MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của chúng có nhiều điểm bất cập. Doanh nghiệp nhà nước chiếm phần vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm lũnh những lĩnh vực quan trọ
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1571 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đề tài Xử lý các vấn chính trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa. Thực tế tại Công ty Dich vụ Nông nghiêp Từ Liêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành dịch vụ chiện lược khác như bào hiểm, ngân hàng… Tuy nhiên, với thế mạnh như vậy, song doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực sự phát huy tốt vai trò nòng cốt của chúng trong việc làm cho nền kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, gây thất thoát tài sản của nhà nước. Chính vì vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để loại hình doanh nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng. Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước càng trở nên cấp bách khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những giải pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hóa.
Cỏ phần hóa được bắt đầu triển khai cách đây hơn 15 năm với những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, cổ phần hóa vẫn chưa mang lại những kết quả như mong muốn. Mằc dù, hoạt động của các doanh nghiệp cổ phần hóa đã chứng tỏ tác dụng to lớn của nó song thực tế số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa ít hơn nhiều so với yêu cầu đặt ra. Nguyên nhân chủ yếu gây ra sự chậm trễ trong quá trình cổ phần hóa chính là vấn đề xử lý tài chính khi xác định giả trị doanh nghiệp. Hiện nay, việc xác định giá trị doanh nghiêp ở Việt nam còn nhiều bất cập dẫn đến xác định không chính xác giá trị doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu giải quyết các vấn đề tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi những doanh nghiệp còn lại cổ phần hóa đều là những doanh nghiệp có tình hình tài chính phức tạp hoặc những doanh nghiệp, những tổng công ty lớn thì vấn đề này càng trở nên quan trọng.
Chính vì vậy, Xuất phát thực tế của vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay cùng với việc đi sâu nghiên cứu trường hợp cụ thể tại Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô tôi đã chọn đề tài: “Xử lý các vấn đề tài chính trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa. Thực tế tại Công ty Dich vụ Nông nghiêp Từ Liêm” làm luận văn tốt nghiệp chương trình MBA của Trung tâm Pháp- Việt đào tạo về quản lý Hà Nội.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
2.1/ Mục đích của đề tài.
Mục tiêu của chuyên đề này là góp phần cung cấp một số luận cứ, vạch ra những vấn đề tài chính gây khó khăn cho quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam nói chung và tại Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm nói riêng và những vướng mắc gặp phải. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp xử lý những vấn đề trên để cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam nói chung và Công ty dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm nói riêng, hoàn thành mục tiêu đề ra.
2.2/ Nhiệm vụ của đề tài:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ tập trung giải quyết những nội dung sau:
- Nêu lên một số vấn đề về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các vấn đề tài chính gặp phải trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và những khó khăn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề tài chính tại Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm, nguyên nhân và những vướng mắc do vấn đề tài chính gây ra.
- Đề xuất những giải pháp để góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam nói chung và tại Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm nói riêng theo mục tiêu đã đặt ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn này lấy những vấn đề thực tiễn về vấn đề tài chính trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp và quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam và tại Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm làm đối tượng nghiên cứu. Luận văn tập trung làm rõ những khó khăn cho quá trình cổ phần hóa do những vấn đề tài chính gây ra. Từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu để góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê so sánh và phương pháp chứng thực.
5. Kết cấu của luận văn:
Tên luận văn: “Xử lý các vấn đề tài chính trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa. Thực tế tại Công ty Dich vụ Nông nghiêp Từ Liêm”
Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung luận văn gồm có 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và các vấn đề tài chính khi xác định giá trị doanh ngiệp cổ phần hóa ở Việt Nam.
Chương II: Quá trình cổ phần hóa và các vấn đề về tài chính khia xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm.
Chương III: Giải pháp xử lý các vấn đề tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ CÁC VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH KHI XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM.
I/ Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Có thể nói, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay không cao, nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài. Vì vậy, phải chuyển đổi hình thức sở hữu để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là rất cần thiết. Trong đó, cổ phần hóa được xem là giải pháp quan trọng và ưu tiên hàng đầu.
1/Tính tất yếu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Trong bất cứ nền kinh tế nào, kể cả nền kinh tế có mức độ tư nhân hóa cao, doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng. Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước hiện đang được quan tâm đặc biệt vì vai trò và sứ mạng của chúng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước bắt nguồn từ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu thực hiện. Có khá nhiều cách tiếp cận khác nhau về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nói chung và vai trò của doanh nghiệp nhà nước nói riêng, song những biểu hiện sau đây được chấp nhận một cách phổ biến:
Thứ nhất: Doanh nghiệp nhà nước phải chi phối được sự phát triển trong các lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa đối với sự phát triển ổn định của đất nước.
Thứ hai: Doanh nghiệp nhà nước phải là động lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp khác thông qua hiệu quả hoạt động cao trên nền của công nghệ sản xuất hiện đại và hệ thống quản lý tiên tiến.
Thứ ba: Doanh nghiệp nhà nước là nguồn lực vật chất chủ yếu của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải tạo ra sự đóng góp quyết định cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư: Doanh nghiệp nhà nước là mẫu mực trong việc giải quyết các chính sách xã hội như việc làm, trợ cấp xã hội.
Mặc dù có sự mạng quan trọng như trên, tuy nhiên các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam đang gặp phải vấn đề về hiệu quả. Sự phát triển không bình thường về lượng cộng với những bất cập trong cơ chế quản lý đã dẫn doanh nghiệp nhà nước tới một số hạn chế sau:
Thứ nhất: Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và sự đầu tư của ngân sách nhà nước.
Thứ hai: Doanh nghiệp nhà nước lạc hậu về công nghệ sản xuất, về trình độ quản lý.
Thứ ba: cơ cấu phân bố chưa hợp lý. Còn khá nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực mà ở đó chúng khó có thể cạnh tranh được như trong những dịch vụ thông thường.
Thứ tư: Cơ chế quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp cũng như cơ chế quản lý trong bản thân doanh nghiệp cồng kềnh và thiếu hiệu quả
Thứ năm: Như là hệ quả của những yếu điểm trên, doanh nghiệp nhà nước ít có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Do những hạn chế trên nên việc cải cách doanh nghiệp nhà nước là tất yếu. Với những ưu việt của công ty cổ phần thì cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là giải pháp quan trọng để cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, các cổ đông cùng quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp.
Loại hình công ty cổ phần có khả năng huy động vốn với quy mô lớn, nhanh cho đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu.
Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro hạn chế những tác động tiêu cực về kinh tế xã hội.
Công ty cổ phần tách rời quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh.
Do những ưu điểm của công ty cổ phần, ngày nay nó là loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trên toàn thế giới mà nhất là nước có nền kinh tế phát triển.
2/ Mục tiêu, đối tượng, hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Theo quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ về việc chuyển công ty 100% vốn nhà nước sang Công ty cổ phần thì:
* Mục tiêu, yêu cầu của chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần:
Thứ nhất, về mục tiêu: chuyển đổi những công ty nhà nước mà nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ hai, về yêu cầu:
- Đảm bào hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp.
- Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
* Đối tượng và điều kiện cổ phần hóa:
- Đối tượng cổ phần hóa là: Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương; Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước (kể cả các Ngân hàng thương mại); Công ty mẹ trong tổ hợp Công ty mẹ- Công ty con; Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; Đơn vị hạch toán phục thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty; Công ty trách nhiệm hữu hạn do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
- Điều kiện cổ phần hoá: 2 điều kiện sau:
+ Không thuộc diện nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
+ Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp.
* Hình thức cổ phần hóa: có 3 hình thức:
Một là: giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm phụ thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần được phản ánh trong phương án cổ phần hóa.
Hai là, bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước, vừa phát hành thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn.
Ba là, bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toán bộ vốn nhà nước, vừa phát hành cổ phiếu thu hút vốn.
