Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

Chuyên đề tốt nghiệp PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Lúa là cây lương thực quan trọng nhất của nước ta. Trồng lúa là một nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam có từ xa xưa, có lẽ từ khi bắt đầu việc trồng trọt thì cây lúa đã được đặt biệt quan tâm. Kinh nghiệm sản xuất lúa đã được hình thành, tích lũy và phát triển cùng với sự phát triển của dân tộc ta. Những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật trong nước và thế giới ở lĩnh vực nghiên cứu và sản xuất lúa đã thúc đẩy mạnh mẽ ngành trồng lúa nước ta trên

pdf53 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thương trường quốc tế. Chính vì vậy mà hiện nay, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2 thế giới trên thị trường xuất khẩu lúa gạo. Quảng Ngạn là một địa phương nằm trong hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, hiện nay dân cư sống dựa vào nông nghiệp là chủ yếu.Vì vậy muốn phát triển kinh tế nâng cao đời sống người dân trên địa bàn thì phát triển nông nghiệp là con đường chủ yếu. Hoạt động kinh tế mũi nhọn trên địa bàn bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Bất kỳ một trong ba lĩnh vực trên chậm phát triển đều kìm hãm sự phát triển của địa bàn. Riêng ngành trồng trọt không chỉ góp phần trong sự phát triển kinh tế mà còn đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã hội. Ngành trồng trọt trên địa bàn chủ yếu là trồng lúa, nhưng trong những năm gần đây hiệu quả của sản xuất mang lại chưa cao, làm cho vai trò của trồng trọt chăn nuôi giảm xuống. Với 1423 hộ dân có khoảng trên 7000 nhân khẩu, trong đó trên 30% hộ dân tham gia vào quá trình sản xuất lúa và cung cấp lương thực cho toàn xã. Điều đó có nghĩa là khi sản xuất không mang lại hiệu quả thì trên 30% hộ dân đối mặt với khó khăn kinh tế một cách trực tiếp, còn dân cư trên toàn xã có nguy cơ thiếu lương thực. Giải quyết khó khăn cho người dân địa phương, tìm cách nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất lúa tại địa bàn đang là mối quan tâm của chính quyền địa phương, cũng như người dân trên địa bàn. Nguyên nhân của những hạn chế gì? Xuất phát từ lý do đó, trong thời gian thực tập tại địa bàn xã Quảng Ngạn và tôi đã lựa chọn đề tài:“ Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ”. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 1 Chuyên đề tốt nghiệp Để làm chuyên đề tốt nghiệp cuối khóa cho mình. Nghiên cứu đề tài của mình tôi hướng mục đích: - Làm rõ các khái niệm, bản chất: cây lúa, vai trò và vị trí của cây lúa, hiệu quả kinh tế, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế. - Phân tích đánh giá thực trạng sản xuất lúa từ đó xác định kết quả và hiệu quả sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn. - Thông qua sự phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất lúa, từ đó đưa ra những giải pháp trên cơ sở phương hướng phát triển sản xuất lúa trong thời gian tới. Trong giới hạn của đề tài phương pháp, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:  Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê kinh tế. - Phương pháp điều tra phỏng vấn nông hộ. - Phương pháp phân tích số liệu. - Phương pháp so sánh.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Kết quả và hiệu quả sản xuất lúa của các nông hộ - Phạm vi nghiên cứu: + Thời gian: Phân tích thực trạng sản xuất lúa năm 2010 của các nông hộ điều tra và của địa bàn qua giai đoạn 2008 – 2010 + Không gian: Địa bàn xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 2 Chuyên đề tốt nghiệp PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1 Một số đặc điểm của cây lúa 1.1.1.1. Nguồn gốc của cây lúa Cây lúa là loại thảo mộc lương thực quan trọng của Việt Nam và thế giới, với hơn 3 tỉ người tiêu dùng, hay hơn phân nửa dân tộc thế giới, và 115 nước trồng lúa (2008). Cây lúa không những đóng góp vào an ninh lương thực quốc gia của nhiều nước, mà còn cung cấp nguồn lợi tức cho hàng triệu người nông thôn và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nguồn gốc của cây lúa vẫn còn nhiều tranh cải, vì nó xuất hiện lâu đời trong thời tiền sử. Theo một số nghiên cứu trong và ngoài nước, các cư dân ở Việt Nam có thể biết đến cây lúa cách nay ít nhất hàng nghìn năm trong nền văn hóa Hòa Bình, và Miền Bắc Việt Nam có thể là một trong những trung tâm nguồn gốc cây lúa trồng độc lập của Châu Á, theo thuyết “Đa trung tâm” của Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc tế - IRRI (Chang, 1985). Cho đến nay, các nhà khảo cổ học Việt Nam chỉ tìm được vết tích hạt lúa cổ xưa nhất với niên đại phóng xạ khoảng 3.400 năm (Nguyễn Phan Quang & Vũ Xuân Đàn, 2000). Theo Bellwood (2005), nền nông nghiệp lúa của Việt Nam có thể xuất hiện cách nay chỉ 4.500- 3.500 năm mà thôi. Trong tháng 5-2010, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hạt lúa cổ tại Thành Dền (Mê Linh, Hà Nội) thuộc văn hóa Đồng Đậu cách nay khoảng 3.000 năm, nhưng cần phải xác định lại hàm lượng carbon phóng xạ C14. Hy vọng rằng với những kỹ thuật mới như phân tích phythollis ngoài bào tử phấn hoa, các cuộc khai quật sâu rộng hơn và sự quan tâm nhiều hơn của ngành khảo cổ học trong nước đối với lịch sử nông nghiệp sẽ giúp các nhà nghiên cứu tìm thấy các vết tích hạt lúa gạo xa xưa hơn kết quả hiện có. Cây lúa trồng hiện nay là do quá trình thuần dưỡng từ cây lúa dại qua hàng trăm năm. Theo nhà khảo cổ học Phillip Edwards của trường Đại Học Trobe, Úc, thời gian tiến hóa từ loài cây dại đến có hệ thống sản xuất cây trồng trải qua khoảng 1.000 năm (Nguyễn Sinh-BBC News, 2007). SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 3 Chuyên đề tốt nghiệp 1.1.1.2. Đặc điểm sinh học Sinh trưởng và phát triển của cây lúa phụ thuộc rất nhiều yếu tố, từ điều kiện tự nhiên, tình hình canh tác, phân bón đất đai, mùa vụ gieo trồng, giống và thời gian sinh trưởng của từng giống lúa.Quá trình sinh trưởng của cây lúa có thể chia ra làm hai thời kỳ: Sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực. - Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng: Ở thời kỳ này cây lúa chủ yếu hình thành và phát triển các cơ quan dinh dưỡng như ra lá, phát triển rễ, đẻ nhánh - Thời kỳ sinh trưởng sinh thực: Là thời kỳ phân hoá, hình thành cơ quan sinh sản bắt đầu từ khi làm đòng đến khi thu hoạch. Bao gồm các quá trình làm đòng, trổ bông, hình thành hạt. Quá trình làm đốt tuy là sinh trưởng dinh dưỡng nhưng lại tiến hành song song với quá trình phân hoá đòng nên nó cũng nằm trong quá trình sinh thực. Thời kỳ này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành số bông, tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng hạt lúa. + Quá trình nẩy mầm: Hạt hút nước, độ ẩm trong hạt tăng, hoạt động các men hô hấp và phân giải rõ rệt, một loạt các phản ứng sinh hoá xảy ra, phôi được cung cấp glucoza, axitamin, các tế bào phân chia, lớn lên trục phôi phình to, đẩy mầm khi nẩy mầm, đầu tiên xuất hiện lá bao hình vảy, không có diệp lục. Đồng thời trong quá trình nẩy mầm, từ phôi xuất hiện rễ phôi. Rễ này dài, sau này phát triển thành các lông tơ giúp hạt hút nước trong thời kỳ đầu. + Quá trình phát triển của bộ rễ: Sau khi nẩy mầm rễ lúa phát triển từ phôi là rễ mộng, rễ này chủ yếu có một cái. Rễ mộng xuất hiện rồi dài ra, có thể hình thành lông rễ, rễ mộng hoạt động trong một thời gian ngắn rồi chết đi và được thay thế bằng các lớp rễ phụ được hình thành từ mặt các đốt gốc của cây. Những mắc đầu chỉ ra được trên dưới năm rễ, nhưng mắc sau có thể đạt tới 3-20 rễ. Tập hợp các lớp sẽ tạo thành rễ chùm. + Quá trình phát triển lá: Lá được hình thành từ các mầm lá ở mắc thân, khi hạt nẩy mầm, hình thành các lá đầu tiên là lá bao mầm, lá không hoàn toàn rồi đến lá thật 1,2,3 Các lá phát triển liên tục từ ba lá đầu này, cây lúa đã tự nuôi dưỡng hoàn toàn sống độc lập, lá quang hợp, rễ hút dinh dưỡng. Thông thường trên cây lúa có khoảng 5-6 lá cùng hoạt động, lá già tàn rụi dần để các lá non mới lại tiếp tục. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 4 Chuyên đề tốt nghiệp + Quá trình đẻ nhánh: Lúa sau khi bén rễ hồi xanh thì làm đốt, làm đòng. Nhánh lúa hình thành từ các mầm nách ở gốc thân. Quá trình hình thành một nhánh qua bốn giai đoạn: phân hoá nhánh, hình thành nhánh, nhánh dài trong bọc lá và nhánh xuất hiện. Trong quá trình hình thành nhánh đầu tiên xuất hiện một lá bao hình ống dẹt, rồi xuất hiện các lá của nhánh, nhánh phát triễn 3-4 lá có thể tách ra khỏi cây mẹ và sống tự lập. + Quá trình làm đòng: Ở thời kỳ này thân lúa chính thức mới được hình thành, số lóng kéo dài và chiều dài các lóng quyết định chiều cao của cây. Quá trình làm đòng là quá trình phân hoá và hình thành các cơ quan sinh sản, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành năng suất lúa. + Quá trình trổ bông, nở hoa, thụ phấn: Sau khi hoàn thành quá trình làm đòng thì cây lúa trổ ra ngoài do sự phát triển nhanh của lóng trên cùng. Khi cây lúa thoát ra khỏi bẹ lá là quá trình trổ xong. Cùng với quá trình trổ bao phấn trên một bông các hoa ở đầu bông và đầu gié nở trước, các hoa ở gốc bông, các hoa ở gốc bông nở cuối cùng. Khi hoa nở phơi màu, váy cá hút nước trương to lên, đồng thời với áp lực của vòi nhị làm cho vỏ trấu nở ra, hạt phấn rơi vào đầu nhuỵ, đó là quá trình thụ phấn. Sau quá trình thụ phấn là quá trình thụ tinh và hình thành hạt. Trong điều kiện bình thường hạt phấn rơi xuống đầu nhuỵ, sau 15 phút ống phấn bắt đầu dài ra, các chất trong hạt bắt đầu dồn về ống phấn. Sau thụ tinh là quá trình phát triển phôi và phôi nhũ. + Quá trình chín hạt: Chúng ta có thể chia quá trình chín hạt ra làm ba thời kỳ: chín sữa, chín sáp và chín hoàn toàn.  Chín sữa: Sau phơi màu 6-7 ngày các chất dự trữ trong hạt ở dạng lỏng, trắng như sữa, hình dạng hạt hoàn thành có màu xanh, trọng lượng hạt tăng nhanh ở thời kỳ này.  Chín sáp: Ở thời kỳ này chất dịch trong hạt dần dần đặc lại, hạt cứng và màu xanh dần chuyển sang màu vàng.  Chín hoàn toàn: Thời kỳ này hạt chắc cứng, màu vàng nhạt và trọng lượng hạt đạt tối đa. Quá trình lúa chín kéo dài 30-40 ngày tuỳ theo giống, thời vụ. Đây là quá trình quyết định năng suất lúa. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 5 Chuyên đề tốt nghiệp 1.1.1.3. Đặc điểm sinh thái Ngoài sự tác động của con người thì khí hậu thời tiết là yếu tố quan trọng nhất của điều kiện sinh thái, nó có ảnh hưởng lớn nhất và thường xuyên đến quá trình sinh trưỡng và phát triển của cây lúa. + Về nhiệt độ: Quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa phụ thuộc rất nhiều về nhiệt độ trong vụ gieo trồng. Nếu thời tiết thuận lợi, nhiệt độ trung bình cao cây lúa đạt được tổng nhiệt cần thiết sẽ ra hoa và chín sớm hơn tức là rút ngắn thời gian sinh trưởng và ngược lại. Để cho cây lúa phát triển tốt thì cần nhiệt độ khác nhau qua các thời kỳ sinh trưởng.  Thời kỳ nẩy mầm: Nhiệt độ thích hợp cho cây lúa nẩy mầm là 30-350C. Nhiệt độ giới hạn thấp nhất là 10-120C và quá cao là trên 400C không có lợi cho quá trình nẩy mầm của lúa.  Thời kỳ đẻ nhánh, làm đòng: Ở thời kỳ này cây lúa đã bén rễ, hồi xanh. Nhiệt độ thích hợp là 25-320C. Nhiệt độ dưới 160C quá trình bén rễ, đẻ nhánh, làm đòng không thuận lợi.  Thời kỳ trổ bông làm hạt: Thời kỳ này cây lúa rất nhạy cảm trước sự thay đổi của nhiệt độ. Trong quá trình nở hoa, phơi màu, thụ tinh đòi hỏi nhiệt độ phải ổn định. Nếu gặp nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đều không có lợi. + Nước: Là thành phần chủ yếu trong cơ thể lúa, là điều kiện để thực hiện quá trình sinh lý trong cây và là điều kiện ngoại cảnh không thể thiếu của cây lúa. Theo Goutchin, để tạo ra một đơn vị thân lá, cây lúa cần 400-450 đơn vị nước, để tạo ra một đơn vị hạt, cây lúa cần 300-350 đơn vị nước. Nhu cầu nước của cây lúa qua các thời kỳ sinh trưởng là khác nhau.  Thời kỳ nẩy mầm: Hạt giống được bảo quản dưới độ ẩm 13%, khi ngâm hạt, hạt hút nước đạt 22% thì có thể hoạt động và nẩy mầm tốt khi độ ẩm của hạt đạt 25- 28%. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 6 Chuyên đề tốt nghiệp  Thời kỳ cây con: Trong điều kiện gieo thẳng cây lúa ở giai đoạn cây con không cần nước nhiều, ta chủ động giữ đủ ẩm và cho nước vào ruộng từ từ khi cây được 2-4 lá.  Thời kỳ đẻ nhánh: Ở giai đoạn này chủ động tháo nước sát gốc lúa. Để tạo điều kiện cho cây lúa đẻ nhánh, sau khi cây đẻ nhánh hữu hiệu làm đòng trổ bông ta cần cho nước vào đầy đủ tránh bị khô nước làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của cây lúa. Để lúa sinh trưởng thuận lợi, đạt năng suất cao cần cung cấp nước đầy đủ. 1.1.2. Vị trí và tầm quan trọng của cây lúa Lúa là một trong ba cây lương thực chủ yếu bao gồm lúa mì, ngô và lúa gạo. Có khoảng 40% dân số sử dụng lúa gạo là lương thực chính, 25% sử dụng lúa gạo trên 1/2 khẩu phần lương thực hàng năm. Như vậy, lúa gạo có ảnh tới đời sống ít nhất 65% dân số toàn cầu. Sản xuất lúa gạo tập trung chủ yếu ở các nước Châu Á, một số nước ở Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Úc chiếm một phần nhỏ. Trong đó, mức tiêu thụ về lúa gạo của các nước Châu Á là rất cao từ 180-200 Kg/người, còn Châu Mỹ và Châu Âu chỉ 10 Kg/người. Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Khoảng 80% trong tổng số 11 triệu hộ nông dân có tham gia sản xuất lúa gạo và chủ yếu dựa vào phương thức canh tác thủ công truyền thống. Trong lúa gạo có đầy đủ các chất dinh dưỡng như các cây lương thực khác, ngoài ra còn có các Vitamin nhóm B và một số thành phần khác. - Về tinh bột: Là nguồn cung cấp chủ yếu Calo. Giá trị nhiệt lượng của lúa là 3594 Calo/g, trong đó hàm lượng amyloza trong hạt quyết định đến độ dẻo của gạo. Hàm lượng amyloza ở lúa gạo Việt nam thay đổi từ 18 - 45% đặc biệt có giống lên tới 54%. - Prôtêin: Chiếm 6 - 8% thấp hơn so với lúa mỳ và các loại cây khác. Giống lúa có hàm lượng prôtêin cao nhất là 12,84% và thấp nhất là 5,25%. Phần lớn các giống Việt nam nằm vào khoảng 7 -8%. - Lipít: Ở lúa lipít thuộc loại trung bình, phân bố chủ yếu ở lớp vỏ gạo. - Vitamin: Trong lúa gạo còn có một số vitamin nhóm B như B1, B2, B6Vitamin B1 là 0,45 mg/100hạt. Từ những đặc điểm của cây lúa và giá trị của nó, lúa gạo được coi SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 7 Chuyên đề tốt nghiệp là nguồn thực phẩm, dược phẩm có giá trị và được tổ chức dinh dưỡng quốc tế gọi là "Hạt gạo là hạt của sự sống". Với giá trị dinh dưỡng của hạt kết hợp với việc chọn tạo giống có năng suất cao, phẩm chất tốt thì lúa gạo ngoài việc sử dụng hàm lượng lương thực là chủ yếu thì các sản phẩm phụ của lúa còn sử dụng rất nhiều trong các lĩnh vực khác nhau: + Gạo: Có thể dùng làm nguyên vật liệu chế biến các sản phẩm như: kẹo, bánh, sản xuất bia, rượu + Tấm: Sản xuất tinh bột, rượu, phấn mịn và thuốc chữa bệnh. + Cám: Ngoài việc làm thức ăn cho gia súc, trong công nghệ dược còn sản xuất Vitamin B1 chữa bệnh tê phù, dầu cám có thể dùng chữa bệnh, chế tạo xăng, làm xà phòng + Trấu: Sản xuất nấm mem làm thức ăn cho gia súc, làm chất đốt, đóng lót hàng dùng, để độn chuồng làm phân bón có SiO2 cao. + Rơm rạ: Với thành phần xenluloza có thể sản xuất giấy, đồ gia dụng, làm thức ăn cho gia súc như trâu, bò, trộn với họ đậu làm thức ăn ủ chua, sản xuất nấm rơm, độn chuồng, làm chất đốt. 1.1.3. Một số vấn đề về hiệu quả và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của các nhà sản xuất, nhà kinh doanh và cũng là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng của hoạt động kinh tế, là thước đo trình độ tổ chức và chức năng quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì yêu cầu đặt ra là phải kinh doanh có hiệu quả, thì doanh nghiệp mới đứng vững trên thị trường. Với một lượng đầu vào hay tài nguyên nhất định, để tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn nhất có thể được là mục tiêu chung của các nhà sản xuất và các nhà quản lý. Tuy nhiên trong thực tế nghiên cứu ta thu được kết quả rất đa dạng và phong phú, kết quả có thể trên phương diện kinh tế - tài chính mà cũng có thể trên phương diện KT- XH. Từ đó mà hình thành nên khái niệm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế xã hội. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 8 Chuyên đề tốt nghiệp Như vậy, hiệu quả kinh tế là sự tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được và chi phí bỏ ra, nó thể hiện bằng các chỉ tiêu như sau: Giá trị tổng sản phẩm, thu nhập, lợi nhuận ... tính trên lượng chi phí bỏ ra. Hiệu quả xã hội là tương quan so sánh giữa chi phí xã hội bỏ ra và kết quả mà xã hội đạt được như: tăng thêm việc làm, cải tạo môi trường sinh thái, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo ... Hiệu quả kinh tế - xã hội là sự tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được cả về kinh tế và xã hội. Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế là phát triển xã hội. Do đó khi nói đến hiệu quả kinh tế chúng ta nói trên quan điểm kinh tế xã hội. Tùy theo mục đích tính toán hiệu quả kinh tế mà xác định kết quả sao cho phù hợp. Đối với nông hộ, kết quả cần được quan tâm là thu nhập. Chi phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh là những chi phí cho các yếu tố đầu vào như: đất đai, lao động, nguyên nhiên liệu. Sau khi đã xác định được kết quả thu được và chi phí bỏ ra chúng ta có thể tính được hiệu quả kinh tế bằng các phương pháp sau: - Thứ nhất: Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Công thức được xác định như sau: H = Q/C Trong đó: H: hiệu quả kinh tế Q: kết quả thu được C: chi phí bỏ ra Phương pháp này phản ánh rỏ nét trình độ sử dụng các nguồn lực, xem xét được một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu kết quả. Điều này giúp ta so sánh hiệu quả ở các qui mô khác nhau. - Thứ hai: Hiệu quả kinh tế được tính bằng cách so sánh phần tăng thêm của kết quả thu được và phần tăng thêm của chi phí bỏ ra. Công thức được xác định như sau: H =  Q/  C Trong đó: H: hiệu quả kinh tế.  Q: phần tăng thêm của kết quả thu được.  C: phần chi phí tăng thêm. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 9 Chuyên đề tốt nghiệp Phương pháp này dùng để nghiên cứu mức đầu tư trong thâm canh. Nó xác định kết quả thu thêm trên một đơn vị tăng thêm của chi phí. Tuy nhiên, khi sử dụng hai phương pháp trên đều không cho biết qui mô của hiệu quả kinh tế là bao nhiêu. Vì thế mà hiệu quả kinh tế còn xác định bằng chênh lệch giữa kết quả thu được với phần chi phí bỏ ra. Để biết được kết quả, với cách tính này cho ta biết được tổng thu nhập và tổng lợi nhuận là bao nhiêu. Mặc dù vậy cách tính này không cho ta biết cái giá phải trả cho qui mô hiệu quả kinh tế là bao nhiêu và không thể dùng để so sánh hiệu quả đạt được giữa các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất không cùng quy mô. Qua trình bày ở trên ta thấy có nhiều cách để tính hiệu quả kinh tế, mỗi cách tính đều phản ánh một khía cạnh khác nhau. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu tùy vào mục đích khác nhau mà chúng ta lựa chọn cách tính sao cho phù hợp và con số cuối cùng phải có ý nghĩa về mặt kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì hiệu quả là tiêu chí đánh giá quá trình sản xuất của một doanh nghiệp hay một hộ gia đình nào đó. Sản phẩm có chổ đứng vững trên thị trường hay không điều này không chỉ thể hiện ở nội dung chất lượng sản phẩm mà nó còn thể hiện sản phẩm đang ở mức giá nào. Từ thực tế này mà khi đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất ta phải dựa trên cơ sở giá cả thị trường tại thời điểm người bán quyết định bán. Tuy nhiên khi nghiên cứu động thái của hiệu quả cần phải sử dụng giá cả cố định hoặc giá gốc để so sánh. Trên cơ sở hệ thống tài khoản quốc gia SNA, chúng ta có các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả kinh tế như sau: + Giá trị gia tăng (VA): là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các ngành thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định. Đó là nguồn gốc của mọi khoản thu nhập, sự giàu có và phồn vinh xã hội. Nó không chỉ biểu hiện hiệu quả của sản xuất theo chiều rộng mà còn là một trong những cơ sở quan trọng để tính các chỉ tiêu kinh tế khác. Được xác đinh bởi công thức sau: VA = GO - IC + Giá trị sản xuất (GO): là chỉ tiêu cho biết trong một năm hoặc một vụ thì đơn vị sản xuất tạo ra được khối lượng sản phẩm có giá trị là bao nhiêu, chỉ tiêu này phản ánh SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 10 Chuyên đề tốt nghiệp qui mô về giá trị sản xuất mà ngành nông nghiệp tạo ra cho xã hội. Có công thức xác định như sau: GO = Q * P Trong đó : Q: khối lượng sản phẩm P: giá cả của sản phẩm + Chi phí sản xuất: Bao gồm chi phí trung gian và chi phí về lao động gia đình - Chi phí trung gian (IC): là bộ phận cấu thành giá trị sản xuất bao gồm những chi phí vật chất và dịch vụ cho sản xuất (không kể khấu hao), như phân bón, thuốc các loại, thuê thu hoạch, các khâu dịch vụ như thuỷ lợi, làm đất, vận chuyển, tuốt lúa.  Chi phí vật chất trong sản xuất lúa là các yếu tố đầu vào: giống, phân bón, thuốc các loại  Chi phí dịch vụ trong sản xuất lúa: Công lao động thuê ngoài Các chi phí dịch vụ khác + Năng suất lúa (N): Chỉ tiêu này nói lên sản lượng thu được trên một đơn vị diện tích, được xác định bằng công thức sau: N=Q/S Trong đó: Q: sản lượng lúa S: diện tích gieo lúa * Các chỉ tiêu phản ánh quy mô lợi nhuận của đơn vị sản xuất có được trong sản xuất. VA/IC: Giá trị tăng thêm trên chi phí trung gian, chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí trung gian có thể tạo ra bao nhiêu đồng giá trị tăng thêm trong kỳ. GO/IC: Giá trị sản xuất trên chi phi trung gian, chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí trung gian bỏ ra thu được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất trong kỳ. VA/lao động gia đình (LĐGĐ): Chỉ tiêu này phản ánh một công lao động gia đình tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng trong kỳ sản xuất. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 11 Chuyên đề tốt nghiệp 1.1. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.2.1 Tình hình sản xuất lúa trên Thế giới và ở Việt nam Trên thế giới, lúa chiếm một vị trí quan trọng, đặc biệt ở vùng Châu Á. Ở Châu Á, lúa là món ăn chính giống như bắp của dân Nam Mỹ, hạt kê của dân Châu Phi hoặc lúa mì của dân Châu Âu và Bắc Mỹ. Thống kế của tổ chức lương thực thế giới (FAO,2008) cho thấy, có 114 nước trồng lúa, trong đó 18 nước có diện tích trồng lúa trên trên 1triệu ha tập trung ở Châu Á,....., 31 nước có diện tích trồng lúa trong khoảng 100.000ha - 1.000.000 ha. Trong đó có 27 nước có năng suất trên 5 tấn/ha đứng đầu là Ai Cập (9.7 tấn/ha), Úc (9.5 tấn/ha) El Salvador (7.9 tấn/ha). Thống kế của tổ chức lương thực thế giới (FAO,2008) còn cho thấy, diện tích trồng lúa trên thế giới đã gia tăng rõ rệt từ năm 1961 đến 1980. Trong vòng 19 năm đó, diện tích trồng lúa trên thế giới tăng bình quân 1,53 triệu ha/năm. Từ năm 1980, diện tích lúa tăng chậm và đạt cao nhất vào năm 1999 (156,8 triệu ha) với tốc độ tăng chậm với tốc độ tăng trưởng bình quân 630.000 ha/năm. Từ năm 2000 trở đi diện tích trồng lúa thế giới có nhiều biến động và có xu hướng giảm dần, đến năm 2005 còn ở mức 155,1 triệu ha.Từ năm 2005 đến 2008 diện tích