Lời nói đầu
Cùng với xu hướng phát triển chung của toàn thế giới. Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội diễn ra ở cả hai cấp độ khu vực hoá và toàn cầu hoá hơn nữa để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoấ đất nước thì điều cần thiết là phải có vốn theo tính toán sơ bộ thì để duy trì chế độ tăng trưởng GDP 9-10%/năm như mục tiêu mà Đảng và chính phủ đề ra từ nay đến năm 2000 thì Việt Nam cần đầu tư khoảng 40-42 tỷ USD. So với năng lực tiết kiệm nội địa từ Việt Nam hiện nay thì con số nà
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Điều kiện & giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài trong các đơn vị thuộc BXD, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y thực sự là khổng lồ. Chính vì vậy mà chúng ta phải tính đến khả năng huy động các nguồn vốn từ bên ngoài trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mà hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài (hình thức doanh nghiệp liên doanh - DNLD) là quan trọng.
Bộ xây dựng là một cơ quan quản lý nhà nước thuộc chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đã hoà nhập cùng với xu hướng chung của cả nước và trên thế giới, Bộ đã lãnh đạo các đơn vị thuộc bộ quản lý tích cực tham gia hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài. Tính đến nay còn tồn tại khoảng 50 doanh nghiệp liên doanh hoạt động xây dựng thuộc 15 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm khoảng 2 % từ số doaah nghiệp được thành lập theo luật đầu tư nước ngoài đang hoạt động trên lãnh thổ nước ta, trong đó có 12 doanh nghiệp liên doanh và các doanh nghiệp của Bộ xây dựng, 12 doanh nghiệp thuộc các công ty trách nhiệm hữu hạn, 8 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và chủ yếu nằm ở địa bàn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng nai, đã có một số doanh nghiệp bị giải thể trước thời hạn do đó hợp tác không có hiệu quả. Cac doanh nghiệp thuộc bộ xây dựng đã đóng góp một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của bên ngoài xây dựng nói chung và của Bộ xây dựng nói riêng. cũng như đã góp phần thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tăng thu ngân sách cho nhà nước, góp phần tăng trưởng kinh tế quốc dân (tăng GDP) chủ yếu thông qua các lĩnh vực sau : sản xuất nguyên vật liệu và cơ khí xây dựng. xây lắp công trình xây dựng, kinh doanh khách sạn, văn phòng (bất động sản); sản xuất xi măng, tư vấn xây dựng.
Việt Nam đã chính thức là thành viên của liên hiệp các nước Đông Nam á ASEan (AFTA) ngày 28/7/1995 và tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC) ngày 14/11/1998. Điều này cho thấy chắc chắn sẽ làm tăng nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung và vào ngành xây dựng nói riêng. Cũng có nghĩa là sẽ có nhiều đối tác thuộc nhiều quốc gia và lãnh thổ sẽ liên doanh với các đơn vị thuộc Bộ xây dựng. Như vậy sẽ tạo ra những cơ hội nhưng đồng thời cũng gặp phải những thách thức mới. Chính vì vậy mà cần phải xem xét đánh giá những mặt đã đạt được và những hạn chế cần khắc phục của các liên doanh thuộc Bộ xây dựng để từ đó có các giải pháp để nâng cao hiệu quả lao động của hợp tác liên doanh với nước ngoài.
Đề tài “Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài trong các đơn vị thuộc Bộ xây dựng" được lựa chọn là một tất yếu khách quan trong giai đoạn hiện nay bởi vì như chúng ta đã biết trong giai đoạn hiện nay quá trình hợp tác liên doanh với nước ngoài của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng đã gặp phaỉ những hạn chế đáng kể mà lý do chủ yếu là do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á, cùng với những đột biến về khí hậu đã làm cho các liên doanh làm ăn thua lỗ và có liên doanh phải giải thể. Như vậy để làm thế nào cho các liên doanh này tồn tại và hoạt động có hiệu quả thì thật không dễ. Tuy nhiên qua đề tài này em cũng đưa ra một số giải pháp chủ yếu để khắc phục những hạn chế của các liên doanh thuộc Bộ xây dựng.
Bằng phương pháp phân tích ,dự báo, thống kê... mà đề tài đã được đánh giá sát thực. với nội dung của đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp ngoài lời mở đầu, lời cảm ơn và phần kết luận cùng các phụ lục và các tài liệu tham khảo kèm theo; được chia làm ba chương.
Chương I : Lý luận chung về hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài.
Chương II : Đánh giá tình hình thực hiện hoạt động liên doanh với nước ngoài của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng qua các giai đoạn.
Chương III : Một số điều kiện và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài trong các đơn vị thuộc Bộ xây dựng trong thời gian tới.
Chương I
Lý Luận Chung về Hình Thức
Hợp Tác Liên Doanh Với Nước Ngoài
Đầu tư quốc tế thực chất là những phương thức đầu tư vốn, tài sản nước ngoài để tiến hành sản xuất kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế nhất định. Ngày nay trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội đang diễn ra nhanh chóng với quy mô và tốc độ ngày càng lớn, tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu. Trong đó tính phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế dân tộc ngày càng gia tăng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học - công nghệ và cách mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các nước tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia, sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo nên “lực đẩy” đối với đầu tư quốc tế. Mặt khác nhu cầu đầu tư phát triển để công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế nước ta là rất lớn, tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư quốc tế đã đem lại những lợi ích đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta từ nay đến năm 2000 và 2005, cũng như chiến lược dài hạn. Chính vì lẽ đó mà đầu tư quốc tế là hoạt động đầu tư quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế thế giới nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Trong đó hình thức hợp tác liên doanh (với nước ngoài là hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong đầu tư quốc tế.
I - Đầu Tư Quốc Tế.
1. Khái niệm :
- Đầu tư quốc tế là một quá trình trong đó các bên có quốc tịch khác nhau, cùng nhau tiến hành các hoạt động kinh doanh theo một chương trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên
Mô hình : Các bên trong hoạt động Đầu tư quốc tế ở Việt Nam
Nước sở tại
Bên Việt Nam
Các bên Việt Nam
Bên nước ngoài
Các bên nước ngoài
Nước chủ nhà
- Dự án đầu tư quốc tế: Là một chương trình sử dụng vốn và tài nguyên đã được hoạch định trong một thời gian khá dài.
- Tích chất quốc tế của dự án đầu tư được thể hiện ở chỗ” Các bên có quốc tịch khác nhau” cùng nhau tham gia vào hoạt động đầu tư. Trong thực tiễn, có những định nghiã do sự tiếp cận ở các giác độ khác nhau.
+ Về hình thức: Dự án đầu tư quốc tế là một bộ hồ sơ, tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống một kế hoạch hoạt động đầu tư trong tương lai của các nhà đầu tư nước sở tại.
+ Về nội dung: Dự án đầu tư quốc tế là một tập hợp các hoạt động có liên quan tới nhau được kế hoạch hoá mà các nhà đầu tư phải thực hiện ở nước sở tại nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng các mục tiêu đã đề ra bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
+ Về mặt quản lý: Dự án đầu tư quốc tế là một công cụ mà các nhà đầu tư ở nước sở tại dùng để hoạch định việc sử dụng các yếu tố sản xuất để tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội trong một thời gian dài.
+ Về phương diện kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện một cách chi tiết chương trình đầu tư của nhà đầu tư ở nước sở tại làm tiền đề cho việc ra các quyết định đầu tư và tài trợ.
- Vốn đầu tư quốc tế: Là những tài sản hữu hình như tiền vốn, đất đai, nhà cửa, nhà máy, thiết bị và hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ thuật, uy tín kinh doanh , bí quyết thương mại...mà các bên tham gia hoạt động đầu tư quốc tế đóng góp; các doanh nghiệp còn có thể đầu tư bằng cách đóng cổ phần, trái phiếu; các quyền sở hữu khác như thế chấp cầm cố, quyền thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Sơ đồ 1 : Vốn đầu tư quốc tế phân bổ theo các nguồn
Vốn đầu tư quốc tế
Trợ giúp phát triển chính thức của Chính phủ và tổ chức quốc tế
Đầu tư trực tiếp
Đầu tư gián tiếp
Tín dụng thương mại
Hỗ trợ dự án
Hỗ trợ phi dự án
Tín dụng thương mại
Đầu tư của tư nhân
Như vậy vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chính: đầu tư của tư nhân và trợ giúp phát triển chính thức (ODA) của các chính phủ và các tổ chức quốc tế.
2. Các loại hình đầu tư quốc tế chủ yếu
Đầu tư quốc tế được phân ra làm 2 loại hình đầu tư chủ yếu đó là: đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
2.1. Đầu tư gián tiếp (Foreign Indireet Investment)
Đầu tư gián tiếp là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người chủ sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
* Đặc điểm, tính chất hoạt động của loại hình đầu tư gián tiếp:
+ Phạm vi đầu tư có giới hạn và các chủ đầu tư có giới hạn vì các chủ đầu tư nước ngoài chỉ quyết định mua cổ phần của những doanh nghiệp làm ăn có lãi hoặc có triển vọng trong tương lai.
+ Số lượng cổ phần của các công ty nước ngoài được mua bị khống chế ở mức độ nhất định tuỳ theo từng nước để không có cổ phần nào chi phối doanh nghiệp. Thông thường số cổ phần này dưới 10 đến 25% số vốn phấp định.
+ Chủ đầu tư nước ngoài không tham gia điều hành hoạt động doanh nghiệp. Do đó, bên tiếp nhận đầu tư có quyền chủ động hoàn toàn trong kinh doanh.
Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận theo lãi suất ở phiếu không cố định, tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh.
+ Tuy doanh nghiệp đầu tư không có khả năng phân tán rủi ro trong những người mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. Nhưng ta thấy mặt hạn chế của hình thức này là: Dễ gây nợ nần cho bên tiếp nhận đầu tư; dễ bị phụ thuộc về kinh tế, chính trị vào chủ đầu tư bởi vì cho dù lãi xuất thấp nhưng vẫn là của đi vay đối với những khoản vay ưu đãi.
+ Loại hình đầu tư gián tiếp hoạt động dưới các dạng khác nhau như các khoản viện trợ ODA, tín dụng quốc tế, mua trái phiếu, cổ phần, vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp v...v...
Về thực chất, đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư không trực tiếp chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư, họ chỉ hưởng lãi suất theo tỷ lệ cho trước của số vốn mà họ đầu tư thông qua một cá nhân hoặc một tổ chức khác. Ví dụ như các khoản viện trợ ODA, tín dụng quốc tế, mua trái phiếu, cổ phần...
2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Direct Investment)
- FDI là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
- Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
- Đặc điểm, tính chất hoạt động của FDI:
+ Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo luật đầu tư của từng nước quy định. Ví dụ luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định chủ yếu đầu tư nước ngoài phải đóng tối thiểu 30% vốn phấp định của dự án. Hồng Kông quy định 10% và một số nước khác là 20%.
+ Quyền quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp vốn 100% thì chủ đầu tư nước ngoài toàn quyền điều hành và quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần nếu có.
+ FDI thực hiện thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc nhập các doanh nghiệp với nhau.
?+ Vì chủ đầu tư nước ngoài tham dự vào điều hành quá trình kinh doanh của doanh nghiệp tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn, nên họ trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Điều đó bảo dảm hiệu quả của vốn đầu tư được sử dụng nói chung là cao.
+ Cho phép các chủ đầu tư nước ngoài có thể hạ thấp chi phí sản xuất sản phẩm do khai thác được nguồn lao dộng dồi dào ở nước sở tại. Từ đó mà nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
+ Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước sở tại vì thông qua FDI mà chủ đầu tư nước ngoài xây dựng được các doanh nghiệp nằm “trong lòng” các nước thi hành các chính sách bảo hộ.
+ Loại hình FDI không quy định mức góp vốn tối đa, chỉ quy định mức tối thiểu, như vậy cho phép các nước sở tại tăng cường khai thác được vốn đầu tư nước ngoài.
+ Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý.
+ Giúp cho nước sở tại nâng cao hiệu quả sử dụng phần vốn đóng góp của mình mở rộng và góp phần vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong nước.
+ Tuy nhiên do có hạn chế là nếu môi trường kinh tế và chính trị không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI. Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học sẽ dẫn đến đầu tư tràn lan không có hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nước chủ nhà phải đương đầu với các chủ đầu tư giầu kinh nghiệm, sành sỏi trong kinh doanh nên trong nhiều trường hợp dễ bị thua thiệt. Nước sở tại không hoàn toàn chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ. Cũng có trường hợp việc nhận đầu tư nối liền với sự du nhập những công nghệ thứ yếu, công nghệ mang theo chất thải ô nhiễm.
3. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Trong thực tiễn, hoạt động FDI có nhiều hình thức tổ chức cụ thể khác nhau tuỳ theo tính chất quản lý và vai trò của mỗi bên trong quá trình hợp tác đầu tư. Những hình thức thường được áp dụng (với các khái niệm sử dụng ở luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam):
3.1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng (BCC) :Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư mà không thành lập pháp nhân.
3.2. Doanh nghiệp liên doanh : Là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
3.3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: Là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
*Ngoài ra ta còn thấy có các hợp đồng xây dựng đầu tư theo phương thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư theo phương thức này:
3.4. Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) : là phương thức đầu tư trong đó nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại để tiến hành các hoạt động xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định. Hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
3.5. Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) : Là phương thức đầu tư trong đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài ký kết văn bản để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong rồi, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
3.6. Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) : Là phương thức đầu tư trong đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
*Ngoài ra cũng còn có các khu vực đầu tư nước ngoài như sau:
3.7. Khu chế xuất (FPZ) : Là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập.
3.8. Khu công nghiệp (IZ): là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất.
3.9. Khu công nghệ cao (HTZ) : là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu-triển khai khoa học-công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất.
II - Hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài.
- Như ta đã thấy hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài được thực hiện thông qua một chu kỳ của quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài, được chia ra thành các giai đoạn khác nhau của một dự án đầu tư gồm :
Chuẩn bị đầu tư
Thực hiện đầu tư
Vận hành kết quả đầu tư (DNLD)
Nghiên cứu cơ hội đầu tư
Nghiên cứu tiền khả thi
Nghiên cứu khả thi (lập luận chứng KTKT)
Thẩm định dự án
Đàm phán ký kết hợp đồng
Thiết kế xây dựng
Bàn giao chạy thử
Sản xuất và kinh doanh
- ở giai đoạn 3 là giai đoạn hình thành nên doanh nghiệp liên doanh (DNLD). Sau đây ta làm rõ các vấn đề của DNLD.
1. Khái niệm :
- Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài (gọi tắt là DNLD hoặc liên doanh nhiều khi còn được gọi là liên doanh quốc tế) là một hình thức mới của sự phân công lao động quốc tế và là kết quả của sự phát triển theo chiều sâu của quan hệ kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của FDI, nó là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác.
- Khái niệm về DNLD được xem xét ở các góc độ nghiên cứu khác nhau:
1.1. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm về liên doanh như sau : Trên quan điểm cạnh tranh, liên doanh là một hình thức nằm giữa hoạt động và liên minh trong đó hai hoặc nhiều công ty liên kết hoạt động với nhau trong một hoặc hơn các lĩnh vực sau đây:
a. Tiến hành các hoạt động mua và bán.
b. Khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển và điều hành các hoạt động sản xuất.
c. Nghiên cứu và triển khai.
d. Hoạt động, chế tạo và xây dựng.
Như vậy, theo định nghĩa này, liên doanh không phải là quan hệ hợp đồng đơn giản mà nó cao hơn hình thức quan hệ có tính chất liên minh chặt chẽ và đầy đủ với sự tham gia của nhiều bên và có quy mô lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Định nghĩa đã cố gắng tính đến một loạt các tình huống liên quan đến hình thức pháp lý của liên doanh, tính đa dạng của đối tác cũng như các lĩnh vực, các loại hình hoạt động và mục tiêu đạt tới của liên doanh. Liên doanh không phải là một liên kết đơn giản mà là một mối quan hệ hữu cơ giữa các đối tác trong một thời gian dài.
1.2. Trong cuốn sách kinh doanh quốc tế (International Business) của tác giả Dav Khenbatv và Riad Ajiami - Trường đại học tổng hợp America liên doanh được định nghĩa là : “Những thoả thuận kinh doanh trong đó hai hoặc nhiều công ty hoặc thực thể kinh doanh kết hợp với nhau để hình thành một hoạt động kinh doanh nhất định. Các liên doanh có thể được thành lập giữa hai công ty đa quốc gia, giữa một công ty đa quốc gia và Chính phủ hoặc giữa một công ty đa quốc gia với các nhà kinh doanh địa phương”.
Định nghĩa này đã chỉ ra được liên doanh về thực chất là những thoả thuận kinh doanh giữa hai hoặc nhiều bên. Các đối tác có thể là các công ty đa quốc gia, Chính phủ hoặc các nhà kinh doanh địa phương. Cách thức kết hợp các chủ thể tham gia liên doanh cũng được xem như là một tiêu chuẩn để phân loại liên doanh. Tuy vậy, yếu tố quốc tịch của các bên tham gia liên doanh - một căn cứ quan trọng để phân biệt liên doanh trong nước với liên doanh nước ngoài vẫn chưa được đề cập thích đáng trong định nghĩa này.
1.3. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đưa ra định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh và hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
- Định nghĩa này đã nhấn mạnh đến khía cạnh pháp lý của một liên doanh và cho rằng hợp đồng liên doanh, điều lệ doanh nghiệp liên doanh cũng như pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là căn cứ pháp lý quan trọng để điều chỉnh các hợp đồng các hoạt động của liên doanh.
Như vậy trên thực tế có nhiều định nghĩa khác nhau về liên doanh, mỗi định nghĩa có một cách tiếp cận và nhấn mạnh một khía cạnh nhất định của liên doanh. Tuy nhiên các định nghĩa trên đều tập trung vào những khía cạnh cơ bản có tính chất quốc tế: quan hệ bạn hàng lâu dài giữa các bên về quốc tịch; quản lý, hệ thống tài chính, luật pháp và bản sắc văn hoá; các bên về cùng góp vốn, quản lý, phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro; hoạt động trong nhiều lĩnh vực bao gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ hoặc hoạt động nghiên cứu và cơ sở pháp lý cho sự thành lập và hoạt động của liên doanh là hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các bên và hệ thống luật pháp của nước sở tại.
Từ phân tích trên đây có thể được hiểu là: Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là một hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng sở hữu về vốn góp, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động dịch vụ hoặc các hoạt động nghiên cứu bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai theo các điều khoản cam kết trong hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên tham gia phù hợp với các quy định luật pháp của nước sở tại.
2. Những đặc trưng cơ bản của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài thông qua doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài.
- Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài có hai đặc trưng cơ bản là: Đặc trưng về mặt kinh doanh và đặc trưng về mặt pháp lý
2.1. Đặc trưng về mặt kinh doanh .
Cùng sở hữu về vốn: các bên tham gia có thể góp vốn bằng tiền mặt , máy móc thiết bị, chi tiết, phụ tùng, đất đai, nhà xưởng, quyền sử dụng mặt nước, mặt biển , các dịch vụ xây dựng, sản xuất, phục vụ, các bằng phát minh, sáng chế, khả năng kinh nghiệm, uy tín công ty hoặc nhãn hiệu hàng hoá...và cùng nhau sử dụng và sở hữu nguồn vốn kinh doanh này.
Cùng tham gia quản lý: các bên tham gia phối hợp xây dựng bộ máy quản lý hoạt động liên doanh, đào tạo đội ngũ công nhân viên phục vụ, đồng thời tạo ra môi trường hoạt động nội bộ liên doanh thích hợp với điều kiện nước sở tại. Thông thường số lượng thành viên tham gia hội đồng quản trị cũng như mức độ quyết định của các bên đối với các vấn đề sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định của các bên.
Cùng phân phối lợi nhuận: các bên tham gia cùng tiến hành phân phối các koản lợi nhuận thu được của doanh nghiệp liên doanh sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính đối với nước sở tại. Tỷ lệ phân chia lợi nhuận giữa các bên dựa theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh.
Cùng chia sẻ rủi ro, mạo hiểm: quá trình hoạt động của liên doanh thường gặp phải những rủi ro, những rủi ro này có thể là do quá trình thiết kế liên doanh không chu đáo, do những biến động về kinh tế chính trị, do những thay đổi của hệ thống pháp lý, do cạnh tranh những rủi ro này sẽ do các bên tham gia gánh chịu theo tỷ lệ phân chia như đối với lợi nhuận.
2.2. Đặc trưng về mặt pháp lý.
Doanh nghiệp liên doanh là một thực thể pháp lý độc lập hoạt động theo pháp luật của nước sở tại. Doanh nghiệp liên doanh có đủ tư cách pháp nhân. Bởi vậy môi trường của nước sở tại tác động rất mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh.
Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia liên doanh được ghi trong hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới dạng Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần, đôi khi nó còn được tổ chức dưới hình thức Công ty trách nhiệm vô hạn hoặc các hiệp hội góp vốn hữu hạn. Mỗi bên tham gia liên doanh vừa có tư cách pháp lý riêng - chịu trách nhiệm với toàn thể liên doanh. Nếu hợp đồng liên doanh là điều kiện cần để hình thành nên doanh nghiệp liên doanh thì điều lệ hoạt động của doanh nghiệp liên doanh là điều kiện đủ để bảo đảm tính chỉnh thể, tính độc lập của thực thể pháp lý này, nó cũng là cơ sở để phân biệt thực thể kinh doanh này với thực thể kinh doanh khác.
Như vậy hợp đồng liên doanh và điều lệ doanh nghiệp liên doanh là hai văn bản pháp lý cơ bản quy định đặc trưng về mặt pháp lý của doanh nghiệp liên doanh, mỗi loại văn bản đóng một vai trò nhất định trong trong việc hình thành tính pháp lý của doanh nghiệp liên doanh.
Giữa đặc trưng kinh doanh và đặc trưng pháp lý có mối liên hệ qua lại lẫn nhau. Đặc trưng kinh doanh phản ánh thực chất và quy định bản chất nội tại của doanh nghiệp liên doanh trong việc tạo ra lợi ích cho các bên. Đặc trưng pháp lý quy định tính độc lập của doanh nghiệp liên doanh và phản ánh tính hợp pháp của xí nghiệp liên doanh theo điều kiện của nước sở tại. Do đó, có thể gọi doanh nghiệp liên doanh là một thực thể kinh doanh - pháp lý quốc tế độc lập.
Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam thì doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn và tỷ lệ vốn góp của bên hoặc các bên nước ngoài không được nhỏ hơn 30% vốn pháp định của dự án liên doanh. Thời hạn hoạt động của DNLDkhông qúa 50 năm và theo quy định của ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định thời hạn dài hơn đối với từng dự án đặc biệt nhưng tối đa không quá 70 năm, còn đối với một số dự án ở vùng sâu, vùng xa, hẻo lánh thì tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài có thể nhỏ hơn 30% tuỳ theo quy định của Nhà nước Việt nam (thường là 20%).
3. Vai trò của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài.
- Doanh nghiệp liên doanh là sản phẩm tạo ra của cả một quá trình đầu tư dưới hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài. Khi thành lập doanh nghiệp liên doanh mỗi bên tham gia liên doanh đều hướng tới một mục tiêu nhất định của riêng mình. Điều đó có nghĩa là việc thành lập doanh nghiệp liên doanh giữ một vai trò nhất định nếu không nói là rất quan trọng đối với cả nước sở tại lẫn nhà đầu tư . Dưới đây ta xem xét vai trò của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài đối với nhà đầu tư nước ngoài và đối với nước sở tại.
3.1. Đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Việc tham gia hình thức hợp tác liên doanh để hình thành nên doanh nghiệp liên doanh cho phép các nhà đầu tư nước ngoài:
- Tiết kiệm được chi phí sản xuất do khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ sẽ và vượt qua được các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của nước sở tại.
- Mở rộng thị trường, bạn hàng, khai thác được các thị trường mới, bởi vậy tăng doanh thu và lợi nhuận.
- Tránh được hàng rào thuế quan: không phải chịu bất cứ một loại thuế nhập khẩu đánh trực tiếp nào khi mà thị trường ở nước sở tại vẫn còn bảo hộ.
- Tạo ra lợi thế kinh tế mới nhờ mở rộng quy mô: việc sử dụng các doanh nghiệp đóng tại địa bàn nước sở tại vượt qua các hàng rào về thương mại và đầu tư tạo điều kiện cho công ty gốc gia tăng quy mô sản xuất, do đó chi phí sản xuất sản phẩm có thể được giảm xuống đáng kể, khả năng cạnh tranh của sản phẩm có thể gia tăng tạo điều kiện cho việc nâng cao doanh thu và lợi nhuận.
- Chuyển giao công nghệ trung gian và truyền thống ra nước ngoài đặc biệt là sang các nước đang phát triển, tạo điều kiện cho việc áp dụng các công nghệ cũ một cách triệt để, tránh lãnh phí bằng cách kéo dài chu kỳ sống của công nghệ. Mặt khác chiến lược chuyển giao công nghệ gắn với chiến lược đầu tư về vốn. Vì đối với các nước đang phát triển thì các công nghệ kém tiên tiến là phù hợp ở một mức độ nào đó.
