chương 1
những vấn đề về tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm của doanh nghiệp
1.1. Những vấn đề chung về tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá
1.1.1. Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và DTTT sản phẩm, hàng hoá
Một chế độ xã hội muốn tồn tại và phát triển phải tiến hành nền sản xuất xã hội. Chỉ có phát triển sản xuất mới có thể tạo ra nhiều sản phẩm để đáp ứng tốt hơn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Các Mác đã nói: "Một xã hội không thể không s
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Định hướng phát triển và các biện pháp thúc đẩy Tiêu thụ sản phẩm & tăng doanh thu tiêu thụ tại Công ty Vật tư - Vận tải - Xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản xuất nữa, cũng không thể thôi không tiêu dùng nữa".
Có thể nói, mục đích cao nhất của sản xuất chính là thoả mãn các yêu cầu tiêu dùng khác nhau của con người. Để thoả mãn các yêu cầu tiêu dùng của khách hàng, các doanh nghiệp phải tiến hành sản xuất các sản phẩm mà thị trường mong đợi. Tuy nhiên, để sản phẩm đến được tay người tiêu dùng thì doanh nghiệp phải tiến hành một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau tạo thành một chu kỳ SXKD, từ việc doanh nghiệp bỏ tiền ra mua tư liệu sản xuất, trả lương cho người lao động, đến việc tổ chức quá trình sản xuất, sản phẩm và cuối cùng là đem sản phẩm đi tiêu thụ, thu tiền hàng về, và chu kỳ này không chỉ diễn ra một lần mà được lặp đi lặp lại nhiều lần tạo thành một vòng tuần hoàn và chu chuyển tư bản.
Chu kỳ SXKD của doanh nghiệp có thể được mô tả qua mô hình sau:
TLLĐ
SLĐ
T H .... SX ... HÂ TÂ
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là khâu cuối cùng của chu kỳ SXKD, thực hiện sự chuyển hoá từ hàng sang tiền, hoàn thành một chu kỳ vận động của tư bản, là khâu quan trọng nhất của một chu kỳ SXKD.
Tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá là quá trình doanh nghiệp xuất giao sản phẩm, hàng hoá cho đơn vị mua và thu được một khoản tiền, hoặc được đơn vị mua chấp nhận thanh toán về số sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ đó.
Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chỉ được xem là hoàn thành khi thực hiện được cả hai hành vi:
- Doanh nghiệp xuất giao hàng cho đơn vị mua.
- Đơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc có giấy chấp nhận thanh toán tiền hàng.
Cả hai hành vi này đều giữ một vai trò quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Nếu như hành vi doanh nghiệp xuất giao hàng cho đơn vị mua là điều kiện tiền đề, quan trọng thì hành vi đơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng hoặc có giấy chấp nhận thanh tiền hàng là điều kiện quyết định việc hàng hoá có được tiêu thụ không. Nếu như hàng hoá được bán đi nhưng không được đơn vị mua chấp nhận thanh toán thì số hàng hoá đó chưa được coi là tiêu thụ bởi vì bên mua có thể trả lại hàng do không đáp ứng được yêu cầu mà họ đặt ra. Do vậy, việc thực hiện đầy đủ hai hành vi này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định thời điểm tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá.
Hai hành vi trên có thể khác nhau về không gian, thời gian và tiền hàng thu được. Trên thực tế, việc mua bán hàng hoá giữa doanh nghiệp với khách hàng được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Do vậy, việc xác định thời điểm được coi là tiêu thụ hoàn thành cũng khác nhau. Thông thường được chia thành một số trường hợp sau:
Trường hợp xuất giao và thanh toán diễn ra đồng thời (tiêu thụ trực tiếp): Khi doanh nghiệp xuất giao sản phẩm hàng hoá cho khách hàng thì đồng thời doanh nghiệp cũng doanh nghiệp cũng nhận được tiền hàng do đơn vị mua thanh toán. Đây là hình thức tiêu thụ sản phẩm nhanh gọn, thuận tiện cho công tác hạch toán của doanh nghiệp, nhưng chỉ thích hợp với lượng hàng không lớn, khách hàng chưa quen, không thường xuyên.
Trường hợp doanh nghiệp xuất giao hàng cho khách hàng, số hàng đó được chấp nhận thanh toán nhưng khách hàng chưa trả tiền ngay (bán chịu): Trường hợp này hàng hoá của doanh nghiệp vẫn được coi là đã tiêu thụ. Hình thức này thường được áp dụng đối với những khách hàng quen thuộc, khách hàng mua nhiều. Đây là hình thức có nhiều ưu điểm, đó là khuyến khích khách hàng mua hàng của doanh nghiệp, tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của nó đó là gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp giao hàng nhưng chưa thu được tiền (ngoài hai trường hợp trên) thì phải căn cứ vào thời điểm thanh toán tiền hàng của bên mua, tức là khi doanh nghiệp thu được tiền hoặc tiền được chuyển vào tài khoản TGNH, thời điểm đó sản phẩm mới được coi là đã tiêu thụ.
ã Một số trường hợp khác:
+ Khách hàng ứng trước tiền mua hàng: Khi doanh nghiệp tiến hành giao hàng hoá thì thời điểm đó được coi là tiêu thụ hoàn thành. Đây là trường hợp có lợi cho doanh nghiệp do được chủ động trong khâu thanh toán nói riêng và khâu tiêu thụ nói chung. Tuy nhiên, để người mua ứng trước tiền hàng thì sản phẩm của doanh nghiệp phải thực sự có uy tín, và doanh nghiệp phải đảm bảo tôn trọng Hợp đồng tiêu thụ đã ký kết.
+ Gửi hàng đi bán: Doanh nghiệp gửi hàng đi bán, khi nào doanh nghiệp thu được tiền hàng hoặc hết hạn thanh toán doanh nghiệp chưa được thanh toán nhưng đã có giấy chấp nhận thanh toán thì lúc đó hàng hoá mà doanh nghiệp gửi đi được xem là đã tiêu thụ. Đây là hình thức tiêu thụ bất lợi đối với doanh nghiệp, gây khó khăn cho công tác thanh toán. áp dụng hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác thanh toán và có sự theo dõ chặt chẽ tình hình thực hiện thanh toán tiền hàng của khách hàng đối với doanh nghiệp.
+ Trường hợp khách hàng và doanh nghiệp thực hiện thanh toán theo kế hoạch: Khi khách hàng nhận được hàng thì hàng được xác định là đã tiêu thụ. Hình thức này có thủ tục tương đối nhanh gọn, khối lượng không hạn chế, áp dụng đối với những khách hàng có quan hệ mua bán lâu dài, thường xuyên, hợp đồng tiêu thụ được ký kết chặt chẽ.
Việc xác định thời điểm tiêu thụ một cách đúng đắn là rất quan trọng. Nó giúp doanh nghiệp nhìn nhận đúng thực trạng tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá của mình, từ đó giúp người quản lý điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ. Mặt khác, việc xác định đúng thời điểm tiêu thụ còn giúp doanh nghiệp đánh giá được tình hình sử dụng vật tư, tiền vốn trong SXKD, đánh giá được kết quả sản xuất về sản lượng tiêu thụ, DTTT và nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước.
Trong thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp, các doanh nghiệp tiến hành SXKD theo những chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước và được Nhà nước quy định chỉ tiêu sản xuất, giá cả và ngay cả địa chỉ tiêu thụ, mọi sản phẩm sản xuất ra đều được tiêu thụ, mọi khoản lỗ đều được Nhà nước bù lỗ. Chính vì vậy, trong thời kỳ này hoạt động SXKD của doanh nghiệp mang tính chất thụ động, công tác tiêu thụ không được các nhà quản lý quan tâm mà vấn đề tiêu thụ chỉ đơn thuần là cung cấp sản phẩm đến các địa chỉ và theo giá cả Nhà nước quy định.
Ngày nay, kinh tế thị trường với sự phát triển đa dạng của các ngành nghề và sự cạnh tranh quyết liệt, các doanh nghiệp được tự chủ về tài chính và tự hạch toán kinh doanh, chủ động tìm các hướng đi mới để tự thích nghi và chiến thắng trong cạnh tranh. Khi xã hội càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng càng cao thì sự đòi hỏi của thị trường về sản phẩm càng khắt khe, nó chỉ chấp nhận những sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Do vậy, trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp không chỉ phải thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất sản phẩm mà còn phải tích cực tìm kiếm thị trường để tiêu thụ sản phẩm, tìm đối tác đầu tư, liên doanh, liên kết để mở rộng thị trường tiêu thụ, đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển bền vững.
1.1.2. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm :
Khi các sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ có được một khoản tiền thu về việc bán các sản phẩm, hàng hoá đó hay còn gọi là DTTT sản phẩm.
Như vậy DTTT sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ là toàn bộ số tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ như: giảm giá hàng bán, trị giá hàng mua bị trả lại (nếu có các chứng từ hợp lệ) và được khách hàng chấp nhận thanh toán (không phân biệt đã thu hay chưa thu tiền).
DTTT sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp còn bao gồm:
+ Các khoản trợ giá, phụ thu theo quy định của Nhà nước cho doanh nghiệp đối với những hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp tiêu thụ trong kỳ được Nhà nước cho phép.
+ Giá trị các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đem biếu tặng hoặc tiêu dùng nội bộ như việc xuất dùng xi măng để xây dựng, sửa chữa ở xí nghiệp sản xuất xi măng; xuất vải thành phẩm để may bảo hộ lao động ở xí nghiệp dệt...
Các khoản giảm trừ doanh thu khi tính DTTT sản phẩm bao gồm:
Giảm giá hàng bán: phản ánh khoản giảm trừ do việc chấp thuận giảm giá ngoài hoá đơn (tức là sau khi đã có hoá đơn bán hàng), đó là số tiền mà doanh nghiệp chấp thuận giảm giá cho khách hàng do các nguyên nhân như: hàng kém phẩm chất, hàng không đúng quy cách..
Trị giá hàng bán bị trả lại: phản ánh doanh thu của số hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do không phù hợp với nhu cầu của người mua, do vi phạm HĐKT, hàng kém phẩm chất, không đúng chủng loại, quy cách.
Thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất nhập khẩu phải nộp.
DTTT sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đốii với mỗi doanh nghiệp, quy mô của DTTT ảnh hưởng đến tình hình tài chính của mỗi doanh nghiệp, nó là biểu hiện của kết quả tiêu thụ sản phẩm, phản ánh quy mô tái sản xuất. Đồng thời, thông qua DTTT sản phẩm để thấy được trình độ tổ chức SXKD, tổ chức thanh toán của doanh nghiệp. Chính vì vậy, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm luôn là mục tiêu mà các doanh nghiệp hướng tới.
1.1.3. ý nghiã của tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, nhiệm vụ của một doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất nói riêng không chỉ có nhiệm vụ sản xuất mà còn phải tổ chức tiêu thụ sản phẩm đó. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải đảm bảo về vốn và tự chủ trong SXKD. Với điều kiện đó, việc thực hiện tốt tiêu thụ sản phẩm, có được DTTT sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa to lớn đối với xã hội.
Đối với doanh nghiệp, vấn đề tiêu thụ sản phẩm và có được doanh thu có ý nghĩa rất lớn, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
- Khi thực hiện hoàn thành tiêu thụ sản phẩm chứng tỏ sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra được thị trường chấp nhận về số lượng, chủng loại, quy cách, mẫu mã và giá cả. Đây là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng. Nếu sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp cả về vốn và chi phí, đó là tình trạng ứ đọng vốn do lượng tồn kho lớn và chi phí bảo quản lớn, làm hiệu quả sử dụng vốn giảm. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ là một cản trở lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp, sản xuất bị ngừng trệ, thậm chí có thể dẫn đến nguy cơ phá sản.
- Bên cạnh đó, sản phẩm tiêu thụ được nghĩa là doanh nghiệp sẽ thu được một khoản tiền đó là DTTT. Đây là nguồn quan trọng để thực hiện phân phối tài chính trong doanh nghiệp. Chỉ khi có DTTT doanh nghiệp mới có thể trang trải được các khoản chi phí, thu hồi số vốn đã ứng ra để tiến hành SXKD, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước và có được DTTT cũng là điều kiện để có được lợi nhuận mong muốn, từ đó tạo điều kiện để doanh nghiệp tiến hành trích lập đầy đủ các quỹ, tăng quy mô vốn chủ sở hữu, tăng cường đầu tư chiều sâu, mở rộng quy mô SXKD...
- Ngoài ra, thực hiện được tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng và đầy đủ sẽ góp phần thúc đẩy tăng tốc độ chu chuyển vốn lưu động, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tạo điều kiện cho quá trình sản xuấtt tiếp theo. Tình hình thực hiện chỉ tiêu DTTT có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Khi sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra không tiêu thụ được nghĩa là không có DTTT trong kỳ sẽ khiến cho doanh nghiệp không thu hồi được vốn, khả năng thanh toán yếu và khả năng cạnh tranh trên thị trường sẽ bị giảm sút.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, tiêu thụ sản phẩm và thực hiện DTTT sản phẩm cũng có ý nghĩa to lớn với toàn bộ nền kinh tế. Trước hết, thông qua việc tiêu thụ sản phẩm sẽ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, giữ vững được quan hệ cân đối giữa cung và cầu về sản phẩm, hàng hoá, giữa tiền và hàng. Đồng thời, thông qua tình hình tiêu thụ có thể đánh giá được nhu cầu và trình độ phát triển của xã hội, dự đoán được nhu cầu trong tương lai để từ đó có chính sách phù hợp đảm bảo sự cân đối trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Và điều quan trọng là thực hiện được tiêu thụ sản phẩm sẽ tạo được doanh thu và là điều kiện để thực hiện lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp, đó cũng là điều kiện tạo nên sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá.
Tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá là khâu quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doang của mỗi doanh nghiệp, nó đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Song đây cũng là một hoạt động phức tạp, chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Đó là:
1.1.4.1. Các nhân tố chủ quan:
ã Khối lượng sản phẩm, hàng hoá đưa ra tiêu thụ:
Khối lượng sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ là một trong những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp và mang tính quyết định đối với công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nó phản ánh trực tiếp kết quả tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm hàng hoá càng nhiều thì khả năng thu được doanh thu càng lớn, song để biến khả năng đó thành hiện thực thì khối lượng hàng hoá đó phải phù hợp với nhu cầu thị trường và được thị trường chấp nhận. Nếu khối lượng sản phẩm đưa ra quá lớn, vượt qua nhu cầu thị trường thì dù sản phẩm đó có chất lượng tốt, giá cả hợp lý và hình thức hấp dẫn người tiêu dùng trong khi sức mua có hạn thì cũng không thể tiêu thụ được. Ngược lại, nếu khối lượng sản phẩm hàng hoá đưa ra quá nhỏ so với nhu cầu thị trường thì nó sẽ hạn chế việc tăng doanh thu, bên cạnh đó nó còn có thể dẫn đến việc doanh nghiệp mất một bộ phận khách hàng do không đáp ứng được nhu cầu, họ tìm đến sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác trên thị trường. Vì vậy trong công tác tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần phải đánh giá chính xác nhu cầu thị trường và năng lực của mình để đưa ra được một khối lượng sản phẩm phù hợp nhất đảm bảo tốt cho công tác tiêu thụ.
ã Chất lượng sản phẩm, hàng hoá
Trong cơ chế cạnh tranh hiện nay, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Đây là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ và gía bán sản phẩm, chính vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến DTTT.
Có thể thấy, chất lượng sản phẩm tốt sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao giá một cách hợp lý mà vẫn thu hút được khách hàng, góp phần phát triển và mở rộng được khả năng tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Mặc dù gía thấp sẽ kích thích được khả năng tiêu thụ, nhưng thực tế cho thấy khách hàng sẽ chọn sản phẩm có giá bán cao hơn một chút nếu chất lượng đảm bảo. Vấn đề quan trọng là doanh nghiệp sẽ nâng giá bán đến mức nào là hợp lý, nếu như tăng quá cao vượt quá khả năng thanh toán của khách hàng sẽ lại là một trở ngại cho việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá không tiêu thụ được.
Ngoài ra ta còn thấy, nếu chất lượng sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp cao sẽ tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm dễ dàng, nhanh chóng thu được tiền hàng, đồng thời cũng tạo được ấn tượng tốt về nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp, từ đó tạo được uy tín cho doanh nghiệp, kích thích người tiêu dùng và tăng được số lượng sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ, đảm bảo tăng doanh thu. Nếu sản phẩm hàng hoá kém chất lượng sẽ gây ra những khó khăn trong công tác tiêu thụ, không chỉ đối với việc thực hiện khối lượng tiêu thụ mà còn gây ra những trở ngại trong công tác thanh toán, có thể sẽ dẫn đến trường hợp phải giảm giá bán khối lượng sản phẩm đó, làm giảm DTTT.
Nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm đối với tiêu thụ sản phẩm và DTTT sản phẩm, doanh nghiệp cần tổ chức quá trình sản xuất gắn liền với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc đầu tư cải tạo máy móc thiết bị sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề công nhân, đồng thời làm tốt công tác kiểm tra chất lượng hàng hoá khi nhập, xuất kho...
ã Giá cả sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ
Đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Theo Mác, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, giá cả xoay quanh giá trị hàng hoá. Nếu như trong cơ chế trước đây, giá cả là một chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước giao cho các doanh nghiệp, nó không thực sự dựa vào quan hệ cung cầu trên thị trường, sự thoả thuận giữa người mua và người bán, thì trong cơ chế thị trường hiện nay, giá cả được hình thành một cách tự phát trên thị trường theo sự thoả thuận của người mua và người bán, doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động trong việc định giá sản phẩm, hàng hoá, có thể sử dụng giá cả như một vũ khí sắc bén để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, tăng DTTT cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải đưa ra được mức giá cả phù hợp với chất lượng sản phẩm, hàng hoá và được người tiêu dùng chấp nhận, có như vậy doanh nghiệp mới có thể dễ dàng tiêu thụ được các sản phẩm, hàng hoá của mình. Còn nếu doanh nghiệp định giá quá cao, vượt quá khả năng thanh toán của người tiêu dùng thì dù sản phẩm có chất lượng cao cũng sẽ không thể tiêu thụ được, sẽ làm giảm DTTT. Trường hợp nếu doanh nghiệp quản lý, tổ chức SXKD tốt, làm giá thành sản phẩm hạ, chất lượng vẫn được đảm bảo, doanh nghiệp có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn so với những sản phẩm khác trên thị trường, đây sẽ là một lợi thế cho doanh nghiệp để có thể thu hút được khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy, để bảo toàn và nâng cao được khả năng tiêu thụ doanh nghiệp cần có một chính sách giá cả hợp lý, linh hoạt theo từng đối tượng khách hàng, từng không gian, thời gian cụ thể.
Hiện nay có một số chính sách định giá cả sản phẩm, hàng hoá như sau:
Định giá theo thị trường: nghĩa là mức giá mà doanh nghiệp đưa ra đối với các sản phẩm, hàng hoá của mình xoay quanh mức giá của các sản phẩm, hàng hoá cùng loại đang lưa thông trên thị trường. Đây là một chính sách định giá được sử dụng khá phổ biến, nhất là đối với các sản phẩm khi được sản xuất ra đã có nhiều sản phẩm cùng loại trên thị trường. Do đó, trong chính sách này, để tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp cần tăng cường công tác tiếp thị, tổ chức, bố trí sản xuất hợp lý để giảm được chi phí kinh doanh, có như vậy doanh nghiệp mới thực hiện tiêu thụ được sản phẩm đồng thời mới có lãi.
Định giá thấp: nghĩa là mức giá cả mà doanh nghiệp đưa ra đối với sản phẩm, hàng hoá của mình thấp hơn mức giá thị trường của sản phẩm, hàng hoá đó. Chính sách này thường được áp dụng trong trường hợp sản phẩm mới thâm nhập thị trường,cần bán nhanh với số lượng lớn để cạnh tranh, hoặc để giả phóng hàng tồn kho, thu hồi vốn. Việc áp dụng chính sách này trước mắt có thể làm giảm doanh thu và lợi nhuận nhưng về lâu dài với biện pháp phù hợp doanh nghiệp sẽ có thể tăng mạnh được khả năng tiêu thụ và đảm bảo được doanh thu.
Định giá cao: theo chính sách này, mức giá mà doanh nghiệp đưa ra sẽ cao hơn mức giá hiện hành của các sản phẩm, hàng hoá cùng loại trên thị trường và cao hơn giá trị sản phẩm. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc tăng doanh thu, song điều đó chỉ được thực hiện khi chất lượng của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp đảm bảo được chất lượng cao, sản phẩm độc quyền, những mặt hàng cao cấp có chất lượng đặc biệt.
ổn định giá: không thay đổi giá cả theo quan hệ cung cầu trên thị trường mà luôn cố gắng ổn định về giá cả trong mọi thời kỳ. Cách này sẽ giúp doanh nghiệp thâm nhập, giữ vững và mở rộng thị trường, đảm bảo và tăng được DTTT.
ã Công tác tổ chức bán hàng, thanh toán của doanh nghiệp
Trong điều kiện hiện nay, khi cơ chế bao cấp và phân phối không còn nữa, doanh nghiệp phải thực sự lăn lộn để tìm kiếm thị trường tiêu thụ và người mua được đặt ở vị trí trung tâm, thì việc tổ chức công tác bán hàng một cách có hiệu quả sẽ là một điều kiện thuận lợi, có tác động thúc đẩy rất lớn đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp nếu biết áp dụng tổng hợp các hình thức bán buôn, bán lẻ, bán tại đại lý, bán tại kho, cửa hàng, bán tận tay cho khách hàng... thì sẽ tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn là nhiều doanh nghiệp đủ áp dụng đơn thuần một hoặc hai hình thức tiêu thụ. Thông thường hiện nay doanh nghiệp đang sử dụng mạng lưới đại lý hoặc các cửa hàng giới thiệu sản phẩm tạo ra năng nắm bắt thị trường và mở rộng thị trường.
Về trình độ và chất lượng phục vụ của đội ngũ nhân viên bán hàng:
Tâm lý của người tiêu dùng là luôn lựa chọn những cửa hàng, đại lý mà ở đó có nhân viên phục vụ chu đáo, thoải mái và có hiểu biết về sản phẩm mà họ cần. Chính vì vậy, việc đào tạo, lựa chọn một đội ngũ có trình độ, có tư cách phẩm chất tốt cũng là một yếu tố thúc đẩy được khối lượng sản phẩm và tăng được DTTT cho doanh nghiệp.
Về chất lượng của các hoạt động hỗ trợ và xúc tiến bán hàng:
Để thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu doanh nghiệp cần phải tiến hành một loạt các hoạt động hỗ trợ như: thông tin quảng cáo, tham gia hội trợ triển lãm, tổ chức hội nghị khách hàng, tổ chức các hoạt động sau bán hàng. Nếu thực hiện tốt các hoạt động này sẽ tạo được ấn tượng tốt đối với các khách hàng, họ sẽ tìm đến với sản phẩm của doanh nghiệp. Còn nếu các hoạt động này không được thực hiện hoặc thực hiện không tốt thì nó không chỉ không thúc đẩy được tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, tăng được DTTT sản phẩm mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp do chi phí của các hoạt động này khá cao.
Về mặt thanh toán:
Nếu doanh nghiệp áp dụng nhiều phương thức thanh toán khác nhau như: thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán bằng tiền chuyển khoản, thanh toán bằng séc, bằng uỷ nhiệm chi, thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán ngay, thanh toán chậm... sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc lựa chọn các phương tiện thanh toán, đáp ứng mọi điều kiện thanh toán của khách hàng. do đó có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp mình, từ đó tăng khả năng tiêu thụ và mở rộng được DTTT sản phẩm, hàng hoá. Ngược lại, nếu doanh nghiệp áp dụng đơn điệu một hoặc hai phương tiện thanh toán, điều đó chỉ phù hợp với một số khách hàng, không phù hợp với khả năng thanh toán của một số khách hàng khác từ đó sẽ hạn chế việc tiêu thụ và tăng DTTT sản phẩm, hàng hoá.
1.1.4.2. Các nhân tố khách quan
ã Thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá
Thị trường là một yếu tố rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp tham gia vào thị trường trên cả hai lĩnh vực: thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Đặc biệt với thị trường đầu ra, đó không chỉ là nơi tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp mà đó còn là nơi cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin quan trọng để hoạch định kế hoạch đầu tư sản xuất.
Như chúng ta đã biế,t thị trường được hình thành bởi ba yếu tố: cung, cầu và giá cả. Đối với yếu tố về cung và giá cả thì doanh nghiệp có thể chủ động dựa trên yếu tố về cầu và khả năng để quyết định. Riêng đối với yếu tố về cầu thì đây là một nhân tố khách quan mà doanh nghiệp khó kiểm soát được. Khi cầu của thị trường lớn tức là quy mô của thị trường lớn, khối lượng sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ sẽ cao. Tuy nhiên, bên cạnh quy mô thị trường, doanh nghiệp cần thiết phải xem xét về chất lượng thị trường, đó là những vấn đề về sự biến động của sức mua, khả năng thanh toán của khách hàng, khả năng xảy ra rủi ro...
Một thị trường có quy mô lớn, chất lượng thị trường tốt (sức mua ổn định, khả năng thanh toán tốt...) sẽ là một điều kiện rất thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm.
Vì vậy, trong công tác tiêu thụ sản phẩm, việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là rất quan trọng, làm tốt công tác nghiên cứu thi trường doanh nghiệp sẽ biết thị trường cần cái gì, cần bao nhiêu và nắm được thị trường nào là chủ yếu, thị trường nào là thứ yếu để phân phối khối lượngng sản phẩm một cách hợp lý, từ đó có thể tăng được khối lượng tiêu thụ, nâng cao doanh thu, đồng thời cân bằng được cung cầu trên thị trường. Ngược lại, không nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường sẽ dẫn đến những quyết định sai lệch trong kinh doanh, có thể dẫn đến thua lỗ và phá sản.
ã Đặc điểm SXKD của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp
Đặc điểm SXKD của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là DTTT.
Trong ngành công nghiệp, do tính chất sản phẩm đa dạng, nhiều chủng loại, dựa trên trình độ kỹ thuật tiên tiến, việc sản xuất ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và thời vụ, sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh hơn, thường xuyên hơn, do đó doanh thu cũng được thực hiện nhanh chóng và ổn định hơn.