3/ Quy trình chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần.
3.1. Bước 1: Xây dựng phương án cổ phần hóa.
Bước này là bước quan trọng và kéo dài nhất trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nó quyết định việc thành công của quá trình cổ phần hóa. Trong bước này, các cơ quan có liên quan và công ty cùng tiến hành các công việc sau:
- Thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hóa và Tổ giúp việc.
- Chuẩn bị các hồ sơ tài liệu, bao gồm việc lựa chọn phương pháp, hình thức xác định giá trị doanh nghiệp và chuẩn bị các tài liệu liên quan (các hồ sơ pháp lý về thành lập doanh nghiệp, hồ sơ về tài sản, công nợ…)
- Kiểm kê, xử lý những vấn đề tài chính và tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp.
+ Kiểm kê, phân loại tài sản, quyết toán tài chính, quyết toán thuế, xử lý các vấn đề tài chính tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
+ Xác định giá trị doanh nghiệp: có thể lựa chọn tổ chức tài chính trung gian hoặc giao cho tổ giúp việc, doanh nghiệp tự xác định.
+ Ban chỉ đạo thẩm tra kết quả kiểm kê, phân loại tài sản và kết quả xác định giá trị doanh nghiệp, báo cáo cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp.
+ Quyết định công bố giá trị doanh nghiệp.
- Căn cứ vào thời điểm quyết định giá trị doanh nghiệp, doanh nghiệp lập danh sách lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp, danh sách lao động được mua cổ phân ưu đãi.
- Hoàn tất phương án cổ phần hóa, bao gồm các khâu:
+ Lập phương án cổ phần hóa gồm các nội dung: giới thiệu về công ty, đánh giá thực trạng công ty tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, phương án sắp xếp lao động, phương án hoạt động sãnuất kinh doanh sau 3 đến 5 năm tiếp theo, hình thức cổ phần hóa, vốn điều lệ và cơ cấu vốn đề lệ dự kiến, phương thức phát hành cổ phiếu, điều lệ công ty cổ phần.
+ Hoàn thiện phương án cổ phần hóa: lấy ý kiến tham gia của cán bộ công nhân viên trong công ty và các tổ chức có liên quan.
- Phê duyệt phương án cổ phần hóa.
3.2/ Bước 2: Tổ chức bán đấu giá cổ phần.
- Ban chỉ đạo cổ phần hóa lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy định.
- Tổ chức bán cổ phần.
+ Bán cho các nhà đầu tư thông thường: bán trực tiếp tại doanh nghiệp, qua các tổ chức tài chính trung gian hoặc tại Sở Giao dịch chứng khoán.
+ Bán cổ phần ưu đãi cho lao động trong công ty và nhà đầu tư chiến lược.
- Tổng kết kết quả bán cổ phần.
- Điều chỉnh quy mô, cơ cấu cổ phần theo kết quả bán.
3.3/ Bước 3: Hoàn tất việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần:
- Đại hội cổ đông lần 1.
- Đăng ký kinh doanh, nộp con dấu cũ và xin khắc dấu công ty cổ phần.
- Lập báo cáo tài chính, quyết toán thuế, quyết toán chi phí cổ phần hóa tại thời điểm công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu.
- Công ty cổ phần mua hoặc in tờ cổ phiếu cấp cho cổ đông.
- Tổ chức ra mắt công ty cổ phần và thực hiện bố cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định.
- Tổ chức bàn giao giữa doanh nghiệp nhà nước và công ty cổ phần.
4. Điểm qua thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước được tiến hành thí điểm từ tháng 6 năm 1992. Tính đến ngày 31/12/2005, cả nước đã cổ phần hóa được 2.935 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 66,0% ; ngành thương mại, dịch vụ chiếm 27,6%; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 6,4%. Phân theo chủ sở hữu, doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm 61,7%; thuộc các Bộ, ngành chiếm 29%; thuộc các tổng công ty 91 chiếm 9,3%. Phân theo quy mô vốn, doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 5tỷ đồng chiếm 54,0%; từ 5-10tỷ đồng chiếm 23,0%; trên 10tỷ đồng chiếm 23,0%.
Đơn vị có nhiều doanh nghiệp được cổ phần hóa là các Bộ; Bộ Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Giáo thong vận tải; thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; các tỉnh: Khánh Hòa, Nam Định; Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa; các tổng công ty: Bưu chính viễn thông, Hóa chất. Tuy nhiên, có nhiều đơn vị triển khai cổ phần hóa chậm như các Tổng công ty: Công nghiệp tàu thủy, Xi măng, Dầu khí; các tỉnh: Cà Mau, Kiên Giang, Lai Châu.
Công tác sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh hơn sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương, Tổng công ty 91 theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX). Giai đoạn này (2001-2005), cả nước sắp xếp được 3.590 doanh nghiệp nhà nước, trong đó đã cổ phần hóa 2.347 doanh nghiệp nhà nước, bằng gần 80% toàn bộ doanh nghiệp đã cổ phần hóa; hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước theo đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (2.347 doanh nghiệp /2.258 doanh nghiệp).
Nhìn chung các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả hơn. Theo báo cáo của các Bộ, ngành địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh có lãi; nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%; số lao động tăng bình quân 6,6%; cổ tức bình quân đạt 17,11%. Cổ phần hóa tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng cao vai trò làm chủ trong doanh nghiệp.
* Một số kết quả đạt được của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Mặc dù hiệu quả của mỗi doanh nghiệp có khác nhau, nhưng nhìn trên toàn cục, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã đem lại lợi ích rõ rệt trên nhiều mặt cho người lao động, cổ đông, Nhà nước và xã hội.
Thứ nhất : Cổ phần hoá đã thay đổi phương thức quản lý chế độ bình bầu, chọn giám đốc, các chức danh quản lý làm cho đội ngũ này có trách nhiệm hơn, quyền lợi và trách nhiệm gắn liền với nhau.
Thứ hai : tình trạng lãng phí của cải, tài sản giảm thiểu. Bởi vì thông thường điều lệ của các công ty quy định rất rõ định mức các khoản chi.
Thứ ba : Người lao động rất phấn khởi, thu nhập ngày càng tăng tinh thần làm việc hăng say.
Thứ tư : tài sản của doanh nghiệp Nhà nước được đánh giá lại chính xác hơn. Lâu nay tài sản thuộc các doanh nghiệp Nhà nước bị đánh giá rất thấp, khấu hao không đủ.
Thứ năm : Nhà nước thu về một lượng vốn lớn.
Thứ sáu : Các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều có sự tiến bộ.
Thứ bảy : Thu nhập qua cổ tức của người lao động và Nhà nước đều tăng.
Thứ tám : Nhờ làm ăn có hiệu quả, giá cổ phiếu của nhiều công ty cổ phần hoá đã tăng nhanh.
Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế.
- Việc cổ phần hóa, sắp xếp các doanh nghiệp có quy mô lớn, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hang thực hiện còn chậm.
- Các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế. Thời kỳ đầu do chưa khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài nên số vốn huy động ngoài xã hội vào sản xuất, kinh doanh còn hạn chế. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa.
- Thời gian thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp còn dài làm tiến độ cổ phần hóa chậm.
- Vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cố phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thong. Việc thu hút vốn cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 24,1% vốn điều lệ; mới có trên 20 công ty có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài; các cổ đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để tham gia vào phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc người lao động trong một số doanh nghiệp bán bớt cổ phần ưu đãi sau khi mua đã làm giảm tác dụng của chính sách khuyến khích người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp cổ phần hóa.
- Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như doanh nghiệp nhà nước. Hạn chế này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cố phần chi phối, ban lãnh đạo của doanh nghiệp đều tư doanh nghiệp nhà nước trước đó chuyển sang.
