Giải pháp mở rộng cho vay đới với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động ngày càng sâu sắc đến tất cả các nền kinh tế trên thế giới, các quốc gia muốn phát triển không thể không tham gia vào quá trình hội nhập. Đứng trước những đòi hỏi cấp bách của hội nhập, phát triển kinh tế, chúng ta đã thực hiện những cải cách mở cửa trong các ngành nghề và lĩnh vực của cuộc sống. Ngành ngân hàng tài chính là một trong những ngành kinh tế trụ cột của quốc gia cũng đã có rất nhiều điều chỉnh, thay đổi để bắt kịp với nhu cầu hội

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1026 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng cho vay đới với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập. Một trong những thay đổi mang tính bước ngoặt đó là khi chúng ta tham gia vào lộ trình mở cửa ngành tài chính ngân hàng tài chính khi Việt Nam gia nhập WTO. Thực hiện mở cửa ngành ngân hàng đồng nghĩa chúng ta chấp nhận những cạnh tranh ngày một gay gắt hơn giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, cạnh tranh giữa NHTM cổ phần và NHTM ngoài quốc doanh. Chính cạnh tranh của các ngân hàng, đặc biệt là các NHTM nhà nước phải thực hiện đa dạng hóa khách hàng, thực hiện đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp, nâng cao chất lượng các dịch vụ … Khách hàng của các NHTM quốc doanh sẽ không chỉ tập trung vào khối các doanh nghiệp nhà nước mà còn mở rộng sang đối tượng khách hàng đầy tiềm năng là khối các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Đây là khách hàng hứa hẹn những khoản thu nhập lớn cho các ngân hàng trong thời gian tới, nhất là khi chúng ta hội nhập toàn diện và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là ngân hàng có truyền thống lâu đời và được nhiều thành tựu trong 50 năm hoạt động vừa qua.Trong quá trình thực tập, nghiên cứu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, tôi nhận thấy khách hàng của sở vẩn tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước, tín dụng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được quan tâm thích đáng. Chính điều này đã làm tính nhanh nhạy trong hoạt động của ngân hàng, tăng tính phụ thuộc của ngân hàng vào các khách hàng lớn là các doanh nghiệp nhà nước,bởi vậy tôi quyết định chọn đề tài thưc tập nghiên cứu là : “ Giải pháp mở rộng cho vay đới với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I – ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” Đề tài được chia làm ba phần: Chương 1: Lý luận chung về cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại các ngân hàng thương mại. Chương 2 : Thực trạng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tai Sở giao dịch I – ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CÁC NHTM Lý luận chung về doanh nghiệp ngoài quốc doanh Khái niệm và phân loại Khái niệm Doanh nghiệp ngoài quốc doanh( DNNQD) được hiểu một cách chung nhất là được hình thành trên cơ sở tư hữu tư nhân về tư hữu sản xuất, DNNQD là đơn vị sản xuất kinh doanh có tính chất tư hữu, được thể hiện DNNQD thuộc sở hữu một cá nhân hoặc một nhóm người có vốn và tài sản đầu tư vào doanh nghiệp, có quyền quản lý và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. DNNQD có thể được hiểu là các doanh nghiệp mà phần vốn góp do các chủ thể kinh tế ngoài nước đóng góp hoặc một phần vốn góp của nhà nước thấp hơn 49% tổng nguồn. Trong nền kinh tế thị trường các loại hình doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú có thể phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Phân loại theo tiêu thức hình thức sở hữu bao gồm ba loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Phân loại Nếu phân chia DNNQD theo hình thức pháp lý sẽ bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau, các cổ đông nắm giữ các cổ phần, chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp. Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên: là thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên tối thiểu là hai thành viên, tối đa không quá 50 thành viên. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp. Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân ,hộ gia đình có nhu cầu ,lợi ích chung ,tự nguyện góp vốn ,góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã. Công ty hợp danh: doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài ra có thể có thể có các thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm về số vốn góp của mình về các nghĩa vụ của công ty, thành viên gốp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Cho vay đối với DNNQD của NHTM . Hoạt động cho vay của các NHTM. Nguyên tắc cho vay của các NHTM Ngân hàng là tổ chức tài chinh quan trọng trong nền kinh tế, thực hiện chức năng trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. ngân hàng là trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Để thực hiện vai trò này ngân hàng phải tiến hành huy động vón và cho vay. Cho vay là hoat động mang lại lợi nhuận cao nhất trong cơ cấu tài sản của ngân hàng. Hoạt động cho vay của NHTM phải đảm bảo các nguyên tắc nhất định nhằm mục tiêu tính an toàn va mục tiêu sinh lợi. các nguyên tắc này bao gồm: Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng đúng mục đích đã thõa thuận với ngân hàng. Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định. Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án(dự án) co hiệu quả. Nguyên tắc thứ nhất chỉ thực hiện được khi nguyên tắc thứ ba này thực hiện. Phân loại cho vay Việc cho vay của ngân hàng có thể được phân chia dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau: Theo tiêu thức thời gian được chia thành cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn Theo đối tượng khách hàng được chia thành cho vay nhà nước, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân… Theo hình thức tài trợ được chia thành cho vay bảo lãnh, cho thuê, chiết khấu thương phiếu… Theo rủi ro được chia thành tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn và có khả năng thu hồi, nợ quá hạn khó đòi… Ngoài ra có thể phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau nhu ngành nghề kinh tế, theo tài sản đảm bảo, theo mục đích sử dụng… Các NHTM có thể cho vay với các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài với các hình thức sau: Cho vay trực tiếp từng lần. Đây là khoản cho vay ngắn hạn, khách hàng không có nhu cầu thương xuyên, không đủ điều kiện cấp hạn mức thấu chi. Vốn ngân hàng chi tham gia vào một đoạn nhất định của quá trình sản xuất. các khoản vay này chủ yếu để tai trợ cho nhu cầu lưu động vốn của doanh nghiệp. Thấu chi. Là nghiệp vụ cho vay ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tài khoản khách hàng đến một giới hạn nhất định và giới hạn đó được gọi là hạn mức thấu chi. Ngân hàng sẽ thu gốc và lãi khi tiền về tài khoản. Số lãi khách hàng phải trả: Số lãi phải trả = lãi suất thấu chi*thời gian thấu chi*số tiền thấu chi Các khoản chi quá mức thấu chi sẽ chịu lãi phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Hình thức thấu chi được sử dụng với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn, kì thu nhập thập. Cho vay theo hạn mức. Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng, hạn mức này có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đây là khoản vay dài hạn, hạn mức được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhau cầu vốn của khách hàng. Tùy từng ngân hàng có cách tính hạn mức khác nhau. Các khoản cho vay sẽ đươc trả dần và thanh toán trên cơ sở dòng thu nhập tương lai của doanh nghiệp. Cho vay theo dự án. ` Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng nhà cửa, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích và kế hoạch đầu tư, quá trình thực hiện dự án. Ngân hàng đặc biệt quan tâm tới thời gian và nguồn trả nợ ngân hàng. Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng, thỏa thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định kỳ hạn nợ, mức lãi suất … Nhu cầu đầu tư = Nhu cầu đầu tư + Nhu cầu đầu tư Theo dự án vào tài sản cố định vào tài sản lưu động Mức cho vay = Nhu cầu vốn của + vốn tự có của + vốn khác Phương án, dự án chủ dự án (nếu có) Thời hạn cho vay = Nhu cầu xây dựng cơ bản + Thời gian trả nợ Cho vay hợp vốn. Các công trình dự án đầu tư có tổng dự toán lớn vượt quá thời hạn cho vay sẽ áp dụng phương thức cho vay hợp vốn. Ngân hàng sẽ tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng sau đó giữ vai trò ngân hàng đầu mối kêu gọi các ngân hàng khác, các tổ chức tín dụng khác cùng cho vay đối với một dự án hay một phương án vay vốn của khách hàng.Ngân hàng đầu mối sẽ tiến hành giải ngân, thu lãi, thu nợ và phân bổ số vốn gốc và lãi thu được cho ngân hàng theo tỷ lệ góp vốn. Cho vay trả góp Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng thỏa thuận. Khi cho vay, ngân hàng cùng khách hàng xác định và thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc thu được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay Phương thức cho vay khác Ngoài phương thức cho vay trên ngân hàng cho khách hàng vay vốn theo một số phương pháp khác như cho vay luân chuyển, cho vay gián tiếp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng … Vai trò của tín dụng ngân hàng với DNNQD. Thúc đẩy khả năng cạnh tranh và uy tín của các DNNQD Trong nền kinh tế thị trường yếu tố cạnh tranh là tất yếu, các doanh nghiệp không thể loại bỏ mà chỉ có thể điều chỉnh cho phù hợp. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều đối thủ cạnh tranh nhất là khi chúng ta đã gia nhập WTO. Chúng ta chịu sức ép cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã hàng hóa, cạnh tranh về thị phần, cạnh tranh nguồn nguyên liệu, nhân lực. Cùng với đó là sự xâm nhập của hàng giả, hàng nhập lậu … Các DNNQD không chỉ cạnh tranh với doanh nghiệp quốc doanh mà còn chịu sự cạnh tranh lớn từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này buộc các doanh nghiệp phải đầu tư cho công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ công nhân, đội ngũ cán bộ quản lý … Cung cấp vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNNQD Các doanh nghiệp luôn hướng tới một cơ cấu vốn tối ưu bao gồm hai nguồn vốn tự có và vốn đi vay. Một cơ cấu vốn hợp lý và duy trì một tỷ lệ thích hợp giữa vốn vay trên vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn vay của các DNNQD có thể gồm: vốn vay ngân hàng, vốn tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu và cổ phiếu, vốn vay khác. Nguồn vốn của các DNNQD chưa thực sự đủ lớn do quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ, muốn tiến hành sản xuất lớn các doanh nghiệp phải tiến hành vay vốn. Trong các nguồn có thể vay thì vốn tín dụng ngân hàng ở các doanh nghiệp vẫn là quan trọng nhất do thì trường vốn vẫn quản trọng nhất do thị trường vốn vẫn chưa phát triển. Có thể khẳng định rằng không một doanh nghiệp nào muốn phát triển mạnh mẽ mà không sử dụng ít nhất một dịch vụ do ngân hàng nào cung cấp. Vốn ngân hàng có vai trò đặc biệt trong thực hiện phương án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu. Thực tế, các DNNQD phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên nhu cầu vay vốn các lớn, khi vay vốn doanh nghiệp phải trình phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả và thuyết phục nhất nên việc lập và chuẩn bị phương án đầu tư sẽ có sự tính toán kỹ lưỡng. Sau khi giải ngân vốn, ngân hàng sẽ theo dõi các khách hàng có sử dụng sai mục đích các khoản vay, làm ăn thực sự có lãi, không vi phạm pháp luật … Nhờ vậy có thể khẳng định trong