Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Láng Hạ

Mục lục Lời nói đầu Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng, là khâu mở đầu và cũng là khâu kết thúc của quá trình tái sản xuất xã hội. Tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung và thanh toán qua ngân hàng nói riêng sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất, kinh doanh diễn ra trôi chảy, nhịp nhàng. Ngược lại, nếu việc thanh toán bị trục trặc, chậm chễ thì quá trình sản xuất, kinh doanh sẽ bị trì trệ. ở Việt Nam, sau hơn 10 năm thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động, hệ thống ngân hàng không ngừng được củng cố và phát triển, góp phần tích cực vào những thành tựu trong công cuộc đổi mới, nổi bật là đẩy lùi nạn lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền. Hoạt động thanh toán nói chung và hoạt động thanh toán qua ngân hàng đã có nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung vẫn còn kém phát triển. Thực trạng xã hội ta vẫn đang là một quốc gia sử dụng quá nhiều tiền mặt. Điều này đã làm cho việc điều hòa lưu thông tiền tệ và quản lý kho quỹ rất khó khăn, một nguồn vốn lớn trong dân cư chưa được đầu tư vào sản xuất gây lãng phí lớn. Nói đến hoạt động của các ngân hàng, đa số người dân nước ta chỉ biết đó là nơi gửi tiền và vay vốn mà chưa biết nhiều đến dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng này và có giải pháp nào để cải thiện không? Xuất phát từ băn khoăn trên và từ thực trạng hoạt động thanh toán kém phát triển tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, em đã chọn đề tài “Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ” cho bài luận văn của mình. Tuy nhiên, do thời gian thực tập có hạn nên em chỉ tập trung vào hoạt động thanh toán nội địa của chi nhánh mà không nghiên cứu hoạt động thanh toán quốc tế. Kết cấu bài luận văn của em gồm ba chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về thanh toán qua ngân hàng. Nội dung của chương này đề cập tới vai trò trung gian thanh toán trong nền kinh tế của ngân hàng, vai trò của thanh toán qua ngân hàng, các nguyên tắc thanh toán qua ngân hàng, các hình thức và phương thức thanh toán qua ngân hàng, cuối cùng là các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ trong thời gian qua. Trong chương này, em trình bày thực trạng hoạt động thanh toán theo các hình thức thanh toán và phương thức thanh toán tại chi nhánh trong ba năm 2000, 2001 và 2002; phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của từng hình thức và phương thức thanh toán. Chương III: Những giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ. Từ những nguyên nhân gây ra những hạn chế của hoạt động thanh toán tại chi nhánh đã rút ra từ chương II, em đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán tại chi nhánh. Chương 1 Những vấn đề cơ bản về thanh toán qua ngân hàng 1.1. Ngân hàng – trung gian thanh toán trong nền kinh tế Từ xa xưa, các ngân hàng đã có chức năng quan trọng là làm thủ quỹ cho doanh nghiệp, tức là ngân hàng thực hiện thu, chi và quản lý tiền hộ doanh nghiệp. Xuất phát từ chức năng là thủ quỹ của doanh nghiệp, ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự ủy nhiệm của khách hàng. Khi ngân hàng thương mại ra đời và phát triển thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng. Mọi quan hệ thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc ủy nhiệm cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để thanh toán, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi nhanh chóng, tiện lợi, nhất là với những khoản thanh toán giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém và không an toàn. Trong khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo ra những hình thức thanh toán (thanh toán bằng ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, séc, thẻ thanh toán,…) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Nhờ các hình thức thanh toán này, khách hàng của ngân hàng không phải chi trả với nhau bằng những bao tiền mặt rất tốn kém mà chỉ cần ra lệnh cho ngân hàng thông qua các hình thức thanh toán, ngân hàng sẽ ghi Nợ cho tài khoản của người này, ghi Có cho tài khoản của người kia nhanh chóng. Ngoài ra, việc thực hiện chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tín dụng: ngân hàng dùng tiền gửi của người này để cho người khác vay. Khi một khách hàng thiếu tiền để thanh toán, ngân hàng sẽ trả hộ và khoản trả hộ đó sẽ trở thành khoản vay của khách hàng. Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian thanh toán truyền thống như trước nữa mà ngân hàng còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí quan trọng, phù hợp với sự phát triển tiến bộ của khoa học kỹ thuật. 