Trong ngành xây dựng cơ bản, do đặc điểm của ngành là khâu đầu tiên của quá trình tái sản xuất mở rộng, đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra tài sản cố định của nền kinh tế, các doanh nghiệp xây lắp khi tiến hành thi công xây lắp cũng đồng thời là quá trình tiêu thụ sản phẩm. Thi công xây lắp là một loại hình sản xuất theo đơn đặt hàng, các sản phẩm xây lắp được sản xuất ra theo yêu cầu về giá trị sử dụng, về chất lượng đã thoả thuận giữa hai bên, cho nên tiêu thụ sản phẩm xây lắp tức là bàn giao công trình đac hoàn thành cho đơn vị giao thầu và nhận tiền về. Việc tiêu thụ sản phẩm chịu ảnh hưởng khách quan của chế độ thanh toán theo hạng mục công trình và khối lượng hoàn thành theo giai đoạn quy ước hoặc theo hạng mục công trình hoàn thàn, do đó DTTT sản phẩm cũng phụ thuộc vào thời gian và tiến độ hoàn thành các công trình.
Trong ngành nông nghiệp, do đặc điểm sản xuất mang tính chất thời vụ, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên cho nên việc tiêu thụ sản phẩm cũng mang tính chất thời vụ, DTTT tăng chủ yếu vào mùa thu hoạch.
Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, do có đặc điểm kinh doanh nhiều mặt hàng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ việc sản xuất của các ngành sản xuất đến nhu cầu và quyết định của người tiêu dùng nên doanh thu thường được tổng hợp từ nhiều mặt hàng và phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố trên.
ã Tập quán, thói quen tiêu dùng và nguồn gốc xuất xứ của các sản phẩm, hàng hoá
Mỗi một khu vực, một nhóm khách hàng đều có một tập quán, thói quen tiêu dùng các chủng loại hàng hoá khác nhau, trong từng giai đoạn khác nhau. Do đó, việc hiểu rõ tập quán, thói quen của người tiêu dùng là rất quan trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nếu sản phẩm sản xuất ra phù hợp với tập quán, thói quen tiêu dùng của các khách hàng ở một thị trường nào đó thì chắc chắn việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá đó rất dễ dàng trên thị trường này.
Bên cạnh đó, nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá cũng tác động rất lớn đến thói quen tiêu dùng của khách hàng. Người tiêu dùng đã có ý thích và tin tưởng vào một hãng nào đó thì họ sẽ luôn luôn sử dụng các sản phẩm của hãng đó, hơn nữa, sự ảnh hưởng của người tiêu dùng này đến người tiêu dùng khác là rất lớn, do đó khi họ đã tôn sùng sản phẩm của một hãng nào đó thì họ sẽ làm cho nhiều người mua theo. Chính điều này đã tạo nên uy tín cho doanh nghiệp, tăng được khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT cho doanh nghiệp.
ã Mức thu nhập của người tiêu dùng
Mức thu nhập có ảnh hưởng quyết định đến khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Khi, mức thu nhập của người tiêu dùng tăng lên chứng tỏ khả năng thanh toán của họ cũng tăng lên, họ sẽ có điều kiện mua sắm sản phẩm hàng hoá để thoả mãn nhu cầu của mình, do đó khối lượng sản phẩm, hàng hoá có thể tiêu thụ sẽ tăng lên, sẽ tăng được DTTT. Ngược lại, khi thu nhập của người tiêu dùng giảm sút, khả năng thanh toán yếu sẽ làm hạn chế lớn đến khối lượng sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ, làm giảm DTTT.
Mặt khác, khi thu nhập tăng cao thì nhu cầu của người tiêu dùng về các mặt hàng cao cấp thường tăng theo do vậy sự thay đổi của mức thu nhập không chỉ ảnh hưởng đến khối lượng, giá bán mà còn ảnh hưởng đến kết cấu sản phẩm tiêu thụ từ đó làm ảnh hưởng lớn đến DTTT.
ã Khả năng thay thế của sản phẩm hàng hoá trên thị trường
Mỗi loại sản phẩm, hàng hoá có tính năng, tác dụng khác nhau, song xét trên toàn thị trường thì lại có vô số chủng loại hàng hoá nhằm đáp ứng những nhu cầu và thị hiếu củangười tiêu dùng. Do vậy, nếu doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm độc đáo, gần như không có các sản phẩm, hàng hoá khác có thể thay thế trên thị trườngthì khả năng thâm nhập vào thị trường càng lớn, thị phần sẽ ổn định và tạo điều kiện từng bước mở rộng thị trường, phát triển doanh thu cho doanh nghiệp.
Ngược lại, nếu sản phẩm, hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp ra thị trường đã có rất nhiều chủng loại khác nhau, hoặc có nhiều mặt hàng thay thế thì sẽ có khó khăn cho doanh nghiêp trong công tác tiêu thụ. Tuy nhiên trong trường hợp này nếu doanh nghiệp biết tổ chức tốt quá trình sản xuất, tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng giá thông qua việc hạ giá thành sản phẩm, hàng hoá, nâng cao được chất lượng sản phẩm, tạo ra tính ưu việt hơn các sản phẩm khác thì doanh nghiệp lại có thể tiêu thụ được một khối lượng lớn sản phẩm, hàng hoá, góp phần tăng DTTT. Do vậy rất cần thiết phải tìm hiểu thị trường và có đối sách phù hợp.
ã Chính sách, cơ chế của Nhà nước
Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và DTTT sản phẩm của doanh nghiệp.
Tuỳ theo mục đích quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân, trong mỗi thời kỳ khác nhau, Nhà nước có thể có những chính sách khuyến khích hoặc hạn chế tiêu dùng một loại sản phẩm, hàng hoá nào đó thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô như thuế, trợ giá... do đó sẽ ảnh hưởng lớn đến DTTT của nhóm hàng, ngành hàng đó. Chẳng hạn, với những sản phẩm hàng hoá là nhu cầu thứ yếu như lương thực, thực phẩm Nhà nước có chính sách bình ổn giá, trợ giá để đảm bảo doanh thu trong những lúc khó khăn. Hoặc trong một thời kỳ nào đó Nhà nước có chính sách khuyến khích hay hạn chế một hoặc một số mặt hàng cuả một ngành, lĩnh vực nào đó thì Nhà nước sử dụng việc trợ giá hoặc thuế khuyến khích hoặc hạn chế, trong thời kỳ này DTTT của doanh nghiệp sẽ có biến động đáng kể.
1.2. Các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp
1.2.1. Sự cần thiết phải thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp
Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm luôn là mục tiêu phấn đấu, cố gắng của bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền knh tế thị trường, sở dĩ có xu hướng này là do một số nguyên nhân sau:
1.2.1.1. Xuất phát từ mục đích sản xuất của các doanh nghiệp là sản xuất sản phẩm để tiêu thụ chứ không phải để tiêu dùng:
Mỗi một doanh nghiệp được thành lập ra có một chức năng, nhiệm vụ khác nhau có thể sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá, có thể thực hiện lưu thông hàng hoá._.. Các doanh nghiệp này được thành lập ra đều nhằm mục đích là sản xuất ra sản phẩm, cung cấp hàng hoá, dịch vụ để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội chứ không phải để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của bản thân doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, sản phẩm sau một quá trình sản xuất sẽ được đưa ra thị trường, thực hiện quá trình tiêu thụ nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng trong xã hội.
Đối với doanh nghiệp thương mại - dịch vụ, sản phẩm, hàng hoá mua về không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp mà thực hiện qúa trình tiêu thụ tiếp theo, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình thì nhất thiết doanh nghiệp phải thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, thông qua việc tìm kiếm các biện pháp để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm.
1.2.1.2. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm đối với sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp nói riêng và xã hội nói chung
Như chúng ta đã biết tiêu thụ sản phẩm và DTTT sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của bản thân mỗi doanh nghiệp, đồng thời nó cũng có ý nghĩa to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội. Chính vì vậy, việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm càng có ý nghĩa to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các chủ thể này.
Thúc đẩy mạnh được tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá sẽ làm tăng vòng quay của vốn, rút ngắn kỳ thu tiền bình quân, làm giảm hàng tồn kho, từ đó làm tăng lợi nhuận, tăng doanh lợi vốn, cải thiện kết cấu tài chính theo hướng an toàn và có lợi cho doanh nghiệp. Qua đó tình hình tài chính của doanh nghiệp ngày càng ổn định và vững mạnh, từ đó sẽ nâng cao được uy tín của doanh nghiệp đối với các đối tác kinh doanh.
Ngoài ra, công tác tiêu thụ sản phẩm được thúc đẩy nhanh chóng, kịp thời sẽ tiết kiệm được các khoản chi phí bán hàng, chi phí lưu bãi, bảo quản... từ đó góp phần hạ giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, có điều kiện để tăng thêm thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt cho cán bộ công nhân viên, góp phần đảm bảo đời sống kinh tế - xã hội.
Thông qua việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT cũng tạo điều kiện để tăng nguồn thu cho NSNN như thuế, phí, lệ phí... để từ đó Nhà nước có điều kiện để thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là tiêu thụ ra nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo cân bằng cán cân thương mại của nước ta hiện nay, điều hoà tiêu dùng thúc đẩy sản xuất trong nước.
Ngược lại tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chậm chạp hoặc không tiêu thụ được sẽ gây ra hàng loạt hậu quả: làm giảm vòng quay vốn vật tư hàng hoá, vốn lưu động dự trữ tăng lên, giảm hiệu suất sử dụng vốn từ đó không đảm bảo được doanh lợi về vốn và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi lợi nhuận của doanh nghiệp giảm, vốn tự có không đáp ứng đủ nhu cầu SXKD, buộc doanh nghiệp phải tăng tỷ trọng vốn vay, dẫn đến kết cấu tài chính của doanh nghiệp thay đổi theo hướng thiếu an toàn, rủi ro tăng cao... Đó chính là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ phá sản, điều đó không chỉ tác động mạnh đến bản thân doanh nghiệp mà còn gây ra nhiều tác động xấu đối với xã hội: thất nghiệp, giảm thu cho ngân sách Nhà nước... Chính vì vậy, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, tăng DTTT sản phẩm cho doanh nghiệp là rất cần thiết, nó có ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, của xã hội.
1.2.1.3. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và thực trạng tiêu thụ sản phẩm, DTTT sản phẩm của các doanh nghiệp Việt nam trong điều kiện hiện nay.
Cơ chế thị trường thay đổi đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp.
Trong thời kỳ kinh tế tập trung, bao cấp, các doanh nghiệp tiến hành SXKD theo các chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, được quy định sẵn về khối lượng sản xuất, giá cả và địa chỉ tiêu thụ, mọi khoản lỗ của doanh nghiệp đều được Nhà nước bù lỗ. Do vậy, trong thời kỳ này, công tác tiêu thụ không được các nhà quản lý quan tâm mà vấn đề tiêu thụ sản phẩm chỉ đơn thuần là việc các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm đến các địa chỉ, theo giá cả của Nhà nước quy định. Chính vì vậy, vấn đề tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm không được các doanh nghiệp quan tâm nhiều.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, với đặc trưng cơ bản của nó là sự cạnh tranh khốc liệt, các doanh nghiệp tự chủ về tài chính, tự hạch toán kinh doanh, chủ động tìm ra hướng đi mới để tthích nghi và chiến thắng trong cạnh tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những cơ hội thuận lợi đồng thời cũng đem lại không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Trong điều kiện đó, tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề quan trọng, mang tính quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Thời đại ngày nay là thời đại của thông tin khoa học và công nghệ, xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu và đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Hiện nay không một quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, phát triển hay không phát triển lại có thể đứng tách biệt mà vẫn tồn tại và phát triển đựoc mà mỗi quốc gia là một thành viên không thể tách rời của cộng đồng quốc tế. Với xu thế đó, vấn đề tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp nói riêng và của một quốc gia nói chung cũng không nằm ngoài xu thế chung đó.
Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động trong điều kiện môi trường cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ngoài nước nên tiêu thụ sản phẩm càng là vấn đề quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào thúc đẩy mạnh được tiêu thụ sản phẩm, tăng nhanh được DTTT thì mới chứng tỏ được khả năng tồn tại và chiến thắng trong điều kiện cạnh tranh. Thực tế tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt nam trong điều kiện hiện nay còn rất khó khăn, chủ yếu là do chất lượng chưa cao, do đó chưa mở rộng được thị trường ra nước ngoài. Sản phẩm sản xuất ra có hơn 80% được tiêu thụ trong nước, chỉ có khoảng 20% xuất khẩu nhưng chủ yếu dưới dạng thô, chưa được tinh chế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những sản phẩm có chất lượng không thua kém hàng ngoại nhập nhưng sức cạnh thanh so với hàng ngoại nhập còn kém do hai nguyên nhân chủ yếu đó là chưa tạo được uy tín của sản phẩm trong nước vẫn để tình trạngngười tiêu dùng ưa dùng hàng ngoại nhập, hơn nữa còn do công tác quản lý chưa tốt, hiện nay đang có hiện tượng hàng giả, hàng nhái làm giảm sút uy tín sản phẩm, gây khó khăn cho tiêu thụ. Một yếu tố nữa rất bất lợi đó là sản phẩm của chúng ta không thể cạnh tranh được với hàng Trung Quốc đang ồ ạt tràn vào nước ta, mẫu mã đẹp, chủng loại đa dạng, giá cả lại rẻ trong khi giá cả sản phẩm của chúng ta lại cao hơn rất nhiều. Đây là những thách thức lớn trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm ở nước ta hiện nay. Mặt khác, với xu thế hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, trong những năm gần đây Việt nam đã tham gia vào ASEAN và sắp tới sẽ tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do (AFTA), mở rộng được quan hệ với nhiều nước trên thế giới. Điều đó tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt nam trong quá trình phát triển song cũng đem laị không ít khó khăn cho các doanh nghiệp Việt nam. Đặc biệt là khi các doanh nghiệp Việt nam hiện nay đang nằm trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ còn cũ kỹ, lạc hậu, trình độ quản lý, tổ chức sản xuất chưa cao... nên giá thành sản phẩm thường cao, chất lượng thấp và thường không ổn định so với sản phẩm của các thành viên khác, thêm vào đó khi tham gia vào các tổ chức trên, các sản phẩm từ các nước vào thị trường Việt nam ngày càng nhiều, tạo nên một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt nam đặc biệt là công tác tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá.
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm và DTTT sản phẩm, hàng hoá đóng một vai trò rất quan trọng, quyết định đến sự tồn tại vàphát triển của mỗi doanh nghiệp. Khi thúc đẩy được tiêu thụ sản phẩm, tăng được DTTT có ý nghĩa to lớn song thực tế tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt nam hiện nay còn là một thách thức lớn, gặp không ít khó khăn và trở ngại. Do vậy cần có biện pháp phù hợp và hữu hiệu để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng DTTT sản phẩm là một đòi hỏi tất yếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đặc biệt là các doanh nghiệp Việt nam trong điều kiện hiện nay.
1.2.2. Vai trò của TCDN trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT và một số biện pháp chủ yếu để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT
1.2.2.1.Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm của doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính trong nền kinh tế, nó nghiên cứu các quan hệ tài chính phát sinh trong quá trình kinh doanh và các phương pháp để xử lý các quan hệ đó, nhằm đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh. Do đó, TCDN đóng một vai trò quan trong đối với mọi khâu của quá trình hoạt động SXKD, trong đó có khâu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. Đối với khâu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, vai trò của TCDN được thể hiện thông qua một số điểm sau:
TCDN tham gia vào việc xác định chiến lược phát triển, chiến lược sản xuất, lập ra các kế hoạch SXKD, trong đó có bộ phận kế hoạch quan trọng nhất đó là kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, đây là một kế hoạch có ý nghĩa quan trọng đối với công tác tiêu thụ sản phẩm nói chung và việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm nói riêng. Nếu kế hoạch này được lập ra một cách chính xác, kịp thời sẽ tạo điều kiện cho việc tiêu thụ sản phẩm một cách thuận tiện, nhanh chóng, đem lại DTTT ổn định cho doanh nghiệp. Còn nếu kế hoạch tiêu thụ sản phẩm lập ra xa rời thực tế thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong tiêu thụ, có thể gây ra tồn đọng hàng hoá hoặc thiếu hàng hoá tiêu thụ, cả hai trường hợp này đều gây bất lợi cho doanh nghiệp.
Mặt khác thông qua kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập ra, doanh nghiệp sẽ đề ra được những biện pháp phù hợp, có hiệu quả để thực hiện tốt kế hoạch đó và tăng DTTT cho doanh nghiệp. Do vậy, vai trò của TCDN đối với việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm là rất quan trọng, góp phần đưa ra được kế hoạch, phù hợp, sát thực tế nhất.
TCDN còn tham gia vào việc huy động, phân phối, sử dụng các nguồn vốn đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn cho SXKD, để có thể sản xuất ra khối lượng sản phẩm với quy cách, mẫu mã, chủng loại, chất lượng của sản phẩm như thiết kế, đúng với kế hoạch đề ra, đáp ứng kịp thời việc thực hiện kế hoạch tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá.
Đồng thời thông qua việc phân tích, TCDN sẽ lựa chọn phương án sản xuất với dự toán chi phí hợp lý nhất, đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành thấp nhất. Từ đó doanh nghiệp có thể định giá bán sản phẩm của mình thấp hơn mặt bằng giá chung của những sản phẩm, hàng hoá cùng loại trên thị trường, từ đó tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh DTTT.
TCDN tham gia vào việc kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức sản xuất thông qua việc kiểm tra sổ sách, số liêu kế toán, định mức kinh tế kỹ thuật để đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, đúng quy định, tránh lãng phí, hao hụt, mất mát... làm cho giá thành sản phẩm hạ trong khi vẫn đảm bảo được chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
TCDN cũng tham gia tích cực vào khâu bán hàng, thực hiện kiểm tra chặt chẽ các khoản chi phí bán hàng đã được lập trong dự toán, tránh mọi hiện tượng bớt xén, sử dụng sai mục đích, đảm bảo sản phẩm, hàng hoá được bao gói đẹp, bảo hành sản phẩm được thực hiện tốt... từ đó tạo niềm tin với khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng đến với doanh nghiệp.
TCDN sử dụng các công cụ sắc bén như tiền lương, tiền thưởng... để kích thích sản xuất, khuyến khích nhân viên bán hàng làm tốt nhiệm vụ, tang được khối lượng hàng bán. Ngoài ra, TCDN còn sử dụng nhiều công cụ khác như giảm giá, bớt giá, vận chuyển miễn phí... để tạo động lực thúc đẩy tiêu thụ, tăng nhanh DTTT sản phẩm cho doanh nghiệp.
Như vậy, TCDN có một vai trò hết sức to lớn trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT của doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng này mỗi doanh nghiệp cần có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động TCDN của doanh nghiệp mình, tạo điều kiện cho TCDN phát huy những khả năng vốn có của nó trong mọi khâu của quá trình SXKD, đặc biệt là trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Có như vậy mục tiêu thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT của doanh nghiệp mới được thực hiện một cách có hiệu quả.
1.2.2.2. Các biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm của doanh nghiệp
Trên cơ sở nhận thức được vai trò, ý nghĩa của tiêu thụ sản phẩm và DTTT sản phẩm cũng như thấy được sự cần thiết phaỉ thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng DTTT của doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp đều phải xác định đây là mục tiêu quan trọng của mình cần được thực hiện tốt. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải tìm ra được những biện pháp phù hợp nhất, hiệu quả nhất thì mới có thể thành công, một trong những điều kiện cần thiết và trước hết của mỗi doanh nghiệp đó là làm tốt, hoàn thiện và củng cố khâu TCDN của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp cần có một số biện pháp thích hợp, tuỳ vào điều kiện, đặc điểm của mỗi doanh nghiệp mà các biện pháp đưa ra để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT được xem là cần thiết, là phù hợp sẽ khác nhau. ở đây xét trên phạm vi một doanh nghiệp chung nhất, để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT thì doanh nghiệp có thể sử dụng một số biện pháp cơ bản sau:
a. Tăng cường công tác điều tra, nghiên cứu thị trường
Điều tra, nghiên cứu thị trường là một biện pháp quan trọng, tạo ra sự quyết định về sự thâm nhập cũng như sự tồn tại của sản phẩm, hàng hoá của mỗi doanh nghiệp. Chính vì vậy, làm tốt công tác này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT của doanh nghiệp.
Điều tra, nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải thu thập được đầy đủ các thông tin về quan hệ cung cầu của sản phẩm, hàng hoá trên thị trường cũng như tình hình giá cả, các đối tác, các đối thủ cạnh tranh của mình và nắm rõ được thị phần của doanh nghiệp mình. Trên cơ sở làm tốt các công việc này doanh nghiệp mới có thể đưa ra cho mình một kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phù hợp nhất, một chiến lược tiêu thụ khả quan nhất để mở rộng thị phần, góp phần thực hiện mục tiêu thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm nói riêng và chiến thắng trong kinh doanh nói chung.
Trong thực tiễn kinh doanh, người ta thường áp dụng một số phương pháp Marketing để điều tra nhu cầu, chủ yếu là: điều tra tại chỗ, điều tra tại hiện trường và phương pháp bán hàng thông qua các hình thức điều tra như dùng phiếu điều tra trực tiếp, phỏng vấn, chào hàng, mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm, tặng quà, biếu quà, cho dùng thử...
Để thực hiện được biện pháp này, doanh nghiệp cần có một sự đầu tư thoả đáng cả về vốn và nhân lực, đào tạo được một đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường có trách nhiệm, có trình độ kỹ thuật cao.
b. Tổ chức SXKD một cách hợp lý để đảm bảo cung cấp khối lượng sản phẩm, hàng hoá đủ về số lượng, tốt về chất lượng.
Để thực hiện được mục tiêu thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm hàng hoá thì trước hết doanh nghiệp cần phải có đầy đủ một khối lượng sản phẩm, hàng hoá đủ lớn để thực hiện chiến lược tăng khối lượng tiêu thụ của doanh nghiệp. Ngoài ra, chất lượng sản phẩm sản xuất ra đảm bảo được chất lượng và không ngừng được nâng cao cũng là một điều kiện quan trọng và cần thiết đối với việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, góp phần tăng DTTT thông qua việc nâng cao được tính cạnh tranh của sản phẩm.
Để đảm bảo khối lượng sản phẩm được cung ứng đầy đủ, đúng chất lượng thì đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt khâu sản xuất và bảo quản sản phẩm, hàng hoá. Cụ thể:
- Đảm bảo đầy đủ các yếu tố đầu vào cho sản xuất.
- Tổ chức sản xuất sản phẩm đúng tiêu chuẩn định mức kỹ thuật.
- Nâng cao trình độ tay nghề của công nhân sản xuất.
- Tổ chức bảo quản, lưu kho các sản phẩm, hàng hoá một cách có hiệu quả.
c. Xây dựng chính sách giá cả linh hoạt, hợp lý
Giá cả là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến DTTT sản phẩm, đồng thời giá cả cũng là một công cụ hữu hiệu kích thích tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy, giá bán sản phẩm của doanh nghiệp phải được xây dựng và áp dụng linh hoạt cho từng thời kỳ, từng điều kiện cụ thể để vừa đảm bảo tăng DTTT sản phẩm, vừa khuyến khích khách hàng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Cùng một loại sản phẩm nhưng bán ở những thị trường khác nhau, đặc điểm dân cư, đặc điểm tiêu dùng khác nhau thì không nhất thiết phải bán giá bán như nhau, mà tuỳ vào các điều kiện ở thị trường đó để có các mức giá khác nhau cho phù hợp. Có như vậy, doanh nghiệp mới mở rộng được đa dạng các loại khách hàng của mình.
Tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc không ít vào quá trình sản xuất nên khi xây dựng giá bán cũng như việc xác định thời điểm chuyển đổi giá bán sản phẩm, ngoài việc căn cứ vào mặt bằng giá cả thị trường, mức giá mong muốn thì doanh nghiệp cũng cần phải căn cứ vào phương hướng sản xuất của doanh nghiệp. Chẳng hạn đối với những sản phẩm tồn đọng, lạc mốt thì doanh nghiệp có thể giảm giá bán, bán hoà vốn thậm chí lỗ để nhanh chóng thu hồi vốn, đáp ứng kịp thời việc chuyển đổi hướng kinh doanh. Hoặc đối với những sản phẩm mới doanh nghiệp có thể bán với giá thấp, giảm giá trong một thời gian để sản phẩm chiếm lĩnh thị trường.
Có thể nói, chính sách giá cả linh hoạt, phù hợp là một công cụ sắc bén trong kinh doanh, đặc biệt là trong công tác tiêu thụ. Để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, tăng quy mô doanh thu thì việc xây dựng một chính sách giá cả linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với từng điều kiện cụ thể là một trong những biện pháp hữu hiệu mà mỗi doanh nghiệp nên áp dụng. Doanh nghiệp cần có chính sách giá cả hợp lý cho từng thời kỳ và từng loại thị trường, quyết định về giá cả của doanh nghiệp phải đảm bảo bù đắp đủ chi phí và có lãi song vẫn kích thích được tiêu dùng.
d. Tổ chức tốt công tác bán hàng.
Công tác bán hàng là khâu cuối cùng thực hiện sự chuyển giao hàng của doanh nghiệp cho khách hàng, đây cũng là khâu quan trọng quyết định đến khối lượng tiêu thụ. Chính vì vậy, để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm thì doanh nghiệp cũng cần làm tốt công tác tổ chức bán hàng. Làm tốt công tác này cần thực hiện tốt các mặt sau:
- Về hình thức bán hàng: Doanh nghiệp nên áp dụng đa dạng các hình thức bán hàng, bao gồm: bán buôn, bán lẻ, bán hàng tại kho, bán tại đại lý, giao hàng tận tay cho khách hàng, có như vậy sẽ đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng, rất thuận tiện cho khách hàng, có thể tiêu dùng ở mọi nơi, mọi lúc, từ đó doanh nghiệp sẽ tiêu thụ được khối lượng hàng hoá lớn, góp phần tăng DTTT sản phẩm.