điều kiện hiện nay của các DNNQD Việt Nam sự tham gia của các ngân hàng với vai trò người cung cấp tín dụng, người tư vấn là quan trọng và cần thiết. Mở rộng cho vay đối với DNNQD Mở rộng cho vay của NHTM Khái niệm mở rộng cho vay Mở rộng cho vay là sự tăng lên về số lượng và quy mô cho vay mà ngân hàng thực hiện đối với đối tượng khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh ngày càng đa dạng của các khách hàng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, phù hợp xu hướng phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay Người ta có thể căn cứ vào chỉ tiêu định tính hoặc định lượng để xác định kết quả của việc mở rộng cho vay, hoặc sử dụng tổng hợp cả hai chỉ tiêu để đánh giá. Chỉ tiêu đinh lượng bao gồm sự tăng lên của đối tượng vay vốn, số dư nợ và số lượng khách hàng. Chỉ tiêu định tính thường sử dụng là sự thay đổi cơ cấu khoản vay, cơ cấu khách hàng vốn vay, hình thức đảm bảo Số dư nợ Dư nợ theo quan điểm điểm của ngân hàng đều được hiểu là số tiền đang cho vay đến thời điểm tính. Khi đánh giá kết quả mở rộng cho vay trong ngân hàng người ta thường so sánh số dư nợ tăng( giảm) so với kỳ trước hoặc tăng( giảm) so với kế hoạch. Tỷ trọng dư nợ Bằng số dư nợ với DNNQD/ tổng dư nợ Tổng dư nợ có thể là tổng dư nợ của các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Tỷ lệ này tăng lên khi so sánh với kỳ trước hoặc kỳ kế hoạch chứng tỏ ngân hàng ngày càng coi trọng cho vay với đối tượng DNNQD. Khi sử dụng chỉ tiêu này phải so sánh với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn Tốc độ tăng dư nợ( k) K= dư nợ DNNQD(n+1)/ dư nợ DNNQD(n) Chỉ tiêu này phản ánh mức độ mở rộng cho vay với doanh nghiệp. Nó phản ánh mức độ tăng lên của dư nợ của kỳ này so với kỳ trước là bao nhiêu lần. Nhưng nếu chỉ sử dụng chỉ tiêu này thì chưa phản ánh chính xác kết quả hoạt động mở rộng cho vay. K<1: ngân hàng thu hẹp quy mô cho vay k>1& lớn hơn tốc độ tăng của các loại hình doanh nghiệp khác có nghĩa là ngân hàng đã mở rộng cho vay k>1 & nhỏ hơn tốc độ tăng nhanh của các loại hình doanh nghiệp khác, có nghĩa đây chỉ là sự tăng lên cơ học đơn thuần của số dư nợ. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = nợ quá hạn/ tổng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro tín dụng, là lời cảnh báo cho các ngân hàng: khả năng thu hồi lại tiền vay là không chắc chắn, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để thu hồi. Chỉ tiêu này không trực tiếp phản ánh việc mở rộng cho vay nhưng nó rất quan trọng để đánh giá tính an toàn và hiệu quả trong mở rộng cho vay Thu nhập của ngân hàng từ cho vay với DNNQD kỳ này so với kỳ trước Mức sinh lời bình quân của các DNNQD được vay vốn tại ngân hàng so với mức sinh lời của các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh số cho vay và doanh số thu nợ Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng cho vay trong kỳ. Doanh số thu nợ phản ánh tổng số tiền vay thu về trong kỳ, Cả hai chỉ tiêu trên đều mang tính thời kỳ. Thông thường dư nợ cho vay càng cao kèm theo doanh số cho vay và doanh số thu nợ càng cao thì phản ánh quy mô cho vay của ngân hàng càng lớn và ngược lại. Một số chỉ tiêu khác Số lượng DNNQD vay vốn tại ngân hàng: là số lượng DNNQD đến vay vốn ngân hàng trong một thời kỳ thường là một năm. Chỉ tiêu này phản ánh việc mở rộng cho vay một cách cụ thể nhất, dễ nhận ra nhất. Nhưng khi nghiên cứu chỉ tiêu này phải đặt trong quan hệ với chỉ tiêu khác. Cho vay DNNQD theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh Cho vay DNNQD theo lãnh thổ, quốc gia Mối quan hệ giữa mở rộng cho vay và chất lượng cho vay . Một khoản vay được coi là có chất lượng khi nó mang lại lợi ích cho tất cả ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên, theo các giác độ khác nhau thi chất lượng cho vay được xem xét khác nhau: - Đối với khách