Lời mở đầu
Với đặc điểm 80% dân số nước ta sống ở nông thôn và trên 70% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, việc phát triển toàn diện nông thôn có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta. Kinh nghiệm trên thế giới đã chỉ ra rằng nếu không phát triển nông thôn thì không một nước nào có thể phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài.
Thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông thôn là một tất yếu trong quá trình cô
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1723 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông thôn ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nghiệp hoá và hiện đại hoá nước ta nhằm:
Thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho bộ phận dân cư khu vực nông thôn, tăng khả năng tích luỹ nội bộ từ nông thôn và nâng cao khả năng đầu tư vào khu vực nông thôn
Mở rộng thị trường, tạo cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và các ngành kinh tế khác ở nông thôn cũng như trong cả nước.
Giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội ở nông thôn, đặc biệt là vấn đề việc làm, khai thác nguồn nhân lực ở mỗi địa phương, khắc phục tình trạng chênh lệch không đáng có giữa các vùng, các dân tộc.
Thực hiện đô thị hoá nông thôn, giảm bớt sức ép của dòng di dân từ nông thôn chuyển vào các đô thị, tạo đIều kiện để các đô thị phát triển thuận lợi.
Chương I. Những vấn đề chung về công nghiệp hoá-hiện đại hoá và công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông thôn.
I. Tính tất yếu của công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
1. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Khái niệm.
Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Tính tất yếu của công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Tất cả các nước khi tiến lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua thời kỳ quá độ và tiến hành xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Có 2 loại quá độ lên chủ nghĩa xã hội: quá độ tuần tự và quá độ tiến thẳng.
ở các nước quá độ tuần tự hay còn gọi là những nước quá độ từ chủ nghiã tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhưng cũng đã có tiền đề vật chất là nền đại công nghiệp cơ khí do chủ nghiã tư bản để lại. Vì vậy, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, những nước này chỉ cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, ứng dụng thành tựu của nó vào sản xuất, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghiã về quan hệ sản xuất, phân bố và phát triển sản xuất một cách đồng bộ trong cả nước. Thực chất của quá trình này là biến những tiền đề vật chất do chủ nghĩa tư bản để lại thành cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở trình độ cao hơn.
ở các nước tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản như ở nước ta, sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chât kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội được thể hiện bằng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình biến đổi một nước có nền kinh tế lạc hậu trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Qua các kì đại hội VI,VII,VIII Đảng ta luôn xác định công nghiệp hoá hiện đại hoá là một nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội lần thứ IX của đảng Cộng sản Việt Nam lại một lần nữa xác định mục tiêu cho những năm trước mắt: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; tập trung sức xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và công nghệ cao sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kĩ thuật công nghệ tiên tiến cho các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đáp ứng được nhu cầu quốc phòng, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp”.
2. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
2.1. Khái niệm
Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp và bộ mặt kinh tế –xã hội nông thôn, biến lao động thủ công thành lao động cơ giới, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hàng hoá; là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp nhằm khai thác mọi tiềm năng tạo ra năng suất lao động, hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất trong nông nghiệp nông thôn, từ đó biến đổi bộ mặt kinh tế-xã hội nông thôn tiến gần đến thành thị.Trong đó:
- Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật, công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp.
2.2. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn.
Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn bao gồm:
- Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế cho lao động thủ công.
- áp dụng phương pháp quản lý mới, hiện đại tương ứng với công nghệ và thiết bị vào nông nghiệp nông thôn.
- Tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị và công nghệ mới vào nông thôn.
II. Một số nhận định về tình hình nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.
1. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng đặc biệt là lương thực nhưng chất lượng nông sản còn thấp, khả năng cạnh tranh còn yếu kém.