- Nâng cao uy tín: Thông qua DNLD, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có cơ hội nâng cao được uy tín của mình, nhanh chóng sửa đổi và nâng cao năng lực quản lý thực tế với các thị trường khó tính, tạo ra sản phẩm mới thích nghi với từng thị trường.
3.2. Đối với nước sở tại.
Doanh nghiệp liên doanh ra đời sẽ cho phép nước sở tại:
- Thu hút được vốn đầu tư nước ngoài: đối với nước thiếu vốn, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thấp (thường là các nước đang phát triển) thì việc thành lập doanh nghiệp liên doanh là một biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài có hiệu quả nhất.
Thí dụ: Đối với Trung Quốc sau gần 20 năm cải cách kinh tế đã thu hút được vốn đầu tư nước ngoài với khối lượng là 217 tỷ USD, trong đó việc thành lập các doanh nghiệp liên doanh thu hút được khoảng 50% với khoảng 80.000 doanh nghiệp liên doanh được thành lập. Lượng vốn đầu tư to lớn này đã góp phần đáng kể vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc. (Nguồn: Giáo trình QTDNĐTQT và DNCĐTNN TRANG 233). ở các nước đang phát triển đặc biệt là Việt Nam, quá trình hình thành các doanh nghiệp liên doanh cũng đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Chính lượng vốn này đôi khi là “cú huých” từ bên ngoài khá hữu hiệu tạo nên một loạt sự thay đổi theo chiều hướng tích cực của nền kinh tế.
- Tiếp nhận được công nghệ tiên tiến: Đối với những nước có nền kinh tế lạc hậu chủ yếu dựa vào khu vực nông nghiệp thì chuyển giao công nghệ thông qua doanh nghiệp liên doanh là một giải pháp khá an toàn và tiết kiệm. Việc du nhập công nghệ từ nước ngoài thông qua việc thành lập doanh nghiệp liên doanh không những giúp nước sở tại đổi mới công nghệ, gia tăng năng lực sản xuất và năng suất lao động của các ngành truyền thống mà còn giúp tạo ra các ngành mới, tạo ra những bước “đột phá” để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- Học tập được kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài: Các nhân viên sở tại có cơ hội để tiếp xúc với một phong cách quản lý, kỹ năng kinh doanh và khả năng thích nghi với cạnh tranh, thích nghi với công nghệ mới tiên tiến...đặc biệt là kỹ năng điều hành sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, do thành lập doanh nghiệp liên doanh mà một thế hệ các nhà kinh ._.doanh mới được ra đời, tạo điều kiện cho họ có bản lĩnh vững vàng trong quá trình hội nhập, tạo ra các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên nếu áp dụng một cách dập khuôn những kinh nghiệm quản lý trên sẽ dẫn đến tác hại phản hồi không phải là nhỏ. Vì vậy cần phải có sáng tạo linh hoạt của nước sở tại.
- Khai thác được nguồn tài nguyên, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển thị trường trong nước và kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Đối với các nước đang phát triển, nơi có nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng không đủ khả năng khai thác thì doanh nghiệp liên doanh được thành lập sẽ tạo điều kiện để khai thác lợi thế về tự nhiên này, tạo điều kiện để hiện đại hoá cơ sở hạ tầng và kỹ thuật. Đồng thời tăng năng lực sản xuất và năng suất lao động cho các cơ sở sản xuất hiện có, khai thác được lợi thế so sánh của đất nước mình, hạ giá thành sản phẩm làm cho hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, góp phần làm tăng trưởng nhanh nền kinh tế của nước sở tại.
- Tăng nguồn thu ngoại tệ thông qua vốn góp, thuế lợi nhuận, lợi tức bởi vì: Thứ nhất do thay thế được các mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài mà trước đây phải dùng ngoại tệ để chi trả: Thứ hai, tăng thu ngoại tệ thông qua vốn góp từ phía nước ngoài, ngoài ra còn thu ngoại tệ từ thuế mà các DNLD phải nộp cho nhà nước Việt Nam.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập và bồi dưỡng đội ngũ lao động có kỹ năng và tay nghề cao, giảm thất nghiệp. Điều này đã giải quyết được bài toán về việc làm đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
- Tạo điều kiện để thâm nhập thị trường quốc tế, tiếp xúc với những sản phẩm mới của các nhà kinh doanh trong nước, tìm hiểu nghiên cứu đối tác và thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm của mình.
Như vậy doanh nghiệp liên doanh giữ một vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước sở tại và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy sự vươn lên của các nhà kinh doanh nội địa.
4. ý nghĩa của hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Ta thấy rằng hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài là một hoạt động tương đối quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta vì hình thức doanh nghiệp liên doanh là một hình thức khá phổ biến trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Theo thống kê có đến trên 50% số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam được sử dụng để thành lập các doanh nghiệp liên doanh trong năm 1995. Trong thời gian qua các doanh nghiệp liên doanh đã đóng góp một phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng cuả đất nước, đưa lại cách nhìn nhận mới về các nguồn lực cho sự phát triển. Tuy nhiên hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh cũng còn nhiều vấn đề bức xúc cần phải xem xét, đánh giá và điều chỉnh.
Theo Báo cáo tổng kết đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1995 thì cơ cấu các dự án phân theo các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Biểu đồ 1 : Vốn đầu tư phân bổ theo các hình thức khác nhau.
Như vậy vai trò của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài là quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 Đảng và nhà nước ta có đề ra nhiệm vụ tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người lên khoảng 400 USD/năm và mục tiêu đến năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu này Việt Nam sẽ phải vượt qua nhiều trở ngại lớn, trong đó nổi lên là vấn đề thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường tiêu thụ, thiếu trình độ quản lý...
Nền kinh tế Việt Nam đi lên từ xuất phát điểm thấp, kỹ thuật kém, nguồn tích luỹ đầu tư hạn chế thì nguồn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để đạt được tốc độ tăng trưởng 9-10% đến năm 2000 với hệ số ICOR = = 3.0 (trong đó I - là vốn đầu tư; DGDP - mức tăng tổng sản phẩm quốc dân) thì chúng ta cần phải có lượng vốn đầu tư tương đương 27 - 30%GDP. Hệ số ICOR thấp là một dấu hiệu tốt, chứng tỏ mỗi USD đầu tư thêm sẽ mang lại nhiều sản phẩm, có ý nghĩa đầu tư đạt hiệu quả cao. Vậy để đạt được tốc độ tăng trưởng cao với tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng lên thì cần một khối lượng đầu tư rất lớn.
Nguồn vốn trong nước dùng cho đầu tư chỉ đáp ứng được 50% tổng vốn đầu tư (chiếm 13-15% GDP), như vậy phần còn lại sẽ phải huy động từ nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài sẽ bù đắp khoảng 50% thiếu hụt còn lại, trong đó nguồn ODA chiếm một phần nhỏ và có xu hướng giảm, như vậy thì vai trò của nguồn FDI càng có ý nghĩa quan trọng, trong đó vai trò của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài là rất quan trọng vì nó chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong tổng số vốn FDI. Dự kiến nguồn đầu tư trong giai đoạn 1996-2000 phân bổ như sau:
Nguồn đầu tư
Tỷ USD
- Trong nước
21
- Ngoài nước
20 - 22
ODA
7 - 8
FDI
13 - 14
+ Hình thức liên doanh với nước ngoài
8 - 9
+ Hình thức khác
5
Tổng số
41 - 42 tỷ USD
Nguồn: Kinh tế Việt Nam ‘97- ‘98 trang 31,32.
Chủ trương của Đảng và nhà nước ta là: “coi nguồn đầu tư trong nước là quyết định, nguồn đầu tư nước ngoài là quan trọng và đặt ra vấn đề cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa nguồn đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài. Để hấp thụ được 1 USD vốn đầu tư nước ngoài thì cần phải có 1USD huy động trong nước, 1 USD này dùng để làm cơ sở cơ bản tạo điều kiện hấp dẫn ban đầu như vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo đội ngũ lao động có trình độ cao, vốn góp liên doanh.
Thu hút FDI đang đứng trước những thời cơ mới, thách thức mới vì vậy hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài cũng vậy và nó chịu ảnh hưởng của các xu hướng nhất thể hoá nền kinh tế, toàn cầu hoá và khu vực hoá ở mọi cấp độ, do đó nó có sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia kêu gọi đầu tư ngày càng nhiều (nhất là các nước đang phát triển). Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải có những giải pháp hữu hiệu để tham gia hoạt động liên doanh với nước ngoài đạt hiệu quả cao, mà vấn đề quan trọng là phải có một môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn. Môi trường đầu tư là tổng thể các yếu tố liên quan đến điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, pháp luật...được biểu hiện ra bằng hệ thống các giải pháp mà phần lớn do con người tạo ra, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước tạo ra.
Như vậy hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài là rất quan trọng, nó có ý nghĩa đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai, nó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh.
Các khía cạnh pháp lý của chính sách hu hút FDI nói chung và DNLD nói riêng của Việt Nam. Xuất phát từ thực trạng của quá trình phát triển kinh tế đất nước, trong bối cảnh của sự giảm sút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam do nhièu nguyên nhân chủ quan và khách quan. Chính Phủ nước CHXH Việt nam và các bộ ngành liên quan đã và đang ban hành các văn bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI nói chung và hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài nói riêng châửng hạn như văn bản sau:
-Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam ngày 12/11/1996 đã nêu ra các điều khoản về các biện pháp bảo đảm đầu tư.
-Quyết định số 228/2998/QĐ-TTg ngày 1/12/1998 của Chính phủ Về Việc phân cấp, ủy quyền cấp giấy phép FDI trong đó nội dung quy định cho các cơ quan ( ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ... ) được cấp giấy phép cho các dự án nào.
-Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 của Chính phủ về phân biệt các hình thức FDI.
-Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo FDI trong đó có một số điểm mới về: Đảm bảo chính sách FDI và bỏ các điều kiện có hại; khuyến khích các doanh nghiệp liên doanh sản xuất kinh doanh xuất khẩu trên 80%; thuế nhập khẩu; thuế lợi tức ..., ngoài ra còn ưu đãi về: ngoại hối, sử dụng đất ...
-Chỉ thị số 11/1998/CT-TTg ngày 16-3-1998 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện NĐ 10/CP cải tiến thủ tục FDI
-Công văn số 2757/BKH-KCH ngày 28/4/1998(về việc áp dụng mẫu đăng ký cấp giấy phép đầu tư)
-Thông tư số 63/1998/TTg-BTC ngày 13/5/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn một số quy định về thuế theo nghị định 10/CP.
-Quyết định số 179/1998/QĐ-BTC ngày 24-2-1998 của Bộ tài chính quy định tiền thuê đất, nước, biển cho hoạt động FDI.?
5. Tác động của hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài đối với các đơn vị thuộc Bộ xây dựng và toàn ngành xây dựng nói chung
- Ngành xây dựng nói chung cũng như đối với các đơn vị thuộc Bộ xây dựng cùng với xu thế phát triển chung của cả nước đã hoà mình vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng mở. Là một mắt xích quan trọng trong quá trình hội nhập của cả nước. Điều đó đòi hỏi các đơn vị của Bộ xây dựng nói riêng cũng như toàn ngành xây dựng cần phải nỗ lực để hoà nhập với xu thế đó. Một vấn đề thấy được là khi tham gia hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài đã tác động trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng thể hiện ở các mặt là tăng thu nhập của cán bộ công nhân trong ngành, mở rộng sản xuất, tiếp thu được trình độ quản lý tiên tiến, công nghệ hiện đại, tiếp nhận được vốn đầu tư, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, đảm bảo chất lượng hàng hoá vật liệu xây dựng, công trình xây dựng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế (ISO).
- Hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài đã làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của toàn ngành xây dựng với những công trình kiến trúc đồ sộ mọc lên. Theo kinh nghiệm của các nhà quản lý dự án thì thấy rằng đã có một tỷ trọng khá lớn vốn đầu tư trực tiếp chi cho các hoạt động của ngành xây dựng. Tỷ trọng này chiếm từ 40% đến 50% bao gồm cả xây dựng giao thông công chính. Với một tỷ trọng khá lớn như ước tính ở trên thì giảm sút đầu tư nước ngoài theo hình thức hợp tác liên doanh sẽ ảnh hưởng rất đáng kể đến các hoạt động của ngành xây dựng nước ta.