- Trong một số công ty cổ phần, người lao động - cổ đông do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm chủ chưa được phát huy, ngược lại có nơi lạm quy định của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý công ty cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng … vẫn còn áp dụng như doanh nghiệp nhà nước.
- Một số công ty cổ phần kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt thấp, chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực điều kiện phát triển khó khăn, công nghệ lạc hậu, lại không được xử lý dứt điểm những tồn tại về tài chính khi còn là doanh nghiệp nhà nước.
II/ Các vấn đề tài chính thường gặp khi xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa ở Việt Nam.
1. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa:
Theo quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP thì tại Việt Nam việc xác định giá trị doanh nghiệp được thực hiện theo 2 phương pháp sau:
4.1/ Phương pháp tài sản.
Phương pháp tài sản là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá giá trị thực tế toán bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp (có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp).
Các căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp:
- Báo cáo tài chính tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
- Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại thực tế.
- Tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu sản phẩm và giá thị trường.
- Giá trị quyền sử dụng đất, khả ăng sinh lời của doanh nghiệp (vị trí địa lý, thương hiệu…)
Những khoản sau đây không tính vào giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa:
- Giá trị tài sản của những tài sản do doanh nghiệp thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết; tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý; các công trình phúc lợi.
- Chi phí xây dựng cơ bản dở dang của những công trình đã có quyết định đình, hoãn của cấp có thẩm quyền.
- Các khoản phải thu không có khả năng thu hồi.
- Các khoản đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp khác không thể kế thừa.
* Ưu điểm:
- Đối tượng để đánh giá chủ yếu là tài sản hữu hình (trừ một số ít tài sản vô hình) do đó dễ định giá hơn.
- Áp dụng được cho tất cả mọi doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghêf kinh doanh.
* Nhược điểm
- Khó xác định chính xác giá thị trường của các tài sản, đặc biệt là những tài sản được đầu tư từ những năm 70, 80 do hiện nay không còn thị trường cho loại tài sản này.
- Chưa có tiêu chuẩn cụ thể để xác định giá trị thượng hiệu, giá trị quyền sử dụng đất.
- Phưong pháp này có thể gây ra một kẽ hở làm thất thoát tài sàn của nhà nước vì có một số tài sản được loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp như vậy tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cách làm giảm giá trị doanh nghiệp.
- Việc xử lý các tồn tại tài chính như nợ phải thu không có khả năng thu hồi, nợ phải trả, các vấn đề về tài sản, lỗ luỹ kế rất khó khăn.
4.2/ Phương pháp dòng tiền chiết khấu.
* Phương pháp dòng tiền chiết khấu là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai.
* Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp:
- Báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong năm năm liền kề trước khi xác định giá trị doanh nghiệp.
- Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa từ 3 đến 5 năm sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần.
- Lãi suất trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 05 năm tại thời điểm gần nhất xác định giá trị doanh nghiệp và hệ số chiết khấu dòng tiền của doanh nghiệp.
- Giá trị quyền sử dụng đất với diện tích đất được giao.
* Cách xác định:
Đối với phương pháp này, giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp được xác định trước theo công thức sau:
Chênh lệch về GT
quyền SD đất đã nhận giao, thuê
Giá trị thực tế vốn NN tại DN = +
Trong đó:
: Là giá trị hiện tại của cổ tức năm thứ 1
: Là giá trị hiện tại của phần vốn nhà nước năm thứ n
i: Thứ tự các năm kế tiếp kể từ năm xác định giá trị doanh nghiệp (i: 1 n)
Di: Khoản lợi nhuận sau thuế dùng để chia cổ tức năm thứ i
n: Số năm tương lai được lựa chọn (từ 3 đến 5 năm)
Pn: Giá trị phần vốn nhà nước năm thứ n, và được xác định theo công thức
Pn =
Dn+1: Khoản lợi nhuận sau thuế dùng để chia cổ tức dự kiến của năm thứ n+1
K: Tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hoàn vốn cần thiết của các nhà đầu tư khi mua cổ phần và được xác định theo công thức:
K = Rf + Rp
Rf: Tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro được tính bằng lãi suất của trái phiếu Chính Phủ có kỳ hạn 5 năm ở thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Rp: Tỷ lệ phục phí rủi ro khi đầu tư mua cổ phần của các công ty ở Việt Nam được xác định theo bảng chỉ số phụ phí rủi ro chứng khoán quốc tế tại niên giám định giá hoặc do các công ty định giá xác định cho từng doanh nghiệp nhưng không vượt quá tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro (Rf).
G: Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của cổ tức được xác định như sau:
G= b x R
b: tỷ lệ lợi nhuận sau thuế để lại bổ sung vốn.
R: Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân của các năm tương lai.
Giá trị thực tế của doanh nghiệp = Giá trị thực tế phần vốn nhà nước + nợ phải trả + số dư bằng tiền nguồn quỹ khen thưởng phúc lợi + số dư kinh phí sự nghiệp (nếu có).
* Ưu điểm:
Phương pháp này không tính đến giá trị hiện tại của những tài sản hiện có do vậy nó phù hợp với những doanh nghiệp lớn, có nhiều chi nhánh, số lượng tài sản lớn; những doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây dựng, tin học và chuyển giao công nghệ.
* Nhược điểm:
- Phức tạp, khó tính toán.
- Kết quả phương pháp này dựa vào các kết quả kinh doanh dự đoán trong tương lai mà điều này rất khó do không có gì đảm bảo cho sự biên động của thị trường hiện nay ở Việt Nam.
Chính vì tính phức tạp của phương pháp này nên hiện nay ở Việt Nam các doanh nghiệp cổ phần hóa đều áp dụng phương pháp tài sản.
2. Các vấn đề tài chính thường gặp khi xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, cho đến thời điểm hiện nay, tất cả các doanh nghiệp đã cổ phần hóa đều áp dụng phương pháp tài sản khi xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa. Quá trình xác định giá trị doanh nghiệp thường gặp những khó khăn sau:
2.1. Định giá tài sản.
a. Tài sản hữu hình.
* Đối với những tài sản là máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nhà cửa vật kiến trúc.
Việc xác định giá trị thì trường của những tài sản này tưởng như đơn giản vì nó là những tải sản hữu hình, tận mắt có thể nhìn thấy được, tuy nhiên, nó cũng có một số vấn đề khó khăn. Đặc biệt là đối với những trường hợp sau:
- Ở Việt nam hiện nay do công nghệ sản xuất còn lậu hậu nên nhiều dây truyền sản xuất, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải đã được đầu tư từ những năm 70, 80 vẫn còn đang được sử dụng. Đối với những tài sản này việc xác định giá thị trường hiện nay là rất khó do không còn thị trường cho loại tài sản này.
- Những tài sản mang tính chất chuyên dùng: là những tài sản do tính chất đặc biệt mà chúng chỉ có giá trị sử dụng hạn hẹp cho một mục đích hoặc một đối tượng sử dụng nào đó và vì vậy không dễ dàng bán chúng trên thị trường.
*Tài sản là đất đai.
Vấn đề về đất đai là vấn đề rất phức tạp và khó khăn, đặc biệt ở các Thành phố lớn. Tất cả các doanh nghiệp đều muốn được giao nhiều đất để sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nếu giao nhiều đất mà sử dụng không có hiệu quả thì gây thiệt hại cho Nhà nước. Vì vậy, vì việc việc xem xét giao bao nhiêu đất cho doanh nghiệp là hợp lý là một vấn khó khăn. Nhà nước đều yêu cầu các doanh nghiệp khi muốn giao đất đều phải lập phương án sử dụng đất, nếu thấy khả thi Nhà nước mới tiến hành giao đất cho doanh nghiệp. Có khi, một doanh nghiệp phải thông qua phương án sản xuất kinh doanh rất nhiều lần thì mới được xem xét giao đất. Vì vậy, tiến độ cổ phần hóa cũng bị ảnh hưởng.