Từ năm 1981 đến nay, nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình quân hàng năm là 4,5%. Năm 2000 sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp phát triển toàn diện tăng bình quân 5%. Sản xuất lương thực tăng nhanh, bình quân mỗi năm tăng khoảng 1,3 triệu tấn. Lương thực bình quân đầu người tăng từ 370 kg (năm 1995) lên 435 kg (năm 2000). Năng xuất lúa từ 32 tạ/ha (năm 1990) lên 43 tạ/ ha (năm 2000). Sản xuất mầu cũng ổn định, nhất là ngô. Năm 1995 diện tích cả nước mới đạt 55 vạn ha, năng suất 21 tạ /ha, sản lượng 1,184 triệu tấn. Đến năm 1999 diện tích ngô 69 1 vạn ha, năng suất 25 tạ/ha, sản lượng 1,75 triệu tấn. Cây công nghiệp, cây ăn quả có bước phát triển khá bình quân 10 năm1990-1999 so với bình quân 5 năm trước đó: sản lượng lạc tăng 74% cà phê nhân tăng 2,8 lần, cao su tăng 87%, hồ tiêu tăng 68%, chè tăng 27,3%, bông tăng 2,83 lần. Cây ăn quả cả nước năm 1999 đạt 512,8 nghìn ha.
Chăn nuôi có bước tăng trưởng khá cao và ổn định. Bình quân 10 năm 1990-2000 so với bình quân 5 năm trước đó: đàn lợn tăng 20%, bò tăng 10%, sản lượng trứng tăng 33%.
Thuỷ hải sản tăng liên tục. Hoạt động khai thác thuỷ sản trên sông, trên biển phát triển mạnh. Đến năm 2000 cả nước có 229,9 nghìn hộ dân trang bị 7150 tầu đánh cá cơ giới.
(Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12 năm 2000, trang 6,7,8)
Tuy nhiên do sản xuất các mặt hàng nông sản tăng nhanh so với nhu cầu trong nước khiến cho sản lượng hàng hoá cần được xuất khẩu tăng lên. Vì vậy giá cả nông sản phần lớn phụ thuộc vào xuất khẩu. Trong thời gian qua một số mặt hàng nông sản giá xuống thấp: lúa gạo, cà phê, tiêu, … chủ yếu là do xuất khẩu kém hiệu quả. Chính vì vậy để phát triển nông nghiệp chúng ta cần chú trọng đến tiêu thụ sản phẩm, giảm khó khăn cho người nông dân. Muốn giải quyết được vấn đề này cần phải thay đổi cơ cấu và chất lượng sản giống, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến và đồng bộ từ sản xuất đến chế biến, bảo quản để nâng cao chất lượng hàng hoá. Bên cạnh đó để nâng cao khả năng cạnh tranh các mặt hàng nông sản, chúng ta phải đa dạng hoá sản phẩm, tập trung phát triển những mặt hàng chiến lược dựa vào lợi thế so sánh giữa các vùng sản xuất hàng hoá.
2. Hình thành các khu vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp tập trung
Việt Nam đã hình thành các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung như: lúa, cao su, cà phê … nhưng nhìn chung vẫn còn phân tán, manh mún, qui mô hộ gia đình nhỏ bé, trước mắt có thể có hiệu quả nhưng về lâu dài thì sẽ là một cản trở cho quá trình công nghiệp, hoá hiện đại hoá.
Trong khi các vùng chuyên canh về cao su, cà phê, chè, tiêu đã khá ổn định thì các vùng chuyên canh khác còn trong quá trình hình thành, ít về số lượng, qui mô nhỏ, chưa ổn định. Các vùng chuyên canh cây ăn quả, chăn nuôi gia súc gia cầm chủ yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống, thiếu sự tác động của khoa học công nghệ. Hiện nay cả nước có tới hàng triệu thửa ruộng nhỏ, manh mún tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và miền trung. Những thửa ruộng này chỉ phù hợp với sản xuất bằng lao động thủ công. Đây chính là một trở ngại lớn của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
3. Nông nghiệp nước ta đã bước đầu được thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, cơ khí hoá, điện khí hoá, áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ nhưng cơ sở hạ tầng còn thấp, lao động thủ công vẫn còn khá phổ biến, trình độ khoa học công nghệ còn thấp so với thế giới.
