Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Tiểu luận: “ Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” Mở đầu ( lý do chọn đề tài ). Việt Nam là  một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đ

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2532 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam. Cùng say mê và quan tâm đến vấn đề này cả nhóm đã quyết định chọn đề tài làm tiểu luận để có thể có một cái nhìn tổng thể, toàn diện và rõ ràng sâu sắc hơn về đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nội dung 1.Thời kỳ trước đổi mới trước năm 1986 Giai đoạn, đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế-xã hội nổ ra, lạm phát tăng lên mức phi mã đặc biệt sau hai cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền.Nền kinh tế nước ta bắt đầu được xây dựng với những công tác đầu tiên là công cuộc công nghiệp hóa đất nước đẩy mạnh kinh tế. a. Bối cảnh Thời kỳ trước đổi mới , nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa qua 2 giai đoạn : từ năm 1960 đến 1975 triển khai ở miền Bắc và từ năm 1975 đến 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước. + Từ năm 1960 – 1975, miền Bắc đi lên xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu mà không qua giai đoạn phát triển Tư Bản Chủ Nghĩa. Miền Bắc vừa xây dựng bảo vệ đất nước vừa làm hậu phương vững chắc cho miền Nam. Trong thời gian này, đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ đại hội 3 của Đảng (9/1960). Đại hội khẳng định : muốn cải biến tình trạng nền kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa XHCN. Khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dừng CNXH ở nước ta. + Từ năm 1975 – 1985: sau đại thắng mùa xuân năm 1975 cả nước được độc lập, thống nhất và quá độ đi lên CNXH và kế hoạch đặt ra là xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. b. Nội dung: Đại hội 3 đã chỉ rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa XHCN là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đỗi và hiện đại, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH. Đây là mục tiêu cơ bản, lâu dài và phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa III) nêu ra phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp. Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với phát triển ưu tiên công nghiệp nặng. Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp địa phương. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế, đại hội IV của Đảng (12/1976) đề ra đường lối công nghiệp hóa XHCN tương tự như đại hội III. Xác định chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đây là sự điều chỉnh đúng đắn bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta lại không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này. Có thể thấy trước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới, giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn đầu tư…. Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chât và pháp lý đối với các quyết định của mình. Vì nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “ cấp phát - giao nộp” nên quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, phong cách cửa quyền. quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động. Nhà nước bao cấp từ giá cả ( định giá trị vật tư, thiết bị), bao cấp qua tem phiếu bằng cách quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức; bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách. Ở thời kỳ đó thì cơ thế này nó cho phép tận dụng tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể nhưng đồng thời nó lại thủ tiêu, cạnh tranh kìm hãm sự tiến bộ của khoa học công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Do thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa hận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. 2. Chủ trương xây dựng a. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Kinh tế  thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế –xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với tế nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba điểm rất cơ bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. b. Vậy tại sao phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? - Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. - Mô hình chủ  nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ  chức xã hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư  bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành công. - Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam . Mặt khác “cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”1. Chính vì vậy mà việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách. c. Chủ trương xây dựng Trước tình hình đó Đảng ta đã bắt đầu đề cập đến sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tại đại hội VI. Đại hội đã thảo luận và thông qua các nghị quyết về các văn kiện như :báo cáo chính trị; phương hướng; mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm năm 1986-1990; báo cáo về bổ sung điều lệ Đảng.