hàng: chất lượng cho vay được hiểu là sự phù hợp với mục đích sử dụng,khới lượng tín dụng được đáp ứng với thời gian và lãi suất hợp lí. Với doanh nghiệp thì chất lượng khoản vay cao khi chi phí cho vay thấp, nhanh gọn, kịp thời Đối với ngân hàng : chất lượng cho vay là sự đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng nhưng phải phù hợp với thực lực của ngân hàng ở phạm vi, mức độ, giới hạn cho vay nhằm đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro về vốn của ngân hàng và phù hợp với mục tiêu phát triển của ngân hàng Nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay với DNNQD Ngân hàng Chính sách cho vay. Với mỗi ngâng hàng, hoạt động cho vay luôn là hoạt động phong phú, đa dạng đồng thời củng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để thực hiện thống nhất, đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững các ngân hàng tiến hành xây dựng chính sách cho vay áp dụng thống nhất cho các khách hàng. Các DNNQD hiện nay phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn sản xuất không lớn. bởi vậy nhu cầu vay vốn của loại hình doanh nghiệp này là rất lớn. Nhưng trên thực tế, mặc dù đây là những khách hàng đầy tiềm năng và khát vốn nhưng các ngân hàng lại không quá mặn mà với họ chỉ trừ các DNNQD có mô hình vốn sản xuất tương đối lớn. Bởi lẻ với chi phí tìm hiểu, thẩm định doanh nghiệp gần như ngang nhau thì tất nhiên ngâng hàng sẽ muốn cho vay vối đối tượng có khả năng thu hồi vốn và lãi cao, rủi ro thấp hơn, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn. Các ngân hàng còn nhiều chần chừ và e ngại trong việc cho vay với DNNQD bởi các nguyên nhân chủ yếu sau: thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, thiếu chiến lược sản phẩm. Trong chính sách khách hàng ngân hàng sẽ tiến hành phân loại khách hàng truyền thống, khách hàng VIP, khách hàng quan trọng và khách hàng khác. Từ những phân tích đánh giá khách hàng, ngân hàng sẽ đưa ra các quyết định như chính sách lãi suất, tài sản đảm bảo, kỳ hạn thu nợ … Khi chính sách khách hàng hướng về một đối tượng đó có rất nhiều ưu đãi. Trong thời gian trước các NHTM nước ta chưa thực sự chú trọng vào cho vay DNNQD; thời gian gần đây quan niệm của ngân hàng với các khách hàng nhỏ thuộc khu vực ngoài quốc doanh đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, việc cụ thể chúng thành trong các chính sách cụ thể thì chưa rõ ràng, chưa có tính thống nhất. Bởi vậy, chính sách cho vay của các ngân hàng cần định hướng rõ ràng, cụ thể quan điểm cho vay và mở rộng cho vay với DNNQD. Các chính sách về cung cấp sản phẩm dịch vụ cho các loại khách hàng cần cụ thể hơn và gần với đặc điểm các loại hình doanh nghiệp hơn. Quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng Quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp, do vậy có ảnh hưởng tới mở rộng cho vay. Phạm vi và quy mô càng rộng thì khách hàng có nhiều cơ hội và thuận tiện khi tiếp cận vốn ngân hàng, nhu cầu về vốn của khách hàng với ngân hàng tăng. Đối tượng khách hàng là các DNNQD hoạt động trong nhiều lĩnh vực của đời sống, địa bàn hoạt động rộng trên cả nước, bởi vậy khi ngân hàng có quy mô và phạm vi hoạt động rộng lớn sẽ có được nhiều thuận lợi khi tiến hành các giao dịch với đối tượng khách hàng này. Hơn nữa, ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng khắp tạo niềm tin cho khách hàng về hình ảnh ngân hàng hiện đại và vững mạnh. Khả năng tài chính của ngân hàng Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động mở rộng cho vay. Ngân hàng có cơ cấu vốn lớn có thể mở rộng cho vay với kỳ hạn dài hơn, khả năng chịu đựng rủi ro cao hơn, dễ chấp nhận đầu tư mạo hiểm. Các DNNQD rất đa dạng, quy mô vốn vay cũng khác nhau. Nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh quy mô lớn trong khi nhiều khách hàng khác lại có nhu cầu vay các món nhỏ, không tập trung. Bởi vậy, ngân hàng với tiềm lực tài chính mạnh sẽ có khả năng thỏa mãn được nhu cầu đa dạng của khách hàng. Hơn nữa theo quy định của NHNN các NHTM không được cho vay quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng cho cùng một khách hàng( trừ một vài trường hợp luật cho phép), đây cũng là trở ngại trong mở rộng cho vay của ngân hàng . Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng có vai trò rất lớn trong việc triển khai các chính sách, chương trình hoạt động của một ngân hàng. Cán bộ ngân hàng có trình độ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các chính sách, chương trình mà ngân hàng đã đề ra. Hoạt động cho vay mang lại cho khách hàng khoản thu lớn nhất nhưng cũng là hoạt động tiềm ẩn những rủi ro. Những rủi ro này có thể do hoàn cảnh bên ngoài tác động hoặc do bản thân khách hàng ngay từ khi vay vốn đã muốn chiếm dụng vốn vay. Khi tiến hành tiếp xúc, phân tích, thẩm định khách hàng đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải có hiều biết về công việc, về khách hàng cũng như mối quan hệ của khách hàng với bạn hàng … từ đó đưa ra các đánh giá chính xác về khách hàng. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, thông tin tín dụng của ngân hàng. Công nghệ ngân hàng hiện đại là một trong những lợi thế cho ngân hàng khi tiếp cận khách hàng. Ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, các giao dịch diễn ra nhanh chóng, chính xác, tính bảo mật cao, thuận tiện sẽ giúp cho việc cho vay diễn ra nhanh chóng hơn, dễ dàng và hiệu quả cao hơn. Công nghệ ngân hàng hiện đại góp phần đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, các sản phẩm huy động và từ đó đẩy mạnh hoạt động cho vay. Công nghệ ngân hàng hiện đại cùng với đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ sẽ giúp cho ngân hàng có được thông tin tốt hơn về khách hàng, có nhiều biện pháp kiểm tra giám sát các khoản vốn cho vay … góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động mở rộng cho vay và chất lượng cho vay. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Năng lực quản lý của doanh nghiệp Doanh nghiệp được quản lý tốt sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh từ đó tăng khả năng trả nợ và lãi góp ngân hàng cũng như đảm bảo thanh toán đúng hạn. Năng lực quản lý của doanh nghiệp trước hết thể hiện ở phương án đầu tư sản xuất kinh doanh trình lên ngân hàng xin vay vốn. Hợp đồng tín dụng có được ký kết hay không phụ thuộc rất nhiều vào phương án đầu tư xin vay vốn. Doanh nghiệp có năng lực quản lý tốt sẽ dự đoán được những biến động của thị trường, có phương án xử lý khi rủi ro xảy ra, từ đó hạn chế tổn thất cho doanh nghiệp. Nhờ vậy ngân hàng sẽ hạn chế được những khoản nợ quá hạn, những rủi ro tín dụng. Cùng với đó khi hoạt động kinh doanh của khách hàng hiệu quả thì nhu cầu vay vốn cũng tăng lên và việc mở rộng cho vay của ngân hàng đạt hiệu quả. Các DNNQD còn nhiều hạn chế trong quản lý, tính thống nhất và đồng bộ chưa cao, vốn do họ quản lý và sử dụng có khả năng sinh lời lớn, song cũng chứa đựng nguy cơ rủi ro cao. Nếu có sự hỗ trợ từ phía ngân hàng trong lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, được ngân hàng cấp vốn và hỗ trợ sau khi giải ngân vốn thì việc cho vay với đối tượng này hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích cho cả hai bên, đồng thời kết quả mở rộng cho vay với DNNQD sẽ rất khả quan. Năng lực kinh doanh của doanh nghiệp Quy mô khoản vay trước hết phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng. Khách hàng của doanh nghiệp khi có tình hình tài chính ổn định, hoạt động kinh doanh có lãi tạo điều kiện cho ngân hàng trong công tác đánh giá, thẩm định khách hàng, do đó khoản vay ngân hàng có thể thực hiện. Năng lực tài chính của khách hàng thể hiện ở khả năng tự tài trợ về vốn trong cơ cấu tổng