn phu la” [3;86]. “Giờ Ngọ cùng ngày, trời trở lạnh dữ dội, cá ở sông Linh Nham chết nhiều vô kể. Có hai cây cổ thụ trong làng tự dưng đổ ập xuống cùng một lúc và tan ra thành bụi” [3;267]. “Giờ Thân, vết chân thú in ở mặt đá trong ngôi miếu nhà cô Nguyệt tự dưng ứa máu đầm đìa” [3;267]. “Đêm, đột nhiên dân làng nghe nhà bà giáo vọng ra tiếng của hai người đàn ông chạc tuổi nhau nói chuyện” [3;269]. Và sự xuất hiện biến hóa đột ngột của tự nhiên ở ngôi miếu trong lời kể của lão Việt trong Người đi vắng: “Hôm qua đứa cháu ở quê điện ra bảo ở góc trái đền tự nhiên trồi lên một hòn đá nhẵn có cả mắt, mũi, mồm, miệng” [4;221]. Nguyễn Bình Phương sử dụng các phó từ chỉ sự đột biến ở mức độ cao và có chủ ý. Các sự việc, hiện tượng, sự kiện diễn ra sau các phó từ chỉ sự đột biến đều bí ẩn, lạ lùng ghê sợ, chúng trở thành những “điềm dữ” với nhân vật. Trong cảm quan hiện thực của tác giả: cuộc sống đầy những biến hóa bất ngờ, những hiểm nguy luôn rình rập con người. Con người thật bé nhỏ, mong manh trước dòng đời bất trắc. Từ ngữ là phương tiện chuyển tải cái nhìn của nhà văn về hiện thực. 3.3.2. Sử dụng cụm từ giàu tính võ đoán Nguyễn Bình Phương sử dụng các cụm từ mang tính võ đoán như: hình như, lại đồn rằng, tuồng như... có tác dụng làm “nhòe hóa” sự việc. Những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 cụm từ võ đoán xuất hiện trong cảm nhận, cảm giác và đôi khi là do “giác quan thứ sáu” của nhân vật về sự kỳ bí của hiện thực và con người: “Hình như đất dưới chân lão rung rinh, chao đảo” [6;78]. Đó chính là một linh cảm dự báo điềm chẳng lành sẽ xảy ra. Một màn sương ma quái rùng rợn được gợi ra: “Hình như có những âm thanh lạ vọng ra từ bãi tha ma, tiếng rì rầm hổn hển lúc dâng lên hạ xuống...” [6;94]. Cụm từ “hình như” mang tính võ đoán nhưng thực tế lại để khẳng định hiện tượng có ma xuất hiện, gây cảm giác nửa tin nửa ngờ, vừa thực vừa ảo. Hay là sự nghi ngờ về nguồn gốc của tấm vải áo lạ kỳ của Minh: “Có một ai đó đã mang nó đến, phải, một ai đó, vô danh, bí ẩn. Không thể biết rõ về người mang đến nhưng có thể hình dung ra bàn tay cầm mảnh vải ấy, nó chẳng hề có bất cứ một mẩu chai nào, chẳng cả ám khói thuốc và không vết sẹo, dù là nhỏ ở các ngón tay thô dầy. Người mang mảnh vải đến có thể có một cái tên rất đẹp” [7;140]. Miêu tả được cụ thể cảm giác của cỏ cây “Đêm nay không mây, từ ngọn cỏ đến thân cây đến các gân lá tuồng như đang chìm trong cơn run rẩy thiêng liêng” [4;98]. Những cụm từ có ý nghĩa tình thái, thường đứng ở đầu câu (hoặc đầu vế câu) khuyết chủ ngữ giàu tính võ đoán tạo cho sự việc, hiện tượng ở ranh giới giữa thực và ảo. Đó là sự mờ hóa về hoàn cảnh xuất thân của nhân vật: “Lại đồn rằng Ngài về lúc nửa đêm cất tiếng sang sảng đọc sấm” [4;110] – thần thánh xuất hiện. Câu chuyện về số phận, bi kịch của một đôi lứa được hé mở: “Người ta đồn Tuyết mất tích mình biết Tuyết trôi đi” [4;128]. Câu văn được lặp lại ba lần trong câu chuyện của một tử thi trên chiếc băng ca để minh chứng cho một mối tình, một vụ án mà mãi mãi không bao giờ tìm ra đáp án. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 Nhà văn thường xuyên sử dụng các từ ngữ mang tính võ đoán để làm tăng tính kỳ ảo của sự kiện. Đó cũng chính là dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong kỹ thuật viết của tác giả: kết hợp nhuần nhuyễn, tự nhiên hai yếu tố thực - ảo. Tác giả biến cái ảo trở thành một phần hiện thực và tạo cho người đọc cảm giác tin vào hiện thực huyền ảo ấy. 3.3.3. Sử dụng những ký hiệu ngôn ngữ lạ Bên cạnh thủ pháp “tẩy trắng” thời gian, Nguyễn Bình Phương còn sử dụng thủ pháp “tẩy trắng” ngôn ngữ: đó là tạo mảng trắng trong đối thoại của nhân vật, hình thức nhại ngôn ngữ, những câu văn, đoạn văn bị tẩy trắng về mặt ngữ nghĩa... Một trong những thủ pháp “tẩy trắng” ngôn ngữ là cách thức tạo ra những kí hiệu ngôn ngữ lạ. Khảo sát tiểu thuyết Ngồi, ta thấy có sự xuất hiện lặp đi lặp lại của âm thanh “cốc” trong 18 chương trên tổng số 49 chương. Âm thanh này thường xuất hiện ở cuối chương. Duy chỉ ở chương thứ 34, nó được xen trong đoạn văn. Đó là những âm thanh có nhịp điệu khác nhau, độ dài ngắn cũng khác nhau; có khi chỉ là một chữ song cũng có khi dài đến 117 chữ. “cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc cốc” [7;157]. Những đoạn âm thanh này vang lên chủ yếu giữa cảnh đời thực với những thăng trầm, thường nhật của các sự kiện nơi công sở, khu dân cư, trong một gia đình... Có lúc nó được cất lên từ cảnh mơ mộng, hư ảo, huyễn hoặc. Tiếng “cốc, cốc” ấy có phải là tiếng gõ cửa không? Hoàn toàn không phải. Đó là tiếng gõ mõ phát ra từ ngôi nhà hàng xóm của Khẩn, ai đó đang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 gõ mõ tụng kinh. Những âm thanh “cốc, cốc” kéo dài xen vào cuộc đời của Khẩn, góp phần thể hiện cuộc sống đang diễn ra theo chiều hướng suy sụp. Tiếng mõ cứ bền bỉ ngân lên sau mỗi biến cố xảy ra như muốn cứu rỗi tâm hồn. Tiếng mõ cất lên khi nhân vật Quân mất tích, khi Thuý tìm đến với Nghĩa, với Khẩn, tiếng mõ sau đám tang bà nội Nhung... Những câu văn là chuỗi âm thanh “cốc cốc” vang lên như tiếng vọng từ tiềm thức để cứu rỗi “tính bản thiện” của con người. Tiếng gõ mõ xoáy sâu vào tâm trí nhân vật để mỗi nhân vật tự soi lại giá trị, ý nghĩa của mình trong cuộc đời này. Trong tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già có sự xuất hiện của những tiếng “lọc cọc lọc cọc” trong các phần Vô thanh với hình thức biểu hiện khác nhau, mỗi chỗ có nhịp điệu riêng. “Lọc cọc” là tiếng kêu phát ra từ chiếc xe trâu từ vô định và cũng chính là nhịp điệu rời rã của cuộc sống. Trong cảm nhận của nhà văn, nhiều khi cuộc sống không diễn ra theo một dòng chảy êm đềm mà đứt đoạn, rời rạc. Thiên chức của nhà văn là người kết nối những âm điệu đứt đoạn, rời rạc, kết nối những mảnh vỡ tâm hồn để tạo nên sự hòa điệu trong cuộc sống. Xuất hiện trong Người đi vắng là âm thanh vang vọng, day dứt của tiếng mọt, khi rào rào nghiến ngấu, khi đều đều dàn trải... Âm thanh cất lên từ hiện tại, vọng về từ ký ức hay dự cảm tương lai của nhân vật. Mỗi lần tiếng mọt rền rĩ cất lên là báo hiệu một sự kiện xấu đang diễn ra hoặc sắp xảy ra. Phải chăng đó là tín hiệu về sự tha hoá của nhân cách, về nguy cơ suy sụp tinh thần hoặc những bất trắc của cuộc sống, những điều đó nếu biết lắng nghe người ta sẽ linh cảm được. Trong tiểu thuyết Ngồi, có sự xuất hiện của một cái tên lạ bắt đầu từ trích đoạn sau: “... cúi xuống nhặt một xác chim đã cứng lên ngắm nghía (...). Những đám mây dày đặc vẫn lớp lớp bay tới bao kín lấy đỉnh cột đồng... thả xác con chim xuống, nhặt hòn đá to bằng chính đầu mình dùng hết sức bình sinh giáng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 mạnh vào cây cột đồng (...). Một con trâu thũng thẵng đi tới, khi cách cây cột đồng chừng hơn chục bước chân thì dừng lại giương đôi mắt lồi đen bóng nhìn... (...). Con trâu ngúc ngoắc đầu phát ra những âm thanh ọ ẹ khó hiểu... dỏng tai cố gắng phán đoán. Nước đỏ rực lừ đừ miết về Nam với tinh thần không thể ngăn cản... ngó xuống, giật mình khi thấy những khuôn mặt mờ ảo nhưng hung hãn đang lao đi, dừng lại, lao đi tuân theo mệnh lệnh đều đặn khô cứng phát ra từ hình chiếu lộn ngược của cây cột đồng. Một cảm giác chờn chợn nổi dậy và lan toả khắp cơ thể... Giao Chỉ. Bằng sự nhẫn nại ghê gớm, ... hạ mình xuống, chân trái ...n gập lại ngả ngang bằng với mặt đất, chân phải ...