1.2. Vai trò của thanh toán qua ngân hàng 1.2.1. Vai trò của thanh toán qua ngân hàng đối với nền kinh tế Thứ nhất, trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, thanh toán không dùng tiền mặt góp phần giảm thấp tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm cho xã hội rất nhiều chi phí lưu thông tiền mặt (chi phí cho việc đúc tiền, in tiền, bảo quản tiền, vận chuyển tiền, hủy tiền…) và những chi phí có liên quan đến người trả tiền và người thụ hưởng (chi phí đếm tiền, bảo quản tiền, vận chuyển tiền,…). Thứ hai, thanh toán qua ngân hàng thúc đẩy sự vận động của vật tư, hàng hóa, tiền vốn trong nền kinh tế, dẫn đến giảm chi phí sản xuất và lưu thông, tăng tích lũy cho quá trình tái sản xuất. Trong thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, với những giao dịch giá trị lớn đòi hỏi khối lượng tiền mặt lớn sẽ làm cho chi phí lưu thông tiền tệ tăng lên, việc tổ chức lưu thông tiền mặt phức tạp, tốc độ luân chuyển vốn chậm. Ngược lại, nếu không có tiền tệ thì quá trình thanh toán không thể giải quyết được, từ đó quá trình tái sản xuất cũng không thể tiếp tục. Đối với lĩnh vực tín dụng, thanh toán không dùng tiền mặt tạo khả năng tập trung nguồn vốn vào ngân hàng để đầu tư cho phát triển. ở đây ngân hàng đóng vai trò điều hòa vốn trong nền kinh tế, chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn. Ngân hàng huy động tiền gửi với khối lượng lớn và cho vay với mọi quy mô trên nguyên tắc có hiệu quả kinh tế. Vì vậy, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để doanh nghiệp mở rộng sản xuất, ứng dụng kỹ thuật, hiện đại hóa quá trình sản xuất. 1.2.2. Vai trò của thanh toán qua ngân hàng đối với Nhà nước Thanh toán qua ngân hàng có ý nghĩa to lớn đối với vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước có thể thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả, kiểm soát được mức cung tiền tệ do đó kiểm soát được lạm phát. Hơn thế, thanh toán qua ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi để Nhà nước kiểm soát hoạt động kinh tế của các tác nhân trong nền kinh tế với mục đích củng cố kỷ luật thanh toán, đảm bảo thu chi tài chính. Việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt mà không qua chuyển khoản gây thất thoát thuế. Nó còn tạo ra mặt bằng cạnh tranh không công bằng và phá hoại đạo đức kinh doanh vì những kẻ trốn thuế có thể hạ giá bán để cạnh tranh gây thiệt hại đến các nhà kinh doanh chân chính nộp thuế đầy đủ. Thanh toán qua ngân hàng xóa bỏ hiện tượng tham ô, tham nhũng, ngăn chặn được nạn cướp giật, móc túi và các tệ nạn khác. Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt giúp Nhà nước nâng cao vai trò kiểm soát bằng đồng tiền của mình, tạo sự ổn định và phát triển cho xã hội. 1.2.3. Vai trò của thanh toán qua ngân hàng đối với ngân hàng thương mại Thanh toán qua ngân hàng giúp các ngân hàng thương mại huy động được nguồn vốn lớn. Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại tiến hành cho vay, đầu tư để thu lợi nhuận. Thanh toán qua ngân hàng giúp các ngân hàng thương mại thu hút được lượng khách hàng dồi dào. Đặc biệt, đây thường là những khách hàng trung thành vì một khi họ đã mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng này thì hiếm khi họ muốn chuyển sang một ngân hàng đối thủ của ngân hàng đó. Hơn nữa, hầu hết khách hàng mở tài khoản thanh toán đều sử dụng các dịch vụ khác ngoài dịch vụ thanh toán, như dịch vụ tín dụng, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ bảo quản tài sản,…tại chính ngân hàng đó. Vì vậy, thanh toán qua ngân hàng còn giúp các ngân hàng thương mại phát triển thêm nhiều dịch vụ ngân hàng khác ngoài dịch vụ thanh toán. Thanh toán qua ngân hàng giúp cho ngân hàng tìm hiểu tâm lý, nhu cầu của khách hàng. Từ đó, ngân hàng có thể phục vụ khách hàng tốt hơn dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác của ngân hàng. Thanh toán qua ngân hàng còn giúp các ngân hàng thương mại nắm được toàn bộ thông tin về doanh nghiệp. Từ đó, các ngân hàng thương mại sẽ tư vấn cho nhà đầu tư có được quyết định chính xác khi đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho nhà đầu tư. Thanh toán qua ngân hàng góp phần mang lại lợi nhuận ngày càng lớn cho các ngân hàng thương mại từ phí khách hàng trả cho ngân hàng. 1.2.4. Vai trò của thanh toán qua ngân hàng đối với khách hàng Thanh toán qua ngân hàng giúp cho việc thanh toán giữa các khách hàng trong quá trình kinh doanh được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiết kiệm. Khách hàng không phải chi trả với nhau bằng những bao tiền vừa tốn kém lại không an toàn mà chỉ cần ra lệnh cho ngân hàng để ngân hàng ghi Nợ vào tài khoản của người này, ghi Có vào tài khoản của người kia một cách nhanh chóng, chính xác. Khi khách hàng gửi tiền vào tài khoản thanh toán, tiền của họ sẽ được ngân hàng bảo quản chắc chắn. 1.3. Các nguyên tắc thanh toán qua ngân hàng 1.3.1. Nguyên tắc đối với khách hàng Khách hàng phải mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng. Vì một lẽ rất đơn giản, nếu không như vậy thì việc thanh toán không thể tiến hành. Khách hàng phải luôn đảm bảo số dư thanh toán trên tài khoản để có thể chi trả đầy đủ, kịp thời. Khách