Mặt khác, sau khi đã được giao đất rồi thì việc xác định giá đất đó như thế nào cũng rất khó, đặc biệt tại các công ty đầu tư xây dựng và kinh doanh nhà. đối với các Công ty này, hiện tại đất đã được dùng để xây dự án và đã bán cho người mua. Nếu bây giờ tính lại giá đất theo giá hiện tại thì những công ty này sẽ lỗ rất nhiều. Vì vậy, quá trình cổ phần hóa tại các công ty đầu tư xây dựng và kinh doanh nhà hiện nay vẫn bị chậm trễ do chưa có một cơ chế chính thức đối với việc xác định giá đất dự án.
Giá trị đất đai được tính vào giá trị doanh nghiệp dưới hai hình thức sau:
- Giá trị lợi thế vị trí địa lý (nằm trong giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp): giá trị lợi thế vị trí địa lý áp dụng đối với doanh nghiệp cổ phần hoá (không phụ thuộc vào ngành nghề và kết quả kinh doanh) sử dụng các lô đất thuộc loại đất đô thị nếu lựa chọn hình thức thuê đất thì phải xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý của lô đất để tính vào giá trị doanh nghiệp. Theo quy định tại Thông tư 146/2007/TT-BTC thì giá trị lợi thế vị trí địa lý của lô đất được xác định bằng chênh lệch giữa giá đất được xác định sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường so với giá do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định và công bố vào ngày 01/01 của năm thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp.
- Giá trị quyền sử dụng đất: theo quy định tuỳ từng trường hợp mà xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị doanh nghiệp.
Một vấn đề được đặt ra ở đây là giá đất thế nào là sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường. Giá đất thực tế trên thị trường rất khó xác định vì giá đất còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố và cả thị hiếu của người mua. Việc xác định giá đất thực tế hiện nay gần khó thực hiện.
b. Tài sản vô hình.
Các tài sản vôhình có thể kể ra các loại sau:
- Các sáng chế, phát minh, công thức, quy trình, mô hình, kỹ năng.
- Bản quyền và các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật
- Thương hiệu, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá
- Quyền kinh doanh, giấy phép, hợp đồng.
- Phương pháp, chương trình, hệ thống, thủ tục, khảo sát, nghiên cứu, dự báo, dự toán, danh sách khách hàng, các số liệu kỹ thuật
- Các loại tài sản vô hình khác (như đội ngũ nhân lực, vị trí kinh doanh...).
Việc định giá các loại tài sản này rất khó khăn vì thường không có thị trường cho loại tài sản này. Đặc biệt là thương hiệu, giá trị lợi thế kinh doanh. Từ trước tới nay, do đa phần các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa là nhữn._.g doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa nên chúng ta chưa quan tâm nhiều lắm đến việc định giá giá trị thương hiệu và lợi thế kinh doanh.
Theo các quy định của nhà nước thì giá trị tài sản vô hình mới chỉ tính là giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp, được xác định theo 2 phương pháp:
- Xác định theo tỷ suất lợi nhuận và lãi suất trái phiếu Chính Phủ:
Lãi suất của trái phiếu CP có kỳ hạn 5 năm do Bộ Tài chính công bố tại thời điểm gần nhất với t/đ xác định GTDN
Giá trị lợi thế kinh doanh của DN
GT phần vốn nhà nước theo sổ sách kế toán
Tỷ suát lợi nhuận sau thế trên vốn nhà nước bình quân 3 năm trước t/đ xá định GTDN
= x { - }
- Xác định trên cơ sở lợi thế vị trí địa lý và giá trị thương hiệu: thì giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp bằng giá trị lợi thế vị trí địa lý cộng giá trị thương hiệu. Trong đó:
+ Giá trị lợi thế vị trí địa lý được xác định bằng chênh lệch giữa giá đất thực tế trên thị trường và giá đất do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố ban hành.
+ Giá trị thương hiệu được xác định trên cơ sở chi phí thực tế cho việc sáng chế, xây dựng và bảo vệ nhãn mác, tên thương mại của doanh nghiệp trong 10 năm trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cả hai phương pháp này đều được coi là chưa định giá đúng giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp dẫn tới việc định giá sai, bán rẻ thương hiệu.
2.2. Các tồn tại tài chính:
a.Nợ tồn đọng.
Công nợ của doanh nghiệp nhà nước là một trở ngại lớn gây khó khăn ách tắc, làm chậm tiến trình cổ phần hóa. Việc xử lý công nợ là một yêu cầu cấp thiết khi thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vì phải xác định được công nợ thì mới định giá và cổ phần hóa doanh nghiệp được.
Nợ tồn đọng được hiểu là các khoản nợ phải thu, phải trả đã quá thời hạn thanh toán (3 năm). Đối với hầu hết các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, không doanh nghiệp nào là không tồn tại nợ quá hạn, nợ không có khả năng thanh toán. Tính chất phức tạp của các khoản công nợ thể hiện trên nhiều góc độ: về quy mô nợ, về thời gian nợ, về đối tượng nợ… Về đối tượng nợ, các khoản nợ được chia thành:
Nợ ngân sách nhà nước
Nợ các ngân hàng thương mại
Nợ dự trữ quốc gia
Nợ bảo hiểm xã hội
Nợ các tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Các khoản nợ khác.
* Nguyên nhân gây nên nợ tồn đọng:
- Đối với công nợ phải trả: doanh nghiệp không trả được do những yếu kém về tài chính như kinh doanh thua lỗ; đối tượng nợ không còn tồn tại tuy nhiên doanh nghiệp không đi xác nhận để làm có thể hạch toán vào kết quả kinh doanh.
- Đối với công nợ phải thu: Có 2 nguyên nhân gây nên nợ tồn đọng
+ Nguyên nhân về phía chủ nợ: Do công tác đôn đốc, thu hồi công nợ kém.
+ Nguyên nhân do khách nợ: Khách nợ khó khăn, không có khả năng thanh toán.
Việc xử lý các khoản nợ phải thu khó đòi gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc:
Thứ nhất, lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp đạt thấp, không đủ để hạch toán, bù đắp các khoản công nợ tồn đọng.
Thứ hai, việc xác định trách nhiệm cá nhân theo quy định của chế độ tài chính đối với các khoản công nợ, nhất là cá nhân đã không còn làm việc hoặc chuyển công tác gặp nhiều khó khăn hoặc hồ sơ chứng từ không đầy đủ. Cũng có những trường hợp đã có quyết định của toà án về xử lý nợ nhưng không thu hồi được do đến khi thi hành án con nợ không có khả năng thanh toán các khoản phải bồi thường theo phán quyết của toà án.
Thứ ba, có nhiều khoản nợ lâu ngày không được đối chiếu, khi thực hiện đối chiếu thì con nợ đã chuyển công tác, thay đổi địa chỉ, không thể đối chiếu, lập biên bản xác nhận nợ.
Thứ tư, một số doanh nghiệp kinh doanh có lãi, có khả năng bù đắp dần các khoản phải thu khó đòi. Tuy nhiên, nếu bù đắp thì lãi thực hiện sẽ giảm ảnh hưởng đến các quyền lợi khác của doanh nghiệp trong năm tài chính như: phải giảm quỹ lương để tương xứng với tốc độ tăng lợi nhuận, không có nguồn để trích quỹ khen thưởng phúc lợi…
Thứ năm, nhiều doanh nghiệp phát sinh nợ tồn đọng, thậm chí từ nhiều năm nhưng doanh nghiệp cố tình không phản ánh trung thực trong báo cáo tài chính. Đến khi thực hiện sắp xếp hay chuyển đổi thì mới công khai báo cáo để được xử lý.