Đại hội đã đánh giá những thành tựu những khó khăn của Việt Nam do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra. Những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của nhũng sai lầm đó, đặc biệt sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan là khuynh hướng trong buông lỏng quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Đồng thời Đảng cũng đề ra những mục tiêu cần đạt được cho những năm tiếp đó bằng cách đổi mới. Đổi mới về kinh tế là xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần .Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới về nội dung và cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương kinh tế: Sản xuất lương thực, thực phẩm Sản xuất hàng tiêu dùng Sản xuất hàng xuất khẩu Có thể nói: Trong tiến trình đổi mới đất nước, Đại hội VI  là bước đột phá đầu tiên về  đổi mới tư duy của Đảng về phát triển kinh tế. Đó là việc xác lập, xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp với sự vận động của quy luật khách quan và, trình độ của nền kinh tế. Đại hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, tạo ra sự ổn định về chính trị, xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng. Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (12-1986) khởi xướng đã mở đầu cho thời kỳ phát triển mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Trong quá trình đổi mới, trước hết và chủ yếu là đổi mới kinh tế (gắn với từng bước đổi mới chính trị), Đảng ta rất quan tâm tới vấn đề xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp với đặc điểm, trình độ phát triển của nền kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Mục tiêu đổi mới cơ cấu kinh tế cuối cùng cũng là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, tiến tới hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm vững chắc nền an ninh quốc phòng, sử dụng và phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước vào mục tiêu phát triển.      Cơ cấu kinh tế  là tổng thể các mối quan hệ hữu cơ  giữa các yếu tố, bộ phận hợp thành của nền kinh tế, trong đó các yếu tố, các bộ phận vừa tác  động qua lại lẫn nhau, vừa làm điều kiện cho nhau tồn tại trong một chỉnh thể. Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh tại, mà nó biến đổi cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một cơ cấu kinh tế phù hợp là cơ cấu được hình thành dựa trên cơ sở những tiền đề hiện thực, tuân thủ các qui luật kinh tế khách quan, chứ không phải là sự áp đặt của ý muốn chủ quan. Tuy vậy, trong mỗi giai đoạn, sự hình thành và biến đổi của cơ cấu kinh tế lại thông qua sự tác động của nhân tố chủ quan, của chủ thể lãnh đạo, quản lý nền kinh tế quốc dân.    Đại hội VI là bước phát triển về chất, là quá trình đổi mới tư duy của Đảng về xác lập đường lối phát triển kinh tế, là sự tổng kết thực tiễn. Ngay từ Đại hội IV (1976), Đảng ta đã xác định: Phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; kết hợp xây dựng công nghiệp với nông nghiệp trên phạm vi cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế Trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với việc xác lập và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Tiếp đó, đến Đại hội V (1982),  Đảng ta tiếp tục xác định: phải xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, chú trọng xây dựng hệ thống công nghiệp nặng tương đối phát triển làm nòng cốt củng cố nền kinh tế quốc dân.   Trong những năm 1976-1986, trên cơ sở cơ cấu kinh tế đã được xác định, trong chỉ đạo thực hiện, đã thiên về tập trung phát triển công nghiệp nặng qui mô  lớn, mà không chú ý phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, không tính tới những điều kiện và khả năng thực tế đất nước; “Chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội và bảo thủ, thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN và cơ chế quản lý kinh tế”. Do vậy, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra những năm cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ XX ở nước ta có nguyên nhân từ bố trí  cơ cấu kinh tế và cũng có nguyên nhân bắt nguồn từ những nhận thức chưa đầy đủ về thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, nên trong chỉ đạo thực hiện đã xuất hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết. Tuy nhiên, đánh giá  một cách khách quan, mặc dù còn không ít những khiếm khuyết, nhưng từ 1976 đến trước Đại hội VI (tháng 12 - 1986) Đảng ta đã tìm tòi, thể nghiệm và chuẩn bị những điều kiện, tiền đề cần thiết để đi tới xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp.   Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá một cách khách quan, Đại hội VI chỉ rõ phải nhận thức cho đúng về CNXH, về bố trí cơ cấu kinh tế, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử mới của đất nước và xu thế phát triển để đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về cơ cấu kinh tế. Và Đại hội cũng đã xác định rõ nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại trong chặng đường đầu tiên là phải tập trung “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Từ nhiệm vụ bao trùm đó, Đảng ta nhấn mạnh phải: “Dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất có qui mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”. Như vậy, so với trước năm 1986, trong bố trí cơ cấu kinh tế, vấn đề mới được Đại hội VI đặc biệt chú ý là tính “phù hợp điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”. Điều này khác hẳn  với tư tưởng chủ quan, nóng vội, thoát ly thực tế khách quan trong thời kỳ trước năm 1986 khi bố trí cơ cấu kinh tế thiên về công nghiệp nặng, chú trọng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất qui mô lớn mà chưa chú ý đúng mức đến phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, vì vậy đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp...    Từ cách đặt vấn đề như vậy, Đại hội VI đã nêu một số  quan điểm về xác lập cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi mới:    Thứ  nhất, phải nhận thức đầy đủ, toàn diện về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên CNXH, “thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn... độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội...”. Đối với nước ta, nhiệm vụ xây dựng những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cho thời kỳ quá độ đòi hỏi phải có thời gian dài hơn, vì xuất phát điểm kinh tế - xã hội của nước ta rất thấp, lại bị tổn thất nặng nề sau mấy chục năm chiến tranh và vẫn tiếp tục phải đối phó với những âm mưu xâm lược, phá hoại của kẻ thù. Việc khẳng định thời kỳ quá độ ở nước ta là lâu dài và rất khó khăn giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn trong xác định bố trí cơ cấu kinh tế của chặng đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ.   Thứ  hai, phải bố trí lại cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp với đặc thù tự nhiên, kinh tế - xã hội của Việt Nam trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ: phải phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và công nghiệp nhẹ tới một mức nhất định mới có đủ điều kiện phát triển công nghiệp nặng. Mức nhất định ở đây là giải quyết về cơ bản các nhu cầu của đời sống xã hội và tạo ra được nguồn tích lũy cần thiết để xây dựng công nghiệp nặng.   Căn cứ vào những quan điểm nêu trên, Đại hội VI đã đề ra mục tiêu phải thực hiện trong 5 năm (1986-1990): “Về lương thực, thực phẩm: Bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn xã hội và có dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động; Về hàng tiêu dùng: sản xuất đáp ứng được nhu cầu bình thường của nhân dân thành thị và nông thôn về những sản phẩm công nghiệp thiết yếu; Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đạt kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết”.   Để thực hiện thắng lợi 3 chương trình kinh tế lớn, phải tạo ra cơ cấu hợp lý giữa công nghiệp và nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa 2 ngành kinh tế này nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định. Nhưng ở mỗi giai đoạn, trong từng chặng đường, vị trí của nông nghiệp, công nghiệp có khác nhau. Trong chặng đường hiện nay, xuất phát từ “yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, về nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của nông nghiệp”.   Đối với công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, Đại hội cũng chỉ rõ: “đáp ứng cho được nhu cầu của nhân dân về những loại hàng hóa thông thường, bảo đảm yêu cầu chế biến nông, lâm, thủy sản, tăng nhanh việc làm hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu khác, đồng thời mở rộng mặt hàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng”. Với công nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng, quan điểm của Đại hội VI rất rõ ràng: “phải nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên, và theo khả năng thực tế... sản phẩm nào mà công nghiệp nặng nhất thiết phải tạo ra trong nước để phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ thì cố gắng làm với quy mô và kỹ thuật thích hợp... không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế, ngay cả để phục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.   Như vậy, nếu so sánh với thời kỳ 1976-1986, qua các kỳ Đại hội IV, V, quan điểm của Đảng tại Đại hội VI về bố trí cơ cấu kinh tế đã có sự đổi mới để phù hợp hơn với thực tiễn khách quan. Đã thực sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đặt đúng tầm và xác định đúng vị trí của nó và tập trung sức để thực hiện 3 chương trình kinh tế, coi đó như một hướng đi để dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế.  Về cơ cấu  đầu tư, Đại hội chỉ rõ: “Theo phương hướng bố trí lại cơ cấu kinh tế, phải  điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước nhằm tập trung cho việc thực hiện ba chương trình mục tiêu nói trên và bảo  đảm phát huy hiệu quả”. Tức là, phương hướng đầu tư cho những năm tới tập trung chủ yếu cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, còn công nghiệp nặng chỉ đầu tư cho những công trình nhanh chóng mang lại hiệu quả. Thực tiễn đã chứng minh quan điểm bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư của Đại hội VI là đúng đắn, phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội nước ta và có vai trò quyết định trong việc đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển vào những năm sau đó.   