hàng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc sử dụng số tiền trên tài khoản của mình. Mọi trường hợp chi vượt số dư trên tài khoản vi phạm chế độ thanh toán đều bị xử lý theo pháp luật. Khi nhận được chứng từ thanh toán, khách hàng phải kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ và nhanh chóng nộp vào ngân hàng. 1.3.2. Nguyên tắc đối với ngân hàng Ngân hàng chỉ được trích tài khoản của khách hàng để thực hiện các khoản thanh toán khi có yêu cầu của chủ tài khoản. Ngân hàng phải thanh toán cho đúng người thụ hưởng và đúng số lượng theo yêu cầu của chủ tài khoản. Đối với chứng từ hợp pháp, hợp lệ mà khách hàng nộp vào, ngân hàng phải thanh toán ngay. Nếu gây chậm trễ, ngân hàng phải bồi thường, tùy theo mức độ có thể bị truy tố trước pháp luật. Thanh toán qua ngân hàng đòi hỏi các chủ thể tham gia thanh toán phải mở tài khoản tại ngân hàng nên sự kiểm soát của ngân hàng trong tổ chức thanh toán là cần thiết để đảm bảo sự công bằng, chính xác, tính đúng đắn của nội dung thanh toán, tính hợp lệ của chứng từ. Do việc mở tài khoản tại ngân hàng nên ngân hàng là người quản lý các tài khoản tiền gửi của các đơn vị, chỉ ngân hàng mới được phép trích chuyển tài khoản của các đơn vị và coi đó như nghiệp vụ đặc biệt của mình. Ngân hàng với vai trò là người thực hiện sẽ có ảnh hưởng đến quá trình thanh toán (nhanh chóng, thuận lợi hoặc ngược lại), đồng thời ngân hàng là người kết thúc quá trình thanh toán. 1.4. Các hình thức thanh toán qua ngân hàng 1.4.1. Thanh toán bằng séc Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện, do khách hàng của ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định trên tài khoản của mình mở tại ngân hàng để trả cho người cầm séc hoặc cho người (cá nhân hoặc tổ chức kinh tế) được chỉ định trên tờ séc. Séc là một mệnh lệnh chứ không phải là một yêu cầu, do đó khi nhận được lệnh này, ngân hàng chấp hành vô điều kiện, trừ trường hợp tài khoản của người phát hành séc không đủ hoặc không có tiền trả. Theo công ước Giơ-ne-vơ năm 1931, séc có thể được phát hành mà trên tài khoản của họ không còn tiền, miễn sao lúc thanh toán trên tài khoản có tiền là được. Nếu tài khoản không có tiền, tờ séc vẫn có giá trị thanh toán nhưng người phát hành séc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Các loại séc đang được sử dụng chủ yếu là séc tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức và séc chuyển tiền. Trừ séc tiền mặt dùng cho chủ tài khoản rút tiền tại ngân hàng (không chi trả cho người khác), các loại séc khác chỉ được dùng để thanh toán phi tiền mặt, tức là người thụ hưởng không được tự mình rút tiền mặt ở ngân hàng mà phải nhờ ngân hàng thu ngân. 1.4.1.1. Thanh toán bằng séc chuyển khoản Séc chuyển khoản là loại séc được sử dụng rộng rãi. Nó có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền, do đó, trên tờ séc phải có đầy đủ những yếu tố bắt buộc theo luật định. Thông thường, séc được in sẵn, người phát hành séc chỉ phải điền vào những chỗ quy định bằng mực không phai. Việc ghi trên tờ séc phải đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ đối với việc sử dụng séc. Séc chuyển khoản cũng như tất cả các loại séc khác chỉ có hiệu lực trong phạm vi thời hạn nhất định. Bởi vậy, người thụ hưởng cần nhanh chóng nộp séc vào ngân hàng để yêu cầu thanh toán. Trong thời hạn hiệu lực của tờ séc, ngân hàng phải thanh toán ngay khi người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng. Hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng hoặc khác chi nhánh ngân hàng nhưng các chi nhánh đó có tham gia thanh toán bù trừ. Quy trình thanh toán séc chuyển khoản ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng thương mại (1) Bên bán giao hàng cho bên mua. (2) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán. (3) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán. (4) Ngân hàng kiểm tra chứng từ nhận được, kiểm tra số dư tài khoản của bên mua. Nếu đủ điều kiện thì ngân hàng trích tài khoản tiền gửi của bên mua và báo Nợ cho họ. (5) Ngân hàng ghi Có vào tài khoản của bên bán và báo Có cho họ. ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ (1) Bên bán giao hàng cho bên mua. (2) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán. (3) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán. (4) Ngân hàng kiểm tra đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ nhận được sẽ chuyển các chứng từ này đến trung tâm thanh toán bù trừ để trao chứng từ cho ngân hàng bên người phát hành. (5) Tại ngân hàng bên mua, tổ bù trừ mang về các chứng từ, lập chứng từ thanh toán bù trừ, ghi Nợ vào tài khoản của bên mua và báo Nợ cho họ. (6) Ngân hàng bên bán tiếp nhận chứng từ thanh toán bù trừ về tờ séc, ghi Có vào tài khoản của bên bán và báo Có cho họ. 1.4.1.2. Thanh toán bằng séc bảo chi Séc bảo chi là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả của tờ séc bằng tiền của người mua và chống lại việc phát hành séc khống. Séc bảo chi được dùng trong