Việc xử lý công nợ tồn đọng là rất khó vì đa số các khoản nợ đã phát sinh từ lâu, hồ sơ chứng từ không đầy đủ, có nhiều doanh nghiệp không có nguồn để xử lý. Thế nhưng trong quá trình cổ phần hóa, không xử lý công nợ thì không cổ phần hóa được. Nếu công nợ treo đấy, để công ty cổ phần gánh chịu thì không cổ phần hóa được do cán bộ CNV không muốn kế thừa các khoản nợ của doanh nghiệp, đồng thời, cổ đông bên ngoài doanh nghiệp dễ nghi ngờ khả năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai và họ không muốn mua cổ phần ở các doanh nghiệp loại này. Nếu khấu trừ vào vốn nhà nước trong giá trị doanh nghiệp thì sẽ làm thiệt hại cho ngân sách nhà nước vì trong các khoản nợ đó có những khoản do nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp. Ngoài ra, với tình hình tài chính không lành mạnh, các công ty cũng không thể đem bán nợ vì người mua không sẵn sàng mua.
Chính vì vậy trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp tiến độ cổ phần hóa chậm hoặc không thực hiện được do không thể xử lý các khoản nợ tồn đọng.
b. Vấn đề về tài sản:
* Tài sản thiếu trong kiểm kê:
Tài sản thiếu trong kiểm kê được hiểu là trên sổ sách kế toán của đơn vị vẫn theo dõi tài sản này tuy nhiên, khi kiểm kê thực tế những tài sản này không có. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc tài sản thiếu khi kiểm kê nhưng chủ yếu là do việc quản lý tài sản tại doanh nghiệp yếu kém. Theo quy định, doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê tài sản tối thiểu 1 năm 1 lần. Tuy nhiên đa số các doanh nghiệp không thực hiện việc này mà chủ yếu theo dõi trên sổ sách kế toán. Vì vậy có nhiều trường hợp tài sản đã thanh lý, phá bỏ hay tháo dỡ từng bộ phận để thay sang tài sản khác nhưng không được hạch toán giảm sổ sách.
Nếu những tài sản này đã khấu hao hết, không còn giá trị còn lại thì rất dễ để xử lý do đã thu hồi đủ vốn đầu tư tài sản. Trong trường hợp đó chỉ cần làm thủ tục giảm tài sản trên sổ sách kế toán của đơn vị. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp tài sản thiếu này vẫn còn giá trị còn lại trên sổ sách. Khi đó vấn đề trở nên phức tạp hơn vì việc quy trách nhiệm cá nhân để đòi bồi thường vật chất là rất khó hoặc không thể quy trách nhiệm cá nhân. Nếu doanh nghiệp phải chịu thì cổ đông sẽ không chấp nhận vì thực tế những tài sản này không có. Còn nếu giảm vốn nhà nước thì sẽ thiệt hại cho nhà nước.
* Tài sản thừa trong kiểm kê:
Trái ngược lại với trường hợp trên, tài sản thừa trong kiểm kê được hiểu là trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp không theo dõi tài sản này nhưng khi kiểm kê thực tế lại có tài sản. Đối với trường hợp này phải xác minh nguồn gốc của tài sản, công việc này không phải lúc nào cũng dễ thực hiện và chính xác.
* Tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thực chất là quá trình mua bán mà người bán là Nhà nước và người mua là các cổ đông tương lai của công ty. Vì vậy việc có những tài sản mà công ty không cần dùng hoặc không thể sử dụng được, loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp và phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là việc đương nhiên. Tuy nhiên, trong quá trình cổ phần hóa, các doanh nghiệp thường tranh thủ cơ hội này để loại những tài sản không cần thiết hoặc để đầu tư mới nên số lượng tài sản loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp có khi rất nhiều. Về phía nhà nước khi các công ty có tài sản không tính vào giá trị doanh nghiệp thì Nhà nước có thể thu hồi lại để bán cho cá nhân hoặc tổ chức khác. Tuy nhiên, khi bán, giá trị thu được thường nhỏ hơn giá trị còn lại trên sổ sách của công ty. Đây cũng là một hình thức nhà nước bị mất vốn. Ngoài ra, nếu tài sản loại ra là nhà cửa, vật kiến trúc thì việc thu hồi lại để bán hay bàn giao cho đơn vị khác là rất khó vì không thể chuyển đi được.
Vì vậy việc xác định chính xác những tài sản này có thực sự là doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng hay không là rất cần thiết để giảm thiệt hại cho nhà nước.
c. Chi phí treo và các khoản lỗ luỹ kế.
Chi phí treo được hiểu là những khoản chi phí doanh nghiệp đã chi nhưng chưa hạch toán doanh thu, hiện tại vẫn treo trên sổ sách hoặc những khoản chi phí đã chi nhưng chưa có nguồn bù đắp. Treo một số khoản chi phí thực chất là một hình thức dấu lỗ. Tình trạng này xảy ra rất nhiều tại các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Chi phí treo bao gồm những loại sau:
- Chi phí cho các dự án nhưng không thực hiện được, vì vậy không có đối tượng để phân bổ. Chi phí treo loại này thường xảy ra ở các công ty xây dựng.
- Chi phí không hợp lý, hợp lệ bị cơ quan thuế xuất toán, các khoản tiền phạt chậm nộp thuế, phạt hợp đồng kinh tế, tiền lương chi quá không đúng chế độ quy định… Theo quy định những chi phí này đơn vị phải hạch toán vào lợi nhuận sau thuế hoặc thu hồi lại nhưng thực tế vì không có đủ lợi nhuận bù đắp và không thu hồi lại được nên vẫn treo lại.
- Chi quỹ khen thưởng phúc lợi vượt quá nguồn hiện có.
- Các khoản chi phí đã thực chi nhưng đơn vị do muốn đảm bảo có lãi nên không hạch toán vào kết quả kinh doanh mà cố tình treo ở tài khoản “chi phí chờ kết chuyển”.
Tuy nhiên, do công tác quản lý nhà nước còn yếu kém vì vậy các cơ quan nhà nước vẫn không phát hiện ra những khoản chi phí treo của doanh nghiệp. Khi thực hiện cổ phần hóa, các doanh nghiệp mới báo cáo để đòi giảm vốn nhà nước.
Lỗ là tình trạng doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, chi phí lớn hơn doanh thu.
Xét về bản chất thì chi phí treo hay lỗ đều là hình thức làm mất vốn nhà nước. Nếu một doanh nghiệp bị thua lỗ quá nhiều thì khi cổ phần hóa, sẽ làm thiệt hại cho nhà nước. Vì vậy việc xử lý nhưng khoản thua lỗ này thế nào là rất cần thiết để giảm thiệt hại cho nhà nước.
2/ Cơ sở pháp lý để xử lý các vấn đề tài chính xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa ở Việt Nam.
Cổ phần hóa là giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước mang tính triệt để và tối ưu đối với đất nước ta. Tuy nhiên, để trở thành một chính sách quốc gia, một chiến lược cải cách thành phần kinh tế nhà nước như ở nước ta hiện nay thì cổ phần hóa đã trải qua một trăng đường dài. Đường lối, chính sách về cổ phần hóa luôn được thay đổi và cập nhật. Qua đó, chính sách xử lý tồn tại tài chính cũng được thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ.
Hiện nay, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang được thực hiện theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần và thông tư 146/2007/TT-BTC ngày 6/12/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ. Nghị định và Thông tư trên quy định việc xử lý một số vấn đề về tài chính khi cổ phần hóa doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với từng tồn tại cụ thể việc xử lý còn phair căn cứ vào Luật kế toán, các chế độ hạch toán kế toán và những văn bản liên quan.
CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA VÀ CÁC VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH KHI XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP TỪ LIÊM HÀ NỘI.
I/ Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm và quá trình cổ phần hóa của công ty.