Bảng 1.1: Tỷ trọng vốn FDI chiếm bởi các hoạt động của ngành xây dựng trong các ngành khác
Các ngành có đầu tư
Tỷ trọng vốn đầu tư (theo VIR 23-29/11/98)
Tỷ trọng ước tính vốn chiếm bởi các hoạt động xây dựng Việt Nam
Tỷ trọng vốn chiếm bởi các hoạt động xây dựng Việt Nam trong tổng vốn của từng ngành
A(%)
B (%)
C% =(B: A) x 100%
1. Công nghiệp
43,8
11,45
26
2. Dầu khí và khí đốt
3,7
1
25
3. Nông và lâm nghiệp
1,2
(*)
(*)
4. dịch vụ
0,7
(*)
(*)
5. Ngân hàng – tài chính
0,8
(*)
(*)
6. Văn hoá, y tế và giáo dục
3,7
1,1
30
7. Hải sản
0,2
(*)
(*)
8. Xây dựng
0,3
0,3
100
9. Giao thông vận tải và bưu điện
8
4
50
10. Khách sạn, văn phòng, nhà ở
24,7
15,42
62,43
11. Khu công nghiệp
12,3
9,84
80
12. Khu chế xuất
0,6
0,48
80
Tổng
100
43,59
Chú thích : - Các dấu (*) biểu thị tỷ trọng tương đối nhỏ coi như là 0%.
- ViR : Viet Nam InVestment Review
?Qua bảng trên ta thấy tỷ trọng vốn đầu tư chiếm bởi các hoạt động xây dựng là tương đối lớn như trên đã nói và cụ thể là 43,59% trong vốn đầu tư vào các ngành. Đối với ngành công nghiệp chiếm 45,8% tỷ trọng vốn đầu tư của cả nước xong tỷ trọng vốn chiếm bởi các hoạt động xây dựng là 11,45% tương đối với 25% lượng vốn đầu tư của 45,8% vốn đầu tư và ngành công nghiệp. Đối với các ngành khác tương tự. Như vậy các số trong ngoặc ví dụ : (25%), (30%), (100%), (60%), (50%)... là biểu hiện tỷ trọng vốn đầu tư bởi các hoạt động xây dựng Việt Nam trong tỷ trọng vốn đầu tư cho từng ngành đối với toàn bộ vốn đầu tư theo các ngành ở Việt Nam.
- Hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài nó tác động tới mọi lĩnh vực của các đơn vị thuộc Bộ tham tham gia sản xuất kinh doanh chẳng hạn như: lĩnh vực xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng, tư vấn xây dựng, đầu tư vào phát triển địa phương, xuất nhập khẩu v..v đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của các lĩnh vực này chẳng hạn như vì tham gia liên doanh mà khối sản xuất công nghiệp vật liệu đã bước đầu xuất khẩu sứ vệ sinh sang các nước Nhật, Trung Đông và Đông Âu. Gạch xây, gạch ốp, đá ốp lát và một số ít sản phẩm cơ khí sang úc, Đài loan, gạch bông xuất sang châu Âu. Tuy nhiên tỷ trọng giá trị xuất khẩu còn rất nhỏ xong đã cho thấy do áp dụng được công nghệ từ liên doanh với nước ngoài mà các đơn vị trực thuộc Bộ xây dựng đã sản xuất nâng cao được chất lượng hàng hoá, mẫu mã sản phẩm để có thể cạnh tranh được với hàng nước ngoài. Đẩy mạnh quá trình thay thế nhập khẩu và thúc đẩy xuất khẩu.
chương II
Đánh giá tình hình thực hiện hoạt động liên doanh với nước ngoài của các đơn vị thuộc Bộ Xây Dựng qua các giai đoạn
Hoạt động liên doanh với nước ngoài nói chung và của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng nói riêng được thực hiện chỉ trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam mà kể từ khi thực hiện nghị quyết Đại hội VI năm 1986 của Đảng Cộng sản Việt nam. Vì thế để đánh giá tình hình thực hiện hoạt động liên doanh với nước ngoài của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng tôi xem xét từ năm 1986 đến nay.
I - Tình hình hoạt động liên doanh với nước ngoài của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng từ năm 1986 đến nay.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng về phát huy nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác Quốc tế để góp phần phát triển nền kinh tế - xã hội nước ta, đặc biệt kể từ luật đầu tư nước ngoài được ban hành tháng 12/1987 và các lần sửa đổi bổ sung năm 1990, 1992, 1996. Bộ xây dựng đã hoà mình cùng xu thế chung của cả nước với xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá trên thế giơí. Đẩy mạnh hoạt động liên doanh với nước ngoài để tận dụng những lợi thế và khắc phục những khó khăn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
1. Quy mô, cơ cấu các dự án liên doanh.
Cho đến nay các đơn vị thuộc Bộ xây dựng đã có 47 dự án liên doanh. Có hai dự án liên doanh ra đời sớm nhất là Công ty Bê tông Mê kông và Công ty liên doanh về kỹ thuật nền móng và công trình COFEC , cấp giấy phép đầu tư năm 1991. Số dự án được cấp giấy phép chủ yếu vào các năm 1993, 1994,1995 là 30/47 dự án. Năm 1996 và năm 1997 mỗi năm có 6 dự án. Năm 1998 chỉ có 1 dự án. Theo bảng sau:
Bảng 1.2 :Số dự án liên doanh với nước ngoài của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng phân theo lĩnh vực liên doanh và khu vực từ năm 1991-31/12/1998.
Năm
Số dự án
Loại dự án
Khu vực
Xây lắp
Tư vấn
XD
Sx vật liệu XD& CKXD
SX xi măng
Kinh doanh BĐS
Bắc
TRung
Nam
1991
2
1
1
0
0
0
1
0
1
1992
2
0
1
0
1
0
1
0
1
1993
10
6
0
3
0
1
6
1
3
1994
11
4
1
3
1
2
7
0
4
1995
9
3
0
4
1
1
4
1
4
1996
6
0
1
3
0
2
4
0
2
1997
6
2
0
4
0
0
2
0
4
1998
1
0
1
0
0
0
1
0
0
Tổng
47
16
5
17
3
6
26
2
19
Nguồn : Vụ kế hoạch - thống kê Bộ xây dựng
- Như vậy số dự án phân bổ không đều qua các năm. Năm 1993 và 1994 là 2 năm có số dự án nhiều nhất. Bởi vì chúng ta đang cần xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế theo hướng CNH - HĐH khắc phục những công trình xuống cấp. Năm 1995 có 9 dự án chủ yếu tập trung vào liên doanh sản xuất vật liêu xây dựng vì trong thời gian đó cần số nguyên vật liệu phục vụ cho xây dựng các công trình, nhà xưởng và các căn hộ cho thuê. Năm 1996 và 1997 có 6 dự án cũng chủ yếu tập trung vào liên doanh sản xuất vật liệu xây dựng khác, cơ khí do hàng hoá để thực hiện thay thế nhập khẩu. Năm 1998 chỉ có 1 dự án liên doanh bởi vì do ảnh hưởng sức ép của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á và do thời tiết khí hậu có những đột biến. Bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái lan tháng 7/1997 như một phản ứng dây chuyền đã ảnh hưởng tới các nước Châu á và một số nước trên thế giới làm cho các chủ đầu tư không đủ khả năng chi trả và do đồng tiền mất giá nên khó khăn cho nhập khẩu đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần nguyên vật liệu, công nghệ...nhập khẩu cho đầu vào của quá trình sản xuất vì vậy mà chỉ có 1 dự án về tư vấn xây dựng .
* Cơ cấu phân bổ vốn đầu tư liên doanh theo lĩnh vực liên doanh
- Trong tổng số 47 dự án với tổng vốn đầu tư liên doanh là 1.609,251 triệu USD. Trong đó phân bổ theo lĩnh vực liên doanh chính đó là: lĩnh vực xây dựng có 16 dự án chiếm 6,8% tổng vốn đầu tư, lĩnh vực tư vấn xây dựng có 5 dự án chiếm 0,3% tổng số vốn đầu tư; lĩnh vực xi măng có 3 dự án chiếm 61% tổng vốn đầu tư; lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng khác, cơ khí có 17 dự án chiếm 25% tổng số vốn đầu tư; lĩnh vực kinh doanh bất động sản (khách sạn, văn phòng) có 6 dự án chiếm 6,9% tổng vốn đầu tư (theo bảng 2). Chủ yếu các dự án tập trung ở Miền Bắc và Miền Nam, Miền Trung chỉ có 2 dự án đó cũng là do các khu vực này có sự khác nhau về nhu cầu xây dựng và do ở Miền Trung có ít khu công nghiệp, khu chế xuất và việc xây dựng còn chưa phát triển, hơn nữa ở Miền Bắc và Miền Nam tập trung nhiều thành phố lớn.
Bảng 2 : Bảng quy mô vốn đầu tư của các dự án theo lĩnh vực liên doanh từ năm 1991- 1998 của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng.
Lĩnh vực liên doanh
Số dự án liên doanh (đơn vị: dự án)
Vốn đầu tư (đơn vị 1000 USD)
Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng vốn (%)
- Xi măng
3(6,4%)
981300
61%
- Tư vấn xây dựng
17(36,2%)
401894
25%
- Sản xuất VLXD khác, cơ khí xây dựng
6(12,8%)
110836
6,9%
- Xây dựng
16(34%)
110799
6,8%
- Kinh doanh bất động sản
5(10,6%)
4422
0,3%
Tổng
47(100%)
1609.251
100
Số dự án của các lĩnh vực có tỷ trọng vốn đầu tư từ lớn đến nhỏ là:
Biểu đồ 1a: Tỷ lệ vốn đầu tư phân theo các lĩnh vực liên doanh từ năm 1991-1998.
Biểu đồ 1b: Tỷ lệ số dự án liên doanh phân theo lĩnh vực liên doanh của các đơn vị thuộc bộ xây dựng (tính đến 31/12/1998)
Nguồn: Vụ kế hoạch thống kê - Bộ Xây Dựng
Về quy mô dự án ta thấy: nếu xét về tổng số vốn của từng lĩnh vực liên doanh sản xuất xi măng có vốn đầu tư lớn nhất 61% (hay 981.300 nghìn USD) sau đó đến liên doanh lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng khác, cơ khí chiếm 25% tổng số vốn liên doanh của 47 dự án thuộc Bộ xây dựng (hay 401.894 nghìn USD) và đến các dự án liên doanh lĩnh vực kinh doanh bất động sản 6,9% (hay 110836 nghìn USD); lĩnh vực xây dựng 6,8% (hay 110.799 nghìn USD); lĩnh vực tư vấn xây dựng chỉ 0,3% (hay 4422 nghìn USD). Bởi vì lĩnh vực tư vấn xây dựng đòi hỏi kỹ thuật trình độ cao vì thế mà tiền lương trả cho chuyên gia quá lớn, điều này khó khăn cho bên phía Việt Nam nhưng trong tương lai thì lĩnh vực này nó sẽ ngày càng phát triển và tiến tới các lĩnh vực liên doanh sẽ cân bằng nhau về tỷ trọng vốn đầu tư. Nếu xét về quy mô của từng dự án ở từng lĩnh vực thì thấy lĩnh vực xi măng vốn đầu tư từ 288 - 347 triệu USD trên một dự án; lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và cơ khí xây dựng từ 0,292 triệu USD đến 145 triệu USD/một dự án. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản từ 3 triệu - 70 triệu USD/1 dự án; lĩnh vực xây dựng từ 0,345 triệu USD đến 53 triệu USD/1 dự án; lĩnh vực tư vấn xây dựng từ 0,45 triệu USD đến 2 triệu USD trên một dự án. Nói chung quy mô về vốn của các dự án chênh lệch tương đối nhiều. Có dự án quy mô lớn nhưng có một số dự án quy mô rất nhỏ như dự án nhỏ nhất là 0,292 triệu USD. Nhưng cũng có dự án có vốn rất lớn lên tới 347 triệu USD. Về tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong vốn pháp định trung bình là 33 % trong đó lĩnh vực xi măng lớn nhất là 35%; lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và cơ khí xây dựng lớn nhất là 57%; lĩnh vực kinh doanh bất động sản lớn nhất là 40%; lĩnh vực xây dựng lớn nhất là 50%; lĩnh vực tư vấn xây dựng lớn nhất là 70%. Như vậy trong lĩnh vực xi măng tổng vốn đầu tư trong liên doanh là lớn nhất song lại thấy rằng tỷ lệ vốn pháp định của bên Việt Nam trung bình lớn nhất chỉ chiếm 35% nhỏ hơn so với các lĩnh vực khác, điều đó chứng tỏ nếu chỉ nhìn vào tổng vốn đầu tư thì sẽ không thấy rõ vai trò của bên Việt Nam mà nhìn vào vốn pháp định thì thấy vốn góp của phía Việt Nam vào liên doanh xi măng là tương đối ít chỉ gần bằng 35% vốn pháp định của cả dự án. Còn đối với lĩnh vực tư vấn xây dựng thì phía Việt nam có khi chiếm tới 70% tổng vốn pháp định của cả dự án (đối với mức cao nhất) vì thế mà Việt nam hầu như nắm toàn quyền quản lý và điều hành Công ty tư vấn liên doanh xây dựng. Và cũng cho thấy tại sao số dự án về lĩnh vực tư vấn xây dựng lại chiếm một tỉ lệ khá nhỏ (10,6%) so với tổng số dự án liên doanh của Bộvà chỉ tương đương với 0,3% so với tổng số vốn của toàn bộ các dự án liên doanh (hay là gần 4422 nghìn USD)
2. Về thực hiện vốn góp liên doanh, kết quả kinh doanh và công tác quản lý vốn.
- Như ta đã thấy từ năm 1991 đến nay, trong các doanh nghiệp do Bộ xây dựng quản lý đã có 47 dự án liên doanh với tổng số vốn đăng ký là 1609,251 triệu USD. Trong đó vốn pháp định là 559,8 triệu USD, bằng 34,78% tổng vốn đầu tư phần còn lại khoảng 65,22% tổng vốn đầu tư các liên doanh phải đi vay :
Biểu đồ 2 : Số vốn pháp định và vốn đi vay trong tổng số vốn đầu tư.