Trong những năm qua nhà nước và nhân dân đã thực hiện nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên chất lượng các công trình còn thấp cần tiếp tục được tu bổ, nâng cấp, xây dựng mới. Hiện nay chúng ta đã hình thành một hệ thống các công trình phân bố trên phạm vi rộng với 743 hồ chứa nước lớn và vừa, 1017 đập dâng, 4716 cống tưới tiêu, 1796 trạm bơm đIện và hơn 2000 trạm biến thế chuyên dùng cho thuỷ lợi. Đã xây dựng được mạng lưới giao thông nông thôn phát triển theo chiều sâu và rộng. Năm 1994 tỷ lệ xã có đường ô tô về đến trung tâm xã là 86,5%, năm 1999 tăng lên 95%, khoảng 9777 xã. Tuy nhiên đường giao thông lạc hậu đã gây ách tắc về giao lưu hàng hoá trên thị trường. ĐIện đã xuống được thôn xóm nhưng chất lượng còn thấp và giá cả cao so với thu nhập của người dân nông thôn. Năm 1999 có 8 894 143 hộ ở nông thôn có đIện dùng, đạt 69,3% số hộ nông thôn được dùng đIện lưới quốc gia (Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12 năm 2000 trang 7).
Việc sử dụng các loại hoá chất trong nông nghiệp nước ta ngày một tăng. Mặc dù các loại hoá chất đã góp một phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng nông sản, nhưng cũng đặt ra những vấn đề về môi trường, về sức khoẻ người tiêu dùng, do vậy cần phải hướng dẫn và quản lý chặt chẽ việc sử dụng các loại hoá chất trong nông nghiệp.
Nhờ việc ứng dụng thành tựu cách mạng sinh học trong những năm gần đây, chúng ta đã tạo ra nhiều giống cây trồng, cây lương thực, cây lâm nghiệp, đặc biệt là các loại giống lai có khả năng thích nghi với thời tiết tốt và cho năng suất cao. Trong lĩnh vực chăn nuôi và thuỷ sản, chún ta đã có những giống lợn có tỷ lệ nạc cao, gà công nghiệp có tốc độ sing trưởng nhanh, tốn ít thức ăn. Tuy nhiên trình độ áp dụng thành tựu cách mạng sinh học của nước ta còn thấp nên chưa tạo được các bước đột phá.
4. Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản có bước tiến bộ đáng kể, nhưng còn nhỏ bé và ở trình độ thấp
4.1. Chế biến nông sản
Công nghiệp chế biến lâm sản ở nước ta bước đầu đã vượt qua những khó khăn của thời kỳ đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường và đã có những tiến bộ. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến nông sản đã đi vào đầu tư xây dựng nguyên liệu, đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng thêm cơ sở và nâng cao năng suất, làm cho năng lực chế biến nông sản tăng nhanh, đặc biệt là công nghiệp chế biến đường. Các doanh nghiệp đã xúc tiến nhanh việc tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước, bố trí lại sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng thị trường. Hiện nay đã có một số nhà máy xay xát, đánh bóng, phân loại gạo, chế biến đường, cao su… mới được xây dựng, trang thiết bị hiện đại song số lượng còn ít.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực chế biến nông sản còn nhiều mặt yếu kém. Nổi bật là:
- Tỷ trọng nông sản được chế biến còn thấp
- Phần lớn các cơ sở chế biến lúa gạo, chè, mía… được xây dựng từ lâu, quy trình công nghệ lạc hậu
- Chất lượng nông sản chế biến còn thấp, hiệu quả chế biến còn chưa cao nên sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém khiến cho người nông dân gặp nhiều thiệt thòi.
4. 2. Chế biến lâm sản.