lúa gia tăng liên tục đạt 159,0 triệụ ha cao nhất kể từ năm 1995 tới nay. Bên cạnh diện tích trồng lúa, năng suất lúa bình quân trên thế giới cũng tăng khoảng 1,4 tấn/ha trong vòng 24 năm từ năm 1961 đến 1985, đặc biệt sau cuộc cách mạng xanh của thế giới vào những năm 1965-1970, với sự ra đời của các giống lúa thấp cây, ngắn ngày, không quang cảm, mà tiêu biểu là giống lúa IR5, IR8. Đến những năm 1990 dẫn đầu năng suất lúa trên thế giới là các nước Triều Tiên, Úc, Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nha (IRRI, 1990). Từ năm 1990 trở đi đến tại thời điểm hiện nay năng suất lúa thế giới liên tục được cải thiện đạt 4,3 tấn/ha năm 2008, tuy nhiên chỉ bằng phân nửa năng suất của Ai Cập (9,7 tấn/ha) nước đứng đầu thế giới. Việt Nam, xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, cây lúa là cây trồng chính và lâu đời, cây lúa được phân bố khắp mọi miền của đất nước từ Bắc vào Nam, là một trong những nước có điều kiện khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa. Hơn 70 % dân số Việt nam sống bằng nghề trồng lúa, nhân dân ta rất cần cù, sáng tạo và giàu SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 12 Chuyên đề tốt nghiệp kinh nghiệm trong nghề trồng lúa nước, được kế thừa những kinh nghiệm của cha ông và đúc rút nhiều thành công trong công tác chăm sóc và gieo trồng. Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa nước ta qua 3 năm 2008/2007 2009/2008 Chỉ ĐVT 2007 2008 2009 SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ tiêu (%) (%) Diện Nghìn 7207,40 7400,2 7440,1 + 192,80 +2,68 + 39,90 + 0,54 tích ha Năng tạ/ha 49,87 52,34 52,28 +2,47 +4,95 - 0,06 - 0,11 suất Sản Nghìn 35942,70 38729,80 38895,50 +2787,10 +7,75 +165,70 + 0,43 lượng tấn (Nguồn: Niên giám thống kê cả nước 2009) Qua số liệu thực tế, diện tích sản xuất lúa của nước ta qua 3 năm tăng lên . Từ 7207,40 nghìn ha (năm 2007), tăng lên 7440,1 nghìn ha (năm 2009), tức tăng 232,70 nghìn ha so với năm 2007, tăng 39,90 nghìn ha so với năm 2008 tương ứng tăng 0,54%. Tuy vậy năng suất chỉ tăng từ 49,87 tạ/ha (năm 2007) lên 52,34 tạ/ha (năm 2008). Đến năm 2009, năng suất lúa lại giảm. Từ 52,34 tạ/ha (năm 2008) xuống còn 52,28 tạ/ha (năm 2009), tức giảm 0,06 tạ/ha, tương ứng 0,11%. Sản lượng lúa vẫn tăng được ổn định khi diện tích tăng qua 3 năm. Sản lượng năm 2008 đạt 38729,80 nghìn tấn, tăng 2787,10 tấn so với năm 2007, tương ứng tăng 7,75%. Năm 2009 đạt 38895,50 nghìn tấn, tăng 165,70 nghìn tấn so với năm 2008, tương ứng tăng 0,43 %. Đạt được những thành tựu đó, chính là nhờ sự quan tâm lãnh đạo của nhà nước ta trong lĩnh vực sản xuất lúa. Sản lượng và năng suất lúa không ngừng tăng qua qua các năm, nguyên nhân là do áp dụng khoa học kỷ thuật, cơ giới hóa vào trong sản xuất. 1.2.2. Tình hình sản xuất lúa của huyện Quảng Điền, tỉnh TT Huế SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 13 Chuyên đề tốt nghiệp Quảng Điền nằm trong khu vực Bắc Trung Bộ có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho trồng lúa nên năng suất không cao. Huyện đã rất cố gắng khắc phục khó khăn trong phát triển sản xuất lúa, trong giai đoạn từ năm 2008 – 2010 năng suất liên tục tăng nhưng vẫn chưa vượt qua mức 60 tạ/ha. Trong khi ấy, diện tích lại liên tục giảm. Nhưng đến nay huyện Quảng Điền đã cố gắng khắc phục khó khăn phát triển sản xuất lúa là một trong những địa phương có sản lượng lúa lớn của tỉnh. Diễn biến về diện tích, năng suất và sản lượng lúa của huyện được thể hiện trong bảng 2. Bảng 2: Kết quả sản xuất lúa ở huyện Quảng Điền qua giai đoạn 2008 - 2010 2009/2008 2010/2009 Chỉ tiêu ĐVT 2008 2009 2010 Tỷ lệ Tỷ lệ SL SL (%) (%) Diện tích Ha 6.779,03 7.688,92 7.864,41 +909,90 +13,42 +175,49 +2,28 Năng suất Tạ/ha 58,00 58,50 58,72 +0,50 +0,86 +0,22 +0,37 44.980,2 Sản lượng Tấn 39.318,00 46.179,12 +5662,2 +14,4 +1198,92 +2,66 0 (Nguồn: UBND huyện Quảng Điền) Xem xét các chỉ tiêu trong bảng số liệu ở bàng 2 cho thấy: Diện tích đất canh tác lúa tăng qua 3 năm. Năm 2008, sản lượng lúa cả năm của huyện là 39318 tấn, năm 2009 là 44980,20 tấn tăng so với năm 2008 là 5662,2 tấn, tương ứng tăng 14,4%. Năm 2010 la 46179,12 tấn tăng so với năm 2009 là 1198,92 tấn, tương ứng tăng 2,66%. Và song song với chỉ tiêu sản lượng tăng là năng suất cũng tăng, từ 58 tạ/ha (năm 2008) lên 58,72 tạ/ha (năm 2010). Năm 2008, năng suất toàn huyện đạt 58 tạ/ha, năm 2009 đạt 58,5 tạ/ha và đến năm 2010 thì năng suất đạt 58,72 tạ/ha. Đây có thể nói là thành tích khả quan của toàn huyện, thể hiện sự cố gắng nỗ lực của tất cả người dân sản xuất và cán bộ huyện trong trong việc phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, đưa kinh tế huyện nói riêng ngày một đi lên. Tuy nhiên, mặc dù năng suất tăng nhưng sản lượng tăng không cao. Cán bộ huyện và nhưng người nông dân có sản xuất lúa cần chú trọng hơn nữa đến công tác quy hoạch sản xuất, phát triển nâng cấp hệ thống đê đập, bảo đảm chống úng, chống hạn. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 14 Chuyên đề tốt nghiệp 1.3. TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.3.1. Điều kiện tự nhiên 1.3.1.1. Vị trí địa lý Quảng Ngạn là một trong những xã nằm ven bờ đầm phá Tam Giang, phía Đông Bắc giáp với biển, phía Tây Bắc giáp với huyện Phong Điền, Phía Đông Nam giáp với xã Quảng Công, phía Tây Nam giáp với đầm phá. Một mặt giáp với biển, một mặt giáp với phá tạo cho địa bàn có ưu thế trong khai thác và NTTS. Nhưng vì cách xa trung tâm huyện lỵ, cộng thêm sự ngăn trở của phá Tam Giang nên vấn đề giao lưu kinh tế địa bàn hết sức khó khăn. Ưu thế trong nuôi trồng và khai thác thủy sản nhưng bất lợi cho địa bàn trồng trọt chăn nuôi. Đất cát trắng, thiếu nước và nhiểm mặn là một trong những khó khăn của địa bàn đối với ngành trồng trọt nói chung và đối với trồng lúa nói riêng. 1.3.1.2. Địa hình Vị trí địa lý tạo cho địa phương một địa hình có sự phân chia rõ rệt. Địa hình địa phương chia làm 3 vùng: Vùng biển bao gồm những gò cát cao khoảng 10 đến 13m so với mực nước biển. Vùng này hiện nay chỉ trồng phi lao chắn cát bảo vệ khu dân cư và vùng sản xuất. Vùng sản xuất bao gồm: Vùng đồng bằng ven theo bờ phá để trồng trọt, vùng nước mặt ven đầm dùng để nuôi trồng thủy sản. 1.3.1.3. Thời tiết khí hậu Xã Quảng Ngạn thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, nên nói chung nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền bắc và miền nam nước ta. - Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung bình năm là 22,20C, thường giao động trong khoảng 17,40C đến 34,60C. Biên độ giữa các tháng trong năm chênh lệch nhau từ 7 đến 90C Số ngày mưa trung bình trong năm là 180 ngày với lượng mưa bình quân 2.560 mm/năm, giao động trong khoảng 2600,3mm đến 3005,5mm. Độ ẩm bình quân là 84%, giao động trong khoảng 60,3% đến 96,7%. Nhìn chung thởi tiết khí hậu khá phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng, đặc biệt là cây công nghiệp ngắn ngày, cây thực phẩm. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 15 Chuyên đề tốt nghiệp - Chế độ mưa: Do mùa mưa trùng với mùa gió bão từ tháng 9 đến tháng 11 với lượng mưa trung bình từ 2500mm-2700mm nên gây ra lũ lụt ngập úng ở nhiều nơi. Mùa khô kéo dài từ thang 5 đến tháng 8, lượng bốc hơi nước lớn gây ra khô hạn kéo dài, ở hạ lưu của các con sông nước mặn xâm nhập vào trong đất liền gây tổn thất lớn cho người dân nuôi cá nước ngọt. Bởi vậy, việc xây dựng các công trình thủy lợi có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của toàn xã. -Chế độ gió: Nằm trong khu vực bắc trung bộ nên địa phương cũng chịu ảnh hưởng của hai chế độ gió chính sau: Gió mùa Đông bắc: thịnh hành từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Gió này làm nhiệt độ thấp vào giai đoạn gieo mạ, gây hao hụt thóc giống vì khó nảy mầm. Gió đông nam: Tập trung vào mùa hè, thổi từ biển nên mát và ẩm . Gió Phơn tây nam: Bản...chi phí cho các công cụ này chỉ mang tính tương đối. Ở đây, chúng tôi căn cứ vào thời gian sử dụng các công cụ trên cho việc sản xuất của các nông hộ để phân bổ chi phí. Chỉ tiêu thứ hai trong khoản mục chi phí là thù lao lao động. Lao động trong sản xuất chủ yếu được huy động từ gia đình, tuy nhiên để cho quá trình tính toán được cụ thể thì thù lao lao động phục vụ cho sản xuất lúa vẫn được đưa vào. Tại địa phương hiện nay, giá trị một công lao động cho sản xuất lúa từ 100.000 – 120.000 đồng. Bình quân lao động gia đình của nhóm hộ là 0,5 lao động/ sào. Đất trồng lúa ở địa bàn là đất cát pha nghèo dinh dưỡng, cần bón nhiều phân bốn. Điều này làm cho tỷ trọng chi phí phân bón trong chi phí trung gian lớn nhất, đạt 33,45 % tương đương với 173,53 nghìn đồng. Về giá trị thì chi phí phân bón không có sự chênh lệch giữa các nhóm hộ. Trong chi phí phân bón thi phân đạm chiếm tỷ trọng lớn nhất 19,43%, phân lân chiếm 7,1%, kali chiếm 10,2%, đa số hộ nông dân không bón phân chuồng. Như vậy người dân địa phương chủ yếu bón phân hóa học chứ không phải là phân chuồng. Trong điều kiện đất cát pha, phân chuồng có vai trò cải tạo đất, tăng dộ phì nhiêu. Muốn nâng cao năng suất lúa và giảm chi phí phân bón thì cần bón cân đối. Cụ thể là tăng phân chuồng, phân lân thay thế cho việc tăng cường phân đạm. Đối với thuế sử dụng đất tôi không đưa vào vì đa số đất đai ở đây thuộc hạng 4, hạng 5, là loại đất đặc biệt khó khăn nên được Nhà nước miễn thuế. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 33 Chuyên đề tốt nghiệp Để thấy được mức chi phí cho sản xuất lúa của các nông hộ chúng ta trực tiếp theo dõi bảng số liệu sau: Bảng 9: Tình hình chi phí đầu tư sản xuất lúa của các hộ điều tra qua hai vụ ( Tính BQ/sào) Đông Xuân Hè - Thu BQC Chỉ tiêu Giá trị Cơ cấu Giá trị Cơ cấu Giá trị Cơ cấu 1000đ (%) (1000đ) (%) (1000đ) (%) 1. Chi phí trung gian 467,25 63,84 592,39 67,29 529,82 65,56 a) Giống 41,70 8,94 48,14 8,12 44,92 8,55 b) Phân bón 119,90 25,66 227,16 38,35 173,53 32,00 c) Thuốc BVTV 97,97 20,96 99,71 16,83 98,84 18,90 d) Chi phí khác 207,68 44,44 217,38 36,70 212,53 40,55 2. Lao động gia đình 264,63 36,16 288,00 32,71 276,32 34,44 quy ra tiền Tổng 731,88 100,00 880,39 100,00 869,14 100,00 (Nguồn : Số liệu điều tra năm 2010) Nhìn vào bảng số liệu ta thấy mức đầu tư bình quân/sào cho sản xuất lúa của hai vụ không có sự biến động lớn. Trong cơ cấu tổng chi phí thì tỷ trọng chi phí trung gian (IC) là lớn nhất, chiếm khoảng 65% tổng chi phí đầu tư sản xuất lúa, phần còn lại là chi phí do lao động gia đình chiếm khoảng 35% . Đối với vụ Đông Xuân thì chi phí trung gian là 467,25 nghìn đồng/sào, chiếm 63,84% và vụ Hè Thu là 592,39 nghìn đồng/sào, chiếm 67,29%. Trong cơ cấu chi phí trung gian thì chi phí về phân bón là lớn nhất, chiếm 32,00%. Vụ Đông Xuân là 119,90 nghìn đồng/sào chiếm 27,89%, còn vụ Hè Thu là 227,16 nghìn đồng/sào chiếm 38,35%. Phần còn lại là chi phí như: giống, thuốc BVTV và các chi phí khác chiếm 68%. Ta thấy vụ Hè Thu có IC lớn hơn vụ Đông Xuân cả về giá trị lẫn cơ cấu. Điều này do điều kiện khí hậu không thuận lợi cộng thêm nông hộ đầu tư phân bón cho vụ Hè Thu nhiều hơn vụ Đông Xuân. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 34 Chuyên đề tốt nghiệp 2.3.2 Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của các hộ điều tra Từ việc chọn giống lúa tốt đưa vào sản xuất đến thực hiện bón phân và sử dụng thuốc BVTV hợp lý đều nằm ngoài mục đích nâng cao sản lượng. Trong quá trình sản xuất lúa, để đạt được mục đích cao nhất trên một đơn vị diện tích thì vấn đề đặt ra phải đạt được năng suất và sản lượng cao nhất. Bởi vậy mà sản lượng được xem là đích đạt đến cuối cùng của người trồng lúa. Để thấy rõ hơn về sản lượng lúa giữa hai nhóm hộ sản xuất, ta phân tích diện tích, năng suất, sản lượng lúa bình quân/hộ/vụ của các nông hộ điều tra thông qua bảng: Bảng 10: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của các hộ điều tra (Tính BQ/hộ) So sánh ĐX - HT Đông Hè Chỉ tiêu ĐVT BQC Tỷ lệ Xuân Thu SL (%) 1. Diện tích gieo trồng Sào 6,25 6,25 6,,25 0,00 0,00 2. Năng suất Tạ/sào 2,83 2,56 2,70 +0,27 10,54 3. Sản lượng Tạ 17,69 16,00 16,85 +1,69 10,56 (Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010) Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, mặc dù diện tích gieo trồng cả hai vụ Đông Xuân là như nhau (6,25 sào/hộ) nhưng cả năng suất và sản lượng của vụ Đông Xuân đều cao hơn vụ Hè Thu. Năng suất bình quân chung vụ Đông Xuân là 2,83 tạ/sào, trong khi vụ Hè Thu la 2,56 tạ/sào. Vụ Đông Xuân cao hơn vụ Hè Thu la 0,27 tạ/sào, chiếm tỷ lệ cao hơn vụ Hè Thu là 10,54%. Nguyên nhân là trong vụ Đông Xuân do điều kiện thời tiết thuận lợi, còn vụ Hè Thu sâu bệnh và hạn hán gây ra thiếu nước làm ảnh hưởng đến sản lượng lúa của nông hộ qua hai vụ cũng khác nhau, cụ thể là sản lượng lúa bình quân chung vụ Đông Xuân là 17,69 tạ/hộ, vụ Hè Thu sản lượng lúa là 16,00 tạ/hộ. Vụ Đông Xuân có sản lượng cao hơn vụ Hè Thu là 1,69 tạ/hộ chiếm tỷ lệ cao hơn vụ Hè Thu là 10,56%. Nhìn chung cả diện tích, sản lượng, năng suất lúa của các hộ chưa cao chỉ đủ đáp ứng nhu cầu của gia đình. Vấn đề đặt ra trong thời gian tới là cần có biện pháp phù hợp để nâng cao năng suất và sản lượng lúa đáp ứng nhu cầu và để bán ra thị trường nhằm nâng cao thu nhập cho bà con nông dân. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 35 Chuyên đề tốt nghiệp 2.3.3. Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả sản xuất lúa của các nông hộ Hình thức sản xuất của các hộ được điều tra là hình thức sản xuất kinh tế hộ và tự cung tự cấp là chính, lợi nhuận chưa phải là mục tiêu tối cao, mục tiêu tối cao của hình thức kinh tế này là phục vụ nhu cầu bản thân và chỉ đem bán ra sản phẩm dư thừa. Do đó tôi không dùng chỉ tiêu lợi nhuận bình quân sào và chỉ tiêu thu nhập hỗn hợp MI ( MI = VA - Thuế - Khấu hao). Tôi cũng không sử dụng vì không cần thiết khi địa phương đã được miễn thuế và khấu hao bình quân sào là bằng nhau. Từ chỉ tiêu này, tôi lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất bao gồm: Năng suất bình quân sào, giá trị sản xuất bình quân sào, giá trị bình quân 1 ngày lao động. Những chỉ tiêu này tôi đã nêu ở phần cơ sở lý luận. Kết quả là chỉ tiêu nói lên giá trị được tạo ra của quá trình hoạt động sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định. Để đánh giá lợi ích mang lại cho quá trình hoạt động sản xuất đó là bao nhiêu thì căn cứ vào chỉ tiêu hiệu quả. Chỉ tiêu này là cơ sở cho việc lựa chọn phương án sản xuất tối ưu. Nó phản ánh được lượng kết quả hữu ích cuối cùng đạt được và phần hao phí vật chất, lao động bỏ ra trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Để hiểu rõ hơn về điều này chúng ta xem xét bảng sau. Qua bảng số liệu (bảng 11) điều tra cho thấy giá trị các chỉ tiêu của các nhóm hộ có sự chênh lệch đáng kể. Trước hết, là chỉ tiêu năng suất. Nhóm hộ có năng suất lúa cao nhất là nhóm hộ trung bình, đạt 271,00 Kg/sào, tiếp đến là nhóm hộ khá giàu, đạt 256,50 Kg/sào, và thấp nhất là nhóm hộ nghèo đói, đạt 239,00 Kg/sào. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 36 Chuyên đề tốt nghiệp Bảng 11.Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả kinh tế của các hộ điều tra (Tính BQ/sào/hộ) Chỉ tiêu ĐVT Nhóm hộ khá giàu Nhóm hộ trung bình Nhóm hộ nghèo Bình quân chung ĐX HT BQC ĐX HT BQC ĐX HT BQC ĐX HT BQC NS Kg/sào 271 242 256,50 279 263 271 253 225 239 256 234 245 GO 1000đ 636 551 594 676 668 673 511 486 514 581 526 554 IC 1000đ 298 312 305 279 288 284 296 297 297 294 299 297 VA 1000đ 338 239 289 399 380 389 245 189 217 287 227 257 GO/IC Lần 2,13 1,77 1,95 2,43 2,32 2,37 1,83 1,64 1,73 1,98 1,56 1,77 VA/IC Lần 1,08 0,78 0,93 1,37 1,26 1,31 0,78 0,56 0,67 0,93 0,71 0,82 VA/LĐGĐ Lần 1,48 1,04 1,26 1,71 1,63 1,67 1,00 0,78 0,89 1,20 0,96 1,08 (Nguồn: số liệu điều tra 2010) SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 37 Chuyên đề tốt nghiệp Nguyên nhân khách quan dẫn đến năng suất của các hộ nghèo thấp hơn hộ giàu và hộ trung bình là do các hộ này gặp thiên tai hạn hán mất mùa (theo thông tin từ các nông hộ). Nguyên nhân chủ quan là do các hộ này còn thiếu thông tin, kỹ thuật, thiếu vốn. Một số bà con cho biết: Mặc dù lượng chi phí chúng tôi bỏ ra tương đương với chi phí của các hộ khá giàu và trung bình, nhưng do phải vay mượn để mua phân, thuốc Điều này đã làm cho việc chậm trễ trong chăm sóc bón phân, phun thuốc Kết quả là năng suất lúa của chúng tôi không cao. Một cách tổng quát hơn, năng suất lúa bình quân chung/hộ đạt 245,00 Kg/sào. Nguyên nhân là do năng suất lúa của các hộ nghèo thấp đã làm cho năng suất bình quân chung giảm đáng kể. Ngoài ra, theo lời kể của bà con là, vụ HT là vụ sản xuất trên đất xấu hơn vụ ĐX, do kế tiếp vụ ĐX mà các chất dinh dưỡng trong đất đã cung cấp cho cây lúa, lại phải làm đất vội nên chưa ngấm đất lâu, dinh dưỡng trong đất chưa kịp thời được bổ sung, cải tạo. Điều này làm cho năng suất vụ HT giảm mạnh so với vụ ĐX. Dẫn đến năng suất bình quân chung giảm. Mặc dù, có nhiều nguyên nhân làm cho năng suất lúa giảm đáng kể, song năng suất bình quân đạt 245,00 Kg/sào là một kết quả khả quan, kết quả của quá trình phấn đấu siêng năng, cần cù của các hộ. Chính vì sự chênh lệch năng suất của các nhóm hộ rõ rệt, kéo theo những thay đổi của GO cũng tương tự. Cụ thể là giá trị sản xuất bình quân của nhóm hộ trung bình cao nhất, đạt 673,00 nghìn đồng/sào, kế tiếp là nhóm hộ khá giàu, con số này đạt 594,00 nghìn đồng/sào, và thấp nhất là nhóm hộ nghèo, chỉ đạt 514,00 nghìn đồng/sào. Như vậy, GO của nhóm hộ nghèo thấp hơn nhóm hộ có GO cao nhất là 159,00 nghìn đồng/sào. Điều này ngoài nguyên nhân về năng suất thấp còn do nguyên nhân về giá. Tức là các hộ nghèo thường bán lúa khi vừa thu hoạch xong, để trả nợ, mà những lúc này giá lúa rất thấp, hơn nữa lại bị thương lái ép giá. Do đó mà các hộ này vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Chỉ tiêu này xem xét bình quân chung/hộ, đạt 554,00 nghìn đồng/sào. Nguyên nhân là do GO của nhóm hộ nghèo thấp đã làm cho GO bình quân chung giảm rất đáng kể. Đây là tồn tại, khó khăn của nông dân cũng như của địa phương. Do đó vấn đề đặt ra trước mắt là phải hổ trợ vốn cho các nhóm hộ sản xuất nghèo, đặc biệt là hổ trợ sau khi bị mất mùa để các nông hộ có điều kiện tái sản xuất. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 38 Chuyên đề tốt nghiệp Về mặt chi phí trung gian (IC) của các nhóm hộ có sự biến động không đáng kể. IC của các nhóm hộ khá giàu, trung bình và nghèo lần lượt là 305,00 nghìn đồng/sào, 284,00 nghìn đồng/sào và 297,00 nghìn đồng/sào. IC bình quân chung/hộ là 297,00 nghìn đồng/sào. Từ những sự thay đổi của GO và IC, VA có những sự biến động kéo theo là điều tất yếu xẩy ra. Kết quả này thể hiện sự thay đổi ở các nhóm hộ rất rõ nét. Giá trị tăng thêm của nhóm hộ trung bình cao nhất, đạt 389,00 nghìn đồng/sào, kế tiếp là nhóm hộ khá giàu, đạt 289,00 nghìn đồng/sào và nhóm hộ nghèo thấp nhất, chỉ đạt 217,00 nghìn đồng/sào. Như vậy, giá trị tăng thêm của nhóm hộ nghèo thấp hơn 172,00 nghìn đồng/sào so với nhóm hộ trung bình là nhóm hộ có VA cao nhất. VA của các nhóm hộ có sự chênh lệch lớn, do IC không đáng kể mà chủ yếu là do giá trị sản xuất GO. Một cách tổng quát, chỉ tiêu giá trị tăng thêm bình quân chung/hộ đạt 257,00 nghìn đồng/sào. Điều này chủ yếu là do các hộ nghèo có VA quá thấp so với nhóm hộ khá giàu và trung bình. Để giải quyết điều này ngoài các giải pháp trên, cần phải quan tâm làm thế nào để giảm chi phí trung gian trong khi giá lúa thấp mà giá cả vật tư ngày càng tăng cao, và đây cũng chính là nguyện vọng lớn lao của bà con. Các chỉ tiêu kết quả chỉ cho biết giá trị còn lại là bao nhiêu sau khi trừ đi chi phí trung gian, chứ chưa nói được một đồng chi phí bỏ ra sẽ tạo được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất trong kỳ, một đồng chi phí bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu giá trị tăng thêm trong kỳ, cũng như một đồng chi phí về lao động gia đình thì sẽ tạo ra được bao nhiêu giá trị tăng thêm trong kỳ. Tuy nhiên, chúng là căn cứ để xác định các chỉ tiêu hiệu quả. Trước hết là chỉ tiêu GO/IC. So sánh chỉ tiêu này giữa các nhóm hộ thì nhóm hộ trung bình đạt được con số cao nhất là 2,37 lần, tức là một đồng chi phí trung gian bỏ ra thì tạo ra được 2,37 đồng giá trị sản xuất trong kỳ, kế tiếp là nhóm hộ khá giàu đạt 1,95 lần, tức là một đồng chi phí bỏ ra thì tạo được 1,95 đồng giá trị sản xuất trong kỳ. Trong khi đó nhóm hộ nghèo đạt một đồng chi phí bỏ ra chỉ tạo được 1,73 đồng giá trị sản xuất. Như vậy, chỉ tiêu này giảm 0,22 lần so với nhóm hộ khá giàu, tức giảm 0,22 giá trị sản xuất trên một đồng chi phí bỏ ra. Điều này cho thấy hiệu quả sản xuất của nhóm hộ nghèo thấp hơn so với nhóm hộ khá giàu. Chính vì hiệu quả sản xuất của SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 39 Chuyên đề tốt nghiệp nhóm hộ nghèo và khá giàu thấp nên đã làm cho GO/IC bình quân chung trên hộ giảm đáng kể, tức chỉ thu được 1,77 đồng giá trị sản xuất trên một đồng chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu thứ hai cần xem xét đó là VA/IC. Nếu xét bình quân vụ cho từng nhóm hộ thì nhóm hộ trung bình đạt chỉ tiêu này cao nhất là 1,31 lần, tức là một đồng chi phí trung gian bỏ ra tạo ra được 1,31 đồng giá trị tăng thêm, kế tiếp là nhóm hộ khá giàu, một đồng chi phí bỏ ra thì thu được giá trị tăng thêm là 0,93 đồng, và thấp nhất là nhóm hộ nghèo chỉ thu được 0,67 đồng giá trị tăng thêm trên một đồng chi phí bỏ ra. Như vậy so với nhóm hộ trung bình thì nhóm hộ nghèo có giá trị tăng thêm thấp hơn 0,64 đồng trên một đồng chi phí bỏ ra. Qua đó, cho ta thấy hiệu quả sản xuất của nhóm hộ trung bình là cao nhất và của nhóm hộ nghèo là thấp nhất. Bên cạnh chi phí trung gian (IC), chi phí về lao động gia đình chiếm tỷ trọng rất lớn khoảng 43,5% trong tổng chi phí sản xuất. Do đó ta có chỉ tiêu cần đánh giá là VA/lao động gia đình (LĐGĐ). Xét bình quân vụ của từng nhóm hộ thì con số này của nhóm hộ trung bình cao nhất đạt 1,67 lần, tức là một đồng chi phí về lao động gia đình bỏ ra thì tạo ra được 1,67 đồng giá trị tăng thêm trong kỳ. Trong khi đó, con số này thấp nhất là ở nhóm hộ nghèo chỉ đạt giá trị tăng thêm là 0,89 đồng trên một đồng chi phí về lao động gia đình bỏ ra trong kỳ. Nguyên nhân chính là do VA của nhóm hộ trung bình cao hơn nhóm hộ nghèo. Như vậy, hiệu quả sản xuất của nhóm hộ trung bình cao hơn nhóm hộ nghèo. Qua quá trình phân tích cho thấy trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng, người nông dân chủ yếu lấy công làm lãi. Chi phí trung gian mà các nhóm hộ sử dụng là tương đương nhau, song lại có kết quả và hiệu quả hoàn toàn khác nhau. Điều này đặt ra một vấn đề cần giải quyết là phải tuyên truyền thông tin, tập huấn kỹ thuật để giúp bà con biết bón phân, phun thuốc với số lượng bao nhiêu và khi nào cho hợp lý, chứ không phải làm theo kiểu ước chừng theo thói quen như hiện nay. Hai là phải tạo điều kiện cho nhóm hộ nghèo vay vốn với mức lãi suất nhẹ để đầu tư kịp thời cho mùa vụ. Làm được hai điều này thì mới có thể nâng cao năng suất của nhóm hộ nghèo lên kịp với hai nhóm hộ kia, cũng như để nâng cao năng suất bình quân chung trên hộ và toàn cả địa phương. Để cải thiện đời sống cho bà con đặc biệt là những hộ nghèo. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 40 Chuyên đề tốt nghiệp 2.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT LÚA Ở XÃ QUẢNG NGẠN Lúa là cây lương thực có thời gian từ khi gieo trồng đến khi thu hoạch trong vòng 4-5 tháng. Trong quá trình sản xuất, chúng ta cần nghiên cứu kỹ các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả sản xuất. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, cây lúa chịu tác động của rất nhiều yếu tố như đất đai, thời tiết thuộc về tự nhiên và sự can thiệp của con người như mức đầu tư thâm canh. Để xác định rõ mức ảnh hưởng này, tôi tiến hành nghiên cứu một số nhân tố cơ bản sau: 2.4.1 Ảnh hưởng quy mô ruộng đất Bảng 12: Ảnh hưởng của quy mô đất trồng lúa đến VA của các hộ điều tra (Tính BQ/hộ) DT Sô hộ Cơ cấu DT VA/sào VA/IC Tổ (Sào) ( hộ) (%) (Sào) (1000đ) (Lần) I < 5 5 16,66 2,10 80,11 0,89 II 5 - 10 17 56,66 5,45 290,44 3,17 III > = 10 8 28,68 10,77 78,44 0,85 BQC 30 42,53 18,32 141,70 1,55 (Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010) Số liệu bảng trên đã phản ánh thực trạng sản xuất lúa tại địa bàn nghiên cứu. Những hộ có diện tích thuộc nhóm II chiếm tỷ lệ cao nhất 56,66% trong tổng số hộ và VA bình quân đạt 290,44 nghìn đồng /sào. Có được kết quả này là nhờ vào trình độ thâm canh tốt, quỹ đất của các hộ này vừa đủ để họ chú trọng đầu tư năng suất, VA bình quân cao nhất trong ba tổ. Nhóm thứ III có diện tích gieo trồng lớn nhất nhưng chưa chú trọng vào đầu tư nên VA bình quân chỉ đạt 78,44 nghìn đồng/sào, VA/IC=0,85 lần. Nghĩa là cứ một đồng cho phí bỏ ra của các hộ có diện tích sản xuất lớn (>= 8 sào) chỉ thu được 78,44 đồng. Như vậy, qua sự phân tích cho thấy các hộ có diện trồng lúa đạt mức bình quân 5,45 sào/hộ có kết quả sản xuất cao nhất, còn những hộ khác do có ít đất phục vụ cho gieo trồng hoặc là có quỹ đất lớn nhưng chưa chú trong đầu tư nên kết quả đem lại chỉ ở mức thấp. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 41 Chuyên đề tốt nghiệp Vấn đề đặt ra là quỹ đất sản xuất bị giới hạn, làm thế nào để nâng cao hiệu quả trong trồng trọt, yêu cầu cấp thiết đặt ra là tập trung đầu tư thâm canh để nâng cao năng suất. 2.4.2. Ảnh hưởng của chi phí trung gian Như đã trình bày ở bảng cơ cấu chi phí, IC chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng chi phí. Ở mức bình quân chung, khoản mục chi phí này là 529,82 nghìn đồng/sao, tất nhiên con số này có sự chênh lệch giữa hai vụ Đông - Xuân và Hè - Thu, cho nên VA bình quân thu được giữa hai vụ là khác nhau. Để thấy rõ bản chất của vấn đề ta đi sâu vào nghiên cứu bảng số liệu sau: Bảng 13: Ảnh hưởng của quy mô IC đến VA của các hộ điều tra (Tính BQ/sào) Chi phí trung Số lượng Cơ cấu IC VA VA/IC Tổ gian IC (1000đ) (hộ) (%) (1000đ) (1000đ) (Lần) I <500 8 25 415,61 811,16 1,95 II 500 - 750 14 50 649,65 654,14 1,01 III >=750 8 25 850,06 851,17 1,00 BQC 30 36,67 634,07 748,55 1,26 (Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010) Nhìn vào bảng số liệu ta thấy những hộ có mức đầu tư IC bình quân từ 500-700 nghìn đồng/sào chiếm tỷ lệ cao nhất là 50% số hộ có mức đầu tư dưới mức 500 nghìn đồng/sào chiếm tỷ lệ là 25% bằng tỷ lệ của các hộ có mức đầu tư lớn hơn 750 nghìn đồng/sào, và mức IC bình quân là 425,61 nghìn đồng/sào tương ứng với VA bình quân chỉ đạt là 811,16 nghìn đồng/sào. Ngược lại trong tổ III, quy mô đầu tư IC bình quân đạt 850,06 nghìn đồng /sào và VA bình quân tương ứng là 851,17 nghìn đồng/sào. Con số này chứng tỏ kết quả sản xuất lúa của các nông hộ điều tra ở xã Quảng Ngạn tỷ lệ thuận với quy mô IC trên cùng một đơn vị diện tích. Có nghĩa là ở một chừng nào đó nếu tăng đầu tư IC sẽ làm tăng VA, VA/IC. Tuy nhiên nếu lạm dụng quá điều này sẽ làm cho hiệu quả sản xuất lúa VA/IC giảm xuống. Cụ thể là các hộ ở III đã đầu tư IC bình quân chung là 850,06 nghìn đồng/sào, cao nhất trong ba tổ thì đem lại VA bình quân là 851,17 nghìn đồng/sào cũng cao nhưng VA/IC chỉ bằng 1 lần nghĩa là cứ bỏ ra một đồng để mua phân bón, giống thì họ chỉ thu được 1 đồng giá trị gia tăng. Những SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 42 Chuyên đề tốt nghiệp hộ thuộc tổ III tuy mức đầu tư là cao nhất nhưng không chú trọng đến khâu chọn giống, làm đất, sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thuốc thực vật chưa hợp lý nên hiệu quả mang lại chưa cao. Trong sản xuất lúa, nếu chỉ dựa vào sức sản xuất của đất nhưng đầu tư phân bón, công sức không đến nơi đến chốn thì kết quả không những không cao mà còn làm cho đất đai ngày càng hoang hóa, mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sản xuất lúa trong tương lai. Yêu cầu đặt ra là phải đầu tư, sử dụng phân bón và thuốc BVTV hợp lý, chọn các loại giống có phẩm chất tốt để gieo trồng. Có như vậy thì năng suất lúa mới được nâng cao nhưng đồng thời đất đai lại được cải tạo tốt, góp phần cải tạo môi trường sinh thái, xây dựng nền nông nghiệp bền vững. 2.4.3. Ảnh hưởng của nhân tố mùa vụ Mùa vụ là một nhân tố khách quan, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả sản xuất lúa. Nhân tố mùa vụ là nhân tố rất khó lượng hóa. Trong quá trình phân tích tôi xem xét sự ảnh hưởng của nhân tố mùa vụ tới kết quả và hiệu quả sản xuất lúa thông qua sự so sánh của các chỉ tiêu năng suất bình quân trên sào , GO bình quân sào, IC bình quân sào,VA bình quân sào và GO/IC, VA/IC nhằm đánh giá một cách tổng quát ảnh hưởng của nhân tố mùa vụ. Thể hiện qua bảng: Bảng 14 : Ảnh hưởng của nhân tố mùa vụ tới hiệu quả sản xuất lúa Năng IC/sào GO/sào VA/sào GO/IC VA/IC Chỉ tiêu suất (1000đ) (1000đ) (1000đ) (Lần) (Lần) (Tạ/sào) Đông Xuân 2,56 294,00 581,00 287,00 1,98 0,93 Hè Thu 2,34 299,00 526,00 227,00 1,56 0,71 BQC 2,45 297,00 554,00 257,00 1,77 0,82 (Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010) Vụ Đông Xuân (vụ 1) với điều kiện khí hậu thuận lợi nhất là lượng mưa nhiều đảm bảo đủ nước cho cây lúa phát triển, đã làm cho năng suất lúa đạt 2,56 tạ/sào. Ở vụ Hè Thu (vụ 2) năng suất lúa chỉ đạt 2,34 tạ/ha do nắng nóng thiếu nước tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển, nhất là bệnh đạo ôn, kéo năng suất lúa bình quân cả năm xuống còn 2,45 tạ/ha. Mặc dù giá lúa bình quân 650,5 nghìn đồng/tạ thấp hơn giá vụ 2 (604,1 nghìn đồng/tạ). SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 43 Chuyên đề tốt nghiệp GO và VA bình quân vụ 1 đều cao hơn vụ 2. Trong khi IC bình quân sào thấp hơn, dẫn tới các chỉ số GO/IC và VA/IC vụ 1 đều cao hơn so với vụ 2. Chi phí sản xuất vụ 2 cao là do các hộ phải tính chi phí cho thủy lợi, thuốc BVTV và lượng phân bón bổ sung cho lượng phân hao phí do bị bốc hơi và thẩm thấu xuống tầng đất sâu. Tính mùa vụ còn tạo ra sự căng thẳng đối với các yếu tố đầu và sản xuất như: lao động, máy móc, phân bón và các yếu tố khác. Chính vì điêù này đã khiến giá vật tư nông nghiệp cũng như công lao động thuê làm tăng chi phí không chỉ vụ 2 mà còn vụ 1. Để khắc phục tính mùa vụ trong sản xuất lúa, thì dự trữ các yếu tố trong sản xuất rất có ý nghĩa với điều kiện kinh tế nông hộ, dự trữ yếu tố sản xuất như: phân bón, thuốc BVTV là rất khó khăn. Vì vậy vài trò của HTX là chuẩn bị lượng vật tư đầy đủ đáp ứng kịp thời cho người dân. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 44 Chuyên đề tốt nghiệp 2.5. Tình hình tiêu thụ lúa ở xã Quảng Ngạn 2.5.1. Tình hình cơ bản về tiêu thụ lúa của các hộ điều tra Bảng 15: Tình hình cơ bản về tiêu thị lúa của các hộ điều Các chỉ tiêu Cơ cấu (%) 1.Hình thức tiêu thụ 100 Tiêu dùng cho gia đình 80 Biếu tặng bạn bè 0 Hàng đổi hàng 0 Nộp để bù lại các yếu tố đầu vào đã mua trước 0 Bán ra thị trường 20 2.