ẩn co lên ép vào bụng, tay trái ...hẩn bẻ vuông góc, bàn tay ngửa, các ngón mở ra như những cánh hoa đang tàn, bàn tay phải của Khẩn với các ngón gân guốc như bộ rễ già nua bọc kín lấy đầu gối chân phải.” [7;10] Trong trích đoạn trên, tác giả dùng dấu ba chấm (...) để thay cho tên của nhân vật và “gợi ra ý nghĩa về cuộc đời, cuộc đời ngắn ngủi chỉ chiếm một phần nhỏ trong quãng chiều dài thời gian vô tận” [32]. Đây là một đặc điểm mới lạ của Nguyễn Bình Phương khi nhà văn dùng để thay tên cho nhân vật. Rồi tên nhân vật hiện dần ra qua các chữ cái nhưng lại theo một qui luật ngược là hiện dần từ ký tự cuối của một cái tên đến ký tự đầu. Rồi sau một hành trình “xuất hiện”, “nhập thế”, “tĩnh toạ” thì cái tên Khẩn lại trở về với dáng hình ban đầu của mình ẩn hiện trong dấu ba chấm (...). Mỗi khi ngồi vào máy vi tính, Khẩn đã nhận thấy, việc xoá một cái tên, kể cả tên của chính mình dễ như trở bàn tay; khi xuất hiện thì từ từ còn biến mất thì nhanh chóng. Cũng tương tự là sự biến mất của một nhân vật và một cái tên trong đoạn văn sau: “Mặt hồ chới với vài ba tia nắng muộn. Trƣơn... vẫn múa may quay cuồng chửi bới cãi cọ với đối thủ. Bất ngờ Trƣơ... lao ra cửa, tao bới lên này, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 ối a này này. Trƣ... làm động tác xúc đất từ chỗ nọ đổ sang chỗ kia. Nhìn này ối a thằng kia. Tr... lại chạy nhao lên giường ngồi bó gối sợ sệt nhìn ra cửa sau đó T... đột ngột thăng vút lên, bắt hai chân vào nhau rồi rơi tự do. Chiếc giường rung bật lên như bị cả bầu trời sập xuống. Ta đi đây. Tiếng nói phẫn nộ, thảng thốt. Khẩn và Liên giật mình chạy vào đã thấy ... ngồi khoanh chân bằng tròn, hai tay thu vào lòng, đầu cúi gằm nhìn sâu xuống mắt cá chân mình.” [7;277]. Những cái tên xuất hiện trong những dẫn chứng trên nói lên sự gia công từ ngữ của nhà văn để thể hiện suy ngẫm về cuộc đời. Mỗi cái tên là đại diện cho một con người, một số phận. Nhưng không phải ai cũng để lại ý nghĩa, dấu ấn cho đời mà thực chất giữa hàng ngàn con người thì sự tồn tại của mỗi người chỉ như một dấu chấm vô cùng nhỏ bé và có khi vô nghĩa. Con người ta có thể biến mất hoặc thay đổi không ngờ trước, đó là điều thường nhật mà mỗi chúng ta phải chấp nhận. Với sự biến mất của những cái tên, Nguyễn Bình Phương đã cho ta một quan niệm phủ nhận sự thống trị vĩnh viễn của mỗi con người trong cõi đời. Tất cả tạo nên ý nghĩa về sự hiện hữu của con người, giới hạn con người, chỗ đứng của con người trong cuộc đời. Trong vòng mấy thập niên trở lại đây, càng về những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, yếu tố kỳ ảo càng gia tăng trong văn học. Bởi bên cạnh sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì nhân loại cần đến một “hình thái thẩm mĩ kỳ ảo siêu nhiên”, một loại hình văn học của trí tưởng tượng để tìm lại trạng thái cân bằng cho đời sống tâm lý, để đi sâu vào khai thác và chiếm lĩnh đời sống tâm linh đầy bí ẩn của con người. Nhà văn dùng yếu tố kỳ ảo như một phương tiện để chuyển tải nội dung phong phú của cuộc sống, sự đa dạng nhiều chiều của hiện thực, thế giới tinh thần phong phú