1/ Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm:
Ngày 16/11/1994 Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã có quyết định số 2851/QĐ-UB về việc sáp nhập bốn đơn vị ngành nông nghiệp của Huyện Từ Liêm là: Công ty Dịch vụ kỹ thuật, Công ty vật tư, Xí nghiệp cơ giới và Xí nghiệp thức ăn gia súc, thành lập Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm. Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm là đơn vị trực thuộc UBND Huyện Từ Liêm.
Ngành nghề kinh doanh chính của Công ty là:
Dịch vụ sản xuất nông nghiệp
Kinh doanh vật tư nông nghiệp
Sản xuất kinh doanh phân bón, giống cây trồng và vật nuôi
Thực hiện các hợp đồng về làm đất, vận tải, san nền, sửa chữa cơ khí
Xây dựng hạ tầng, sản xuất vật liệu xây dựng
Xây dựng và kinh doanh văn phòng, nhà ở.
Với ngành nghề kinh doanh trên, cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty Dịch vụ nông nghiệp theo sơ đồ sau:
Cơ cấu tổ chức của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm
GIÁM ĐỐC
CÔNG TY
PHÓ GIÁM ĐỐC
CÔNG TY
PHÓ GIÁM ĐỐC
CÔNG TY
PHÒNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH
PHÒNG KẾ TOÁN THỐNG KÊ
PHÒNG KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ
PHÂN XƯỞNG NPK
ĐỘI XÂY DỰNG
ĐỘI SAN ỦI
ĐỘI KINH DOANH DU LỊCH
CỬA HÀNG THÚ Y
CỬA HÀNG GIỐNG
Do đặc điểm là đơn vị sáp nhập từ 4 đơn vị trực thuộc Huyện, lại đều là những đơn vị kinh doanh không có hiệu quả. Thê m vào đó, sự quản lý của bộ máy giám đốc yếu kém nên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rât kém. Trong khi đó, Công ty lại đang sở hữu một diện tích đất đai lớn (tổng diện tích 147.888m2, bao gồm cả đất sản xuất kinh doanh nông nghiệp và phi nông nghiệp).
Bảng 1: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
Đơn vị tính: đồng
TT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1
Tổng tài sản
7 438 542 984
7 463 004 758
8 942 616 147
2
Vốn nhà nước tại DN
3 159 184 245
3 588 487 154
3 678 458 154
3
Doanh thu
5 470 710 156
5 570 054 830
6 214 753 951
5
Lợi nhuận sau thuế
- 515 177 459
- 487 215 789
- 545 548 931
6
Nộp ngân sách NN
317.021.12
351 845 715
401 128 952
7
Nợ phải trả
4 015 147 158
4 751 489 563
6 303 820 591
8
Nợ phải thu
2 458 962 358
2 852 147 596
2 848 577 988
9
Lao động bình quân
98
100
103
10
Thu nhập bình quân
1 024 587
1 225 748
1 421 745
(Nguồn: Báo cáo tài chính 3 năm của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm)
Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm không phải là doanh nghiệp lớn, tuy nhiên tôi chọn trường hợp này vì công ty này có hầu hết các tồn tại tài chính mà các doanh nghiệp hiện có và quá trình cổ phần hóa đã kéo dài nhiều năm nhưng vẫn chưa thực hiện xong. Thêm vào đó, doanh nghiệp này có một diện tích đất đai lớn, đây là trở ngại lớn nhất trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp.
2/ Quá trình cổ phần hóa Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm.
Do Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm là doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, thua lỗ thường xuyên nên ngày 18 tháng 9 năm 2002, Uỷ ban nhân dân Huyện Từ Liêm đã có công văn số 550/UB-KH về việc đăng ký danh sách doanh nghiệp thực hiện bán khoán năm 2002, trong công văn nêu rõ Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm được xếp vào loại bán trong năm 2002.
Tuy nhiên, ngày 30 tháng 6 năm 2003, Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm đã có báo cáo xin chuyển đổi sang hình thức cổ phần hóa và được sự chấp thuận của UBND Thành phố Hà Nội với hình thức nhà nước giữ cổ phần chi phối. Tiếp sau đó, ngày 5 tháng 4 năm 2004, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội có quyết định số 2254/QĐ- UB cho phép Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm triển khai cổ phần hóa.
Tuy nhiên, do đến nay, việc xác định giá trị doanh nghiệp của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm vẫn chưa được hoàn thành
Quá trình cổ phần hóa của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm đến nay vẫn không thể hoàn thành được do các nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, Ban lãnh đạo của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm và cán bộ công nhân viên trong công ty chưa nhận thức đúng về cổ phần hóa. Vì vậy, họ sợ sau khi cổ phần hóa quyền lợi của họ sẽ bị ảnh hưởng. Từ đó nảy sinh tư tưởng chần chừ, né tránh, sợ trách nhiệm, thiếu chủ động thực hiện làm chậm tiến trình cổ phần hóa.
Thứ hai, trong quá trình hoạt động, với sự quản lý yếu kém nên Công ty có rất nhiều tồn tại tài chính như: các khoản nợ tồn đọng, các vấn đề về tài sản, lỗ… Vì vậy gây khó khăn lớn cho quá trình xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa. Những tồn tại nay đến nay vẫn chưa giải quyết dứt điểm được.
Thứ ba, Uỷ ban nhân dân Huyện Từ Liêm, cơ quan chủ quản của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm chưa quan tâm thực sự đến quá trình cổ phần hóa của Công ty. UBND Huyện gần như không có sự chỉ đạo thực hiện đối với Công ty.
Trong các nguyên nhân trên thì tồn tại tài chính là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến công tác cổ phần hóa của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm bị chậm trễ và kéo dài. Vì vây, xử lý tồn tài tài chính là việc làm hết sức cần thiết đối với quá trình cổ phần hóa của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm.
II/ Vấn đề tài chính trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm.
1. Định giá tài sản.
Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm có số lượng tài sản cố định hữu hình không lớn. Nhà cửa, vật kiến trúc,máy móc thiết bị không nhiều. Tuy nhiên, trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, việc định giá tài sản ủa Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm cũng gặp một số khó khăn thể hiện ở các vấn đề sau:
1.1. Đối với tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc.
Số lượng nhà cửa, vật kiến trúc của Công ty tuy không nhiều nhưng hầu như tất cả nhà cửa, vật kiến trúc của Công ty đều đã được đầu tư từ lâu. Hồ sơ về đầu tư xây dựng của Công ty lại không được lưu trữ cẩn thận nên hầu như không còn. Do vậy, rất khó khăn trong việc xác định cấu trúc nhà để định giá.
Mặt khác, nhà cửa vật kiến trúc, mặc dù những nhà cửa này được xây dựng từ những năm 90 nhưng đơn giá xây dựng vẫn cao hơn đơn giá theo quy định mới nhất là năm 2007. Theo ý kiến chủ quan thì nguyên nhân là do có sự tham ô, tham nhũng trong quá trình xây dựng dẫn đến việc nhiều khoản mục không cần thiết cũng được hạch toán vào giá thành. Cũng có thể nói đến sự quan liêu trong quản lý của các cơ quan nhà nước, không giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc đầu tư của Công ty vì vậy mà nguyên giá đó vẫn được chấp nhận.
Về phần hao mòn tài sản cố định. Hao mòn tài sản là một hình thức thu hồi vốn đầu tư của tài sản. Tuy nhiên, do kinh doanh thua lỗ nên mức trích khấu hao tài sản của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm thường thấp hơn nguyên giá. Vì vậy, giá trị còn lại của tài sản trên sổ sách của Công ty là rất cao. Khi cổ phần hóa, nếu đánh giá lại theo hiện trạng thực tế thì giá trị còn lại sẽ thấp hơn sổ sách. Đây cũng là một trường hợp làm mất vốn của nhà nước.
1.2. Đối với tài sản là đất đai.