Nguồn : Vụ kế hoạch thống kê Bộ xây dựng
- Các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn pháp định chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất và được nhà nước cho nhận nợ số vốn này (chiếm khoảng 70% trong tổng số vốn góp); số vốn góp còn lại dùng tiền mặt và một số thiết bị nhà xưởng hiện có do chủ yếu dùng nguồn giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn, nên các doanh nghiệp trong Bộ hầu hết đều đảm bảo mức vốn góp của mình theo tiến độ.
* Các kết quả kinh doanh
- Theo báo cáo của các DNLD thì trong tổng số 47 DNLD mới có 26 liên doanh đi vào sản xuất có doanh thu, còn lại đang trong giai đoạn xây dựng hoặc chờ giải thể. Sản phẩm sản xuất chủ yếu tiêu thụ trong nước xuất khẩu không đáng kể (khoảng 0,12%). Trong số 26 liên doanh đã đi vào sản xuất thì có 9 liên doanh (34,5%) có lãi và nộp được thuế lợi tức cho nhà nước, số còn lại đang bị lỗ hoặc chưa có lãi. Điều đó chứng tỏ kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp liên doanh còn rất hạn chế. Kết quả kinh doanh của các liên doanh có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính của các doanh nghiệp có vốn góp liên doanh, nhất là các doanh nghiệp đã dùng tiền mặt, giá trị tài sản hiện có để góp vốn, bởi những tài sản này doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn vay để trang trải. Có những doanh nghiệp đã bị lỗ liên tục từ 2 đến 3 năm hiện chưa có biện pháp khắc phục.
- Cho đến nay đã có 20/47 dự án đã đưa vào kinh doanh chiếm 42,5%, có 8/47 dự án vừa đầu tư vừa kinh doanh chiếm 17,02%, có 14 dự án đang đầu tư liên doanh chiếm 29,84%. Tổng số các dự án đã triển khai là 42/47 chiếm 89,36%; 5 dự án chưa triển khai chiếm 10,64% số dự án( xem bảng số 5).
Bảng 5: Tình hình thực hiện đầu tư của các liên doanh thuộc Bộ phân theo lĩnh vực từ năm 1991-1998.
Lĩnh vực
Tiến độ
Xây dựng
Tư vấn
VLXD khác, cơ khí XD
Xi măng
Văn phòng khách sạn
Tổng cộng
Xong đã kinh doanh
8
1
7
2
2
20
Vừa đầu tư vừa kinh doanh
5
3
0
0
0
8
Đang đầu tư
3
0
6
1
4
14
Chưa đầu tư
0
1
4
0
0
5
Tổng cộng
16
5
17
3
6
47
Nguồn: Vụ kế hoạch thống kê Bộ xây dựng
Biểu đồ 5 : Số dự án đã đưa vào sản xuất kinh doanh, vừa đầu tư vừa kinh doanh đang đầu tư liên doanh, dự án chưa triển khai (tính đến 31/12/1998).
Nguồn : Vụ kế hoạch thống kê Bộ xây dựng
- Số vốn đầu tư đã thực hiện là 975,164 triệu USD chiếm 60,6% tổng số vốn đầu tư đăng ký. Trong đó lĩnh vực xi măng và bất động sản có tỷ lệ vốn thực hiện cao (68-70%), lĩnh vực xây dựng và tư ván 52,6%, lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và cơ khí xây dựng chỉ đạt 39,7%. Như vậy lĩnh vực xi măng vẫn là lĩnh vực chiếm tỷ lệ vốn thực hiện cao nhất điều này cũng dễ thấy bởi vì thị trường Việt nam đang cần nhu cầu lớn về xi măng cho xây dựng cơ sở hạ tầng và nhà cưả để ở. Tuy nhiên lĩnh vực kinh doanh bất động sản cũng chiếm tỷ lệ vốn thực hiện khá lớn xong vì do lĩnh vực này có một nhu cầu về kinh doanh bất động sản (văn phòng, khách sạn) quá nhiều điều này cũng thấy dễ gây ra các tác hại dây chuyền như bão hoà và dẫn đến khủng hoảng vốn và khủng hoảng tài chính tiền tệ.
- Trong số 47 dự án, đã chính thức có 4 dự án giải thể đó là Công ty Laufren- Việt nam (sản xuất sứ vệ sinh đã đầu tư), Công ty liên doanh Jonhson- Viglacera (sản xuất sứ vệ sinh - hầu như chưa đầu tư), Công ty liên doanh xây dựng Việt - Pháp (CIP - đang kinh doanh) và hợp tác kinh doanh sản xuất tấm lợp. Như vậy số dự án chính thức giải thể chiếm 8,5% tổng số 47 dự án liên doanh của các đơn vị Bộ xây dựng quản lý.
- Ngoài ra có một số Công ty liên doanh đang làm thủ tục giải thể như Công ty sản xuất thuỷ tinh Việt- Triều Vinkoglase, liên doanh với Hàn Quốc hoặc đang làm thủ tục chuyển giao phần vốn góp cho đối tác nước ngoài khác như Công ty liên doanh xây dựng Việt Nam- Thuỵ Điển.
- Các dự án giải thể tuy không gây thiệt hại vì liên doanh chưa triển khai hoặc dự án có vốn liên doanh nhỏ nhưng nó đã ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư và dẫn đến hàng loạt các dự án sẽ bị giải thể sau đó. Loại hình liên doanh xây dựng tuỳ thuộc vào mức độ đầu tư các thiết bị phục vụ thi công, khi giải thể dẫn đến các thiệt hại tài chính ở các mức độ khác nhau. Liên doanh Việt- Pháp (CIF) năm 1996 lỗ 77.395 USD và lỗ luỹ kế là 928.929 USD. Công ty liên doanh Việt - Pháp lỗ là do trong một thời gian dài không có công trình thi công, đây là bài học cho việc chưa xác định đúng đối tác liên doanh của Tổng công ty xây dựng Hà nội.
-Còn lại một số DNLD đã và đang tồn tại trong quá trình sản xuất kinh doanh là do chủ động xây dựng các chiến lược kinh doanh phù hợp và tìm ra nhữn giải pháp để nâng cao hiệu qủa hoạt động sản xuất kinh doanh của DNLD
Dưới đây là một số giải pháp của các liên doanh đã áp dụng.
+ Do thị trường bị thu hẹp năm 1997, 1998 và do quá nhiều trạm bê tông được xây dựng nên các liên doanh xây dựng có sản xuất bê tông gặp phải rất nhiều khó khăn, nhất là các liên doanh chỉ chuyên doanh bê tông trộn sẵn. Để tồn tại các liên doanh bê tông Mêkông, Sài Gòn, RDC, ....Phấn đấu dẫn đầu về uy tín và chất lượng của dịch vụ cung ứng bê tông trộn sẵn đồng thời xin giảm tỷ lệ tính khấu hao, tìm mọi biện pháp để hạ giá thành sản phẩm nhằm tăng tính cạnh tranh với các cơ sở khác. Hoặc có liên doanh như Hải Vân - Thiess đã chuyển giao trạm trộn bê tông cho bên Việt Nam có điều kiện ưu đãi.
+ Công ty liên doanh Lenex chuyên sản xuất cốp pha, cây chống dàn giáo đạt tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ xây dựng các công trình cao tầng. Để tồn tại công ty này đã chuyển hướng ngoài sản xuất sản phẩm mới có thêm dịch vụ sửa chữa các sản phẩm. Trên nghiên cứu đưa ra thị trường các sản phẩm mới và tập trung tìm kiếm đối tác, hợp tác tăng khả năng xuất khẩu sản phẩm do liên doanh sản xuất tới một số nước ở khu vực.
+ Liên doanh Vina – Leighton sau khi hoàn thành xây dựng Đại sứ quán úc tại Hà Nội (thầu quản lý), xây dựng công trình Sài Gòn Metrolitan Tower tại thành phố Hồ Chí Minh...có lãi nhưng hiện tại chưa có được công trình mới nào để xây dựng nên 1/9/1998 hai bên liên doanh đã tự chịu chi phí cho các nhân viên cử vào liên doanh còn liên doanh chỉ duy trì trả lương cho một nhân viên và sẽ chỉ chi phí cho hoạt động liên doanh khi nào có công trình xây dựng mới.
+ Liên doanh gang cầu Đài Việt Washin là thí dụ cụ thể về sự hợp tác hai đối tác liên doanh đã giải quyết một loạt vấn đề: Thay đổi cán bộ chủ chốt điều hành liên doanh, tổ chức lại sản xuất, thay đổi nguyên liệu phải nhập ngoại bằng nguyên liệu trong nước, nâng cao chất lượng sản phẩm....Nên hạ thấp giá thành sản phẩm hàng nhập ngoại (kể cả so với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc) nên sản phẩm sản xuất ra từ chỗ không tiêu thụ được nhiều này sản xuất ra tiêu thụ được hết. Do vậy liên doanh từ chỗ bị lỗ liền mấy năm nhưng tới năm 1998 sản xuất đã có lãi.
+ Liên doanh ống thép Sài Gòn là sự chủ động của các bên tham gia liên doanh để giải quyết có được các nguồn vốn vay cho đầu tư, cho sản xuất và có sự quản lý tốt nên dự án đầu tư xong trên 20 triệu USD nhưng không vượt vốn.
* Công tác quản lý vốn:
- Hầu hết các liên doanh có Tổng giám đốc và kế toán trưởng là người nước ngoài do họ có ưu thế về vốn, phía Việt nam chỉ là cấp phó (Phó tổng giám đốc thứ nhất, Phó kế toán trưởng), nhiều DNLD còn không có Phó kế toán trưởng do phía Việt nam cử vào. Nhiều DNLD có cán bộ kế toán Việt nam cử vào sau khi làm việc ở liên doanh đã trở thành người của liên doanh, không phát huy được vai trò của phía Việt nam. Chế độ báo cáo thường xuyên của các cán bộ Việt nam được cử vào liên doanh với Công ty có vốn góp rất hạn chế , thậm chí có nhiều người không dám báo cáo. Những doanh nghiệp có vốn góp chưa có cơ chế cụ thể đối với các cán bộ được cử vào liên doanh. Nhiều doanh nghiệp có vốn góp bằng giá trị quyền sử dụng đất chưa làm đầy đủ nghĩa vụ đối với số vốn góp này như: chưa hạch toán số vốn góp vào sổ kế toán, chưa nhận nợ với ngân sách; cá biệt có kết toán trưởng còn không giám tham gia gì trong quá trình liên doanh của doanh nghiệp
3. Về các đối tác nước ngoài liên doanh với các đơn vị thuộc Bộ xây dựng
- Cho đến nay đã có hơn 54 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt nam với tổng vốn đầu tư khoảng 37,35 tỷ USD trong đó 405 dự án (2,73 tỷ USD) đã bị rút giấy phép, 29 dự án (432,31 triệu USD)đã kết thúc hợp đồng, hiện còn trên 2173 dự án với tổng số vốn là gần 37,346 tỷ USD theo mô hình sau (biểu đồ 4a):
Biểu đồ 4a: FDI qua các năm.
Nguồn : Tạp chí thời báo kinh tế Việt Nam 1998 - 1999 trang 37
- Mười nước và vùng lãnh thổ đứng đầu về số dự án đầu tư và số vốn đầu tư (Bảng 3a) xếp hạng kèm theo; đó là Singapore, Đài loan, Hồng kông, Nhật bản, Hàn quốc, Pháp, Malaysia, Mỹ, Thái lan, IsLand... với 7 nước Châu á trong đó Hàn quốc, Malaysia, Thái lan, Nhật bản chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, còn Singapo và Đài loan, Hồng kông có nền tài chính, kinh tế mạnh cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng. Điều đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến mức đầu tư trực tiếp nước ngoài (trong đó có hình thức liên doanh)vào Việt nam trong các năm gần đây và các năm tới.