Địa điểm bán 100 Bán tại ruộng 0 Bán tại nhà 100 Bán tại đại lý, người thu gom 0 Bán tại chợ 0 Bán nơi khác 0 3. Đối tượng thu mua 100 Thu gom nhỏ địa phương 100 Thu gom lớn của vùng/ tỉnh 0 Công ty chế biến 0 Bán cho người khác 0 ( Nguồn: số liệu điều tra năm 2010) Qua điều tra cho thấy các hộ sản xuất lúa đều bán lúa cho những người thu gom nhỏ ở địa phương, thứ nhất là vì quen biết, thứ hai cần có nguồn vốn trong tay sớm để đầu tư vào vụ sau hay chi trả cho cuộc sống. trong khi đó tâm lý của người sản xuất lúa muốn bán ngay vì không muốn để sản phẩm lúa trong nhà (không có kho lưu trữ). SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 45 Chuyên đề tốt nghiệp Việc thanh toán giữa người mua gom và hộ sản xuất được thực hiên chủ yếu theo hình thức trả tiền ngay khi bán lúa. 2.5.2. Chuỗi cung sản phẩm lúa của các hộ điều tra Người tiêu dùng tại Địa phương khác địa phương Tỷ lệ: 50% Tỷ lệ: 50% Giá bán: 6800đ/kg Giá bán: 7000 đ/kg Thương lái Tỷ lệ: 20% Giá bán: 6500 đ/kg Nông hộ Lao động Phân bón (Tự có và mua Giống (Mua ngoài) ngoài) ( Mua ngoài) Sơ đồ 2: Chuỗi cung sản phẩm lúa của các hộ điều tra Sản phẩm lúa của các hộ điều tra sau khi được được thu hoach, 80% sản phẩm lúa được nông hộ cất trữ lại để tiêu dùng, 20% sản phẩm lúa còn lại được bà con bán đi để trang trải các chi phí đầu vào như: phân bón, lao động thuê ngoài, giống và các chi phí khác. Lúa được bán cho những người thu gom nhỏ tại địa phương và những tư thương, thương lái này sẽ trực tiếp đến nhà của các hộ nông dân để mua lúa. Giá cả SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 46 Chuyên đề tốt nghiệp sản phẩm lúa được bán với sự thỏa thuận của nông hộ và thương lái, thường thì lấy giá lúa trên thị trường tại thời điểm bán, hiện nay giá lúa bình quân tại địa bàn khoảng 6500 đồng/kg (tùy thuộc vào mùa vụ). Sau khi thương lái đã mua được sản phẩm lúa từ bà con nông dân, một phần họ sẽ bán lại cho các hộ tiêu dùng khác ở trong xã với giá bán khoảng 6800 đ/kg (thường là các hộ khá giàu, các hộ co điều kiện kinh tế không tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là ngành nghề khác). Một phần các thương lái sẽ đem đi đến các địa phương khác để tiêu thụ sản phẩm với giá bán khoảng 7000 đ/kg. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 47 Chuyên đề tốt nghiệp CHƯƠNG III MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT LÚA Ở XÃ QUẢNG NGẠN 3.1. Định hướng sản xuất lúa trong thời gian tới Khi xét về lợi thế so sánh trong các lĩnh vực sản xuất, Quảng Ngạn không phải là địa bàn có ưu thế trong sản xuất lúa , lợi thế của địa bàn là nuôi trồng thủy sản và khai thác thủy sản , nhưng hiện tại không thể chuyển toàn bộ các hộ trồng trọt chăn nuôi sang nuôi trồng thủy sản và khai thác thủy sản hoặc làm dịch vụ. Do vậy nâng cao hiệu quả sản xuất lúa cũng như đáp ứng nhu cầu và đảm bảo an ninh lương thực trong thời gian tới tại đại bàn xã Quảng Ngạn cần đảm bảo các mục tiêu: - Đảm bảo chủ động thủy lợi trong cả hai vụ cũng như chuẩn bị đầy đủ máy bơm nước và hệ thống kênh mương nọi đồng phục vụ tưới tiêu. - Dựa vào điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của địa phương để đưa các giống lúa phù hợp. Ví dụ đưa giống lúa chịu hạn cho vụ Hè Thu, giống lúa chịu mặn ở vùng ven đầm phá, các giống lúa ngắn ngày để thu hoạch trước mùa mưa. - Tập huấn kỷ thuật cho bà con, tìm các mô hình sản xuất phù hợp và thân thiện với môi trường. Đồng thời cải tạo những hậu quả của việc khai thác quá mức tiềm năng đất đai. - Chuyển diện tích trồng lúa của vụ trái sang trồng một số loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao hơn như: khoai, rau, đậu, ớt. Nhưng phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường. 3.2. Một số giải pháp phát triển sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn Xuất phát từ việc nghiên cứu và định hướng phát triển sản xuất lúa, tôi mạnh dạn đưa một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất lúa tại địa phương như sau: 3.2.1 Giải pháp về vốn đầu tư sản xuất Vốn là yếu tố không thể thiếu để phát triển sản xuất. Nhu cầu về vốn đầu tư là nỗi bức xúc của nhiều hộ nông dân, đặc biệt là những hộ khó khăn trong sản xuất. Do cơ hội tiếp cận các nguồn tín dụng chính thức còn hạn chế, bên cạnh đó do tâm lý sợ rủi ro không trả được nợ nên các nông hộ chưa mạnh dạn vay vốn đầu tư vào sản xuất. Đặc biệt nhiều hộ dân phản ánh rằng: Cho đến bây giờ các cấp lãnh đạo vẫn chưa có SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 48 Chuyên đề tốt nghiệp khoảng vốn ưu đãi nào từ UBND Xã, từ HTX cho chúng tôi vay để phục vụ trực tiếp vào sản xuất lúa. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước và các tổ chức đoàn thể ở địa phương cần tích cực tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận được với các nguồn vốn từ trực tiếp ở địa phương và từ thông qua các dự án tín dụng và tín chấp của các đoàn thể. 3.2.2. Giải pháp về đầu tư cơ sở hạ tầng Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng có ý nghĩa rất quan trọng, tạo điều kiện áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, công tác này đã được chú trọng và ngày càng cải thiện song còn vài việc cần phải tiến hành thường xuyên: - Tăng cường hơn nữa nạo vét kênh mương, nâng cấp hệ thống giao thông nội đồng vừa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tưới tiêu vừa thuận lợi cho vận chuyển lúa trong mùa thu hoạch. - Nâng cao năng lực tưới tiêu của máy bơm nước, qua thay thế mới các máy quá cũ hay lắp đặt thêm các máy bơm mới ở những vị trí xung yếu. - Gia cố hệ thống đê điều và tiến tới bê tông hóa một cách toàn diện. 3.2.3 Giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm lúa Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ là động lực cho sản xuất lúa trong thời gian tới. Trong thời gian qua sản xuất lúa của xã chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, thị trường tiêu thụ không ổn định. Hầu hết các đầu mối thu mua là tư thương, người buôn bán nhỏ nên các hộ sản xuất bị ép giá. Đặc biệt là các hộ thuộc nhóm hộ nghèo thường bán lúc vừa thu hoạch xong để thanh toán các khoản nợ vay nên giá lúa lúc mùa màng thu hoạch vốn đã thấp lại bị tư thương ép giá, làm cho cuộc sống của nông dân vốn đã nghèo khổ lại càng khốn khó hơn. Để đảm bảo mở rộng thị trường tiêu thụ cho người nông dân, việc nghiên cứu các loại giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt là hết sức cần thiết. Hơn nữa nếu mở các điểm thu mua như ở HTX để ổn định giá lúa cho bà con nông dân là rất quan trọng. 3.2.4. Các giải pháp khác - Chính sách khuyến nông: Sản xuất lúa ở xã Quảng Ngạn cũng như nhiều địa phương khác chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống. Để tăng năng suất đồng thời đảm bảo tính bề vững trong sản xuất, Nhà nước cũng như chính quyền địa phương cần phải có các chương trình tập huấn kỹ thuật nhằm bổ trợ kiến thức thâm canh cho bà con. SVTH: Đặng Văn Lợi Lớp: K41A KTNN 49 Chuyên đề tốt nghiệp Thực tế hiện nay công tác khuyến nông đã được tổ chức ở địa phương, song để làm tốt công tác này cần có sự phối hợp của nhiều ban ngành liên quan. - Tăng cường đầu tư thâm canh: Do giới hạn về quỹ đất phục vụ sản xuất, yêu cầu cấp thiết đối với nông hộ là tăng cường đầu tư sản xuất thâm canh. Đây là sự lựa chọn tối ưu để tăng thu nhập, cải thiện đời sống, đồng thời nó hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta. - Cải tiến công nghệ thu hoạch: Thu hoạch là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, bên cạnh đó việc bảo quản chất lượng sau thu hoạch là rất quan trọng. Hai khâu quan trọng này cho đến nay vẫn chưa được quan tâm thấu đáo không chỉ tại địa phương mà toàn cả nước ta. Để giảm bớt mức độ thiệt hại ở khâu thu hoạch cần ưu tiên đầu tư phát triển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_danh_gia_hieu_qua_kinh_te_san_xuat_lua_o_xa_quang_nga.pdf
Tài liệu liên quan