Thứ  ba, “Phải coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ” đi lên CNXH ở nước ta, và “Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo ngành, theo vùng, phải xác định đúng cơ cấu thành phần kinh tế” nhằm khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế phi XHCN vào xây dựng, phát triển kinh tế nước nhà, trước mắt là vốn đầu tư và giải quyết việc làm. Đại hội VI xác định, hiện nay nước ta còn tồn tại các thành phần kinh tế: kinh tế XHCN gồm quốc doanh và tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.Trên cơ sở  xác định các thành phần kinh tế, việc cải tạo XHCN cũng xuất phát từ sự nhận thức đầy đủ về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá  độ: “Cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế” bởi vì nó “cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế qui mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo”. Mọi hình thức cải tạo quan hệ sản xuất chỉ được coi là hợp qui luật khi nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và đưa tới năng suất lao động cao hơn, tạo điều kiện mở rộng tái sản xuất và nâng cao đời sống cho nhân dân.   Như vậy, một mặt Đảng ta thừa nhận còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, mặt khác đặt vấn đề cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân, nhưng không phải trong một thời gian ngắn vài ba năm, thậm chí một vài kế hoạch 5 năm, mà coi đó là nhiệm vụ tiến hành trong suốt thời kỳ quá độ. Đại hội VI phân tích rõ: “Mười năm qua, hai kỳ đại hội Đảng đều ghi vào nhiệm vụ căn bản hoàn thành cải tạo XHCN trong nhiệm kỳ đại hội đó, song đều chưa thực hiện được. Cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật. Nay phải sửa lại cho đúng như sau: “đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Vấn đề cải tạo và sử dụng các thành phần kinh tế được thực hiện theo phương châm: sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn. Đây là 2 mặt của một vấn đề trong thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Việc thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế và phương châm kết hợp cải tạo với sử dụng đã mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, dần ổn định tình hình kinh tế - xã hội như mục tiêu đã định.   Tuy nhiên, để tiến hành cải tạo XHCN một cách vững chắc và khai thác có hiệu quả những tiềm năng của các thành phần kinh tế phi XHCN, Đại hội VI nhấn mạnh: “làm cho kinh tế quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác”. Đây là điều kiện tiên quyết trong sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Cùng với quan điểm  đổi mới bố trí cơ cấu kinh tế, Đại hội VI cũng nhấn mạnh phải kiên quyết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (bao gồm hệ  thống các đòn bẩy kinh tế, các hình thức và biện pháp quản lý kinh tế cụ thể), nhằm giải quyết hiệu quả những mục tiêu, nhiệm vụ ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Việc đồng thời đổi mới cơ chế quản lý đã tạo điều kiện cho bố trí cơ cấu kinh tế mới phù hợp với tình hình đất nước thời kỳ đầu đổi mới phát huy được tác dụng. Sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI “nền kinh tế đang có những chuyển biến có ý nghĩa cả về cơ cấu và cơ chế quản lý. Đã bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản xuất đã có điều chỉnh quan trọng theo hướng tập trung cho ba chương trình kinh tế, đáp ứng có hiệu quả hơn những nhu cầu của thị trường trong nước và bước đầu mở rộng quan hệ với thị trường thế giới”.   Như vậy, trong đường lối đổi mới kinh tế được Đảng đề xướng tại Đại hội VI, vấn đề đổi mới bố trí cơ cấu kinh tế (cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế) được  đặt trong tổng thể đường lối đổi mới toàn diện và đồng bộ về kinh tế - xã hội, với những hình thức, biện pháp, bước đi tuần tự phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội đất nước trong chặng đường đầu thời kỳ quá độ. Đây là cơ sở thực tiễn, lý luận quan trọng cho Đại hội VII đề ra chủ trương hoàn thiện cơ cấu kinh tế và Đại hội VIII, IX đề ra chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.   Đến nay, chúng ta đã có cơ cấu kinh tế tương đối hợp lý và đang chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH, với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong xã hội; giá trị sản xuất của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP; công nghiệp đã tăng từ 21,6% (1988) lên 41% (2005); dịch vụ từ 33,1% lên 38,5%; nông nghiệp đã giảm từ 46,3% xuống còn 20,5%; các vùng kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm đã hình thành, phát triển trên cả nước. Những thành tựu mà đất nước đạt được trong những năm đầu và cả chặng đường gần 20 năm đổi mới, phát triển có nguyên nhân của sự tìm tòi, xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp, trong đó Đại hội VI đóng vai trò mở đầu, đột phá. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những chủ trương, chính sách mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải phóng năng lực sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất. Trong bối cảnh đất nước đang thay đổi: từ 1 nước thiếu đói đủ ăn, xuất khẩu gạo ra nước ngoài đứng hàng thứ 2,3 trên thế giới. Mức lạm phát 3 con số thì bị đẩy lùi và tiến tới điều chỉnh lạm phát, hàng tiêu dùng ngày 1 nhiều,SX được đẩy mạnh. Xã hội, đất nước còn người thì ngày càng đổi mới. Với những tồn tại: Phân hóa giàu nghèo ngày càng xa, các tiêu cực xã hội đã xuất hiện và phát triển nhanh. Sau 5 năm tiến hành đổi mới, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là về mặt kinh tế:  + Nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ do có chủ trương "khoán" thích hợp. Sản lượng lương thực, thực phẩm tăng nhanh. Từ 1 nước thiếu lương thực triền miên, nay không những đủ ăn mà còn trở thành 1 nước xuất khẩu gạo với số lượng lớn, đứng hàng thứ 3 về xuất khẩu gạo trên TG.  + Lạm phát trước đây ở mức rất cảo, nay đã khống chế được.  + Nền kt hàng nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đã được hình thành, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ cả sx và phân phối, lưu thông;  + Đời sống vật chất và văn hóa của đông đảo nhân dân có nhiều thay đổi lớn. Sự phát triển của xây dựng có những tiến bộ rõ rệt. . .  + Kt đối ngoại đã có những tiến bộ đáng kể. Tuy nước ta vẫn bị đế quốc mỹ áp đặt chính sách cấm vận và bao vây kt, nhưng do chính sách kt quốc tế thông thoáng: "đa phương hóa", "đa dạng hóa" các quan hệ đối ngoại, nên đã thu hút được nhiều tổ chức kt của các nước đến đầu tư...  + Văn hóa, giáo dục, y tế...cũng có những bước phát triển nhanh. Nhưng, quan hệ xh, trật tự kỷ cương xh và lối sống có nhiều diễn biến phức tạp. Tiêu cực xh và tệ nạn xh có chiều hướng gia tăng và nẩy sinh nhiều vấn đề bức xúc.  Thì Đại hội 7 diễn ra từ ngày 27-6-1991 tại Hà nội với những nội dung cơ bản là: kiểm điểm, tổng kết tình hình 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội đảng lần thứ VI, đánh giá thành tựu, tồn tại, rút ra các bài học kinh nghiệm lớn. Thông qua "cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN " và chiến lược ổn định và phát triển kt-xh đến năm 2000.  + Về kiểm điểm đánh giá tình hình, đại hội khẳng định: công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nền kt đã có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kt hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước...Tình hình chính trị của đất nước giữ được ổn định, sinh hoạt dân chủ trong xh ngày càng phát huy...  + Đại hội cũng nhận định là: thành tự đổi mới tuy đã đạt nhiều thành tựu quan trọng nhưng còn nhiều hạn chế. Nước ta còn nhiều yếu kém, vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kt-xh. Còn nhiều vấn đề kt, xh nóng bỏng chưa được giải quyết. Nước ta cũng còn đang đứng trước những khó khăn khách quan như vẫn còn bị đế quốc mỹ và các thế lực thù địch bao vây, cấm vận. Hệ thống XHCN thế giới đang khủng hoảng sâu sắc và đang đứng trước những thử thách quyết liệt.  + Đại hội chủ trương đẩy mạnh công cuộc đổi mới và xác định:  Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kt, xh; tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xh; đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng kt-xh hiện nay.  + Đại hội đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH là: Cương lĩnh đã trình bày tổng quát quá trình cách mạng VN từ khi đảng ra đời đến nay, nêu lên các bài học kinh nghiệm lớn và chỉ rõ bước quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Đặc biệt cương lĩnh đã nêu lên quan niệm của đảng về CNXH: vận dụng các quy luật chung về xây dựng xã hội chủ nghĩa đã nêu trong lý luận CN Mac-Lenin, tham khảo các mô hình XHCN đã được xây dựng ở Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN trên thế giới, và cũng từ thực tiễn xây dựng XHCN ở nước ta.  Đại hội VII có ý nghĩa lịch sử rất to lớn,đi vào lịch sử của 1 đại hội trí tuệ, đổi mới dân chủ, kỷ cường và đoàn kết. Thể hiện tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập tự chủ,tính sáng tạo của đảng và nhân dân ta trong việc tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, xây dựng con đường đi lên CNXH của nước ta trong điều kiện lịch sử mới. Việc đại hội thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tạo cơ sở ._.chính trị và tư tưởng cho toàn đảng, toàn dân thống nhất ý chí hành động để tiếp tục đi theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đại hội VII đã giúp nhân dân ta có thêm sức mạnh và niềm tin để vượt qua những thử thách vô cùng to lớn: sau khi Liên Xô sụp đổ, hệ thống XHCN ở Đông Âu tan vỡ nhưng xã hội chủ nghĩa VN vẫn đứng vững và tiếp tục giành được nhiều thắng lợi. Từ sau Đại hội VII, đường lối đổi mới của Đảng được phát triển toàn diện, đồng bộ hơn và ngày càng khẳng định trong thực tế góp phần  đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế-xã hội, ổn định chính trị trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương từ sau Đại hội VII đến trước Đại hội VIII, theo thời gian: 27-6-1991; từ 21- 11 đến 4-12-1991; 18 đến 29-6-1992; 10 đến 14-1-1993; 3 đến 10-6-1993; 24-11 đến 1-12-1993; từ 17 đến 18-1-1994; từ 20 đến 25-1-1994 (Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ tổng kết những thực tiễn của đổi mới từ Đại hội VI, khẳng định kiên trì đổi mới đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội...giữ vững ổn định chính trị. Hội nghị này đã bổ sung 20 ủy viên Trung ương Đảng); 25 đến 30-7-1994; 16 đến 23-1-1995; 6 đến 14-11-1995. Tiếp tục đường lối trên đất nước ta đã trải qua việc thực hiện công cuộc đổi mới hơn 10 năm và đạt được những thắng lợi to lớn, được nhân dân ủng hộ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 diễn ra từ ngày 28/06 – 01/07/1996 tại Hà Nội nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng đã tổng kết đánh giá và kiểm điểm 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của đại hội 6 và 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội 7, đề ra nhiệm vụ, chủ trương nhằm thừa kế, phát huy những thành tựu và ưu điểm đã đạt được; tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để đưa sự nghiệp đất nước tiến lên. Xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và nhận định Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội cũng như căn cứ vào cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc XHCN, nhấn mạnh đất nước đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đề ra và thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 với mục tiêu: đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển toàn diện đồng bộ; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và phấn đấu đạt, vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh hiệu quả cao, bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội; cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Kế hoạch 5 năm do đại hội đề ra đã đạt được những thành tựu trên các lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới: Phát triển kinh tế vẫn giữ vững được nhịp độ cao, những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch hoàn thành vượt mức. Tổng sản phẩm trong nước đã tăng 7%/năm, công nghiệp tăng 13.5%/năm. Cơ cấu kinh tế thay đổi, tỉ trọng công nghiệp tăng 36.6% và tỉ trọng nông nghiệp giảm 24.3%. Kinh tế đối ngoại phát triển: xuất khẩu đạt tới 51.6 tỉ USD, nhập khẩu đạt 61 tỉ USD, có quan hệ buôn bán với hơn 140 nước, nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho tư nhân. Vốn đầu tư nước ngoài tăng, đạt trên 40 tỉ USD và đã bắt đầu đầu tư sang nước khác. Khoa học công nghệ, văn hóa xã hội phát triển, thu nhập quốc dân tăng và giải quyết được nạn đói. Chính trị- xã hội, quốc phòng được củng cố, quan hệ đối ngoại được mở rộng. Đồng thời những kết quả với những ý nghĩa lớn lao như thế đất nước ta vẫn gặp phải không ít hạn chế và khó khăn. Nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát triển vững chắc, lạc hậu, trình độ kém, thu nhập quốc dân và năng suất còn thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc cao. Xã hội nảy sinh những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng lãng phí, buôn lậu…Trình độ khoa học kỹ thuật kém không đáp ứng được nhu cầu của đất nước, tình trạng “ chảy máu chất xám” nhiều. Vì thế với những thách thức này việc nhanh chóng nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân ta. Đại hội 9 diễn ra tại Hà Nội từ ngày 19 đến 22/4/2001 đã xác định mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Và cũng tại đại hội đã xác định rõ ràng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “ một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật kinh tế của thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất chủ nghĩa xã hội”. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh nhằm mục đích là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến. Đại hội chỉ rõ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đó Đảng đã đề ra phương hướng là: 1 – Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. 2 – Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. 3 – Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội. Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 4 – Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới. Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác. Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế (?). Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra. Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước. Trên cơ sở thực tiễn đất nước và kế thừa tư duy của đại hội 9, đại hội 10 đã làm sáng tỏ them nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Đại hội tổ chức từ ngày 18-25/4/2006 tại Hà Nội nhằm “ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Ngày 03/02/2006 lãnh đạo Đảng cộng sản đã phát động phong trào xin ý kiến nhân dân về dự thảo báo cáo của Đảng. Trong thời hạn một tháng văn phòng TW Đảng đã nhận trên 1400 lá thư góp ý về đường lối Đảng. Ngoài ra nhân dân cũng gửi ý kiến đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiều báo chí Việt Nam đã mở ra diễn đàn, đưa ý kiến của các trí thức về định hướng của Đảng. Đại hội lần thứ X tiếp tục chính sách đổi mới, đồng thời cho phép Đảng viên làm kinh tế tư nhân. Đại hội đã thông qua những quyết sách quan trọng trên tất cả các lĩnh vực cơ bản và trọng yếu của sự nghiệp phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, thông qua những nhiệm vụ to lớn nhằm tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao tầm trí tuệ, bản lĩnh chính trị và đạo đức, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực. Đồng chí Tổng bí thư khẳng định: “chúng ta đặc biệt coi trọng các biện pháp có hiệu quả nhằm phát huy cao nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng sự vững mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị, đẩy mạnh đồng bộ cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tham nhũng, quan liêu, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn này làm lành mạnh tổ chức và bộ máy của chúng ta”. Một nội dung quan trọng trong diễn văn bế mạc đại hội, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh khẳng định: “ Đại hội đã bầu ra Ban Chấp Hành TW khóa X gồm những đồng chí tiêu biểu cho 3.1 triệu Đảng viên, có đủ tiêu chuẩn, phẩm chất và năng lực để ghánh vác trọng trách do Đảng và nhân dân giao phó”. Các văn kiện được thông qua tại Đại Hội lần này là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân ta, là tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 20 năm đổi mới để tiếp tục hoàn thiện và phát triển đường lối, quan điểm đổi mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đại hội đề cập đến 10 thành tựu về kinh tế xã hội trong 20 năm đổi mới. Đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất, tạo tiền đề cho giai đoạn mới. Tạo được những tiền đề phát triển kinh tế xã hội theo sự nghiệp Công Nghiệp Hóa Hiện đại hóa đất nước. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế để phát huy tiềm năng của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại, tăng khả năng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đạt được những thành tựu đáng kể trong giải quyết các vấn đề xã hội và xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra Đại hội cũng nhất trí mức tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm tới là 7.5 – 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Đại hội này cũng đề ra những tiêu chí là: Thứ  nhất, về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nhằm: thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Như vậy, mục tiêu trên  đã thể hiện mục đích của phát triển kinh tế  thị trường định hướng XHCN là vì con người. Con người phải luôn luôn được chú trọng, đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Trên  cơ sở giải phóng mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, làm cho mọi người đều được hưởng thành quả của sự phát triển. Thứ  hai, về phương hướng phát triển, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Chúng ta phải thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là nhằm giải phóng sức sản xuất, giải phóng tiềm năng phát triển trong mỗi thành phần kinh tế, mỗi cá nhân, mỗi vùng miền... là cách để phát huy tối đa nội lực, tạo sức bật để phát triển nhanh và bền vững. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi vì: giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là sự thể hiện định hướng XHCN của nền kinh tế; kinh tế nhà nước là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giữ được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được những vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh, chứ không phải dựa vào bao cấp, "xin - cho" hay độc quyền kinh doanh. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hóa là con đường chủ yếu nâng cao hiệu quả kinh doanh, là cách thức để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng là một phương thức kết hợp để vừa phát huy được những sức mạnh của nhau tạo động lực cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững, vừa hạn chế được cả những mặt tiêu cực của thị trường và những biểu hiện quan liêu, kém hiệu lực của điều tiết nhà nước. Thứ  ba, về định hướng xã hội và phân phối: Phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Quan tâm giải quyết các vấn  đề xã hội không chỉ để bảo đảm sự phát triển bền vững, mà còn là sự thể hiện rõ định hướng phát triển nền kinh tế. Thể hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong từng chính sách phát triển, chính là để hạn chế tiêu cực của kinh tế thị trường, nhằm từng bước thực hiện mục tiêu tất cả vì sự phát triển toàn diện của con người. Tăng trưởng phải đi đôi với phát triển các lĩnh vực xã hội. Bởi lẽ, các lĩnh vực xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là điều kiện cho sự phát triển nhanh và bền vững. Thứ  tư, định hướng XHCN trong lĩnh vực quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế thị  trường định hướng XHCN, người lao động là người chủ xã hội. Người công nhân dù làm trong xí nghiệp tư nhân vẫn