Công nghiệp chế biến gỗ nước ta đã phát triển thành một mạng lưới toàn quốc gồm hơn 800 doanh nghiệp cả trong và ngoài nước. Mặc dù các doanh nghiệp đã cố gắng đầu tư chiều sâu, nhập thiết bị công nghệmới để tinh chế và nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng nhìn chung công nghiệp chế biến gỗ ở nước ta còn ở trình độ thấp, sản xuất chủ yếu ở qui mô nhỏ, phân tán, sản phẩm chủ yếu là gỗ xẻ và đồ mộc các loại từ gỗ nguyên chiếm tới 68,5% trong khi đồ mỹ nghệ là 3%. Tuy nhiên việc kết hợp sử dụng công nhân với tay nghề cao đã làm hàng lâm sản chế biến ở nước ta có khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường ở một số mặt hàng như thị trường đồ gỗ ngoài trời ở EU.
4.3. Chế biến thuỷ hải sản
Công nghiệp chế biến thuỷ hải sản ở nước ta chủ yếu vẫn chỉ là làm sạch, bảo quản và đóng hộp. Công nghệ chưa cao và còn thủ công. Tuy nhiên ngành thuỷ sản vẫn là ngành sản xuất mũi nhọn với mức tăng trưởng cao, giải quyết nhiều công ăn việc làm. Năm 1999 giá trị xuất khẩu thuỷ sản đạt 979 triệu USD, tăng 57,6% so với năm 1995.
5. Ngành nghề nông thôn đang phát triển nhanh chóng, đóng góp quan trọng trong việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn, nhưng công nghệ kỹ thuật và chất lượng sản phẩm thấp .
Hiện nay ở nông thôn nước ta có nhiều cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, chế tạo, sửa chữa cơ khí, rèn, đúc, xây dựng, dệt, may, thêu ren, làm gốm sứ…Trong cả nước có khoảng 1450 làng nghề với 450 000 hộ, thu hút khoảng 1,2 triệu lao động tham gia. Tuy nhiên, do sức ép của dư luận cũ hình thành từ thời ngự trị của chế độ quản lý bao cấp, rất nhiều hộ gia đình giàu đã không dám thuê mướn công nhân, họ sử dụng chủ yếu lao động gia đình. Vấn đề đặt ra là công tác tư tưởng, công tác thông tin tuyên truyền bằng một phức hợp các phương tiện cần phải xếp ở một vị trí thích đáng. Làm được việc đó dư luận xã hội mới có tác động mạnh mẽ hơn, thúc đẩy nhanh tiến trình đổi mới nói chung và phát triển sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp nói riêng.
Trình độ văn hoá và tay nghề của người lao động ở gia đình nói chung là thấp. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn của các cơ sở, hộ nông thôn còn rất thấp, chủ yếu là vốn tự có nên sản phẩm họ làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước, mặt hàng đơn điệu, chất lượng thấp, mẫu mã, bao bì kém. Cho đến nay, Việt nam vẫn là nước nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp.
Các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn phát triển đã thúc đẩy quá ttình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Đến năm 1990 cơ cấu kinh tế nông thôn nông lâm ngư nghiệp 80%, công nghiệp 9,8%, dịch vụ 10,2%. Đến năm 1999 cơ cấu kinh tế nông thôn tương tự là: 70,2%-16,1%-13,7%.
6. Thu nhập và đời sống của tuyệt đại đa số nông dân đã được cải thiện rõ rệt nhưng nhìn chung vẫn còn thấp, bấp bênh, tình trạng thiếu việc làm, nghèo đói, du canh, du cư, di dân tự do đặt ra nhiều khó khăn cần khắc phục.
Qua 15 năm đổi mới đời sống của phần đông nhân dân ta đã được cải thiện rõ rệt. Điều kiện sinh hoạt, vui chơi, giải trí được nâng lên. Tỷ lệ hộ đói nghèo năm 2000 chỉ còn là 10-11%. Bình quân thu nhập của người dân năm 2000 khoảng gần 350.000 đồng.