Tổng diện tích đất Công ty đang quản lý và sử dụng là: 147.888 m2
Trong đó:
+ Đất văn phòng phục vụ cho kinh doanh: 2.209 m2
+ Đất dùng trong sản xuất kinh doanh: 8.832,5 m2
+ Đất sản xuất nông nghiệp: 129.445,5 m2
+ Đất khác: 7.401,5 m2
Có thể nói rằng, diện tích đất mà Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm đang quản lý và sử dụng là rất lớn so với các đơn vị khác. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất của Công ty là không cao. Đất đai bỏ hoang là chính, không có những dự án khả thi, có một số nơi thì đã bị dân cư lần chiếm làm nhà ở.
Hiện nay, đơn vị chỉ sử dụng 2 diện tích đất là:
- Xã Mỹ Đình, Từ Liêm Hà Nội, diện tích 1.507,12 m2 làm văn phòng Công ty.
- Kiều Mai, Phú Diễn, Từ Liêm Hà Nội, diện tích 7.884 m2 đang góp vốn liên doanh với Công ty COTREXIM làm trung tâm thương mại.
Khi cổ phần hóa, với mục đích đảm bảo hiệu quả sử dụng tài sản của Nhà nước, vấn đề đất đai của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm cần được xem xét và giải quyết. Đặc biệt, việc xác định giá trị của các diện tích đất đang là vấn đề chưa giải quyết được.
2. Các tồn tại tài chính.
Đây là vấn đề phức tạp nhất trong quá trình cổ phần hóa Cồn ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm. Vì đặc điểm của Công ty là sáp nhập từ 4 đơn vị sản xuất kinh doanh không hiệu quả của huyện, thêm vào đó việc quản lý yếu kém nên Công ty có rất nhiều tồn tại tài chính. Có thể kể ra:
2.1/ Nợ tồn đọng.
Chúng ta xem xét công nợ tồn đọng của công ty dưới 2 hình thức sau: nợ phải thu và nợ phải trả.
* Nợ phải thu
Theo số liệu tại bảng 1 về tình hình tài chính của Công ty qua 3 năm 2005, 2006, 2007 ta nhận thấy rằng công nợ phải thu luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Cụ thể
Năm 2005: 33%
Năm 2006: 38%
Năm 2007: 32%
Như vậy, vốn của công ty đã bị chiếm dụng rất nhiều, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chi tiết công nợ phải thu của Công ty được cụ thể tại phụ lục 1.
* Nợ phải trả
Cũng theo số liệu tại bảng 1 ta thấy công nợ phải trả chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của Công ty. Cụ thể:
Năm 2005: 54%
Năm 2006: 64%
Năm 2007: 70%
Qua chi tiết công nợ phải thu, phải trả của Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm, ta có thể nhận thấy:
Thứ nhất, việc theo dõi đối tương nợ của Công ty là không rõ ràng, nhiều đối tượng nợ không rõ địa chỉ cụ thể. Ví dụ tại công nợ phải thu: Thuỷ hàng cá, cửa hàng Chèm, Công ty xuất nhập khẩu, hộ nghèo, số dư trước 15/5/1991, ao cá, tài khoản 60 hộ khác, tài khoản 67 hộ khác… Tại công nợ phải trả: trạm gạch, 176 TĂGS chuyển sang, đền bù tài sản, hộ khác… vì vậy không thể thực hiện đối chiếu xác nhận công nợ
Thứ hai, đa số các khoản công nợ đã tồn tại từ rất lâu, hầu hết là từ khi mới thành lập công ty, do các xí nghiệp cũ bàn giao lại.
Thứ ba, có rất nhiều khoản công nợ nhỏ, dưới 1.000.000 đồng, thậm trí có nhiều khoản dưới 100.000 đồng đã tồn tại từ lâu nhưng công ty cũng không có biện pháp để giải quyết.
Thứ tư, các khoản nợ của Công ty đều không có hồ sơ rõ ràng để có thể xem xét xử lý. Đa số các khoản công nợ không có đối chiếu xác nhận nợ (trừ những khoản phải thu nội bộ mới phát sinh), thậm trí có những khoản không còn có hồ sơ lưu trữ về công nợ.
Thứ năm: Công ty không thực hiện bù trừ công nợ. Nhiều khoản công nợ phát sinh cả bên phải thu và bên phải trả. Vì vậy, danh sách theo dõi công nợ của công ty rất nhiều đối tượng.
Thứ sáu: Đối với công nợ phải trả, tồn tại khoản nợ vay ngân hàng và nợ ngân sách nhà nước rất lớn.
Thứ bày: Qua kiểm tra chi tiết, nhận thấy nhiều khoản công nợ đơn vị hạch toán nhầm tài khoản, đáng ra phải hạch toán ở tài khoản tạm ứng thì đơn vị lại hạch toán ở nợ phải thu.
Thứ tám: Có nhiều khoản công nợ phải thu, phải trả nội bộ, đặc biệt là phải thu của các đối tượng đã nghỉ việc khi sáp nhập 4 đơn vị của huyện hoặc đã chuyển công tác nhưng khi các đối tượng đó không còn làm việc thì những công nợ vẫn không được giải quyết dứt điểm nên vẫn kéo dài đến nay.
Tồn tại về công nợ phải thu của Công ty có nhiều nguyên nhân, có thể kể đến những nguyên nhân cơ bản sau:
- Do đặc điểm của Công ty là đơn vị sáp nhập từ 4 đơn vị của Huyện. Khi sáp nhập năm 1992, việc bàn giao giữa các bên không rõ ràng. Theo quy định, khi sáp nhập các đơn vị phải tiến hành đối chiếu các khoản công nợ phải thu phải trả, lập đủ hồ sơ công nợ. Tuy nhiên do 4 đơn vị của huyện đều là những đơn vị có công tác quản lý kém, kinh doanh kém hiệu quả nên việc theo dõi công nợ kém. Vì vậy, nhiều khoản nợ đến nay không xác định được khách nợ vì chỉ có tên trong sổ mà không có chứng từ.
- Công tác quản lý công nợ và đôn đốc thu hồi công nợ của công ty rất kém. Không chỉ những khoản công nợ tồn tại từ khi sáp nhập 4 đơn vị của huyện mà những khoản công nợ phát sinh sau khi thành lập công ty cũng không có hồ sơ. Hàng năm, công ty không thực hiện việc đối chiếu, xác nhận công nợ và đôn đốc công nợ. Giám đốc công ty cũng không dám chịu trách nhiệm để xử lý những khoản công nợ đã phát sinh từ lâu, có điều kiện để xử lý nên danh sách công nợ cứ dài thêm qua các năm.
Với tình hình công nợ của Công ty như trên thì quá trình cổ phần hóa gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý công nợ. Bởi vì, theo quy định các các văn bản của nhà nước về cổ phần hóa và xử lý công nợ thì việc tối thiểu để có thể xử lý là công nợ phải có hồ sơ và phải có đối chiếu xác nhận công nợ. Khi tiến hành cổ phần hóa, UBND Thành phố có yêu cầu công ty thực hiện việc đối chiếu các khoản công nợ, tuy nhiên do đặc điểm công nợ nêu trên nên Công ty chỉ đối chiếu được một số ít những khoản công nợ mới phát sinh. Chính vì vậy mà việc xử lý công nợ tại công ty rất bế tắc.
2.2/ Các vấn đề về tài sản.
Không chỉ có công nợ phức tạp mà vấn đề tài sản của công ty cũng tồn tại nhiều vấn đề.
2.2.1/ Tài sản thiếu khi kiểm kê:
Khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp, tổ chuyên viên liên ngành phải tiến hành kiểm kê tài sản thực tế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi kiểm kê đã phát hiện rất nhiều tài sản có tên trong sổ sách mà không có trên thực tế.
Tổng nguyên giá: 221.642.363 đồng
Tổng giá trị còn lại: 51.496.451 đồng
Những tài sản này vẫn còn giá trị còn lại.