của con người. Nguyễn Bình Phương đã đưa văn mình hòa nhập vào dòng chảy chung đó và nhà văn đã tạo được một sắc diện riêng bằng các phương thức tạo dựng yếu tố kỳ ảo hiệu quả, sáng tạo, hấp dẫn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 KẾT LUẬN 1. Sau thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết Việt Nam đã đạt được sự cách tân về nhiều phương diện: cái nhìn hiện thực, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu, nhân vật...; và nổi bật trong đó là thủ pháp lạ hoá bằng những yếu tố kỳ ảo, huyền thoại. Tăng cường yếu tố kỳ ảo trong sáng tác là một hướng thể nghiệm, tìm tòi đổi mới của tiểu thuyết thời kỳ này. Các nhà văn sử dụng yếu tố kỳ ảo làm phương thức khám phá chiều sâu hiện thực, lí giải bí ẩn của đời sống và thế giới tâm hồn con người. Lợi thế đặc biệt của cái kỳ ảo đã được phát huy để nhà văn có điều kiện thâm nhập vào những vấn đề nhạy cảm của cuộc sống và thế giới tinh thần của con người như: tín ngưỡng, tôn giáo, tình dục... Tuỳ theo sở trường và cảm nhận riêng, mỗi nhà văn lại tìm đến những cách thức phản ánh cuộc sống khác nhau, những phương thức “lạ hoá” khác nhau. Bên cạnh đó, trong cuộc hành trình “hội nhập” của đất nước, do ảnh hưởng của tư duy văn học hiện đại của thế giới, trực tiếp là ảnh hưởng của khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong văn học hậu hiện đại phương Tây. Các nhà văn càng có nhu cầu đổi mới tư duy và kĩ thuật tiểu thuyết. Yếu tố kỳ ảo trong văn học đã trở thành thủ pháp hữu hiệu giúp nhà văn khám phá hiện thực đời sống xã hội và con người ở những chiều kích mới. Nguyễn Bình Phương cũng đã góp phần đem lại cho văn xuôi đương đại một diện mạo mới. 2. Yếu tố kỳ ảo trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thể hiện tập trung ở các yếu tố không gian, thời gian, nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ. Về yếu tố kỳ ảo trong không gian, chúng tôi nhận thấy rằng, nhà văn chú ý tạo dựng kiểu không gian mang màu sấc âm giới với vô vàn lời của người âm cất lên; không gian của núi rừng hoang vu huyền bí và không gian chập chờn trong cõi vô thức. Đồng hiện cùng không gian kỳ ảo là dòng chảy của thời gian biến ảo với sự hư ảo của thời gian, thời gian trong cõi vô thức. Thế giới nhân vật kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương là những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 nhân vật người điên, nhân vật biến hình, nhân vật chuyển kiếp hư ảo và ma quái. Bằng bút pháp kỳ ảo, tác giả đã thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người: con người cô đơn, con người chứa nhiều bí ẩn cần khám phá. Ở phương thức xây dựng yếu tố kỳ ảo, Nguyễn Bình Phương chú ý xây dựng kết cấu lồng ghép cốt truyện, góp phần tạo dựng không khí kỳ ảo trong tác phẩm. Nhà văn cũng đã xây dựng hệ thống những hình ảnh nghệ thuật và môtip trần thuật mang ý nghĩa biểu tượng. Các môtip linh cảm, môtip giấc mơ cho thấy những khả năng kỳ lạ ở con người và mơ ước của con người về cuộc sống. Về ngôn ngữ, Nguyễn Bình Phương sử dụng hiệu quả phó từ mang tính chất đột biến, những cụm từ giàu tính võ đoán góp phần “nhoè hoá” nhân vật và huyền thoại hoá những sự vật, hiện tượng thường nhật. Phương thức ngôn ngữ kỳ ảo đặc biệt của Nguyễn Bình Phương là cách thức tạo “mảng trắng” ngôn ngữ trong đoạn văn. Đó là những mảng ký hiệu âm thanh rời rạc hay triền miên không có giá trị ngữ nghĩa. Sự xuất hiện, mất đi một cách kỳ lạ của những ký hiệu ngôn ngữ cũng góp phần miêu tả sự kỳ ảo nhân vật. 3. Yếu