Tuy nhiên để áp dụng được các hình thức trên đòi hỏi doanh nghiệp phải chuẩn bị đầy đủ cả về vốn cả về nhân lực. Bên cạnh đó để việc áp dụng các hình thức này thực sự có hiệu quả trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm thì doanh nghiệp cần phải biết tổ chức các hình thức trên một cách khoa học, hợp lý, đặc biệt là hình thức bán hàng qua cửa hàng, đại lý.
- Về mặt thanh toán: Để đáp ứng khả năng thanh toán đa dạng của khách hàng nhằm khuyến khích tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT thì doanh nghiệp nên áp dụng nhiều phương thức thanh toán khác nhau: thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán bằng séc chuyển khoản, thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán ngay, thanh toán chậm...
- Về đội ngũ bán hàng: đây là nhân tố quan trọng bởi vì trình độ của người bán hàng, thái độ phục vụ của người bán hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút khách hàng do vậy doanh nghiệp cần có một đội ngũ bán hàng có đủ các tư cách như:
+ Có trình độ hiểu biết về sản phẩm.
+ Năng động, hoạt bát, có khả năng nắm bắt tâm lý khách hàng, thu thập, tổng hợp và xử lý thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời.
+ Có trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ của mình.
Với đội ngũ nhân viên bán hàng như vậy sẽ tạo ra rất nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên để đây thực sự là một nhân tố có tác động thực sự thì đòi hỏi doanh nghiệp ngoài việc tuyển chọn, đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ này thì trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cũng cầncó một số chính sách về chế độ khen thưởng, kỷ luật đúng mức và kịp thời để khuyến khích hoạt động của đội ngũ này.
e. Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, hàng hoá và áp dụng linh hoạt các biện pháp tài chính.
- Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm: Trước đây hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, hàng hoá chưa được các doanh nghiệp chú trọng, nhưng trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, hoạt động quảng cáo đã có một vị trí xứng đáng tronng hoạt động SXKD của doanh nghiệp nhất là đối với công tác tiêu thụ sản phẩm. vì vậy, để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm doanh nghiệp cần quan tâm thoả đáng hoạt động này.
Hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm nhằm mục đích cung cấp một cách có hệ thống thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp cho người tiêu dùng, bao gồm các thông tin về chất lượng, giá cả, lợi ích khi tiêu dùng.... Thông tin này đến được với nhiều người và càng thu hút được sự chú ý của nhiều người càng tốt, do vậy, quảng cáo cần độc đáo, gây ấn tượng. Mặc dù đây là một hoạt đọng sẽ mang lại tác dụng lớn cho doanh nghiệp trong vấn đề thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng DTTT sản phẩm, song đây cũng là một hoạt động rất tốn kém, chi phí lớn nên để có hiệu quả, tránh lãng phí thì mỗi doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một chiến lược quảng cáo phù hợp, thực sự có hiẹu quả, phải chuẩn bị, lựa chọn kỹ càng cả về hình thức quảng cáo cũng như nội dung quảng cáo. Hiện nay có rất nhiều phương tiện quảng cáo, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: đài, truyền hình, báo chí... mỗi loại có những ưu thế, tác dụng riêng nên đòi hỏ doanh nghiệp cần phải lựa chọn cho mình một hình thức quảng cáo phù hợp với đặc điểm tiêu dùng các sản phẩm của mình nhất.
- Các biện pháp kinh tế tài chính: Để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng mạnh được DTTT sản phẩm doanh nghiệp nên áp dụng một số biện pháp tài chính như: chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, tặng quà khuyến mại đối với các khách hàng mua với khối lượng nhiều, khách hàng thường xuyên của doanh nghiệp; tổ chức hệ thống dịch vụ kèm bán hàng, vận chuyển miễn phí... đây là các biện pháp có tính chất đòn bẩy trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Việc áp dụng các biện pháp này cần được căn cứ vào tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề tài chính của doanh nghiệp, khi tài chính của doanh nghiệp mạnh thì hoạt động này cần được triển khai một cách sâu rộng, nhưng khi tài chính của doanh nghiệp đang còn eo hẹp thì khi thực hiện hoạt động này cần suy xét kỹ lưỡng để quyết định cho đúng đắn.
chương 2
tình hình tiêu thụ sản phẩm và Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của công ty vật tư - vận tải- xi măng
2.1. Vài nét sơ lược về sự hình thành và phát triển, đặc điểm tổ chức, hoạt động SXKD của công ty vật tư- vận tải- xi măng
2.1.1. Sự hình thành và phát triển của công ty vật tư- vận tải- xi măng
Công ty Vật tư - Vận tải -Xi măng là một doanh nghiệp Nhà nước, trực thuộc TCTXMVN, trụ sở chính đặt tại 21B Cát Linh - Đống Đa- Hà Nội.
Công ty được chính thức thành lập theo quyết định số 824/BXD-TCLĐ, ngày 05/01/1991, trên cơ sở sáp nhập hai đơn vị: Công ty vận tải xây dựng và Xí nghiệp cung ứng vật tư- vận tải - thiết bị xi măng, ban đầu Công ty lấy tên là Công ty kinh doanh vật tư - vận tải - xi măng, và sau này được đổi tên thành Công ty Vật tư - Vận tải -Xi măng.
Với tư cách là một đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh và là thành viên trong TCTXMVN, Công ty Vật tư- Vận tải - Xi măng được giao các chức năng nhiệm vụ chủ yếu là:
- Tổ chức và thực hiện kinh doanh vật tư đầu vào cho sản xuất của các NMXM và phibrô xi măng, bao gồm: than cám, Xỉ pyrit, clinker, đá bô xít, quặng sắt...
- Tổ chức thực hiện lưu thông và kinh doanh xi măng theo địa bàn được phân công.
- Tổ chức dây chuyền công nghiệp khai thác Xỉ tuyển Phả lại.
- Kinh doanh dịch vụ vận tải bằng đường bộ, đường sông, biển.
Quá trình trưởng thành của Công ty Vật tư- Vận tải - Xi măng gắn liền với sự phát triển của ngành công nghiệp xi măng trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế, có những bước phát triển vượt bậc, đồng thời cũng gặp những khó khăn nhất định, song toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty đã luôn cố gắng tìm biện pháp để làm sao hoạt động có hiệu quả nhất, không ngừng nâng cao hơn nữa khối lượng và chất lượng phục vụ.
Từ năm 1991 đến năm 2001 Công ty liên tục hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch mà TCTXMVN giao cho. Khối lượng cung ứng, vận tải trong 10 năm qua đạt 7,56 triệu tấn, bao gồm: 1,9 triệu tấn vận chuyển và 5,66 triệu tấn hàng hoá bán ra, đã cung ứng cho các nhà máy như: xi măng Bỉm Sơn, xi măng Hải phòng, xi măng Bút Sơn, xi măng Hoàng Thạch... và Công ty cũng đã cung ứng gần 1 triệu tấn phụ gia, gồm Xỉ pyrit, Xỉ Phả lại, đá bô xít cho tất cả các NMXM kể cả NMXM Sao Mai và xi măng Nghi Sơn. Tiêu thụ 1,52 triệu tấn xi măng tại địa bàn Hà nội và một số tỉnh phía Bắc. Cấc chỉ tiêu tài chính thực hiện trong 10 năm đều đạt hoặc vượt kế hoạch. Tổng doanh thu thực hiện là: 2.474,4 tỷ đồng; lợi nhuận đạt: 47,07 tỷ đồng; nộp Ngân sách Nhà nước được 49,96 tỷ đồng. Kể từ tháng 4/2001 nhiệm vụ tiêu thụ xi măng được chuyển giao cho Công ty vật tư- kỹ thuật- xi măng nhưng khối lượng háng hoá cung ứng, vận tải vẫn đạt trên 1,1 triêu tấn. Các chỉ tiêu tài chính vẫn đạt khá, doanh thu đạt 320 tỷ đồng; lợi nhuận đạt 2,7 tỷ đồng; nộp nghân sách đạt 3,1 tỷ đồng vượt kế hoạch 0,3 tỷ đồng.
2.1.2. Đặc điểm tổ chức, quản lý.
Là đơn vị hạch toán kinh tế đôc lập, Công ty Vật tư- Vận tải- Xi măng tổ chức quản lý theo mô hình một cấp, bao gồm hệ thống các phòng ban và các chi hánh đầu nguồn, cuối nguồn (Sơ đồ 01).
Nhiệm vụ, chức năng của từng phòng ban như sau:
- Ban giám đốc bao gồm: một Giám đốc, một Phó giám đốc chịu trách nhiệm tổng hợp về các nhiệm vụ, kế hoạch kinh doanh của công ty, là nơi ra các quyết định kinh doanh và ký kết các HĐKT, ra các quyết định đến các phòng ban trực thuộc và nhận các báo caó trực tiếp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp.
- Phòng tổ chức cán bộ: Xây dựng quy hoạch cán bộ, tiếp nhận, điều động, bổ nhiệm các cán bộ, giải quyết các vấn đề về chính sách cho cán bộ công nhân viên; nắm chắc nhiệm vụ SXKD được giao để lập kế hoạch lao động, tiền lương, tiền thưởng theo từng thời kỳ cho toàn Công ty; chỉ đạo thực hiện kế hoạch phòng hộ an toàn cho lao động.
- Phòng kế hoạch: Thực hiện việc lập kế hoạch về quản lý và SXKD cho toàn Công ty, theo dõi việc thực hiện kế hoạch của từng bộ phận, phòng ban và các chi nhánh; đầu tư xây dựng cơ bản; tổng hợp thực hiện các mặt kinh doanh; quyết toán vật tư và tính hiệu quả kinh doanh.
- Văn phòng Công ty : Đảm bảo công tác hành chính, hậu cần, an ninh, an toàn trong cơ quan, văn thư lưu trữ, thủ tục giấy tờ, cung cấp các trang thiết bị cần thiết, chăm lo đời sống cán bộ công nhân viên, quản lý các tài sản của Công ty.
- Phòng kỹ thuật: Tham mưu cho giám đốc về công tác tổ chức, thiết kế, chỉ đạo sản xuất, theo dõi và quản lý về mặt kỹ thuật, giám sát quá trình sử dụng nguyên, nhiên vật liệu để đạt hiệu quả sản xuất cao, tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm.
- Phòng tài chính - kế toán: Tổ chức thực hiện công tác hạch toán kế toán, lập báo cáo kế toán theo biểu mẫu, chế độ quy định của Nhà nước; cung cấp thông tin và các số liệu cần thiết về các hoạt động SXKD của doanh nghiệp cho giám đốc và các bên liên quan; phục vụ yêu cầu phân tích tình hình tài chính của Công ty; cân đối vốn, sử dụng hài hoà các loại vốn phục vụ cho hoạt động SXKD của Công ty.
- Phòng kinh doanh vận tải: Chủ động tìm kiếm bạn hàng, nguồn hàng và trực tiếp ký kết các Hơpự đồng kinh tế về vận tải với các đối tượng có nhu cầu, triển khai các kế hoạch, các phương án vận tải cụ thể đối với từng đơn vị do Công ty giao cho trên cơ sở kế hoạch, định hướng và các HĐKT đã thống nhất trong Công ty. Cân đối các điều kiện tiền, hàng hoá, phương tiện vận tải; tổ chức vận động hợp lý các nguồn hàng từ đầu nguồn đến nơi tiêu thụ; đảm bảo hiệu quả kinh doanh trong cơ chế thị trường.
- Phòng điều độ: Tổng hợp tình hình vận tải, mua bán hàng hoá và lượng mức trong ngành để lập các báo cáo nhanh, tham gia phối hợp điều hành phương tiện vận chuyển, thông tin sản xuất giữa Công ty với các nhà máy sản xuất xi măng và cơ quan kinh tế liên quan; đảm bảo công tác tổng đài, thông tin liên lạc cho toàn Công ty.
- Phòng kinh doanh xi măng: Kinh doanh các mặt hàng phụ gia xi măng cho các nhà máy sản xuất xi măng; khai thác các phương tiện vận tải, trực tiếp ký kết các HĐKT về vận tải và mua bán các mặt hàng phụ gia xi măng.
- Khối các chi nhánh của Công ty : Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc, chịu trách nhiệm trước giám đốc về các hoạt động SXKD của chi nhánh mình; khai thác, quản lý, vận tải, tiếp nhận, bảo quản và cung ứng các loại hàng hoá phục vụ cho sản xuất xi măng; giao dịch, tổ chức hoạt động kinh tế được Công ty giao; kiểm tra hàng hoá trước khi xuất, nhâph hàng; đôn đóc các vấn đề phát sinh trong quá trình vận tải, bốc xếp, đảm bảo việc giao, nhận hàng hoá theo các HĐKT; thực hiện việc bảo quản và luân chuyển hàng hoá hợp lý và có hiệu quả.
2.1.3. Đặc điểm tổ chức SXKD.
Công ty Vật tư - Vận tải-Xi măng là đơn vị chuyên cung cấp vật tư đầu vào cho các nhà máy sản xuất xi măng, đồng thời có kinh doanh dịch vụ vận tải và đại lý xi măng, quá trình tổ chức thực hiện các mặt hoạt động trên được tiến hành như sau:
Sau khi có kế hoạch chính thức về mua hàng, phòng kinh tế kế hoạch sẽ tiến hành giao nhiệm vụ tổ chức mua hàng cho các chi nhánh đầu nguồn, bao gồm các chi nhánh như: Quảng Ninh, Lâm Thao (Phú thọ), Lạng sơn... để các chi nhánh này tiến hành tổ chức mua các loại phụ gia như: than cám, Xỉ pyrit, quặng sắt, đá bô xít...