Bảng 3a : Mười nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam hiện nay (tính đến 31/12/1998)
Bảng 3a1 : Theo số vốn đầu tư.
Nước
Vốn ĐT (Tỷ USD)
Tỷ trọng (%)
1.Singapore
6,448
20
2. Đài Loan
4,268
13,3
3. Hồng Kông
3,735
11,6
4. Nhật Bản
3,500
11,4
5. Hàn Quốc
3,154
9,8
6. Pháp
1,466
4,6
7. Malaysia
1,370
4,3
8. Mỹ
1,230
3,8
9. Thái Lan
1,110
3,4
10. BV. IS land
1,089
3,4
Bảng 3a2 : Theo số dự án đầu tư
Nước
Vốn ĐT (Tỷ USD)
Tỷ trọng (%)
1.Đài Loan
309
17,4
2. Nhật ._.p tác đầu tư với nước ngoài cuối cùng cũng là để nâng cao đời sóng của nhân dân vì vậy phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn hàng đầu và đó cũng là lợi ích lâu dài của hoạt động đầu tư trực tiếp nưóc ngoài.
Bước 5: Hợp tác đầu tư với nước ngoài phải góp phần mở rộng thị trường, từng bước hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới, và nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Phương hướng, nhiệm vụ riêng của Bộ xây dựng
- Bộ xây dựng là một cơ quan quản lý nhà nước thuộc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quán triệt quan điểm, phương hướng chung của Đảng và nhà nước đề ra tại nghị quyết trung ương 6 (lần I) đã nhận định "bước vào năm 1999 những thách thức và khó khăn của đất nước còn rất lớn, gay gắt và phức tạp do những yếu kém từ bên trong của nền kinh tế và những bất cập trong quản lý, điều hành, của khủng hoảng tài chính - tiền tệ dẫn đến suy thoái kinh tế ở một số nước trong khu vực có thể còn diễn biến phức tạp, khí hậu và thời tiết bất thường chưa thể lường hết được". Năm 1999 tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhất là công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 4 đã quyết nghị các chỉ tiêu chủ yếu của năm 99 như sau:
Tổng sản phẩm quốc nội GDP tăng 5-6%
Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 3,5-4%
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10-11%
Giá trị các ngành dịch vụ tăng 4-5%
Kim ngạch xuất khẩu tăng 5-7%
Mức lạm phát dưới 10%
Tạo việc làm mới 1-1,5 triệu người
Năm 1999 ngành xây dựng đứng trước những thách thức còn lớn hơn năm 1998 đó là bức xúc về công ăn việc làm đối với khối xấy lắp và tư vấn, sự cạnh tranh gay gắt trong tiêu thụ sản phẩm vật liệu xây dựng.
Quán triệt nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ VII, khoá VIII về "phát triển công nghiệp, công nghệ theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới", ngành xây dựng đã đề ra chương trình và mục tiêu phát triển toàn ngành đến năm 2000 và định hướng nghiệp vụ kế hoạch 5 năm 1996-2000 với các nội dung chủ yếu như sau:
+ Phát huy thế mạnh của đất nước về tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng, phải tập trung mọi nguồn vốn và các giải pháp để tạo vốn đầu tư, phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Phấn đấu đưa nhanh ngành công nghiệp VLXD trở thành một trong những ngành công nghiệp có hiệu quả, vừa đáp ứng cho nhu cầu trong xã hội, vừa góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tăng tích luỹ nhà nước. Ưu tiên phát triển xi măng và các loại vật liệu cao cấp, để tạo thành ngành công nghiệp mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Huy động năng lực hiện có của toàn ngành VLXD để phấn đấu sản xuất đạt mức tăng trưởng hàng năm 18 -20%, góp phần thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng GDP của nhà nước trong 5 năm 1996-2000.
Tiếp tục tăng cường các biện pháp quản lý để chấn chỉnh kỷ cương trong đầu tư và xây dựng, đồng thời tập trung đầu tư nâng cao năng lực của các tổ chức xây dựng, đầu tư đổi mới trang thiết bị thi công, sắp xếp và tổ chức lại các lực lượng để đủ mạnh, đủ sức thắng thầu và tổng nhận thầu thi công các công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, các công trình quan trọng của nhà nước, của nước ngoài đầu tư tại Việt Nam.
+ Tập trung chỉ đạo để thực hiện nhiệm vụ phát triển đô thị nông thôn theo quy hoạch, theo các chương trình quốc gia, theo các dự án nhằm nhanh chóng đổi mới bộ mặt đô thị nông thôn và cơ sở hạ tầng đô thị. Triển khai thực hiện chương trình đổi mới cơ sở hạ tầng nông thôn theo tinh thần nghị quyết V khoá VII của Đảng. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách về nhà ở, đất ở trong cả nước, đảm bảo vừa có kết quả trong việc tăng thu cho ngân sách, vừa ngăn chặn và tiến tới chấm dứt hiện tượng buông lỏng quản lý, vi phạm kỷ cương trong các đô thị.
Kế hoạch năm 1999 ngành xây dựng phấn đấu giữ mức tăng trưởng như thực hiện của năm 1998:
- Về xây lắp có mức tăng trưởng khoảng 6%;
- Về sản xuất vật liệu xây dựng và cơ khí xây dựng khoảng 13,6% so với thực hiện của năm 1998.
Cụ thể chỉ tiêu định hướng kế hoạch 1999 của các lĩnh vực như sau:
a. Sản xuất công nghiệp vật liệu xây dựng và cơ khí xây dựng:
Về xi măng dự báo nhu cầu xi măng năm 1999 khoảng 11,3 - 11,5 triệu tấn. Khả năng sản xuất năm 1999 của toàn ngành khoảng 11,25 triệu tấn, trong đó:
- Tổng công ty xi măng Việt Nam 5.800.000 tấn;
- Các nhà máy liên doanh 2.600.000 tấn;
- Các trạm nghiền địa phương 850.000 tấn;
- Xi măng lò đứng 2.100.000 tấn;
Theo chỉ đạo của Chính phủ cần phải có những biện pháp thích hợp nhằm cân đối sản xuất và tiêu thụ xi măng đến năm 1999 không phải nhập xi măng và clinker.
Sứ vệ sinh: dự kiến toàn ngành sản xuất 1.420.000 sản phẩm tăng 16% so với 1998, trong đó các doanh nghiệp của Bộ xây dựng sản xuất 810.000 sản phẩm. Kế hoạch năm 1999 so với chỉ tiêu định hướng năm 2000 dự kiến đạt 59,7% (19 triệu m2/31,8 triệu.m2).
Cơ khí xây dựng sản xuất 45.000 tấn tăng 6% so với 1998. Các doanh nghiệp của Bộ Xây dựng sản xuất 40.000 tấn trong đó có sản phẩm mới là thanh, ống nhôm.
Các sản phẩm khác: gạch, ngói, đá, cát sỏi, gạch chịu lửa samốt A ... sản xuất theo nhu cầu thị trường.
Với các kế hoạch nêu trên, ngành vật liệu xây dựng thoả mãn nhu cầu trong nước và phải khai thác tích cực tìm kiếm thị trường xuất khẩu.
b. Xây lắp:
Dự kiến kế hoạch năm 1999 toàn ngành thực hiện sản lượng xây lắp 34.500 tỷ đồng, tăng 6,2% so với thực hiện năm 1998. Trong đó khối doanh nghiệp trung ương là 16.000 tỷ đồng, địa phương 18.500 tỷ đồng.
Các đơn vị trực thuộc Bộ dự kiến kế hoạch sản lượng xây lắp năm 1999 là 8354 tỷ đồng, tăng 15,5% so với thực hiện năm 1998. Trong 21 đơn vị trực thuộc Bộ dự kiến kế hoạch xây lắp có Tổng Công ty Sông Đà, TCT XD Hà Nội, TCT Lắp máy, TCT Vinaconex, TCT XD số 1 đăng ký kế hoạch xây lắp trên 1000 tỷ đồng.
c. Tư vấn:
Các đơn vị tư vấn trực thuộc Bộ (bao gồm cả công việc tư vấn của các Viện) đăng ký kế hoạch năm 1999 là 204 tỷ đồng giảm 9,9% so với dự kiến thực hiện năm 1998 (227 tỷ đồng).
Công tác tư vấn: cần tập trung nâng cao năng lực các đơn vị tư vấn đặc biệt nâng cao trình độ tư vấn quản lý dự án và chất lượng công tác lập dự án đầu tư.
d. Xuất nhập khẩu.
Dự kiến kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1999 của các đơn vị thuộc Bộ là 223 triệu USD, tăng 35% so với dự kiến thực hiện năm 1998. Trong đó xuất khẩu 25,2 triệu USD tăng 11,9% so với thực hiện năm 1998, nhập khẩu 198 triệu USD tăng 39% so với năm 1998.
Về nhập khẩu chủ yếu máy móc thiết bị cho các dự án xi măng, vật liệu và cơ khí, máy móc thiết bị thi công, đồng thời nhập một số phụ tùng, vật tư phục vụ cho sản xuất (như gạch chịu lửa, thạch cao, giấy craf, bột màu v.v....)
Về xuất khẩu chủ yếu xuất khẩu lao động, dự kiến TCTXD Bạch đằng xuất khẩu thi công công trình tại Nhật khoảng 410.000 USD; xuất nhập khẩu các sản phẩm vật liệu XD như kính ôto (xuất tại chỗ), sứ vệ sinh, gạch xây, gạch bông, gạch ốp lát, một số sản phẩm cơ khí v..v...dự kiến tăng so với năm 1998. Đặc biệt Công ty liên doanh ống thép Sài gòn dự kiến xuất khẩu ống thép sang CAMPUCHI.
3. Kế hoạch đầu tư và phát triển của Bộ
Kế hoạch đầu tư phát triển của bộ Xây dựng năm 1999 dự kiến tổng mức: 2366tỷ đồng. Chia ra:
Nguồn vốn ngân sách: (được nhà nước cân đối)
Nguồn vốn ngân sách: (được nhà nước cân đối)
46,5 tỷ đồng
Nguồn vốn ngân sách: (được nhà nước cân đối)
34,5 tỷ đồng
Đầu tư: Trường, viện, ytế ...
12 tỷ đồng
Nguồn vốn tín dụng ưu đãi: (đăng ký ké hoạch)
860 tỷ đồng
Nguồn vốn quỹ ĐT tập chung các đơn vị
460 tỷ đồng
Nguồn vốn tự huy động, tự bổ xung
600 tỷ đồng
Nguồn vốn vay tín dụng thương mại
400 tỷ đồng
(Bao gồm: vay tín dụng thương mại trong nước và vay tín dụng nước ngoài)
Vốn của liên doanh Nghi Sơn(150 tr.USD)
1.900.000tỷ đồng
Mục tiêu đầu tư và chủ trương bố trí vốn:
Thực hiện nghiêm chỉnh chỉ đạo của chính phủ tại quyết định 248/1998-QĐ-TTg ngày 24/12/1998 về chủ trương biện pháp điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 1999.
Nguồn vốn ngân sách được bố trí chấp hành đúng chỉ đạo của chính phủ. Tổng số 51 dự án nhóm C của bộ, trong đó hoàn thành trong năm 1999 là 38 dự án, chiếm 74,5%. Vốn ngân sách được dầu tư cho các công trình thuộc các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế các trung tâm phục hồi chức năng, nhà xuất bản, các công trình kỹ thuật hạ tầng, khảo sát thiết kế quy hoạch.
Năm 1999 thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Bộ tiến hành lập dư án khả thi sửa chữa mối nối nhà nắp ghép Thanh Xuân, trưòng trung học XD số 1.
(Mục tiêu này chưa được nhà nước cân đối vốn)
Về khảo sát thiết kế quy hoạch 12 tỷ đồng, trong đó cho 6 dự án chuyển tiếp, còn lại 50 dự án. Mục tiêu điều chỉnh quy hoạch cho: 4 quy hoạch vùng; 30 quy hoạch đo thị mới; 5 quy hoạch thí đ iểm các khu dân cư; 3 quy hoạch vật liệu xây dựng và 5 quy hoạch thí diểm các thị trấn.