trường hợp người bán yêu cầu người mua phải lập séc bảo chi hoặc theo quyết định của ngân hàng đối với chủ tài khoản vi phạm kỷ luật phát hành séc. Hình thức thanh toán bằng séc bảo chi được sử dụng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản trong cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc có tài khoản ở các chi nhánh cùng một ngân hàng. Nếu là các chi nhánh khác ngân hàng thì các chi nhánh ngân hàng đó phải cùng tham gia thanh toán bù trừ. Như vậy, séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản. Ngoài ra, do séc đã được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả nên sau khi người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng phục vụ mình, ngân hàng này kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc sẽ ghi Có ngay vào tài khoản của người thụ hưởng. Nếu do sơ suất khi kiểm tra, sau này phát hiện tờ séc không hợp lệ, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phải chịu trách nhiệm. Quá trình phát hành và thanh toán séc bảo chi ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng thương mại (1) Khách hàng (bên mua) đưa chứng từ đến ngân hàng yêu cầu được sử dụng séc bảo chi. (2) Ngân hàng bảo chi séc và giao cho khách hàng (bên mua). (3) Bên bán giao hàng cho bên mua. (4) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán. (5) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán. (6) Nếu séc đủ điều kiện thanh toán, ngân hàng ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng và báo Có cho họ. ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng cùng tham gia thanh toán bù trừ (1) Khách hàng (bên mua) đưa chứng từ đến ngân hàng yêu cầu được sử dụng séc bảo chi. (2) Ngân hàng bảo chi séc và giao cho khách hàng (bên mua). (3) Bên bán giao hàng cho bên mua. (4) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán. (5) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán. (6) Ngân hàng bên bán lập chứng từ thanh toán bù trừ, ghi Có tài khoản người bán và báo Có cho họ. Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên mua. (7) Ngân hàng bên mua nhận chứng từ ngân hàng bên người bán gửi đến, ghi Nợ tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi và báo Nợ cho người mua. ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh cùng một ngân hàng nhưng khác địa bàn (1) Khách hàng (bên mua) đưa chứng từ đến ngân hàng yêu cầu được sử dụng séc bảo chi. (2) Ngân hàng bảo chi séc và giao cho khách hàng (bên mua). (3) Bên bán giao hàng cho bên mua. (4) Bên mua ký phát séc và giao cho bên bán. (5) Sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc, bên bán xuất trình séc cùng bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán. (6) Ngân hàng bên bán lập chứng từ thanh toán liên hàng, ghi Có tài khoản người bán và báo Có cho họ. Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên người mua. (7) Ngân hàng bên mua nhận chứng từ ngân hàng bên bán gửi đến, ghi Nợ tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi và báo Nợ cho người mua. 1.4.1.3. Thanh toán bằng séc định mức Séc định mức là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả của tờ séc và chống lại việc phát hành séc khống. Khác với séc bảo chi là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả cho từng tờ séc, séc định mức – séc trong sổ séc định mức là loại séc được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả cho cả một quyển séc. Thể chế về thanh toán séc định mức cũng giống như thể chế về thanh toán séc bảo chi. Do đó, quá trình hình thành và thanh toán séc định mức hoàn toàn giống như quá trình hình thành và thanh toán séc bảo chi. Chỉ khác là, đơn vị bán phải có trách nhiệm kiểm tra số dư của quyển séc mỗi khi nhận được séc. Trường hợp séc trong sổ séc định mức phát hành quá số dư tài khoản thì người ký phát phải chịu phạt theo luật định. 1.4.1.4. Thanh toán bằng séc chuyển tiền Séc chuyển tiền là séc dùng để chuyển tiền cho người thụ hưởng theo yêu cầu của chủ tài khoản. Hình thức thanh toán bằng séc chuyển tiền được áp dụng trong thanh toán giữa hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống, khác địa bàn. Riêng người thụ hưởng có thể không cần mở tài khoản tại ngân hàng. Quá trình phát hành và thanh toán séc chuyển tiền (1) Chủ tài khoản nộp bộ chứng từ vào ngân hàng yêu cầu được sử dụng séc chuyển tiền và phải chỉ định người thụ hưởng. (2) Người phát séc đưa séc chuyển tiền cho người thụ hưởng. (3) Người thụ hưởng nộp séc chuyển tiền vào ngân hàng phục vụ mình để lĩnh tiền mặt, thanh toán chuyển khoản cho người khác hoặc yêu cầu ngân hàng bảo chi séc để thanh toán. (4) Ngân hàng bên người thụ hưởng lập chứng từ thanh toán liên hàng về tờ séc gửi đến ngân hàng bên người phát séc. (5) Ngân hàng bên người phát séc ghi Nợ tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc chuyển tiền và báo Nợ cho họ. 1.4.1.5. Thanh toán bằng séc cá nhân Séc cá nhân được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi đứng tên cá nhân tại ngân hàng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác. Hiện nay, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, đối với séc cá nhân có số tiền trên 5 triệu đồng, người phát hành séc phải đến ngân hàng làm thủ tục bảo chi séc. Hình thức thanh toán bằng séc cá nhân chỉ được áp dụng trong thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc tại hai chi nhánh khác ngân hàng cùng tham gia thanh toán bù trừ. Do đó, quy trình thanh toán séc cá nhân giống như quy trình thanh toán séc chuyển khoản. 