vốn điều lệ. Vốn của chủ càng lớn khả năng tự chủ về vốn kinh doanh càng cao, khoản vốn cho vay có độ an toàn nhất định. Vốn tự có và tài sản đảm bảo của doanh nghiệp là tài sản bù đắp rủi ro khi phát sinh bất lợi. Đó là cơ sở cho việc mở rộng cho vay với đối tượng này. Nhiều DNNQD có nhu cầu vay vốn để mở rộng quy mô, mở rộng sản xuất mặc dù nguồn vốn chủ sở hữu còn nhiều hạn chế. Bởi vậy ngân hàng khi cho vay với các khách hàng cụ thể thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần chú ý đến tính hiệu quả của phương án sản xuất cụ thể chứ không nên chú trọng vào phân tích năng lực tài chính của bản thân doanh nghiệp đó. Do số lượng DNNQD rất lớn, nhu cầu đa dạng nên các chính sách cho vay của ngân hàng cần chủ động và linh hoạt hơn cho vay doanh nghiệp quốc doanh. Các nhân tố khác Môi trường kinh tế Sự phát triển của nền kinh tế có tác động đến hoạt động tín dụng do nhu cầu tín dụng phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng, môi trường kinh doanh thuận lợi nhu cầu vay vốn đầu tư sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Bất kỳ biến động nào trong nền kinh tế cũng có tác động tới tâm lý của dân cư và doanh nghiệp. Tài sản của ngân hàng hình thành từ tiền gửi của dân cư, nên những tác động xấu của nền kinh tế sẽ tác động ngay lập tức tới cơ cấu nguồn vốn và tài sản của ngân hàng. Nền kinh tế nước ta ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây là cơ hội tốt cho ngân hàng mở rộng đối tượng khách hàng, tăng quy mô cho vay … Môi trường pháp lý Các quy định của pháp luật có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Các yếu tố pháp lý trong nền kinh tế thị trường là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý thiếu đồng bộ sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Do đó sẽ tác động tới hoạt động cho vay của ngân hàng. Nhà nước ta trong thời gian qua đã ban hành mới, sửa đổi bổ sung một số bộ luật như luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài … Đây là cơ sở cho việc mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp. Các DNNQD hiện nay còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều luật và văn bản dưới luật, các quy định liên quan đến loại hình doanh nghiệp này còn chồng chéo nên hoạt động cho vay còn có nhiều hạn chế. Môi trường chính trị, an ninh, xã hôi Không một quốc gia nào có thể phát triển kinh tế phát triển bền vững trong điều kiện bất ổn chính trị. Sự phát triển và ổn đinh của kinh tế gắn liền với tình hình chính trị, hai yếu tố này không tách rời nhau. Chúng ta có nền kinh tế tăng trưởng cao, tình hình chính trị ổn định đó là tiền đề quan trọng để đẩy manh hoạt động của cả nền kinh tế trong hoạt động của ngân hàng. Nhờ đó việc mở rộng cho vay của ngân hàng được thuận lợi. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNQD TẠI SGD I – BIDV 2.1. Khái quát về SGD – BIDV 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của SGD I – BIDV Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là BIDV( bank for investment and development ò Vietnam). Theo quyết định số 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991 của tổng giám đốc Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, sở giao dịch I có trụ sở tại 194 Trần Quang Khải, năm 1998 sở giao dịch đã được chuyển về 53 Quang Trung. Hiện nay trụ sở chính của sở giao dịch I chuyển về địa điểm mới tại tòa nhà Vincom 191 Bà Triệu. Ngoài ra hiện nay mạng lưới của sở giao dịch phát triển rộng hơn với bốn chi nhánh cấp 1, 15 điểm giao dịch trên địa bàn Hà Nội. Ngày đầu thành lập sở giao dịch I có hai phòng và một tổ nghiệp vụ, với khoảng 80 nhân viên. Đến nay sở đã có tới 15 phòng nghiệp vụ, 15 điểm giao dịch với gần 300 cán bộ, nhân viên(2006). Sở giao dịch ra đời là do yêu cầu chuyển đổi mô hình kinh doanh mới của NHTM, sở giao dịch là đơn vị kinh doanh trực