Thực hiện dự án trong số các công trình vốn ngan sách có dự án kết thúc đầu tư tương ứng với 6,596 tỷ đồng, trong đó có 1 dự án nhóm B và 6 dự án nhóm C. Các dự án chuyển tiếp đầu tư tập trung dứt điểm từng hạng mục, từng mục tiêu để sớm đưa vào sử dụng. Các dự án đầu tư mới gồm trường đào tạo công nhân của Tổng công ty xây dựng Sông Hồng; Trung tâm phục hồi chức năng Sầm Sơn, Viện Vật liệu xây dựng và Trung tâm Kiểm định Kỹ thuật an toàn xây dựng.
Nguồn vốn tín dụng, và các nguồn khác:
Các dự án thuộc lĩnh vực Vật liệu XD thực hiện những mục tiêu chính sau:
Tập trung đầu tư hoàn thành dự án phụ kiện sứ vệ sinh bắt đầu sản xuất cuối 1999, đầu tư hoàn thành xây lắp dự án gạch chịu lửa kiềm tính để bắt đầu sản xuất vào đầu năm 2000. Hoàn thành cơ bản công tác xây lắp để bắt đầu sản xuất vào kế hoạch năm 2000. Đối với các dự án cải tạo nhà máy xi măng Bỉm Sơn, xi măng Hà Tiên 1, xi măng Nghi Sơn. Khởi công trạm tiếp nhận xi măng Nhơn Trạch. Hoàn thành công tác chuẩn bị để khởi công xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng vào cuối năm 1999.
Ngoài các mục tiêu đầu tư trên, kế hoạch 1999 còn triển khai đầu tư các dự án bông thuỷ tinh, bông khoáng, mở rộng các nhà máy gạch ceramic Tân Bình, Thanh Thanh, Đà Nẵng, Việt Trì; lọc cao lanh Sông Bé, một số mỏ đá: Sóc Lu, Đà Nẵng, Xuân Hoà, Tân Đông Hiệp, Thượng Hoà, Sơn La...
Lĩnh vực cơ khí xây dựng: Hoàn thành dự án phụ kiện sứ vệ sinh Đại Mỗ và 3 dự án kết cấu thép để có thêm năng lực là 22.000 tấn/năm và khởi công mới DA Nhà máy chế tạo kết cấu thép số 3 tại Quảng Nam, công suất 15.000 tấn/năm và một số cơ sở cơ khí của Tổng Công ty lắp may, xưởng đúc thép Hoà Khánh, dự án sản xuất ống vuông, dự án sản xuất tôn kém mạ và dự án sản xuất ống gió cơ điện lạnh.
Về thiết bị thi công tiếp tục đầu tư 6 dự án chuyển tiếp của 6 đơn vị: TCT Sông Đà, TCT xây dựng số 1, TCT XD Bạch Đằng, TCT XD Hà Nội, LICOGI và công ty XD số 7. Đầu tư mới 3 dự án của Công ty XD Miền Tây, Công ty khảo sát xây dựng và Constrexim.
Các dự án đầu tư theo hình thức BOT: Tổng công ty xây dựng Sông Đà đầu tư dự án thuỷ điện Cần Thơ, chuẩn bị dự án điện sức gió tại Miền Trung. Tổng công ty VINACONEX đầu tư nhà máy nước Dung Quất.
Chương trình nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long: Tập trung ưu tiên vốn tín dụng đầu tư cho các dự án phục vụ chương trình nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, vì đây là một chủ chương lớn của chính phủ. Triển khai song DA sản xuất cấu kiện nhà ở bằng vật liệu nhẹ KCN Cần Thơ phục vụ chương trình phát triển nhà ở ĐBSCL.
Các dự án về nhà ở và đô thị: Tập trung các nguồn vốn để triển khai các khu đô thị mới, đẩy nhanh tốc độ xây dựng nhà ở, bao gồm: Vốn tín dụng đầu tư; vốn huy động của các đơn vị; khai thác tốt nguồn vốn ứng trước của dân: Tranh thủ nguồn vốn hỗ trơ của các địa phương và vốn ODA đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng của các khu đô thị mới. Tập trung đẩy nhanh tiến độ đối với những khu đô thị mới triển khai thuận lợi về thủ tục đầu tư, thu hút nhanh nhu cầu về nhà ở của dân. Thực hiện dự án xây dựng quỹ nhà công vụ cho các cán bộ được điều động về trung ương công tác. Ngoài nhà ở có thể kinh doanh đa dạng đối với các công trình để phục vụ lợi ích công cộng: thể thao, văn hoá, vui chơi giải trí,...
Các dự án khu công nghiệp tập trung: theo chỉ đạo của Chính phủ, rà soát lại các công việc, hạng mục của các khu công nghiệp tập trung. Không đầu tư dàn trải. Những dự án có chủ đầu tư đăng ký chắc thì mới tập trung đầu tư. Chú ý việc tìm kiếm các đối tác đầu tư, đặc biệt các dự án đầu tư trong nước về chế biến nguyên liệu, nông, hải sản trong nước.
Góp vốn đầu tư các dự án liên doanh: Tổng công ty xi măng đang triển khai góp vốn liên doanh xây dựng Nhà máy xi măng Nghi Sơn, kế hoạch đầu tư là 150 triệu USD, trong đó TCT xi măng góp 9,5 triệu USD. Tổng công ty VINACONEX góp 125.900 USD liên doanh nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới để SX lắp dựng cấu kiện bê tông ứng suất trước, đồng thời góp 462.000 USD chuẩn bị dự án liên doanh Trung tâm thương mại quốc tế với DAEWOO.
- Các chỉ tiêu:
Về vật liệu xây dựng phấn đấu sản xuất đạt mức tăng trưởng hàng năm 18-20%, góp phần thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng 5 năm 1996-2000 trong đó: về xi măng đến năm 2000 có công suất từ 18-29 triệu tấn theo nghị quyết của Đảng lần thứ VIII.
Về liên doanh với nước ngoài, Bộ đã ...............
II - Một số điều kiện và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng.
1. Đối với các nguyên nhân chủ quan.
1.1. Khắc phục quan liêu phiền hà, trậm chễ phải có thái độ đúng đán thiện chí trong giải quyết công việc. Mỗi doanh nghiệp cần xem xét các tồn tại mà các lao động thường gặp phải để xác định lao động mà đơn vị tham gia có tồn tại gì phải khắc phục..
Một vấn đề chính lưu ý các doanh nghiệp phải quan tâm khi củng cố các lao động đã có là:
Một là: Việc xây dựng mới hoặc bổ sung và hoàn chỉnh: “Bản quy chế hoạt động của công ty lao động” đã có.
Hai là: “Xác định cho được các yếu tố làm giảm hiệu quả hoạt động của lao động như phương thức kinh doanh việc quản lý hành chính, chi phí chung của lao động,...
Ba là: xem xét các cán bộ mà doanh nghiệp cử tham gia Hội đồng quản trị , các chức danh chủ chốt trong lao động chỉ nắm chắc Hợp đồng lao động, điều lệ công ty liên doanh, , bản quy chế hoạt động công ty lao động, để bảo vệ quyền lưọi của bên Việt Nam trong lao động cũng như có thế đóng góp để lao động ngày càng phát triển , Những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu trên cần được thay thế sớm.
Bốn là: tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp và lĩnh vực lao động (xây dựng , tư vấn,k sản xuất nguyên vật liệu xây dựng ...) để đề ra các giải pháp tình thế. Có một thực tế là từ một số rất ít các lao động có lãi ngay từ năm đầu sản xuất kinh doanh còn phầnlớn các lao động đều chưa có lãi hoặc lỗ trong một số năm. đây là thời kỳ khó khăn nhất của liên doanh như phương thúc kinh doanh, việc quản lí hành chính , chi phí chung của lilên doanh ...
Năm là: Xem xét các cán bộ mà doanh nghiệp cử tham gia Hội Đồng Quản Trị, các chức danh chủ chốt trong liên doanh đã nắm chắc hợp đồng liên doanh, điều lệ vông ty liên doanh , bản quy chế hoạt động công ty liên doanh,.. .Để bảo vệ quyền lợi của bên Việt Nam trong liên doanh cũng như có thể đóng góp để liên doanh ngày càng phát triển. Những cán bộ không đáp ứng được các yêu cầu trên cần được thay thế sớm.
1.2. Tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp và lĩnh vực liên doanh (xây dựng, tư vấn, sản xuất nguyên vật liệu xây dựng...). Để đề ra các giải pháp thích hợp kể cả giải pháp tình thế. Có một thực tế là trừ một số rất ít các liên doanh có lãi ngay từ năm đầu sản xuất kinh doanh còn phần lớn các liên doanh đều chưa có lãi hoặc lỗ trong một số năm. Đây là thời kỳ khó khăn nhất buộc các liên doanh phải vượt qua để tồn tại và phát triển. Thời kỳ này các liên doanh rất cần sự quan tâm giúp đỡ của các Bộ, ngành liên quan và trước hết là nỗ lực của chính các bên tham gia liên doanh.
1.3. Cụ thể hoá và rõ ràng các văn bản dưới luật cho nhất quán và đồng bộ được thực hiện đúng tinh thần ở các cấp, các ngành và địa phương. Các ngành, các địa phương nhanh chóng ra các hướng dẫn, quyết định cụ thể hoá thể chế của Nhà nước ban hành theo yêu cầu.
1.4. Nâng cao chất lượng thị trường nhân công và giảm giá nhân công bằng cách nâng cao hiệu suất lao động chứ không phải là giảm lương của người lao động.
1.5. Sắp xếp lại các liên doanh để thích hợp với mô hình hợp tác quốc tế và nâng cao ý thức về tầm quan trọng cuả đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp liên doanh.
1.6. Xây dựng các danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài cụ thể của mỗi đơn vị, mỗi địa phương, mỗi ngành phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhu cầu phát triển của ngành, của địa phương và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Việc này xưa nay chúng ta vẫn làm nhưng còn thô sơ và chưa kết hợp tốt các yêu cầu trên. Vì vậy mà nên cụ thể hoá và cập nhật phát hành các danh mục trên để các doanh nghiệp nắm được.
1.7. Các doanh nghiệp liên doanh cần phải xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn của đơn vị mình.
Trên cơ sở định hướng của ngành mỗi doanh nghiệp nhà nước cần xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn có những mục tiêu cụ thể, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển hàng năm để đạt được các mục tiêu đề ra bằng cách tập trung vào việc đổi mới công nghệ, tăng cường năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh để đáp ứng đòi hỏi của thị trường trong nước và xuất khẩu trong các năm tới. Từ kế hoạch trên các doanh nghiệp sẽ xác định mỗi mặt mạnh, mặt yếu của đơn vị mình và đề ra các dự án cần triển khai gồm các dự án đầu tư chiều sâu, các dự án mới. Trong các dự án này cần cân nhắc các dự án mà doanh nghiệp đầu tư và dự án nào cần hợp tác liên doanh với nước ngoài. Riêng các dự án liên doanh với nước ngoài cần xác định các mục tiêu cụ thể sẽ đạt được và dự kiến được đối tác nước ngoài là những công ty và quốc gia nào.
Kế hoạch phát triển dài hạn cần căn cứ vào yêu cầu thị trường để xem xét điều chỉnh khi cần thiết, từ đó để chuẩn xác tiến độ triển khai cũng như phương thức thực hiện các dự án đầu tư đã dự kiến trứơc đây.
Đối với các dự án liên doanh với nước ngoài các doanh nghiệp cần:
+ Rà soát các liên doanh đã có để nắm lại quá trình đầu tư cũng như sản xuất kinh doanh của từng liên doanh. Trên cơ sở đó xác định liên doanh cần củng cố để phát triển và liên doanh nào không cần thiết cho doanh nghiệp để có biện pháp xử lý giải thể trước thời hạn hoặc chuyển nhượng cho đối tác khác.
+ Tiếp tục đề xuất các dự án liên doanh mới: Việc triển khai các dự án mới nhất thiết phải phân tích kỹ nhu cầu thị trường, khảo sát kỹ và dựa trên các số liệu tin cậy. Quá trình chuẩn bị dự án cần đặc biệt chú ý việc bồi dưỡng và bố trí lực lượng cán bộ thích hợp, có trình độ kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ, ngoại thương, luật pháp,....cử cán bộ tham gia dự án ngay từ khi hình thành dự án và sau này ở khâu quản lý dự án.
2. Đối với các nguyên nhân khách quan
- Các ngành, các địa phương nên phải có các bộ phận chuyên nghiên cứu phát triển kinh tế khu vực và thế giới ảnh hưởng đến lĩnh vực, địa phương của mình để có đối sách và những chương trình phát triển phù hợp chẳng hạn tham gia xây dựng các danh mục ưu tiên và loaị trừ để cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài ,giảm miễn thuế và các ưu tiên khác ... và lộ trình diễn biến của các điều kiện danh mục đó ...để đến lúc cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ và kinh tế khu vực phục hồi thì ta vẫn nằm trong khối các nước hấp dẫn đầu tư nước ngoài trong khi đó các đơn vị thuộc bộ xây dựng vẫn tìm được các đối tác hợp lý cho liên doanh.