1.4.2. Thanh toán bằng thẻ Thẻ là một phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn với kỹ thuật tin học ứng dụng trong ngân hàng. Thẻ do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, thanh toán công nợ và lĩnh tiền mặt. ở một số nước phát triển, các công ty lớn cũng phát hành thẻ để thu tiền bán hàng của mình. Hiện nay, có 3 loại thẻ được áp dụng là thẻ thanh toán không phải ký quỹ, thẻ thanh toán phải ký quỹ trước tại ngân hàng và thẻ tín dụng. Đối với thẻ thanh toán không phải ký quỹ, người sử dụng thẻ không phải lưu ký tiền vào tài khoản để đảm bảo tính thanh toán. Căn cứ để thanh toán là số dư trên tài khoản tiền gửi của người chủ sở hữu thẻ mở tại ngân hàng, với hạn mức tối đa của thẻ do ngân hàng quy định. Thẻ này được áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán tốt và thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng. Đối với thẻ thanh toán phải ký quỹ, người sử dụng thẻ phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản để đảm bảo thanh toán. Số tiền lưu ký vào tài khoản có thể là tiền mặt, tiền trích từ tài khoản khác chuyển sang hoặc tiền vay ngân hàng. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ. Loại thẻ này được áp dụng với mọi loại khách hàng. Thẻ tín dụng là loại thẻ không phải ký quỹ. Nó được áp dụng đối với khách hàng được vay vốn ngân hàng. Mức tiền ngân hàng cho vay được coi là hạn mức tín dụng. Quá trình phát hành và thanh toán thẻ (1) Khách hàng đưa chứng từ đến ngân hàng yêu cầu được sử dụng thẻ. (2) Ngân hàng phát hành thẻ và giao cho khách hàng. (3) Khi mua hàng, khách hàng (chủ sở hữu thẻ) đưa thẻ cho bên bán. (4) Hàng hóa trao cho chủ sở hữu thẻ. (5) Bên tiếp nhận thẻ (bên bán) lập biên lai thanh toán thẻ và gửi cho ngân hàng đại lý nơi người bán mở tài khoản. (6) Ngân hàng đại lý thanh toán cho bên bán. (7) Ngân hàng đại lý thanh toán với ngân hàng phát hành thẻ. (8) Ngân hàng phát hành thẻ thanh toán với chủ sở hữu thẻ. 1.4.3. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi ủy nhiệm chi là lệnh yêu cầu của người chủ tài khoản ủy nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản của mình để trả cho đơn vị hoặc cá nhân được hưởng. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi được sử dụng rộng rãi trong thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng thương mại; giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai chi nhánh cùng ngân hàng thương mại; giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai chi nhánh của hai ngân hàng thương mại khác nhau. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi có đặc điểm thanh toán nhanh, thủ tục đơn giản, do đơn vị mua chủ động trả tiền sau khi họ đã hoàn thành việc nhận hàng hoá hay dịch vụ của bên bán. Như vậy, việc thu hồi vốn của bên bán hoàn toàn phụ thuộc vào bên mua, nếu bên mua gặp phải khó khăn về tài chính thì quyền lợi của bên bán cũng bị ảnh hưởng. Do vậy mà hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi thường được áp dụng giữa các tổ chức kinh tế có sự tín nhiệm lẫn nhau trong quan hệ mua bán và có khả năng tài chính tương đối ổn định. Quá trình thanh toán ủy nhiệm chi ã Trường hợp hai khách hàng cùng mở tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng thương mại (1) Bên bán giao hàng cho bên mua. (2) Bên mua nộp ủy nhiệm chi vào ngân hàng phục vụ mình. (3) Ngân hàng hạch toán và báo Nợ cho người trả tiền. (4) Ngân hàng báo Có cho người thụ hưởng. ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng cùng tham gia thanh toán bù trừ (1) Bên bán giao hàng cho bên mua (2) Bên mua lập ủy nhiệm chi nộp vào ngân hàng phục vụ mình. (3) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán bù trừ, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ cho ngân hàng bên bán. (4) Ngân hàng bên bán ghi Có tài khoản bên bán và báo Có cho họ. ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh cùng ngân hàng nhưng khác địa bàn (1) Bên bán giao hàng cho bên mua (2) Bên mua lập ủy nhiệm chi nộp vào ngân hàng phục vụ mình. (3) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán liên hàng, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ cho ngân hàng bên bán. (4) Ngân hàng bên bán ghi Có tài khoản bên bán và báo Có cho họ. ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng và khác địa bàn (1) Bên bán giao hàng cho bên mua (2) Bên mua lập ủy nhiệm chi nộp vào ngân hàng phục vụ mình. (3) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán qua Ngân hàng Nhà nước, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ cho ngân hàng bên bán. (4) Ngân hàng bên bán ghi Có tài khoản bên bán và báo Có cho họ. 1.4.4. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu ủy nhiệm thu là giấy tờ thanh toán do người bán lập gửi tới ngân hàng phục vụ mình đề nghị thu hộ số tiền theo giá trị hàng hóa đã giao hoặc dịch vụ đã cung ứng cho người mua. ủy nhiệm thu thường được áp dụng trong thanh toán giữa các tổ chức có tín nhiệm nhau về thanh toán. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu được sử dụng rộng rãi trong thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng thương mại; giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai chi nhánh cùng ngân hàng thương mại; giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai chi nhánh của hai ngân hàng thương mại khác nhau. ã Trường hợp hai khách hàng cùng mở tài khoản tại một chi nhánh ngân hàng thương mại (1) Bên bán giao hàng cho bên mua. (2) Bên bán lập ủy nhiệm thu nộp cho ngân hàng phục vụ mình kèm hóa đơn bán hàng. (3) Ngân hàng hạch toán, báo Nợ cho bên mua. (4) Ngân hàng báo Có cho bên bán. ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng cùng tham gia thanh toán bù trừ (1) Bên bán giao hàng cho bên mua. (2) Bên bán lập ủy nhiệm thu nộp vào ngân hàng phục vụ mình kèm hóa đơn bán hàng. (3) Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên mua. (4) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán bù trừ, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ thanh toán về bộ ủy nhiệm thu sang ngân hàng bên bán. (5) Ngân hàng bên bán ghi Có vào tài khoản bên bán và báo Có cho họ. ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh cùng ngân nhưng khác địa bàn (1) Bên bán giao hàng cho bên mua. (2) Bên bán lập ủy nhiệm thu nộp vào ngân hàng phục vụ mình kèm hóa đơn bán hàng. (3) Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên mua. (4) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán liên hàng, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ thanh toán về bộ ủy nhiệm thu sang ngân hàng bên bán. (5) Ngân hàng bên bán ghi Có vào tài khoản bên bán và báo Có cho họ. ã Trường hợp hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh khác ngân hàng và khác địa bàn (1) Bên bán giao hàng cho bên mua. (2) Bên bán lập ủy nhiệm thu nộp vào ngân hàng phục vụ mình kèm hóa đơn bán hàng. (3) Ngân hàng bên bán chuyển chứng từ cho ngân hàng bên mua. (4) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán qua Ngân hàng Nhà nước, ghi Nợ tài khoản bên mua và báo Nợ cho họ. Ngân hàng bên mua gửi chứng từ thanh toán về bộ ủy nhiệm thu sang ngân hàng bên bán. (5) Ngân hàng bên bán ghi Có vào tài khoản bên bán và báo Có cho họ. 1.4.5. Thanh toán bằng thư tín dụng Thư tín dụng là một văn bản cam kết pháp lý của ngân hàng mở thư tín dụng với người bán về việc thanh toán tiền hàng cho người bán nếu các điều kiện kèm theo trong thư tín dụng được thỏa mãn. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hóa giữa hai khách hàng có tài khoản ở hai chi nhánh ngân hàng trên hai địa bàn khác nhau. (1) Bên mua nộp đơn mở thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ mình. (2) Ngân hàng bên mua thông báo qua thư tín điện tử về việc thư tín dụng đã được mở cho ngân hàng bên bán. (3) Ngân hàng bên bán thông báo cho bên bán về việc thư tín dụng đã được mở. (4) Bên bán giao hàng cho bên mua. (5) Bên bán lập bảng kê chứng từ thanh toán thư tín dụng, gửi ngân hàng phục vụ mình. (6) Ngân hàng bên bán sau khi kiểm tra chứng từ phù hợp với giấy mở thư tín dụng sẽ ghi Có tài khoản cho bên bán và báo Có cho họ. (7) Ngân hàng bên bán thanh toán với ngân hàng bên mua. (8) Ngân hàng bên mua tất toán thư tín dụng và báo bên mua biết. 1.5. Các phương thức thanh toán qua ngân hàng 1.5.1. Phương thức thanh toán liên hàng Phương thức thanh toán liên hàng là thanh toán được thực hiện giữa các chi nhánh cùng một ngân hàng, phát sinh trên cơ sở nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt giữa các đơn vị kinh tế có tài khoản mở tại các chi nhánh khác nhau trong cùng ngân hàng đó. Phương thức thanh toán liên hàng do Ngân hàng cấp Trung ương hoặc Hội sở chính của từng ngân hàng thương mại tổ chức. Các chi nhánh trong một ngân hàng có tham gia thanh toán liên hàng được gọi là các đơn vị liên hàng và đều có tên, số hiệu đơn vị liên hàng trong bảng tên các đơn vị liên hàng do cấp cao nhất của ngân hàng thương mại đó quy định. Trong công tác thanh toán liên hàng, mỗi chi nhánh tham gia tiến hành các nghiệp vụ thanh toán theo sự ủy nhiệm của ngân hàng trung ương và thanh toán trực tiếp về vốn với ngân hàng trung ương của mình. 1.5.2. Phương thức thanh toán bù trừ Thanh toán bù trừ giữa các chi nhánh cùng hoặc khác ngân hàng thương mại là việc thanh toán trực tiếp giữa các chi nhánh trên cùng một địa bàn, hay có cự ly gần nhau. Việc thanh toán được thực hiện thông qua tài khoản trung gian tại Ngân hàng Nhà nước do Ngân hàng Nhà nước đứng ra tổ chức và chủ trì thanh toán bù trừ hoặc do một ngân hàng được ngân hàng cấp trên chỉ định. Các chi nhánh tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp giao nhận chứng từ với nhau hàng ngày hoặc theo định kỳ và thực hiện bù trừ các khoản nợ lẫn nhau, chỉ thực sự thanh toán với nhau phần chênh lệch cuối cùng. Tuỳ thuộc vào phương pháp trao đổi chứng từ, chuyển số liệu mà có các hình thức thanh toán bù trừ khác nhau (bù trừ giấy hoặc bù trừ điện tử). 