tố kỳ ảo góp phần quan trọng tạo nên sự đổi mới trong tư duy tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương so với tiểu thuyết sử thi thời kỳ chiến tranh Cách mạng. Mượn yếu tố kỳ ảo, nhà văn đã nói lên nhiều sự thật về cuộc sống và con người. Đó là những con người với nỗi cô đơn, lạc lõng, lạc lõng ngay trong gia đình mình, thôn xóm mình, sống trong sự hờ hững của đồng loại và lạc lõng với chính bản thân mình - một căn bệnh tinh thần khó trách của con người thời hiện đại, hậu quả của quá trình “thương mại hoá”, “số hoá” các mối quan hệ trong cuộc sống. Nguyễn Bình Phương cũng mạnh dạn chỉ ra những tham vọng về sự giàu sang, danh vọng của con người đã huỷ diệt chính mình, làm mất cái sơ tâm nguyên thuỷ trong sáng. Thật đáng sợ khi con người đang tan rã ngay trong đời sống cộng đồng, con người tự đánh mất mình, chỉ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 còn là những cá thể mong manh dẫn tới bị điên, bị vật hoá, dị hoá; con người bị suy tàn trí nhớ và chỉ còn là những cá thể vô nghĩa, trống rỗng. Qua phương thức kỳ ảo, Nguyễn Bình Phương cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối trong xã hội: con người đang tự đầu độc chính môi trường sống của mình, đang tự huỷ hoại mình bằng bạo lực mông muội (hành vi, hành động giống như thời kỳ bán sơ khai), bằng những ham muốn vô độ và sự vô cảm. Hậu quả dẫn đến là con người hoá điên, con người hoá vật. Từ đó giúp chúng ta nhận thức rằng đâu phải xã hội văn minh hơn thì con người đều hoàn thiện, tốt đẹp. Còn bao nhiêu điều nhức nhối, bao hành vi cần điều chỉnh, bao căn bệnh cần chữa trị và những môi trường sống cần tiếp tục được cải thiện. Cần phải khắc phục để chống lại căn bệnh “nhiễm trùng” xã hội. Bởi nếu không khắc phục, xã hội của chúng ta sẽ rơi vào bi kịch của “Những đứa trẻ chết già”, trở lại thời “Thoạt kỳ thuỷ” hoặc chỉ còn là những “Trí nhớ suy tàn”. Xuất phát từ cảm quan nhạy bén với mặt trái của hiện thực, từ trái tim nhân hậu và đa cảm, nhà văn “mang bản mặt thiên bẩm của nỗi buồn ấy” luôn thấp thỏm, lo âu cho sinh mạng của con người. Đằng sau những yếu tố kỳ ảo, những bộ mặt kì dị trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương là tiếng nói nhân văn đầy trách nhiệm với cộng đồng. Thế giới địa phủ, núi rừng hoang vu, lạnh lẽo, kiểu nhân vật người điên, bóng ma, người biến dạng phản ánh "cái nhìn bi kịch" của Nguyễn Bình Phương, cái nhìn nhạy cảm với phần khuất tối, bất trắc của cuộc đời. "Cái nhìn bi kịch" vén bức màn ảo tưởng cuộc đời, cho thấy con người phải đương đầu với biết bao thế lực bạo tàn, hắc ám; đương đầu với định mệnh, với sự tàn ác của kẻ khác; đương đầu với nhược điểm của chính mình. Kết thúc "bi kịch" luôn là đau thương (điên, mất tích, chết thê thảm, sống cô đơn...) nhưng người ta nhận thấy chính những đau thương đó đã chiếu sáng đường đi cho con người và cuộc đời; và nhờ đó, cõi nhân sinh được bình ổn và sáng đẹp hơn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 Nhờ đó, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương làm rõ hơn đặc trưng thể loại tiểu thuyết; phản ánh những cá nhân tự ý thức đang vùng vẫy giữa những mâu thuẫn của cuộc sống thực tế; người viết tiểu thuyết thực sự là “nhà văn của cuộc sống hôm nay". 