tiếp của hội sở chính, thực thi nhiệm vụ chiến lược của BIDV, SGD là bộ phận trực tiếp kinh doanh của BIDV, là đơn vị chủ lực trong việc thực hiện xây dựng và phát triển quan hệ hợp tác với khách hàng. Thực hiện phục vụ đầu tư dự án lớn và trọng điểm của quốc gia. Sở giao dịch là mơi triển khai hệ thống công nghệ hiện đại, dự án hiện đại hóa ngân hàng, triển khai xây dựng mô hình theo hướng NHTM hiện đại. Sở cũng là nơi xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu của toàn hệ thống, có phẩm chất đạo đức và gắn bó với nghề 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của SGD I – BIDV Cơ cấu tổ chức của SGD I được chia thành 15 phòng ban và 4 khối. Chức năng và nhiệm vụ các phòng do giám đốc SGD I – BIDV ký ban hành theo quyết định số 916 QĐ/TCHC ngày 08/09/2003. Đây là bản sửa đổi lần thứ 2, sau lần ban hành đầu tiên quyết định theo số 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991 của tổng giám đốc BIDV. Ban giám đốc của SGD I gồm một giám đốc và ba phó giám đốc phụ trách các mảng riêng biệt. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của SGD I – BIDV P. Tín dụng 1 P. Tín dụng 2 P. Tín dụng 3 P. Thẩm định P. Quản lý tín dụng P. Quản lý tín dụng P. Thanh toán quốc tế P. DV khách hàng DN P. DV khách hàng cá nhân P. Tiền tệ kho quỹ P. Kế hoạch nguồn vốn P. Tài chính kế toán P. Tổ chức cán bộ P. hành chính quản trị P. Điện toán P. Kiểm tra nội bộ P. Giao dịch P. Giao dịch BAN GIÁM ĐỐC KHỐI TÍN DỤNG KHỐI DỊCH VỤ KHỐI QUẢN LÝ NỘI BỘ KHỐI ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC 2.1.3. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của SGD I – BIDV Trong mấy năm gần đây, nhất là trong năm 2008, rất nhiều sự kiện kinh tế, chính trị và văn hóa đã diễn ra có tác động không nhỏ tới mọi mặt hoạt động của các ngành trong đó có ngành tài chính ngân hàng. Việt Nam trở thành thành viên WTO, bắt đầu thực hiện tiến trình mở cửa thị trường tài chính, thị trường chứng khoán diễn ra sôi động. Tình hình kinh tế trong nước có nhiều diễn biến phức tạp như chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng đặt ra những rào cản cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng, lãi suất phải thường xuyên có sự điều chỉnh cho phù hợp với thị trường … Tất cả các yếu tố này tác động trực tiếp đến hoạt động của BIDV nói chung và SGD I nói riêng. SGD I đã gặt hái được rất nhiều thành công, điều này được thể hiện ở bảng sau: Bảng 2.1. Các chỉ tiêu kinh doanh của SGD I – BIDV ĐV: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Chỉ tiêu chính thức Tuyệt đối Tuyệt đối %TT Tuyệt đối %TT Lợi nhuận trước thuế 184.858 321 74% 428 33% Huy động vốn 10110.926 15304.462 51% 28919.46 89% Lợi nhuận sau thuế 133.098 231.120 308.16 ROA 0.941 1.284 1.023 Thu dịch vụ ròng 49.512 76.850 55% 115.000 50% Tổng tài sản 14141.538 17999.521 27% 30125.642 67% ( Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD I năm 2006, 2007, 2008) Lợi nhuận trước của ngân hàng qua ba năm gần đây liên tục tăng lên qua các năm, năm 2006 là 184.858 tỷ đồng, năm 2007 là 321 tỷ đồng, năm 2008 là 428 tỷ đồng. Có thể nói đây là một khoản lợi nhuận không nhỏ đối với một sở giao dịch của một ngân hàng. Tốc độ tăng lợi nhuận trước thuế năm 2007 là 74%, năm 2008 là 33%, có thể nói trong 2007 lợi nhuận trước thuế tăng đột biến đến năm 2008 thì tốc độ tăng không như năm trước nhưng vẫn tăng mạnh. Thành tích này có được là do trong mấy năm gần đây công tác điều hành lãi suất được thực hiện một cách khoa học đảm bảo lãi suất tiền gửi, tiền vay hợp lý. Cùng với đó sở đã có nhiều thành tích trong thu nợ xấu ngoại bảng, thu nợ ngoại bảng. Đáng chú ý là trong năm qua công tác dịch vụ ròng trên lợi nhuận trước thuế đạt 50%. Cụ thể kết quả thực hiện các mặt hoạt động của cơ sở nhu sau: 2._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2707.doc