Tuy nhiên đời sống của phần lớn dân cư nông thôn vẫn bị chi phối bởi thiên tai và sự lên xuống thất thường của giá cả thị trường. Đời sống của bà con nhân dân ở vùng núi, vùng sâu,vùng xa còn rất khó khăn.
Do thu nhập của người nông dân chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp nên thu nhập của họ còn thấp, bấp bênh và chênh lệch ngày càng xa so với thành thị. Điều này thể hiện ở chỗ thu nhập giưã các hộ thuần nông và các hộ ngành nghề ở nông thôn nước ta đang có sự chênh lệch rất lớn và thực tế là sau khi đưa vào chế biến công nghiệp, giá trị các sản phẩm nông nghiệp cao hơn rất nhiều.
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng lớn và đã đạt được thành quả lớn, song cho tới nay tình trạng di dân tự do và di canh di cư vẫn còn khá phổ biến ở các dân tộc ít người, những hộ gia đình nghèo khó. Những vấn đề trên đã gây nên khó khăn cho địa phương có dân đến, dân đi trong việc quản lý tổ chức và bố trí lao động, ngành nghề sản xuất cho phù hợp.
Nhìn về tổng thể, những năm qua nông thôn Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều vấn đề lớn và khó khăn cần phải giải quyết. Để khai thác và phát huy được những tiềm năng đồng thời giải quyết những khó khăn yếu kém đó thì con đường duy nhất là phải thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương II. Thực trạng công nghiệp - hoá hiện đại hoá nông thôn.
I. Hiện trạng nông thôn Việt Nam bước vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Đời sống của người nông dân nước ta còn rất thấp cho nên nhiều người nông dân thiếu vốn để sản xuất. Đồng thời do hạn chế về trình độ học vấn, nhận thức nên người nông dân khó có điều kiện tiếp nhận nguồn lực sản xuất và công nghệ mới.
- Trong tình trạng nước ta dân số ngày càng đông, đất canh tác dần bị thu hẹp, các ngành nghề khác chưa phát triển lắm, cho nên ở nông thôn diễn ra tình trạng dư thừa nhiều sức lao động. Việc làm thường không đem lại thu nhập đảm bảo cuộc sống gia đình.
- Thể chế, chính sách của nhà nước không bình đẳng so với thành thị khiến người dân ở nông thôn khó thoát khỏi cái nghèo. Cụ thể đối với công nghệ nông thôn chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng của nông nghiệp trong việc phát triển kinh tế xã hội.
- Hạ tầng cơ sở cho sản xuất ở nông thôn như đường xá, cầu, hệ thống đIện, nước; văn hoá, giáo dục… còn thiếu và yếu kém.
II. Những thuận lợi của nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Sản lượng lương thực tăng liên tục, đây chính là thành tựu nổi bật nhất và có ý nghĩa chiến lược của nước ta trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trên đất nước ta về cơ bản không còn nạn đói, dự trữ quốc gia và xuất khẩu lương thực cũng tăng lên đáng kể.
- Tiềm lực của người nông dân được phát huy cả về nguồn lao động cũng như các phẩm chất cao quý.
- Nền kinh tế nước ta đã và bắt đầu tiếp cận, hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thương mại, nền khoa học công nghệ tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực với lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường phục sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
- Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp và phục vụ nông nghiệp, nông thôn được tăng cường làm cho sản xuất đạt mức tăng trưởng khá cao và tương đối ổn định.
- Hiện nay Đảng và Nhà nước đã coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, cố gắng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 50%.
III. Những khó khăn và thách thức.
- Cho đến nay Việt Nam vẫn là một trong vài chục nước nghèo nhất trên thế giới. Đặc biệt là ở nông thôn, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả kinh tế thấp. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển hoá chậm, công nghiệp và dịch vụ chưa đủ sức thu hút được lực lượng lao động dư thừa trong nông thôn. Cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là cơ cấu hạ tầng còn mỏng và nhiều yếu kém, giao thông rất khó khăn về mùa mưa.