4. Việc nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đã góp phần khẳng định vai trò của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại và định hướng cách thức tiếp cận bộ phận văn học này. Chúng ta không nên đọc tiểu thuyết kỳ ảo và tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương theo cách đọc truyền thống theo trình tự cốt truyện, tình tiết, diễn biến thời gian của truyện. Có lẽ cách tiếp nhận tiểu thuyết của nhà văn đạt hiệu quả nhất là tìm ra hệ quy chiếu giữa chủ đề tư tưởng của tác phẩm với các phương thức biểu đạt mà nhà văn sử dụng để nhận thức, khám phá ý nghĩa nghệ thuật của nó. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy, không phải tất cả bạn đọc đều có thể tìm ra hệ quy chiếu đó, có thể “giải mã” yếu tố kỳ ảo mà nhà văn đã tạo dựng. Vì thế, có người đã xếp tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương vào loại văn “kén độc giả”; hoặc có người tỏ thái độ “phản cảm”. Trong những trường hợp “hi hữu” đó, câu hỏi đặt ra là nhà văn nên thay đổi lối viết hay người đọc cần thay đổi nhãn quan tiểu thuyết và quán tính cảm thụ văn học của mình? Chúng tôi nghĩ rằng, câu trả lời này và nhiều vấn đề của văn học kỳ ảo còn ở phía trước. Có lẽ vì thế, hành trình sáng tác, thưởng thức và nghiên cứu văn học sẽ mãi mãi là dòng chảy không cùng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC 1. Nguyễn Bình Phương, (1991), Vào cõi, Nxb Thanh niên. 2. Nguyễn Bình Phương, (1992), Bả giời, Nxb Quân đội nhân dân. 3. Nguyễn Bình Phương, (1994), Những đứa trẻ chết già, Nxb Văn học. 4. Nguyễn Bình Phương, (1999), Người đi vắng, Nxb Văn học. 5. Nguyễn Bình Phương, (2000), Trí nhớ suy tàn, Nxb Thanh niên. 6. Nguyễn Bình Phương, (2004), Thoạt kỳ thuỷ, Nxb Văn học. 7. Nguyễn Bình Phương, (2006), Ngồi, Nxb Đà Nẵng. 8. Tạ Duy Anh, (2004), Thiên thần sám hối, Nxb Đà Nẵng. 9. Hồ Anh Thái, (2005), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng. 10. Võ Thị Hảo, (2005), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ. 11. Nguyễn Việt Hà, (2007), Cơ hội của chúa, Nxb Hội Nhà văn. 12. Phạm Thị Hoài, (1998), Thiên sứ, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. 13. Thuận, (2007), T mất tích, Nxb Hội Nhà văn. 14. Nguyễn Khắc Trường, (2002), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà văn. 15. Nguyễn Huy Thiệp, (2005), Truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn. II. SÁCH BÁO – TẠP CHÍ, TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 16. Lại Nguyên Ân (biên soạn), (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội 17. Đặng Thị Lan Anh, (2005), Cuộc thăm dò cái vô thức trong Thoạt kỳ thuỷ của Nguyễn Bình Phươn., Báo cáo khoa học ĐHSP Hà Nội. 18. Nguyễn Thị Bình, (1999), Một vài đặc điểm của tiểu thuyết Mới, TCVH số 6. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 19. Lê Nguyên Cẩn, (1999), Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac, Nxb ĐHSP Hà Nội. 20. Jean Chevalier, Alain Cheerbrant, (1999), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Nxb Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du. 21. Đoàn Ánh Dương, (2008), Nguyễn Bình Phương, “lục đầu giang” tiểu thuyết, TCVH số 4. 22. Đặng Anh Đào, (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb ĐHQG Hà Nội. 23. Đặng Anh Đào, (2008), Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam, TCVH số 8. 24. S. Freud, C.Jung, E.Fromm, R.Assagioli, (2004), Phân tâm học và văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá thông tin. 25. Hoàng Cẩm Giang, (2007), Cấu trúc thể loại tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, Luận văn Thạc sĩ, ĐHQGHN. 26. Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan Hương, Võ Thị Thanh Hà, Thế giới nghệ thuật tạ Duy Anh, (2007), Nxb Hội Nhà văn. 27. Nguyễn Đức Hạnh, (2008), Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 – 1975 nhìn từ góc độ thể loại, Nxb Giáo dục. 28. Nguyễn Chí Hoan, (2004), Cấp độ hiện thực và sự hão huyền của ý thức trong Thoạt kỳ thuỷ, www.evan.com.vn. 29. Nguyễn Mạnh Hùng, (12/7/2003), Người đi vắng, ai đọc Nguyễn Bình Phương hay nỗi cô đơn của tiểu thuyết cuối thế kỷ, www.evan.com. 30. Đỗ Thu Hương, (2004), Phương thức huyền thoại hoá như một phương thức hữu hiệu nhất để biểu hiện đời sống tâm linh của con người, KLTN. 31. Phùng Văn Khai, (2007), Tản mạn Nguyễn Bình Phương (Chân dung văn học), Nxb Văn học. 32. Thụy Khuê, Nguyễn Bình Phương, www.thuykhue.free.fr Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 33. Thụy Khuê, (2003), Thoạt kỳ thuỷ trong vùng đất cậm cam hoang vu của Nguyễn Bình Phương, Talawas. 34. Phùng Diệu Linh, (2004), Cấu trúc tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ của Nguyễn Bình Phương, Báo cáo khoa học. 35. Lê Nguyên Long, (2006), Về khái niệm cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong nghiên cứu văn chương, tạp chí NCVH số 9. 36. Phương Lựu (chủ biên), (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. 37. M.Bakhtin, (2003), Lý luận tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn. 38. Nhiều tác giả, (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb Hồ Chí Minh. 39. Nhiều tác giả, (2007), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục. 40. Hoàng Thị Quỳnh Nga, (2004), Lời câm của nhân vật Tính trong tiểu thuyết thoạt kỳ thuỷ của Nguyễn Bình Phương, Báo cáo khoa học. 41. Hoàng Thị Quỳnh Nga, (2006), Dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương, KLTN. 42. Nguyễn Bình Phương, (2001), Tôi không xây dựng một nhân vật điển hình, Báo thể thao và văn hoá số 4/5. 43. Hồ Bích Ngọc, (2006), Nguyễn Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thể loại để hiện đại hoá tiểu thuyết, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội. 44. Trần Đình Sử, (2000), Thi pháp học, Nxb Văn học. 45. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, (2008), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội. 46. Đoàn Cầm Thi, (18/5/2004), Sáng tạo văn học, giữa mơ và điên. Đọc Thoạt kỳ thuỷ của Nguyễn Bình Phương, www.evan.com.vn. 47. Bùi Thị Thu, (2005), Một số đặc điểm đáng chú ý của tiểu thuyết Việt Nam trong những năm gần đây, KLTN. 48. Hàn Thuỷ, Đọc Thoạt kỳ thuỷ của Nguyễn Bình Phương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 49. Lộc Phương Thuỷ, (2005), Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX, truyền thống và cách tân, Nxb Văn học. 50. Phùng Văn Tửu, (2006), Những hướng đổi mới của văn học kỳ ảo thế kỷ XX, TCNCVH số 5. 51. Phùng Văn Tửu, (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại – Những tìm tòi đổi mới, Nxb KHXH. 52. Bùi Thanh Truyền, (2006), Sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam, NCVH số 11. 53. Nguyễn Thị Thanh Vân, (2007), Đặc sắc của thể tài yêu ngôn, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 1. Nguyễn Thị Ngọc Anh, “Một số suy nghĩ về vấn đề tâm linh trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương”, tạp chí văn nghệ công nhân, số 68, tháng 8 năm 2008. 2. Nguyễn Thị Ngọc Anh, “Một số suy nghĩ về sự linh cảm trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương”, Văn nghệ Thái Nguyên, số 17, ngày 10 tháng 9 năm 2008. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9601.pdf
Tài liệu liên quan