là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng XHCN. Định hướng XHCN là một tất yếu, là sự lựa chọn phù hợp với nội dung của thời đại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Định hướng XHCN ở nước ta là nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với XHCN thể hiện trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi vậy, trong thời gian tới việc đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường ở nước ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau: 1 - Xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết  định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là  điều kiện chính trị tiên quyết bảo đảm có  một Nhà nước đủ mạnh, trong sạch để quản lý toàn bộ quá trình phát triển kinh tế thực hiện theo định hướng XHCN. Vì vậy, cần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, chống lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ. Cần xây dựng Đảng thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, biến chất. Chú trọng xây dựng và củng cố các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. không ngừng đào tạo, rèn luyện và kết nạp được những quần chúng ưu tú vào hàng ngũ của Đảng. 2 - Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở  hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó xây dựng kinh tế nhà nước vững mạnh đủ sức nắm giữ vai trò chủ đạo, cùng với nó là kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời phát huy cao nhất sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế khác hoạt động lâu dài trong khuôn khổ của pháp luật tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 3 - Nâng cao vai trò  và hiệu lực quản lý  của Nhà nước, đây là yếu tố quan trọng bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế. Do vậy, Nhà nước cần tập trung làm tốt 4 chức năng sau: - Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường. - Tạo môi trường pháp lý  và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển. - Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã  hội, hệ thống an sinh xã hội. - Bảo đảm tính tích cực và bền vững của các cân đối kinh tế vĩ  mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. 4 - Tích cực  đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chống chủ nghĩa cá nhân. Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trở thành một nhiệm vụ cấp bách trước mắt của toàn Đảng, toàn dân ta. Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định: "Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội"(4). Do vậy, vấn đề này cần phải được nhìn nhận thẳng thắn, trực diện và thực hiện một chiến lược triệt để phòng, chống tham nhũng một cách thật sự hiệu quả với sự tham gia của toàn Đảng, toàn dân và các thành phần kinh tế. Trước hết là đổi mới, hoàn thiện thể chế và chính sách, giảm bớt và loại bỏ những kẽ hở; đồng thời luôn luôn giáo dục con người ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai đối với những cán bộ, công chức tham nhũng. 5 - Thực hiện sự  thống nhất, gắn bó hữu cơ  giữa phát triển kinh tế  với thực hiện tiến bộ  và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển ở tất cả các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt vấn đề phân phối, đặc biệt chú trọng quản lý thật tốt thu nhập cá nhân từ đó xây dựng cơ chế điều tiết phân phối thu nhập, hình thành nên chính sách phân phối hợp lý, bảo đảm tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. 6 - Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để giữ  vững an ninh quốc gia, ổn  định chính trị - xã  hội. Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã nêu rõ: "...nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và bảo đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng, an ninh"(5). Như vậy, để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thì lực lượng quốc phòng phải đủ mạnh, phải là công cụ sắc bén để đủ sức mạnh chủ động đập tan mọi âm mưu phá hoại, xâm lược, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong bất cứ tình huống nào, tạo ra môi trường kinh tế - chính trị - xã hội ổn định, thuận lợi,...cũng là giữ vững định hướng XHCN. Đại hội X là bước chuẩn bị cơ bản cho đại hội 11. Đại hội quan trọng này dự thảo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ( bổ sung, phát triển) đã được hội nghị thảo luận, làm rõ hơn một số vấn đề tiếp tục hoàn chỉnh. Về chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020 cũng như hội nghị thảo luận, làm rõ them một số vấn đề. Dự thảo chiến lược này được xây dựng trên cơ sở quán triệt quan điểm phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt, là cơ sở vững chắc để phát triển nhanh trong quá trình thực hiện chiến lược đổi mới đồng bộ các lĩnh vực vì mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh… Hội nghị cũng thảo luận và góp ý nhiều nội dung trong đề cương chi tiết báo cáo chính trình Đại hội XI của Đảng. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều là vì lợi ích của đất nước, vì một Việt Nam xã h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV1217.doc
Tài liệu liên quan