- Môi trường nông thôn ngày càng xấu đi. Rừng núi nghèo, cạn kiệt, nguồn nước ngaỳ càng khan hiếm, đất đai bị bào mòn và suy thoái, tài nguyên sinh vật không được bảo tồn. Khả năng phòng chống và giảm nhẹ thiên tai còn nhiều hạn chế.
- Sự phát triển sản xuất ở Việt nam lại diễn ra trong bối cảnh tỷ lệ tăng dân số cao 1,53% năm 2000 và tỷ lệ đói nghèo cao. Công tác giáo dục đào tạo, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, miền núi còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Tỷ lệ hộ nghèo tuy có giảm nhưng mức sống còn rất thấp. Căng thẳng xã hội về nguồn nhân lực dư thừa ngày càng trở nên nóng bỏng.
- Sự chênh lệch ngày càng xa về mức sống vật chất và văn hoá giữa nông thôn và thành thị
IV. Nguyên nhân của thực trạng
- Nguyên nhân cơ bản của thành tựu đạt được đó là nhờ chính sách đổi mới tác động mạnh mẽ vào cuộc sống được đông đảo dân cư nông thôn hưởng ứng tích cực, đã thúc đẩy nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển vượt bậc.
- Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật được đưa vào thực tiễn sản xuất; kết cấu hạ tầng nông thôn phát triển tạo đIều kiện cho phát triển kinh tế.
- Việc cung cấp tín dụng cho hộ nông dân được mở rộng và mức vay đượ nâng lên, nhất là hình thức cho vay không phải thế chấp mở rộng đã giúp cho các hộ nghèo tiếp cận với nguồn vốn tín dụng, tạo điều kiện sản xuất phát triển.
- Đặc biệt đó là sự quan tâm của các cấp Đảng bộ và chính quyền trong việc vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới vào nông nghiệp, nông thôn ở từng địa phương cụ thể cùng với sự nỗ lực cố gắng của dân cư nông thôn đã làm nên kỳ tích của nông nghiệp và nông thôn, tạo nền móng cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
- Bên cạnh đó còn có các nguyên nhân làm cho nông nghiệp, nông thôn bị hạn chế trong việc sản xuất:
Việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn chưa tốt, kém nghiêm túc. ở nhiều nơi, nhiều địa phương, sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành còn chưa nhanh nhậy, chủ động.
Trong nhiều năm, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội chưa chú ý đúng mức tới việc bảo vệ môi trường.
Trình độ dân trí thấp và nghèo đói đã làm cho dân cư nông thôn không hiểu biết được hết quyền lợi của mình và không có điều kiện vay vốn tín dụng.
Chương III. Một số giảI pháp về công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
I. Quan đIểm và mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
1. Quan điểm.
- Công nghiệp hoá hiện đại, hoá nông nghiệp nông thôn phải tạo ra một nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh, đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng mạnh vào xuất khẩu.
- Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động và yêu cầu ít vốn, chú trọng phát triển các cơ sở nhỏ và vừa kể cả qui mô hộ gia đình.
- Công nghiệp nông thôn phải có trình độ công nghệ tiên tiến kết hợp với kỹ thuật truyền thống để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn phải gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế đô thị và các khu công nghiệp, trong đó các ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động hiện đang tập trung ở đô thị nay được khuyến khích phát triển ở nông thôn.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nông thôn phải dựa trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên đất, nước, rừng. Đảm bảo những yêu cầu về bảo vệ , cải tạo môi trường. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi, tiếp tục giải quyết hậu quả chiến tranh để lại đối với môi trường.