Sau khi mua than và các phụ gia, các chi nhánh này sẽ báo cho phòng kế hoạch đồng thời báo cho phòng vận tải.
Phòng vận tải chịu trách nhiệm về công tác vận chuyển hàng mua được về các địa điểm tiêu thụ (các chi nhánh cuối nguồn) theo kế hoạch được giao. Ngoài việc tổ chức vận chuyển hàng mua được đề tiêu thụ thì phòng vận tải còn phải tổ chức vận chuyển clinker từ Bút Sơn đến Sài Gòn theo chỉ đạo của TCTXMVN, vận chuyển thuê._.tiền hàng mà cần phải chủ động thu thập các thông tin về nhu cầu từng loại vật tư của họ để từ đó có những biên pháp tiếp cận để đáp ứng nhu cầu. Có thể cử cán bộ chuyên nghiên cứu về thị trường đến tận các nhà máy để nắm bắt, tìm hiểu cụ thể các thông tin về các nhu cầu này, ngoài ra cũng cần tổ chức các hội nghị khách hàng để thăm dò ý kiến của các khách hàng về chất lượng, giá cả... của các loại vật tư, hàng hoá nà Công ty đã cung cấp, từ đó phân tích, rút ra những điểm đạt được cũng như những điểm chưa đạt được để có biện pháp, đối sách phù hợp, góp phần giữ vững và mở rông khối lượng tiêu thụ cho các khách hàng này.
Đối với những khách hàng mà Công ty đang hướng tới như: NMXM Hà Tiên II, Nghi Sơn, Hoàng Mai…thì trước hết Công ty cần thu thập các thông tin cần thiết về các khách hàng này cả về đặc điểm sản xuất, cả về nhu cầu các loại vật tư, phụ gia mà các nhà máy này sẽ tiêu thụ, cố gắng tiếp cận để đi đến ký kết các hợp đồng tiêu thụ, trong vấn đề này, ngoài việc dựa vào sự tác động từ phía TCTXMVN thì Công ty cũng cần chủ động hơn trong việc thu thập và tổng hợp, phân tích thông tin một cách nhanh nhạy, kịp thời.
Để thực hiện tốt các vấn đề trên đòi hỏi Công ty phải tổ chức được một đội ngũ cán bộ chuyên điều tra, nghiên cứu thị trường, có nghiệp vụ kinh doanh, có kiến thức về marketing, có khả năng thu thập, tổng hợp và phân tích thông tin nhanh nhạy, xử lý thông tin tốt từ đó đưa ra các dự đoán chính xác về thị trường. Trước hết, trên cơ sở đội ngũ đang làm việc tại các phòng kinh doanh của Công ty hiện nay, Công ty nên lựa chọn để đào tạo sâu hơn nữa về chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ trong việc điều tra, nghiên cứu thị trường. Ngoài việc bỏ chi phí để đào tạo đội ngũ này thì Công ty cũng cần phải đầu tư cho họ các điều kiện làm việc, tạo mọi thuận lợi để họ thực hiện tốt nhất công tác của mình. Bên canh tổ chức bộ phận nnghiên cứu, phân tích thị trường tai văn phòng Công ty, thì Công ty cũng nên bố trí những cán bộ có chuyên môn tại các chi nhánh đặc biệt là các chi nhánh cuối nguồn để thu thập thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, trong vấn đề này Công ty cũng cần phải cân nhắc một cách kỹ lưỡng giữa chi phí bỏ ra và hiệu quả thu được, tránh hiện tượng tổ chức quá rườm rà không hiệu quả làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chung của Công ty.
Thứ hai: Tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá thông qua việc hạ thấp giá thành sản phẩm. Chủ động trong việc điều hành giá cả.
Một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong canh tranh của mỗi doanh nghiệp đó là giá cả. Nếu giá cả thấp trong khi chất lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo thì doanh nghiệp rất dễ dàng chiến thắng trong cạnh tranh. tuy nhiên để đáp ứng các yêu cầu trên thì doanh nghiệp cần phải có những biện pháp thích hợp để hạ thấp giá thành sản phẩm một cách hợp lý.
Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng là một doanh nghiệp thương mại- dịch vụ, thực hiện cung ứng các loại vật tư, hàng hoá, dịch vụ cho sản xuất xi măng, tuy có nhiều lợi thế hơn so với các đơn vị cung ứng vật tư phục vụ cho sản xuất xi măng khác, vừa là thành viên trong TCTXMVN, vừa có kinh nghiệm hoạt động lâu năm, chất lượng các hàng hoá, dịch vụ cung ứng tốt hơn các đơn vị khác song giá cả các loại hàng hoá, dịch vụ mà Công ty cung cấp lại rất cao, đây một khó khăn cho Công ty trong việc cạnh tranh về giá, đặc biệt là từ khi xuất hiện xu hướng các NMXM muốn mua các vật tư trực tiếp của các đơn vị cung cấp, TCTthan cũng theo đuổi mục tiêu bán than trực tiếp tại đầu nguồn; các NMXM muốn tự đảm nhận một phần clinker vận chuyển Bắc- Nam.
Mặc dù trong thời gian qua Công ty cũng đã có những biện pháp tích cực để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm như việc linh hoạt mua than của các đơn vị bán than khác ngoài TCTthan để có giá mua rẻ hơn, quản lý tốt hoạt động của đội xe để hạ thấp cước phí vận chuyển clinker từ 206.200 đồng/tấn xuống còn 198.000đồng/tấn ; thực hiện khoán chi phí điện thoại đến từng đơn vị, từng chi nhánh... Nhưng trong điều kiện cạnh tranh hiện nay hiệu quả của các biện pháp này mà Công ty đã áp dụng vẫn chưa thể đáp ứng được. Mặt khác, một vấn đề khó khăn mà hiện nay Công ty đang gặp phải đó là cơ chế giá hiện nay rất bị động, cơ chế giá không linh hoạt do hàng năm TCTXMVN vẫn xây dựng một cơ chế giá cụ thể đối với từng loại để làm căn cứ khống chế mức giá, gây khó khăn trong việc điều hành giá cả của Công ty.
Để thực hiện được mục tiêu hạ giá thành, tạo ra lợi thế trong cạnh tranh Công ty nên sử dụng một số giải pháp như sau:
- Tích cực chủ động trong việc tiềm kiếm nguồn hàng có giá mua rẻ, nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng đạt yêu cầu, đặc biệt đối với các lĩnh vực cung cấp than cám, không chỉ lấy than của TCT than mà có thể tìm các bạn hàng mới ngoài TCTcó giá rẻ hơn.
Bên cạnh việc chủ động tìm kiếm nguồn hàng thì việc củng cố mối quan hệ với các bạn hàng, tranh thủ những ưu đãi cũng là một biện pháp cần thiết.
Có thực hiện được tốt được các giải pháp này thì mới có thể giảm bớt giá bán thông qua việc hạ giá hàng mua vào.
- Tập trung đầu tư vào các phương tiện vận tải: Hiện nay mặc dù Công ty có hơn 250 đầu xe hoạt động song hoạt động còn kém hiệu quả, do chưa được đầu tư, sữa chữa thích đáng do đó giá thành cao làm cước phí vận chuyển cao, gây ra khó khăn trong việc tìm nguồn vận chuyển. Do đó, đầu tư sữa chữa bảo dưỡng là một biện pháp cần thiết.
- Thực hiện tốt hơn nữa công tác quản lý chất lượng, định mức hao hụt hầng hoá: Tăng cường quản lý chất lượng hàng hoá, giám sát chặt chẽ khâu giao nhận hàng hoá để giảm hao hụt đến mức thấp nhất. Tổ chức khảo sát việc giao nhận than tuyến ninh Bình - Bỉm Sơn để kịp thời đưa ra các biện pháp quản lý hữu hiệu kho than tại Ninh Binh.
- Quản lý chặt chẽ chi phí đặc biệt là chi phí của các chi nhánh và chi phí quản lý Công ty. Để thực hiện biẹn pháp này không chỉ dòi hỏi tổ chức mặt dân sự một cách hiệu quả, hợp lý, đúng người đúng việc mà còn phải quán triẹt tư tưởng tiết kiệm chi phí trong toàn Công ty.
Đối với văn phòng Công ty nên có những chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực đối với từng chi nhánh. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động SXKD tại các đơn vị cơ sở, kiên quyết không để thất thoát tài sản của Nhà nước.
Đối với các đơn vị cơ sở cần phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật và những văn bản cụ thể hoá cho Công ty. Đặc biệt trong lĩnh vực mua sắm trang thiết bị, đồ dùng, chi phí hội nghị, tiếp khách, chế độ công tác phí... phải thực hiện đúng theo quy định của Công ty.
Chỉ khi nào các vấn đề trên được thực hiện tốt thì Công ty mới có thể thực hiện được chiến lược hạ thấp giá bán để nâng cao khả năng cạnh tranh bên cạnh đó còn loại trừ được hiện tượng các NMXM muốn mua các loại vật tư trực tiếp tại đầu nguồn.
Ngoài ra,trong vấn đề giá cả, để có chính sách giá cả linh hoạt hơn, chủ động trong điều hành thì Công ty cũng nên có những kiến nghị đối TCTXMVN về vấn đề này.
Thứ ba: Tăng cường áp dụng các biện pháp kinh tế tài chính để thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ góp phần tăng DTTT.
Các biện pháp kinh tế tài chính có một vị trí xứng đáng trong việc thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ, nâng cao được khối lượng hàng hoá tiêu thụ và tăng được doanh thu cho Công ty. Ngoài ra áp dụng các biện pháp kinh tế tài chính còn góp phần cũng cố hơn mối quan hệ với khách hàng của Công ty, đặc biệt là đối với khách hàng lâu năm. Đây là hướng đi mà Công ty cũng đã áp dụng, song lĩnh vực, chủng loại mặt hàng áp dụng chưa đa dạng, mới chỉ áp dụng đối với mặt hàng xi măng còn các mặt hàng khác kể cả mặt hàng than cám vẫn chưa được áp dụng do đó chưa thực sự khuyến khích, hấp dẫn các khách hàng của Công ty. Để thúc đấy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ và tăng DTTT Công ty cần phải áp dụng linh hoạt các biện pháp tài chính, có thể thực hiện theo các hướng sau:
- Thực hiện giảm giá, bớt giá cho một số trường hợp nhất định.
Để khuyến khích khách hàng mua sản phẩm của Công ty thì cần phải quy định mức giảm giá phù hợp với từng định mức khối lượng tiêu thụ được. Khách hàng phải mua với một số lượng đạt đến mức quy định thì mới được giảm giá và Công ty có thể áp dụng hình thức giảm giá luỹ tiến tức là khối lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ được càng lớn thị tỷ lệ giảm giá càng cao như công ty phải xem xét việc quy định tỷ lệ giảm giá có đảm bảo doanh thu, lợi nhuận của Công ty hay không. Bên cạnh đó Công ty có thể giảm giá trong các mùa xây dựng, đây là thời điểm khối lượng tiêu thụ xi măng lớn nhất và công suất hoạt động của các NMXM cũng rất lớn.
Ngoài ra đối với những khách hàng thường xuyên, khách hàng lâu năm cũng nên có hình thức khuyến mại phù hợp để tăng cường mối quan hệ, góp phần mở rộng và tăng khối lượng tiêu thụ.
- áp dụng hình thức chiết khấu có sự điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của Công ty.
Thực hiện chiết khấu bán hàng nhằm khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh, hạn chế nợ nần dây dưa nhằm nhằm hoàn thành kế hoạch doanh thu và đảm bảo vốn cho kinh doanh. Hình thức chiết khấu này chưa được Công ty áp do vậy, trong thời gian tới Công ty cũng nên xem xét để áp dụng. Tuy nhiên, trong việc áp dụng hình thức chiết khấu Công ty cần đưa ra được tỷ lệ chiết khấu thích hợp để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Việc đưa ra tỷ lệ chiết khấu của Công ty phải đặt trong mối liên hệ với lãi suất vay vốn ngân hàng, bởi vì khi cho khách hàng trả chậm thì trong thời gian đó, để đảm bảo quá trình SXKD Công ty phải tiến hành vay vốn ngân hàng. Do đó Công ty cần phải xác định được hiệu quả đem lại từ việc thực hiện chiết khấu bán hàng. Công ty có thể áp dụng nhiều tỷ lệ chiết khấu khác nhau tuỳ theo từng thời hạn thanh toán chẳng hạn thanh toán càng nhanh thì được hưởng tỷ lệ chiết khấu càng cao và ngược lại, tuy nhiên phải luôn ràng buộc bởi lãi suất vay vốn ngân hàng. Và tất nhiên nếu thanh toán chậm sẽ phải trả lãi suất quá hạn theo lãi suất vay vốn ngân hàng. Với các mức tỷ lệ chiết khấu như vậy sẽ hấp dẫn được khách hàng trong việc thanh toán nhanh cho Công ty, tạo điều kiện cho việc đảm bảo về vốn cho hoạt động SXKD của Công ty, đáp ứng được yêu cầu của công tác tiêu thụ.