- Vận dụng thích hợp chính sách bảo hộ mậu dịch và không nên coi bảo hộ mậu dịch là chính sách lâu dài trong môi trường hội nhập quốc tế ,nhưng cũng không nên tự do hoá hoàn toàn qúa sớm khi mà hàng hoá cúa các doanh nghiệp liên doanh sản xuất ra chưa đủ sức cạnh tranh vói hàng nhập khẩu từ bên ngoài .Tuy nhiên rtong giai đoạn chuẩn bị hội nhập chúng ta nên triệt để vận dụng chính sách bảo hộ mậu dịch nhưng không nên coi là biện pháp lâu dài vì nếu như vậy thì tự mình không xây dựng được khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường .Mà có cạnh tranh thì mới phát triển .
- Hoà mình cùng xu thế chung của toàn thế giới nhưng chú ý rằng hoà nhập chứ không “hoà tan”.
- Cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Bộ kế hoạch và đầu tư là đầu mối với các Bộ chuyên ngành. Hớn nữa cần phải có quy định bắt buộc của Bộ kế hoạch và đầu tư về thời hạn các liên doanh đồng thời phải ban hành “bản quy chế hoạt động công ty liên doanh” mà nội dung bản quy chế này đã được đề cập ở trên.
Việc điều chỉnh giấy phép đầu tư là cần thiết ở nhiều liên doanh do nhiều nguyên nhân: Thay đổi đối tác liên doanh, thay đổi địa điểm liên doanh, thay đổi vốn ngay trong quá trình đầu tư hoặc để phát triển sản xuất... Thực tế đã xảy ra việc điều chỉnh giấy phép đầu tư chỉ căn cứ vào đề nghị của công ty liên doanh mà không biết phía Việt Nam trong liên doanh có ý kiến ra sao và cũng không có ý nghĩa của Bộ quản lý ngành. Những việc này phải được khắc phục để tránh những phát sinh mâu thuẫn giữa hai bên tham gia liên doanh, do vậy phía nước ngoài không có cơ sở để lấn lướt bên Việt Nam và thao túng hoạt động của liên doanh.
Theo quy định hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam không được dùng vốn vay Ngân hàng để góp liên doanh do vậy tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam thường rất thấp. Việc bảo lãnh các khoản vốn vay theo tỷ lệ vốn góp của bên Việt Nam với các khoản vay do bên nước ngoài thu xếp với các điều kiện được ngân hàng chấp thuận cũng gặp nhiều khó khăn về tài sản thế chấp của doanh nghiệp Việt Nam. Nguồn vốn góp và việc bảo lãnh là khó khăn chưa có lời giải chung của các doanh nghiệp Việt Nam khi liên doanh.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 về một số biện pháp khuyến khích và hoạt động FDI tại Việt Nam sau khiđã có Nghị định 12-CP ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Để khắc phục hậu quả giảm sút vốn liên doanh với nước ngoài do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Tuy nhiên vẫn có nhiều khó khăn mà liên doanh gặp phải chưa được giải quyết. Vì vậy Bộ kế hoạch và đầu tư nên tiếp tục thường xuyên tổng hợp ý kiến của các liên doanh để trình Chính phủ giải quyết. Đồng thời Bộ xây dựng cần phải kết hợp chặt chẽ với Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ khoa học công nghệ môi trường...để ra các quyết định đúng đắn xác thực đảm bảo thu hút nguồn vốn vào liên doanh và có hiệu quả cao.
3. Đối với các nguyên nhân khác
* Thứ nhất: không nên cho phép thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và tư vấn xây dựng. Ngoài những quy định chung của nhà nước thì phía đối tác nước ngoài trong liên doanh phải đăng ký các chuyên gia hoạt động tại Việt Nam theo pháp luật. Bộ xây dựng và các cơ quan Bộ ban ngành có liên quan nên cử chuyên gia hoặc sử dụng các biện pháp để tìm hiểu kỹ về đối tác liên doanh của mình thông qua lĩnh vực mà họ hoạt động hoặc các công ty mẹ ở nước chủ nhà và các nước hay trụ sở trên thế giới, mặt khác nên quy định ràng buộc về khả năng tài chính, uy tín của đối tác nước ngoài trươc skhi tham gia liên doanh với ta nhưng tránh trường hợp qua khắt khe mà đôi khi lại bỏ qua các đối tác lớn.
- Nên quản lý chặt chẽ các liên doanh với nước ngoài về hoạt động xây dựng và tư vấn xây dựng. Trường hợp xét đủ điều kiện về vốn và năng lực thì mới cho phép thành lậpc ác liên doanh, nhưng phải tuân thủ điều kiện nhằm bảo đảm hiệu quả trong kinh doanh và thuận lợi về mặt đào tạo và chuyển giao công nghệ cho phía Việt Nam. Tỷ lệ góp vốn của các đối tác nước ngoài không nên cho vượt quá 70% vốn pháp định.
- Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sẽ trở thành pháp nhân Việt Nam cho nên các quy định về thành lập và hoạt động của họ cũng phải tuân thủ một số điều kiện bắt buộc như quy định đối với doanh nghiệp trong nước: Phải góp đủ vốn theo tiến độ nêu trong dự án khi xin phép thành lập, phải kê khai năng lực và lập hồ sơ đăng ký để được cấp chứng chỉ nanưg lực hoạt động theo đúng năng lực thực tế của mình. Các DNLD được quyền nhận thầu các công trình có vốn đầu tư trong nước để mở rộng thị trường, đảm bảo khả năng tồn tạiv à cạnh tranh nhất là trong điều kiện các công trình có vốn đầu tư nước ngoài bị thu hẹp.
- Số lượng cán bộ chuyên môn kỹ thuật của đối tác nước ngoài trong các liên doanh dịch vụ xây dựng và tư vấn xây dựng không nên vượt quá 30% tổng số cán bộ chuyên môn kỹ thuật của liên doanh đó.
- Chỉ có sự hoàn thiện về các điều kiện pháp lý nêu trên thì mới có thể bảo đảm sự ổn định thị trường trong nước, sự phát triển vững chắc của lực lượng xây dựng Việt Nam, nhằm tăng cường năng lực và khả năng cạnh tranh của các DNLD sản xuất về lĩnh vực xây dựng trên thị trường xây dựng quốc tế.
- Cần xây dựng một “sân chơi” bình đẳng cho tất cả các liên doanh trong cùng với các doanh nghiệp trong nước. Các chế độ quản lý kế toán thị trường....cần phải thống nhất có như vậy mới đánh giá khách quan toàn diện các hoạt động của công ty. Nói như vậy nghĩa là các luật, các qui định, chế độ của Việt Nam, phải cần cải tiến sao cho phù hợp và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế trong thời kỳ mới phù hợp với thông lệ quốc tế được các nhà đầu tư nước ngoài chấp nhận.
- Cần tăng cường vai trò trách nhiệm của cán bộ được cử và liên doanh bằng các qui chế quản lý, chế độ thông tin báo cáo từ dưới lên trên, lên tổng công ty và chỉ đạo từ tổng công ty xuống bằng cơ chế trả lương....
- Để giảm suất đầu tư các bên liên doanh, đặc biệt là cần đấu tranh để tiết kiệm mọi chi phí trong quá trình xây dựng nhà máy và các chi phí khác trong quá trình sản xuất kinh doanh của DNLD
- Bộ xây dựng và các Bộ ngành có liên quan nên xem xét và cho ý kiến để các doanh nghiệp phía Việt Nam tham gia liên doanh thực hiện nghiên cứu dự báo thị trường để xác định thị phần của dự án một cách xác thực, xác định các sản phẩm cần thiết sản xuất để từ đó xác định công suất thiết kế dự án liên doanh, thực hiện quá trình đầu tư tránh dàn trải, tránh tình trạng một số sản phẩm thừa lãng phí còn một số lại thiếu hụt và như vậy sẽ ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận ròng của dự án sẽ dẫn đến thua lỗ. Chính vì vậy mà phải nên liên doanh đúng lĩnh vực, đúng ngành nghề mà thị trường đang cần và sẽ cần sản phẩm của nó.
- Nên mời hoặc thuê các chuyên gia kỹ thuật để xem xét đối tác liên doanh xem họ có thực sự có năng lực về lĩnh vực xây dựng, sản xuất nguyên vật liệu xây dựng, tư vấn xây dựng... hay không. Để từ đó quyết định lựa chọn đối tác nước ngoài cho phù hợp.
* Thứ hai: Để giải quyết những vướng mắc với nhà đầu tư nước ngoài thì cần có một số điều kiện và giải pháp sau.
- Các doanh nghiệp liên doanh cần kiến nghị tổng cục hải quan rà soát lại các qui định hiện hành, cải tiến các thủ tục theo hướng tạo điều kiện giải phóng nhanh chóng, tăng cường thanh tra, quản lý hoạt động của các hải quan cửa khẩu, siết chặt kỷ luật, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm của nhân viên hải quan.
- Thể chế hoá các qui định pháp lý, kinh tế, đầu tư sang hình thức luật: tuy khung luật pháp về FDI đã khá đầy đủ nhưng để hoàn chỉnh nước ta cần chuyển đổi những qui định bằng các văn bản dưới luật sang hình thức luật để có giá trị pháp lý cao hơn nhất là đối với qui chế khu công nghiệp tập trung, qui chế xây dựng đô thị. Việc thể chế hoá sẽ đem lại niềm tin cho các nhà đầu tư về việc đỡ phải đối phó với việc thay đổi điều chỉnh quá nhiều về pháp lý kinh tế, đầu tư và trong điều kiện có thay đổi thì họ có thể yên tâm về bồi thường thiệt hại về những thay đổi qui định trong luật.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế: việc hoàn thiện hệ thống thuế một cách có hệ thống đặc biệt là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và hợp tác thuế quan với các nước ASEAN. Mở rộng hệ thống hiệp định thuế quan song phương, theo dõi và thực hiện tốt các hiệp định đã ký là phương thức tốt nhất để thúc đẩy hoạt động liên doanh với nước ngoài của Bộ xây dựng.
- Cương quyết xử phạt các hoạt động trốn thuế: DNLD có nhiều cơ hội để thực hiện thủ đoạn trốn thuế như : nâng giá tài sản góp vốn, nâng giá nguyên vật liệu để giảm tích luỹ, giảm thuế lợi tức, hạ giá bán sản phẩm, đặc biệt giá bán nội bộ công ty đa quốc gia bán nguyên vật liệu đã được miễn thuế nhập khẩu ra thị trường nội địa trốn thuế, chuyển lợi nhuận về nước dưới dạng xuất khẩu sản phẩm để trốn thuế lợi nhuận hoặc chuyển đối tác mà thực chất là bán cổ phân. Các hoạt động kinh doanh như ủy thác mua bán của các văn phòng đại diện, các loại dịch vụ của các tổ chức nước ngoài không theo luật đầu tư nước ngoài dễ bị thất thu thuế. Không kê khai thu nhập để trốn thuế thu nhập, nhât là đối vơi các văn phòng đại diện, các DNLD hạch toán chi phí cao mà cán bộ chuyên quản chưa kiểm soát được. Quyết toán các chi phí cao bất hợp lý cũng thường xảy ra để giảm lợi tức chịu thuế cần phải được thu hồi cho ngân sách.
- Qui định cụ thể và hạn chế miễn thuế nhập khẩu thiết bị vật tư: nên có các khoản khuyến khích sử dụng vật tư nguyên liệu và cả thiết bị sản xuất trong nước, các thiết bị kỹ thuật cao mới phải nhập khẩu và tiêu chuẩn công nghệ, máy móc, tình trạng sử dụng phải đựơc kiểm tra của các tổ chức tư vấn phải được kiểm tra chuyên ngành. Còn các thiết bị khác khuyến khích sử dụng trong nước để kích thích công nghiệp nặng, cơ khí chế tạo là mục tiêu công nghiệp hoá phải đi qua.
- Cải cách thủ tục hành chính, hình thành cơ chế chính sách đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng, hỗ trợ và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thu hút vốn FDI
- Cải cách thủ tục cấp giấy phép sử dụng đất cho các DNLD có chính sách đền bù thoả đáng để tránh tình trạng làm mất nhiều thời gian mất cơ hội đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
- Hoàn thiện thủ tục tuyển dụng lao động vào các doanh nghiệp liên doanh, chế độ trả lương cho công nhân một cách đồng bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Cụ thể hoá về giá cả của các nguyên liệu sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các DNLD như giá điện, giá nước... đúng tiến độ đáp ứng được nhu cầu sử dụng.
- Xem xét xử lý và hoàn thiện công tác kiểm tra hoạt động của DNLD
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0042.doc