Công ty giải thích những tài sản này một phần là khi bàn giao giữa 4 xí nghiệp kinh doanh không kiểm kê thực tế nên sau này mới phát hiện thiếu nhưng vẫn không làm thủ tục giảm trên sổ sách. Một số tài sản, chủ yếu là nhà cửa đã phá dỡ để lấy đất xây dựng công trình khác, đáng ra phải hạch toán vào nguyên giá của công trình mới nhưng công ty không thực hiện. Ngoài ra còn một số máy móc thiết bị đã hử hỏng, vứt bỏ, hoặc đã tháo từng bộ phận để lắp vào máy móc thiết bị khác. Tuy nhiên đó là giải thích do đơn vị đưa ra, còn nguyên nhân thực tế thì rất khó phát hiện để quy trách nhiệm cá nhân và đòi bồi thường vật chất.
Qua đó ta có thể nhận thấy công tác quản lý tài sản của đơn vị rất kém. Hàng năm, đơn vị không tiến hành kiểm kê thực tế tài sản mà chỉ theo dõi trên sổ sách. Ngoài ra, công ty rất tuỳ tiện trong việc xử lý tài sản, không đảm bản các thủ tục hành chính theo đúng quy định của nhà nước.
Do các tài sản này còn giá trị còn lại nên cũng là một vấn đề cần được xử lý.
2.2.2/ Tài sản không cần dùng, chờ thanh lý:
Khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp, Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm đề nghị loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp và xin thanh lý một số tài sản, chi tiết tại phụ lục 4. Những tài sản này cũng gây khó khăn cho quá trình cổ phần hóa thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, tất cả các tài sản này tuy đã sử dụng từ lâu nhưng tất cả đều vẫn còn giá trị còn lại.
Thứ hai, trong tài sản này, có một số là nhà cửa, vật kiến trúc mặc dù đã bỏ hoang nhưng không thể bàn giao hoặc thanh lý được vì nằm trong trên diện tích đất mà công ty đang quản lý và sử dụng và diện tích đất này dự kiến giao lại cho công ty cổ phần.
Thứ ba, có một tài sản là nhà ở, nhà tập thể hiện đã bị dân cư chiếm dụng làm nhà ở, hiện nay không có khả năng đòi lại.
2.2.3. Về đầu tư dài hạn của Công ty:
* Năm 1997, Công ty có đầu tư xây dựng một nhà nghỉ tại thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu là nguồn vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, từ khi dự án được đưa vào khai thác chưa năm nào có lãi. Nguyên nhân là do công tác quản lý của đơn vị rất kém, lại ở xa. Từ năm 2001 trở lại đây thì công ty thực hiện cơ chế khoán doanh thu với khách sạn trên, tuy vậy hiệu quả vẫn không cao.
Khi tiến hành cổ phần hoá, nếu tính cả giá trị khách sạn trên vào giá trị doanh nghiệp thì giá trị doanh nghiệp sẽ rất lớn nên Công ty đề nghị được loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp.
* Ngoài ra, năm 2001, Công ty có góp vốn với Công ty Đầu tư xây dựng và Kinh doanh nhà (cũng thuộc Huyện Từ Liêm) đầu tư một liên doanh khai thác cát. Tuy nhiên, liên doanh này cũng hoạt động không có hiệu quả, thua lỗ thường xuyên. Đối với Công ty Đầu tư xây dựng và kinh doanh nhà, là một đơn vị mạnh của huyện Từ Liêm thì thua lỗ của liên doanh này không ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty nhưng đói với Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm thì đây là một khó khăn lớn.
Bảng 2: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của liên doanh khai thác cát
Đơn vị: đồng
2001
2002
2003
2004
2005
2006
-30.245.789
-24.158.753
-21.458.789
-25.145.789
-15.248.599
-10.459.789
* Năm 2005, Công ty có góp vốn liên doanh với Công ty Contrexim xây dựng Trung tâm thương mại tại thôn Kiều Mai, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm. Tuy nhiên, do những biến động trên thị trường vật liệu xây dựng nên tiến độ xây dựng rất chậm, đã hơn hai năm kể từ khi khởi công nhưng vẫn chưa xây dựng xong.
2.3/ Chi phí treo và các khoản lỗ luỹ kế.
Năm 1992, Công ty Dịch vụ nông nghiệp Từ Liêm được thành lập trên cơ sở sáp nhập 4 xí nghiệp kinh doanh không có hiệu quả của huyện Từ Liêm. Từ ngày thành lập, Công ty kinh doanh không có hiệu quả. Thua lỗ kéo dài thường xuyên. Cụ thể kết quả kinh doanh của Công ty qua các năm:
Bảng 3: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
Năm
Lợi nhuận sau thuế
1998
- 218.894.503
1999
- 121.791.058
2000
- 250.645.616
2001
- 422.529.477
2002
- 325.215.540
2003
- 444.897.789
2004
- 538.177.069
2005
- 515 177 459
2006
- 487 215 789
2007
-545 548 931
Tổng lỗ luỹ kế
-2.322.151.052
(Nguồn: báo cáo tài chính của Công ty DVNN Từ Liêm các năm)
Nguyên nhân là do trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp yếu kém, không có sự nhạy bén trong quá trình sản xuất kinh doanh nên không nhận được việc làm. Hàng năm, công ty tiền trả lương cho cán bộ công nhân viên được lấy từ tiền cho thuê nhà cửa. Mặt khác, Công ty thực hiện cơ chế khoán cho các Xí nghiệp, các đội, cửa hàng. Do cơ chế khoán không hợp lý nên các khoản thu về cho công ty không đủ để bù đắp chi phí quản lý thường xuyên và khấu hao tài sản.
Ngoài ra, do kinh doanh thua lỗ thường xuyên nên nhiều khoản chi phí, Công ty đã chi nhưng không có nguồn bù đắp nên vẫn treo trên sổ sách kế toán tại tài khoản “Chi phí chờ kết chuyển: Tính đến 31/12/2006 tổng chi phí đơn vị còn treo lại là: 321.676.611 đồng.
Mặc dù đơn vị báo cáo lỗ nhưng khi quyết toán thuế, Cục thuế Hà Nôi lại xác định đơn vị có lãi. Nguyên nhân là do khâu quản lý chứng từ yếu kém, cơ chế khoán không chặt chẽ vì vậy chứng từ của đơn vị đa số không hợp lý, hợp lệ. Khi kiểm tra, do không đủ chứng từ nên Cục thuế Hà Nội thực hiện áp thuế thu nhập doanh nghiệp trên doanh thu nên mặc dù báo cáo lỗ nhưng Cục thuế vẫn ra quyết định truy thu thuế, đến nay Công ty vẫn chưa có nguồn để nộp.
Bảng 6: Kết quả kinh doanh của Công ty và
kết quả xác định của Cục thuế Hà Nội
Đơn vị tính: đồng
Năm
Doanh thu
CT báo cáo lỗ
Cục thuế ấn định thu nhập chịu thuế
Thuế TNDN phải nộp
2002
3.470.883.074
- 325.215.540
370.514.166
118.564.533
2003
3.572.916.712
- 444.897.789
163.704.226
52.285.352
2004
5.998.234.567
- 538.177.069
234.478.733
75.033.069
2005
5.470.710.156
- 515 177 459
367.749.237
757.679.755
2006
5.570.054.830
- 487 215 789
274.296.081
76.802.903
2007
6.214.753.951
- 545 548 931
367.127.849
102.795.798
Tổng
-1.308.290.398
1.003.562.709
(Nguồn: báo cáo tài chính và quyết toán thuế các năm của Công ty)
Chính vì vậy, hiện nay, liên ngành vẫn chưa thống nhất được cách xử lý kinh doanh thu lỗ của Công ty. Nếu xử lý theo kết quả của doanh nghiệp thì sẽ thuộc loại xử lý lỗ luỹ kế. Nếu xử ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7914.doc