- Thực hiện hồi khấu, tặng quà cho khách hàng.
Cũng như hai biện pháp trên thì hồi khấu cải thiện mối quan hệ giữa Công ty với các khách hàng, tăng cường sự hợp tác lâu dài từ đó đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của Công ty. Muốn thực hiện việc hồi khấu cho khách hàng thì hàng quý Công ty phải lập bảng theo dõi công nợ của từng khách hàng qua đó đối chiếu lựa chọn ra những khách hàng làm tốt công tác thanh toán và mua với khối lượng lớn sẽ được hưởng một khoản giảm trừ nhất định trên tổng số tiền mà khách hàng đã thanh toán. Và tại Hội nghị các khách hàng mà Công ty tổ chức được, Công ty có thể thông báo cho khách hàng biết nhằm khuyến khích việc thanh toán nhanh và tiêu thụ nhiêù sản phẩm cho Công ty.
Ngoài ra thì Công ty có thể thực hiện tặng quà cho các khách hàng nếu họ làm tốt công tác thanh toán cho Công ty.
Thứ tư: Hoàn thiện công tác tổ chức bán hàng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay không thể duy trì cách bán hàng thụ động mà doanh nghiệp phải chủ đông tìm đến với các khách hàng. Do vậy, công tác tổ chức bán hàng cũng cần được quan tâm, chú trọng hơn.
Để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT thì công tác tổ chức bán hàng cần được quan tâm trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
- Hệ thống chi nhánh bán hàng: Với hệ thống các chi nhánh rộng khắp của Công ty như hiện nay, để nó thực sự có tác động tích cực đến công tác tiêu thụ sản phẩm thì Công ty cần tập trung hơn nữa cho đầu tư xây dựng, nâng cấp và phát triển hệ thống kho tàng, bến bãi góp phần đảm bảo dư trữ hàng hoá đủ mức cần thiết và chất lượng hàng hoá không bị ảnh hưởng nhất là những loại dễ bị thấm ẩm như clinker. than cám...
Đồng thời với những chi nhánh cuối nguồn, thực hiện khâu giao hàng hoá cho các khách hàng cần được đầy đủ, thoả đáng cả về cơ sở vật chất và việc đào tạo, tuyển chọn đội ngũ lao động ở các chi nhánh này.
Công ty phải thường xuyên theo dõi, giám sát hoạt động của các chi nhánh, đặc biệt là các chi nhánh cuối nguồn cần có những chính sách để nâng cao hiệu quả công tác tiêu thụ, một số biện pháp có thể áp dụng như:
+ Khoán doanh số bán hàng cho các chi nhánh để hưởng lợi.
+ Thưởng cho đơn vị, cá nhân nào có quan hệ tốt với khách hàng.
+ Thưởng cho những sáng kiến mới về tiếp thi, cải tiến công tác quản lý Công ty.
- Tiếp tục đa danhg hoá hình thức thanh toán đồng thời cũng cần tăng cường kỷ luật thanh toán.
Để tạo điều kiện cho khách hàng trong việc thanh toán tiền hàng, Công ty cần tiếp tục đa dạng các hình thức thanh toán. Muốn vậy, Công ty phải có đội ngũ cán bộ thanh toán năng động có trình độ, nắm bắt thu thập các thông tin cần thiết về khả năng thanh toán của các khách hàng, nắm bắt được sự biến động của lãi suất ngân hàng, tỷ lệ chiết khấu tín dụng. Đồng thời với việc áp dụng nhiều hình thức thanh toán, Công ty cần phải thắt chặt thêm kỷ luật thanh toán vì hiện nay việc thu hồi tiền hàng rất chậm gây khó khăn về vốn, từ đó không đảm bảo tiến độ thanh toán cho các nhà cung cấp theo thoả thuận, làm giảm uy tín của Công ty trong quan hệ làm ăn với các bạn hàng. Việc cho phép thanh toán chậm trong điều kiện thanh toán lỏng lẻo cũng sẽ dẫn đến sự thiếu linh hoạt trong khâu bán hàng của các chi nhánh. Để khắc phục tình trạng này, Công ty cần phải nghiên cứu thời gian chậm trả ở một thời hạn phù hợp để vừa khuyến khích tiêu thụ vừa đảm bảo tiến độ kinh doanh. Công ty cũng cần quy định rõ về điều kiện được chậm trả, đó là quy định rõ việc khách hàng mua với khối lượng lớn bao nhiêu thì được chậm trả và được chậm trả trong thời gian bao lâu, điều đó cần phải được cụ thể, rõ ràng. Trong việc thanh toán tiền hàng cũng phải thực hiện nghiêm túc, tránh sự nể nang và hàng tháng yêu cầu khách hàng đối chiếu công nợ, lập biên bản xác nhận công nợ, đốc thúc các khoản nợ đến hạn và nếu khách hàng nợ lâu mà không có lý do chính đáng thì ngoài việc tính lãi suất quá hạn thì Công ty có thể phạt tiền, thu hồi tài sản. Đối với bản thân Công ty cũng cần phải phân định rõ các hợp đồng mua, hợp đồng bám để thuận tiện cho vịc thực hiện các vấn đề trên.
- Tăng cường công tác thông tin quảng cáo.
Đây là một trong những hoạt động quan trọng nhằm tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ. Đây chính là một phương thức giao dịch thương mại, là công cụ chủ chốt của hệ thống thông tin thương mại. Suy cho cùng quảng cáo là kích thích việc mua các loại vật tư hàng hoá, tránh nguy cơ tụt hậu cho doanh nghiệp. Một trong những nguyên nhân mà Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng chưa có được thị phần rộng lớn trên thị trường trong nước và nước ngoài đó là do công tác thông tin quảng cáo để khuyến khích tiêu thụ chưa được chú trọng. Công ty chưa có bộ phận riêng phụ ttrách vấn đề quảng cáo, vì vậy cần phải tổ chức một bộ phận, có thể nằm trong phòng kế hoạch hay phòng marketing để đảm nhận công tác này.
Công tác quảng cáo cần tập trung vào các đơn vị, cơ sở sản xuất xi măng không chỉ đối với NMXM trong TCTXMVN mà cần hướng tới phục vụ cho các công ty xi măng khác kể cả xi măng liên doanh. Công ty có thể thực hiện quảng cáo trên các tạp chí, các tuần báo như: tạp chí Xây dựng, tạp chí Thương mại, tạp chí Thị trường và giá cả, báo Đầu tư... Một đòi hỏi trong việc thực hiện quảng cáo hiện nay là phải tiết kiệm được chi phí song vẫn đảm bảo được hiệu quả, do vậy cần nghiên cứu kỹ và có chiến lược cụ thể về vấn đề này.
Thứ năm: Tăng cường đầu tư, nâng cao hơn nữa hiệu qquả hoạt động của lĩnh vực vận chuyển
Mặc dù trong năm 2001, hoạt động của đoàn vận tải đã có những bước tiến đáng kể, hoàn thành tốt nhiệm vụ vận chuyển clinker Bắc- Nam song xét trên phương diện hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này nhìn chung chưa hiệu quả. Do vậy, để hoạt động của đoàn vận tải có hiệu quả, tăng khối lượng vận chuyển, góp phần tăng DTTT thì Công ty nên áp dụng một số biện pháp cơ bản sau:
- Công ty cần phải tổ chức hợp lý quá trình vận chuyển từ nơi mua đến nơi bán, kết hợp tối đa vận chuyển hai chiều như tuyến Quảng Ninh- Ninh Bình, Quảng Ninh - Bút Sơn.
- Tận dụng hết năng lực của phương tiện vận tải thông qua việc điều phối đầu xe linh hoạt hơn và bố trí công tác bảo dưỡng hợp lý nhằm giảm thiểu thời gian chết của đội xe.
- Rà soát lại định mức tiêu hao của các phương tiện vận tải hiện có của Công ty, gồm các định mức tiêu hao nhiên liệu, định mức chi phí giờ.
- Kết hợp những đơn vị vận tải truyền thống( đã có quan hệ lâu dài) để tìm ra các hình thức liên doanh, liên kết: Công ty có nguồn hàng và các đơn vị có phương tiện.
- Tuyển chọn và khen thưởng kịp thời các cán bộ có năng lực, có trình độ tổ chức, quản lý tốt ccông tác tiêu thụ và điều hành có hiệu quả vận chuyển, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tiêu thụ.
Thứ sáu: Nâng cao chất lượng công tác tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động. Khai thác, tạo lập và sử dụng vốn có hiệu quả
Đây là nhóm giải pháp cơ bản, tiền đề để thực hiện hàng loạt các giải pháp trên nhằm thúc đẩy tiêu thụ và tăng DTTT. Chính vì vậy, thực hiện tốt các vấn đề trên sẽ có tác động không nhỏ tới côngtác tiêu thụ.
* Đối với việc nâng cao chất lượng công tác tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động, có thể xem xét các mặt sau:
- Đầu tư hơn nữa vào việc nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, tạo mọi điều kiện để những người có năng lực phát triển.
- Thường xuyên tổ chức một cách có hiêu quả buổi thảo luận để đề ra các phương hướng, biện pháp, cách thức quản lý phù hợp cũng như rút kinh nghiệm những vấn đề chưa làm được trong công tác quản lý.
* Đối với việc khai thác, tạo lập và sử dụngvốn có hiệu quả.
Để hoạt động SXKD nói chung và công tác tiêu thụ nói riêng được thông suốt thì một trong những vấn đề quan trọng đó là phải đảm bảo được vấn đề về vốn. Do vậy, để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT việc khai thác tạo lập vốn cũng như tổ chức sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một vấn đề quan trọng Công ty cần quan tâm thoả đáng, Công ty cần xem xét một số biện pháp sau:
Đối với vốn lưu động, đây là bộ phận chủ yếu trong cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty, là một bộ phận rất quan trọng, tác động lớn đến hiệu quả của công tác tiêu thụ. Để đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn lưu động phục vụ cho hoạt động SXKD nói chung và cho công tác tiêu thụ nói riêng thì Công ty có thể khai thác, tạo lập từ một số nguồn chủ yếu như: vốn lưu động do TCTXMVN cấp ban đầu và cấp bổ sung hàng năm; vốn chiếm dụng đương nhiên (của các nhà cung cấp là chủ yếu); vốn vay ngân hàng... Mỗi loại vốn trên khi sử dụng đều có những ưu, nhược điểm nhất định, do vậy sử dụng nguồn nào cần phải được cân nhắc đến để lựa chọn nguồn vốn phù hợp nhất có khả năng đêm lại hiêu quả cao nhất.
Hiện nay, trong cơ cấu vốn lưu động của Công ty chiếm tỷ trọng nhiều nhất vẫn là nguồn vốn chiếm dụng đương nhiên, chiếm tới 78,7% tổng vốn lưu động trong khi vốn lưu động tự có chỉ chiếm 21,3% tổng vốn lưu động(tính theo thời điểm 31/12/200), như vậy tỷ lệ này là chưa hợp lệ, đây đang là xu thế chung mà các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay đang gặp phải do còn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, đặc biệt là huy động từ nguồn vốn vay ngân hàng. Trong thời gian tới Công ty cần phải có phương hướng cụ thể để điều chỉnh tỷ lệ này cho hợp lý, nâng cao tỷ trọng vốn tự có, để góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính của Công ty.
Đối với vốn cố định, tuy vốn cố định chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của Công ty song nhu cầu đầu tư đổi mới trang thiết bị, đặc biệt là đầu tư cho đoàn vận tải của Công ty là rất cần thiết. Cho nên Công ty cũng nên có phương hướng khai thác, tạo lập vốn để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu này. Các nguồn vốn đáp ứng được nhu cầu này mà hiện nay Công ty đang sử dụng bao gồm các nguồn như nguồn vốn khấu hao, quỹ đầu tư phát triển. Tuy nhiên, trong việc sử dụng các nguồn vốn này chưa thực sự hiệu quả do còn nhiều bất cập trong việc quy định của TCTXMVN về các tỷ lệ trích nộp các quỹ trên cũng như việc bị động trong việc quản lý, sử dụng các quỹ trên. tỷ lệ trích nộp
Sau khi Công ty tiến hành trích lập quỹ thì sẽ nộp toàn bộ quỹ khấu hao lên TCTXMVN, khi có nhu cầu đầu tư thì làm thủ tục rất phức tạp và lâu, gây ra rất nhiều khó khăn cho Công ty trong quá trình thực hiện các kế hoạch kinh doanh của mình. Do vậy, Công ty nên có ý kiến đề xuất với TCTXMVN về các vấn đề này: quy định lại tỷ lệ trích nộp cho phù hợp; có ý kiến đề xuất xin để lại một phần hoặc toàn bộ quỹ khấu hao tại Công ty để Công ty chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn quỹ này.