2. Mục tiêu.
Mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp để tăng năng xuất lao động giải quyết việc làm. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê điều xung yếu được củng cố vững chắc, hệ thống thuỷ nông phát triển và phần lớn được kiên cố hoá. Hầu hết các xã được sử dụng điện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính viễn thông cơ bản. Cố gắng nâng quĩ thời gian lao động ở nông thôn lên khoảng 80-85%, xoá đói giảm nghèo, nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống dân cư nông thôn. Đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại. Giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn khoảng 50%.
II. Bước đI của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
1. Giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta ra khỏi tình trạng lạc hậu, hiện đại hoá nông nghiệp trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu, hình thành các vùng chuyên canh tập trung, xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản ở nông thôn, chủ yếu là đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, hệ thống cấp đIện, nước, thông tin liên lạc, áp dụng các thành tựu của cách mạng sinh học; phát triển công nghiệp ( chủ yếu là công nghiệp chế biến nông, lâm sản; dệt may; vật liệu xây dựng; thuỷ tinh; sành sứ…) ngành nghề thủ công và dịch vụ, giải quyết việc làm ở nông thôn.
2. Giai đoạn 2010-2020.
Hiện đại hoá nông nghiệp bằng cơ giới hoá, điện khí hoá và áp dụng các thành tựu của cách mạng sinh học ở mức độ cao; hiện đại hoá cơ sở sản xuất công nghiệp cũng như các ngành nghề, dịch vụ để tăng nâng suất lao động, làm ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
III. Một số phương hướng về phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn.
1. Phát triển nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng, xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất trên qui mô lớn và từng bước hiện đại hoá.
Dựa vào điều kiện của từng vùng, từng địa phương về khí hậu, đất đai… và các ngành truyền thống để thúc đẩy nhanh tiến độ áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật tạo ra các vùng chuyên canh sản xuất với qui mô lớn. Tạo ra một dây chuyền thông suốt từ khâu sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm. Từng bước phát triển các ngành nghề mới có khả năng; coi trọng các ngành sản xuất nông sản quí hiếm có lợi thế để phát huy tiềm lực đa dạng của nền nông nghiệp.
Trong 10 năm tới phát huy từng vùng tập trung vào các định hướng:
- Đồng bằng sông Hồng và các vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ:
Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đưa nhiều lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp , dịch vụ đi lập nghiệp ở nơi khác.
Phát triển nông nghiệp hàng hoá đa dạng. Cùng với lương thực đưa vụ đông trở thành thế mạnh; hình thành các vùng chuyên canh cây ăn quả, thịt, hoa; mở rộng nuôi, trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các cụm, điểm công nghiệp, dịch vụ, làng nghề ở nông thôn.
- Miền đông Nam bộ và các vùng trọng điểm phía nam:
Phát triển mạnh cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều, mía, bông…), cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, hình thành các vùng chuyên canh tập trung gắn với công nghiệp chế biến, tạo điều kiện thu hút thêm lao động từ đồng bằng sông Cửu Long.
- Bắc trung bộ, duyên hải Trung bộ và các vùng kinh tế trọng điểm miềnTrung:
Phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt; tăng nhanh cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, kết hợp với công nghiệp chế biến, đẩy mạnh trồng rừng. Có biện pháp hạn chế tác hại của thiên tai, lũ lụt, hạn hán nặng, kết hợp bố trí lại dân cư. Phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường toàn dải ven biển.
-Trung du và miền núi Bắc bộ (tây bắc và đông bắc):
Phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây đặc sản; chăn nuôi đại gia súc gắn liền với chế biến. Tạo rừng phòng hộ đầu nguồn sông Đà, rừng nguyên liệu công nghiệp, gỗ trụ mỏ.
- Tây nguyên:
Tây nguyên là nơi có lợi thế về phát triển nông, lâm nghiệp kết hợp với công nghệ chế biến thực phẩm.
Phát triển nhanh theo hướng thâm canh là chính đối với các cây nông nghiệp gắn với thị trường xuất khẩu (cà phê, cao su, chè, bông…), chăn nuôi đại gia súc; trồng và bảo vệ rừng, cây dược liệu, cây đặc sản và công chế biến nông, lâm sản.