Bên cạnh đó để đáp ứng nhu cầu vốn cố định phục vụ cho việc đầu tư các tài sản cố định của Công ty và góp phần nâng cao hiệu quả vốn thì trong thời gian tới Công ty cũng nên áp dụng hình thức thuê tài chính đây là một hình thức hoạt động có nhiều ưu điểm đối với thực tế của Công ty hiện nay, bởi vì hiện nay trong việc vận chuyển các hàng hoá mua được Công ty vẫn phải thực hiện thêm việc thuê ngoài vận chuyển do vậy không chủ động trong công tác mua hàng từ đó làm ảnh hưởng tới việc thực hiện công tác tiêu thụ, trong khi đó với hình thức thuê tài chính không chỉ góp phần tăng tính chủ động của Công ty mà còn làm giảm đáng kể các chi phí. Do vậy trong thời gian tới Công ty nên nghiên cứu để áp dụng hình thức này.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động SXKD, phục vụ cho công tác tiêu thụ của Công ty thì Công ty cũng nên xem xét việc huy động vốn từ cán bộ công nhân viên, đây là biện pháp có nhiều ưu điểm, không chỉ đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh cho Công ty mà còn nâng cao được trách nhiệm của cán bộ công nhân viên đối với hoạt động SXKD của Công ty, hiện nay Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng chưa áp dụng hình thức này nên trong thời gian tới Công ty cũng nên sớm đưa hình thức huy động này vào thực tế của Công ty nhằm phát huy những lợi thế của nó.
Trong việc tổ chức sử dụng vốn một cách có hiệu quả thì Công ty cần phải thường xuuyên kiểm tra theo dõi các nguồn vốn huy động được, tránh tình trạng sử dụng sai mục đích.
Trước mắt đối với các nguồn vốn, cơ sở vật chất hiện có của Công ty, để nâng cao hiệu quả sử dụng cần có các biện pháp sau:
- Tổ chức bố trí hoạt động của các chi nhánh, các khâu một cách khoa học, hợp lý.
- Theo dõi đầy đủ kịp thời thông qua hệ thống sổ sách, chứng từ có liên quan đến việc sử dụng các nguồn vốn hiện có.
- Đôn đốc công nợ, rà soát, theo dõi sát sao các khoản công nợ đặc biệt là các khoản nợ đến hạn. Trong vấn đề đôn đốc các khoản phải thu Công ty cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể.
Mục lục
A. Lời mở đầu
B. Nội dung
Chương 1:
C. Phần Kết luận
D. Danh mục tài liệu tham khảo
E. Nhận xét
Bảng 2: Kết qủa tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng năm 2001
Mặt hàng
ĐVT
Dư đầu kỳ
Mua vào trong kỳ
Tồn cuối kỳ
Tiêu thụ trong kỳ
Đơn giá bình quân (đồng)
Doanh thu (Triệu đồng)
Tỷ trọng%
1
2
3
4
5
6 = 3 +4 - 5
7
8= 6 x 7
1 Than cám
Tấn
26.094
507.554
36.648
497.000
182.121
55,04
-Cám 3
Tấn
23.601
444.313
31.914
436.000
370.000
161.320
-Cám 4a
Tấn
2.493
63.241
4.734
61.000
341.000
20.801
2. Các phụ gia
Tấn
5.418,78
1,64
-Xỉ pyrit
Tấn
20
20.039
3.613
16.500
145.000
2.392,5
-Đá bô xit
Tấn
533
12.010
2.313
10.230
186.000
1.902,78
-Quặng sắt
Tấn
-
6.811
1.111
5.700
135.000
769,5
-Cát tiêu chuẩn
Tấn
2
13,3
0,016
15,284
17.084.000
261,1
- Đá đen
-
1.659
-
1.659
56.000
92,9
3. Xi măng
Tấn
3.440
88.420
60.449,85
18,25
-XM Hoàng Thạch
Tấn
1.610
55.708
2.718
56.430
687.000
38.767,41
-XM Hải Phòng
Tấn
1.106
12.993
1.263
13.340
710.000
9.471,4
-XM Bút Sơn
Tấn
-
13.569
1.095
13.580
661.000
8.976,38
-XM khác
Tấn
-
-
-
5.070
638.000
3.234,66
4. Vận chuyển
Tấn
80.731
24,35
-Clinker
Tấn
394.000
198.000
78.012
-Than
Tấn
53.000
21.000
1.113
-Vận chuyển khác
Tấn
1.606
5. Kinh doanh khác
Tấn
2.134,37
0,72
Cộng
330.855
100
Bảng 3: Bảng phân tích kết quả tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ năm 2000 và năm 2001 của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng
Mặt hàng
Năm 2000
Năm 2001
So sánh tăng, giảm
Sản lượng
Doanh thu
Sản lượng ( tấn)
Doanh thu (triệu đồng)
Sản lượng (tấn)
Doanh thu (triệu đồng)
Mức tăng, giảm (tấn)
Tỷ lệ (%)
Mức tăng, giảm(triệu đồng)
Tỷ lệ (%)
1. Than cám
394.000
147.272
497.000
182.121
+103.000
+26,2
+34.849
+23,6
2. Các phụ gia
7.441
6002,1
-1.438,9
-19,3
- Xỉ pyrit
18.447
1.855
16.500
2.392,5
-1.947
-10,6
+537,5
+28,9
- Đá bô xít
5.505
1.051
10.230
1.902,78
+4.725
+85,8
+851,78
+81,0
- Quặng sắt
4.771
486
5.700
769,5
+929
+19,5
+283,5
+58,3
- Cát tiêu chuẩn ISO
2,7
46
15,284
261,1
+12,584
+466
+215,1
+467,6
- Thạch cao
11.233
3.859
-
-
-11.233
-100
-3.859
-
- Giấy Craff
24,526
144
-
-
-24,526
-100
-144
-
- Đá đen
-
-
1.659
92,9
+1.659
-
+92,9
-
3. KD xi măng
346.304
247.243
88.420
60.449,85
-257.884
-74,5
-186.793,15
-75,5
4. Vận chuyển
59.175
447.000
80.731
+21.556
+36,4
- Clinker
281.613
56.582
394.000
78.012
+112.387
+40,0
+21.430
+37,7
- Than
63.345
1.340
53.000
1.113
-10.345
-16,3
-227
-16,9
- Vận chuyển khác
1.253
1.606
+353
+28,2
5. Kinh doanh khác
2.981
2.134,37
-846,63
-28,4
Cộng:
464.112
330.855
-133.257
-28.7
Bảng 1: Kế hoạch tiêu thụ hàng, dịch vụ của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng năm 2001
Mặt hàng
ĐVT
Dư đầu kỳ
Mua vào trong kỳ
Tồn cuối kỳ
Tiêu thụ trong kỳ
Đơn giá bình quân (đồng)
Doanh thu (triệu đồng)
1
2
3
4
5
6 = 3 +4 - 5
7
8= 6 x 7
1 Than cám
Tấn
25.000
440.000
15.000
450.000
164.032
-Cám 3
Tấn
25.000
384.000
15.000
394.000
368.000
144.992
-Cám 4a
Tấn
-
56.000
-
56.000
340.000
19.040
2. Các phụ gia
Tấn
6.002,1
-Xỉ pyrit
Tấn
20
19.000
20
19.000
145.000
2.755
-Đá bô xit
Tấn
530
12.000
530
12.000
186.000
2.232
-Quặng sắt
Tấn
-
6.000
-
6.000
135.000
810
-Cát tiêu chuẩn
Tấn
-
12
-
12
17.091.000
205,1
3. Xi măng
Tấn
-
82.000
-
82.000
57.192
-XM Hoàng Thạch
Tấn
-
56.000
-
56.000
700.000
39.200
-XM Hải Phòng
Tấn
-
13.000
-
13.000
714.000
9.282
-XM Bút Sơn
Tấn
-
13.000
-
13.000
670.000
8.710
4. Vận chuyển
Tấn
75.072
-Clinker
Tấn
360.000
206.200
74.160
-Than
Tấn
57.000
16.000
912
5. Kinh doanh khác
Tấn
2.841
Cộng
305.139,1
Sơ đồ 2 : Sơ đồ tổ chức hệ thống kế toán của Công ty
Kế toán TSCĐ, trích khấu hao TSCĐ, trích nộp tiền thu sử dụng vốn, quản lý đầu tư XDCB, sửa chữa lớn
Kế toán công cụ dụng cụ, quản lý và cấp phát hoá đơn.
Các chi nhánh hạch toán báo sổ: Quảng Ninh, Hải phòng, Bỉm Sơn, Hoàng Thạch Bút Sơn, Phú Thọ, Đoàn vận tải , TT kinh doanh
Kế toán tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tạm ứng
Kế toán theo dõi công nợ phải thu, công nợ phải trả.
Kế toán theo dõi thuê vận chuyển.
Xử lý số liệu trên máy vi tính
Kế toán theo dõi chi tiêu các đơn vị trực thuộc
Chi nhánh Phả Lại
Tổng hợp quyết toán
Các loại sổ chi tiết hàng mua bán, công nợ
Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh
Bảng cân đối kế toán
Bảng 04: Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ năm 2001 của Công ty Vật tư- Vận tải- Xi măng
Mặt hàng
Sản lượng tiêu thụ (Tấn)
Đơn giá bình quân (Đồng )
Doanh thu tiêu thụ (1000 đồng)
KH
TT
So sánh (±)
KH
TT
So sánh (±)
KH
TT
So sánh (±)
Số tiền
Tỷlệ (%)
Số tiền (±)
Tỷlệ
(%)
Số tiền
Tỷ lệ (%)
1. Than cám
450.000
497.000
+47.000
+10,4
164.032
182.121
+18.089
+11
- Cám 3
394.000
436.000
+42.000
+10,7
368.000
370.000
+2.000
+0,5
144.992
161.320
+16.328
+11,3
- Cám 4a
56.000
61.000
+5.000
+8,9
340.000
341.000
+1.000
+0,3
19.040
20.801
+1.761
+9,2
2.Các phụ gia
37.012
34.104,23
6.002,1
5.418,78
-583,3
-9,7
- Xỉ pyrit
19.000
16.500
-2.500
-13,2
145.000
145.000
-
-
2.755
2.392,5
-362,5
-13,2
- Đá bôxit
12.000
10.230
-1.770
-14,8
186.000
186.000
-
-
2.232
1.902,78
-329,2
-14,8
- Quặng sắt
6.000
5.700
-300
-5,0
135.000
135.000
-
-
810
769,5
-40,5
-5,0
- Cát tiêu chuẩn
12
15,284
+3,284
+27,4
17.091.000
17.084.000
-7.000
-0,04
205,1
261,1
+56
+27,3
-Đá đen
-
1.659
+1.659
-
56.000
-
-
-
92,9
+92,9
-
3. Xi măng măng
82.000
88.420
+6.420
+7,8
-
-
57.192
60.449,85
+3.257,85
+5,7
- Hoàng Thạch
56.000
56.430
+430
+0,8
700.000
687.000
-13.000
-1,9
39.200
38.767,41
-432,6
-1,1
- Hải Phòng
13.000
13.340
+340
+2,6
714.000
710.000
-4.000
-0,6
9.282
9.471,4
+189,4
+2
- Bút Sơn
13.000
13.580
+580
+4,5
670.000
661.000
-9.000
-1,3
8.710
8.976,38
+266,38
+3,1
- Xi măng khác
-
5.070
5.070
-
-
638.000
-
-
-
3.234,66
+3.234,66
-
4.Vận chuyển
417.000
447.000
75.072
80.731
+5.659
+7,5
- Clinker
360.000
394.000
+34.000
+9,4
206.200
198.000
-8.200
-4,0
74.160
78.012
+3.852
+5,2
- Than
57.000
53.000
-4.000
-7,1
16.000
21.000
+5.000
+31,3
912
1.113
+201
+22
-Vận chuyểnạ khác
-
-
1.606
+1.606
-
5. KD khác
2.841
2.134,37
-706,63
-24,9
Cộng
305.139,1
330.855
+25.715,9
+8,43
Bảng 07: Bảng tổng hợp mức độ của các nhân tố đến doanh thu tiêu thụ
ĐVT: Triệu đồng
Mặt hàng
ảnh hưởng của nhân tố só lượng đến doanh thu tiêu thụ
ảnh hưởng của nhân tố kết cấu đến doanh thu tiêu thụ
ảnh hưởng của nhân tố giá bán đến doanh thu tiêu thụ
Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến doanh thu tiêu thụ
1. Than cám
- Cám 3
+15.224,16
+231,84
+872
+16.238
- Cám 4a
+1.999,2
-299,2
+61
+1.761
Cộng:
+17.223,36
-67,3
+933
+18.089
2. Phụ gia
- Xỉ pyrit
-339,967
-22,533
-
-362,5
- Đá bô xít
-275,43
-53,79
-
-329,2
- Quặng sắt
-99,95
+59,45
-
-40,5
- Cát tiêu chuẩn
-25,32
+81,43
-0,12
+56
Cộng:
-740,667
+64,557
-0,12
-676,23
3. Xi măng
- Hoàng thạch
+3.057,6
-2.819,6
-670,6
-432,6
- Hải Phòng
+724
-481,24
-53,36
+189,4
- Bút Sơn
+679,38
-290,78
-122,2
+266,38
Cộng:
+4.460,98
-3.591,62
-846,16
+23,18
4. Vận chuyển
- Clinker
+5.416,7
+1.666,1
-3.230,8
+3.852
- Than
+65,7
-129,7
+265
+201
Cộng:
+5.482,4
+1.536,4
-2.965,8
+4.053
Tổng hợp mức độ ảnh hưởng
+26.426,073
-2.058,023
-2.879,08
+21.488,95
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0240.doc