- Đồng bằng sông Cửu Long:
Tiếp tục phát huy vai trò của vùng lúa và nông sản, thuỷ sản xuất khẩu trong cả nước; đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng lương thực, rau quả, chăn nuôi, thuỷ sản hàng hoá. Phát triển công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ cho nông nghiệp; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ.
Cố gắng đến năm 2010 tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 40 triệu tấn. Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thuỷ sản, lâm sản) tăng bình quân hàng năm 4,0-4.5%. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16-17%; tỷ trọng các ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%. Thuỷ sản đạt sản lượng 3,0-3,5 triệu tấn (trong đó 1/3 là sản phẩm nuôi, trồng). Bảo vệ 10 triệu ha rừng tự nhiên, hoàn thành chương trình trồng 5 triệu hecta rừng. Kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 9-10 tỷ USD, trong đó thuỷ sản khoảng 3,5 tỷ USD.
2. Thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp
2.1. Thuỷ lợi hoá
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thuỷ lợi ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ, đảm bảo tưới tiêu, an toàn, chủ động trong sản xuất nông nghiệp (kể cả cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) và đời sống nông dân.
Đối với những khu vực thường bị bão, lũ, cùng với các giải pháp hạn chế thiên tai, phải điều chỉnh qui hoạch sản xuất và dân cư thích nghi với điều kiện thiên nhiên.
Nâng cao năng lực dự báo thời tiết và khả năng chủ động phòng chống thiên tai, hạn chế thiệt hại.
Tới năm 2020 hoàn thành cơ bản việc xây dựng các công trình tưới tiêu nước cho các vùng trồng lúa, tưới nước và tiêu úng cho 2 triệu ha rau màu.
2.2. Phát triển giao thông nông thôn.
Phát triển hệ thống đường giao thông chất lượng tốt tới các tụ điểm công nghiệp nông thôn và trong các vùng chuyên canh tập trung. Từng bước làm đường tới những xã chưa có đường ôtô tới trung tâm xã, nâng cấp hệ thống đường giao thông nông thôn, các tuyến quốc lộ nối với các vùng trong nước quốc tế; nâng cấp một số cảng biển, sân bay để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thông, vận chuyển.
2.3 Cơ giới hoá.
Thực hiện cơ giới hoá là một nhiệm vụ nặng nhọc, khẩn trương, sử dụng các loại máy móc thiết bị có công suất thích hợp để tạo năng suất lao động cao. Tới năm 2010, phấn đấu đạt tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm đất ít nhất là 70%, tuốt lúa 80%, cơ giới hoá khâu tưới tiêu nước 70%; áp dụng trên diện rộng máy thu hoạch lúa, ngô, mía… máy móc làm vườn.
2.4. Điện khí hoá và thông tin liên lạc.
Phát triển mạng lưới cung cấp điện ở nông thôn để đạt tới năm 2010 toàn bộ dân cư nông thôn có điện, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về điện của các nghành sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn. Khai thác có hiệu quả các hồ chứa nước chống lũ và làm thuỷ điện ở vùng Bắc trung bộ, duyên hải Trung bộ, đặc biệt là vùng đất phía tây. Phát triển thuỷ điện lớn và vừa ở Tây nguyên. Xúc tiến nghiên cứu và xây dựng thuỷ điện ở Sơn la.
Nhà nước tập trung đầu tư để nhanh chóng hoàn thành phủ sóng phát thanh truyền hình, phát triển mạng điện thoại, đa dạng hoá và hỗ trợ các hình thức đưa thông tin tới người dân, nhất là các thông tin về thị trường và công nghệ.
2.5. ứng dụng các thành quả của cách mạng sinh học
áp dụng nhanh các thành tựu của cách mạng sinh học để tạo và nhân nhanh giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là áp dụng các thành tựu về giống có ưu thế lai. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0672.doc