1.5.3. Phương thức thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà n._.ước Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước là việc thanh toán giữa các chi nhánh khác ngân hàng thương mại cùng có tài khoản tiền gửi tại một chi nhánh Ngân hàng Nhà nước hoặc tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước khác nhau. Mỗi lần thanh toán, chi nhánh ngân hàng nơi phát sinh nghiệp vụ trả tiền gửi chứng từ đến chi nhánh Ngân hàng Nhà nước yêu cầu trích tài khoản tiền gửi của mình để thanh toán cho ngân hàng thụ hưởng. 1.5.4. Phương thức thanh toán bằng cách mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khác Phương thức này được áp dụng trong trường hợp các chi nhánh cùng hoặc khác ngân hàng thương mại có quan hệ giao dịch khá thường xuyên. Theo phương thức này, mỗi chi nhánh mở tài khoản tiền gửi của mình tại chi nhánh kia để thực hiện thanh toán. Việc thanh toán giữa hai chi nhánh được thực hiện trên cơ sở các bảng kê chứng từ hoặc chứng từ do chi nhánh mở tài khoản tiền gửi lập. 1.5.5. Phương thức ủy nhiệm thanh toán giữa các ngân hàng Phương thức thanh toán ủy nhiệm thu hộ, chi hộ tương tự như mở tài khoản tiền gửi ở ngân hàng khác để thanh toán. Nhưng có điểm khác nhau là ủy nhiệm thu hộ, chi hộ đòi hỏi phải có ủy nhiệm bằng văn bản, còn phương thức thanh toán qua mở tài khoản tiền gửi ở ngân hàng thì không cần văn bản. Hai chi nhánh thanh toán với nhau theo phương thức này phải ký kết hợp đồng với nhau thống nhất về nguyên tắc, thủ tục và nội dung thanh toán. Trên cơ sở đó, mở cho nhau tài khoản vãng lai, để hạch toán cho nhau các khoản thu hộ và chi hộ, trên cơ sở các chứng từ thanh toán của khách hàng có mở tài khoản ở mỗi bên. Các nghiệp vụ thanh toán thu hộ, chi hộ phát sinh được hạch toán vào tài khoản thu hộ, chi hộ giữa các ngân hàng. Từng định kỳ xác định, hai ngân hàng đối chiếu doanh số phát sinh và số dư tài khoản thu hộ, chi hộ để thanh toán cho nhau và tất toán số dư của tài khoản này thông qua tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước hoặc tài khoản thích hợp khác. 1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán qua ngân hàng 1.6.1. Môi trường kinh tế Ngân hàng ra đời nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển vững chắc, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ phát triển, kéo theo sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, hoạt động ngân hàng cũng bị suy thoái, trì trệ, thậm chí có thể bị xóa bỏ. Hoạt động thanh toán qua ngân hàng là một phần của hoạt động ngân hàng nên nó cũng chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế và biến động theo xu thế trên. Khi nền kinh tế phát triển vững chắc, giao dịch mua bán trong nền kinh tế sẽ diễn ra nhiều với giá trị cao và quy mô lớn. Do đó, khối lượng thanh toán giữa khách hàng với khách hàng sẽ lớn, quy mô thanh toán diễn ra trên phạm vi rộng. Kết quả là hoạt động thanh toán qua ngân hàng sẽ có điều kiện phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, giao dịch mua bán trong nền kinh tế sẽ giảm sút. Hoạt động thanh toán giữa khách hàng với nhau vì thế cũng giảm dẫn đến hoạt động thanh toán qua ngân hàng giảm sút theo. Như vậy, một nền kinh tế phát triển vững chắc tất yếu sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Ngược lại, nếu nền kinh tế suy thoái thì hoạt động thanh toán qua ngân hàng sẽ khó phát triển. 1.6.2. Môi trường pháp lý Hoạt động của ngân hàng luôn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật, hay nói cách khác “ngân hàng hoạt động trong một hành lang hẹp” vì tiền ngân hàng kinh doanh chủ yếu là của người khác. Chính vì vậy, hoạt động thanh toán qua ngân hàng cũng phải chịu sự điều chỉnh của luật ngân hàng nói chung cũng như những quy định riêng đối với loại hình dịch vụ này. Thanh toán qua ngân hàng là việc ngân hàng thanh toán hộ khách hàng theo yêu cầu của khách hàng nên ngân hàng phải đảm bảo an toàn, chính xác. Vì vậy, hoạt động thanh toán qua ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt các chế độ, quy định pháp luật. Có như vậy ngân hàng mới tránh được những sai lầm, không gây thất thoát vốn cho khách hàng. Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra giữa khách hàng với khách hàng hoặc giữa khách hàng với ngân hàng, cần có căn cứ pháp luật để xử lý, giúp cho khách hàng yên tâm sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Mọi chế độ, quy định được ban hành phải hợp lý, khoa học, đồng bộ và thuận tiện nếu không sẽ gây trở ngại cho ngân hàng và khách hàng. Nguyên tắc của thanh toán qua ngân hàng là phải thực hiện thanh toán nhanh chóng, tránh gây ứ đọng vốn của khách hàng, vì vậy nếu thủ tục thanh toán rườm rà, phức tạp thì khách hàng sẽ không lựa chọn hình thức thanh toán này. 1.6.3. Yếu tố khoa học và công nghệ Chúng ta đang sống trong thời đại của công nghệ thông tin. Với sự tiến bộ của công nghệ thông tin, công tác thanh toán qua ngân hàng đã có rất nhiều cải tiến về thời gian thanh toán, độ chính xác và an toàn. Khi chưa áp dụng tiến bộ công nghệ thông tin, công tác thanh toán qua ngân hàng chủ yếu dùng các chứng từ giấy và phải luân chuyển chứng từ qua bưu điện đối với những khoản tiền thanh toán khác địa phương. Vì vậy, thanh toán nhiều món với doanh số lớn, lượng chứng từ lớn làm việc luân chuyển chứng từ gặp nhiều khó khăn, thời gian thanh toán kéo dài, dễ gây ra những sai sót trong thanh toán. Hiện nay, với sự áp dụng tiến bộ công nghệ thông tin, công tác thanh toán qua ngân hàng đã giảm đáng kể lượng chứng từ giấy để thay thế bằng chứng từ điện tử. Vì thế, hoạt động thanh toán diễn ra nhanh hơn, chính xác hơn và an toàn hơn. Khoa học công nghệ phát triển tạo ra nhiều máy móc thiết bị hiện đại và phương tiện thanh toán mới như thẻ thanh toán, tiền điện tử… thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng. 1.6.4. Nhân tố trình độ của cán bộ ngân hàng và khách hàng tham gia vào hoạt động thanh toán 1.6.4.1. Trình độ của cán bộ ngân hàng làm công tác thanh toán Trình độ cán bộ làm công tác thanh toán rất quan trọng vì có thu hút được khách hàng thanh toán tại ngân hàng hay không chính là ở đội ngũ cán bộ trực tiếp giao dịch này. Những cán bộ làm công tác thanh toán có trình độ chuyên môn giỏi, thành thạo công việc sẽ thực hiện việc thanh toán cho khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác. Ngược lại, nếu họ không thành thạo công việc thì sẽ gây chậm trễ trong thanh toán, thậm chí còn gây ra nhiều sai sót. Ngoài việc thành thạo công việc, những cán bộ làm công tác thanh toán phải có phẩm chất đạo đức tốt, thái độ phục vụ nhanh nhẹn, nhiệt tình. Có như vậy mới tạo cảm tình và niềm tin với khách hàng, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến ngân hàng thanh toán. Ngược lại, nếu tác phong giao dịch của họ thiếu văn minh, lịch sự sẽ làm giảm số lượng khách hàng đến thanh toán. 1.6.4.2. Trình độ của khách hàng tham gia vào hoạt động thanh toán Khi trình độ dân trí của một nước thấp kém, người dân không hiểu được những tiện ích của việc thanh toán qua ngân hàng, họ sẽ chỉ thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt. Khi đó, dù các hình thức thanh toán qua ngân hàng có hiện đại, trình độ cán bộ làm công tác thanh toán có giỏi thì thanh toán qua ngân hàng cũng không thể phát triển được. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, trình độ của họ có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của hoạt động thanh toán. Nếu khách hàng hiểu biết rõ về thủ tục thanh toán, ghi đúng, ghi đủ sẽ giúp cho việc thanh toán diễn ra nhanh chóng. Ngược lại, nếu khách hàng làm sai thủ tục buộc cán bộ thanh toán phải yêu cầu sửa chữa sẽ làm chậm việc thanh toán. Đạo đức của khách hàng cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Mặc dù khách hàng có hiểu biết về các chế độ, thể lệ thanh toán qua ngân hàng nhưng vẫn cố tình gian lận, như: sửa chữa séc, sử dụng thẻ giả mạo,… sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Chương 2 Thực trạng hoạt động thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ trong thời gian qua 2.1. Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ 2.1.1. Sơ lược tình hình chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ 2.1.1.1. Lịch sử hình thành chi nhánh Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ được thành lập và đi vào hoạt động ngày 18/03/1997 theo Quyết định 334/QĐ-HĐQT của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam. Đây là một chi nhánh trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng và điều lệ hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam. 2.1.1.2. Nhiệm vụ của chi nhánh - Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước, nước ngoài bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng. - Cho vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các tổ chức kế toán, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. - Kinh doanh ngoại hối. - Kinh doanh dịch vụ, như: nhận ủy thác cho vay của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, chiết khấu các loại giấy tờ có giá, thanh toán qua ngân hàng. - Thực hiện đầu tư dưới các hình thức: hùn vốn, liên doanh, mua cổ phiếu và các hình thức đầu tư khác khi được NHNo&PTNT cho phép. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc NHNo&PTNT giao. 2.1.1.3. Mô hình tổ chức và tình hình nhân sự của chi nhánh Đến ngày31/12/2002, ngoài ban giám đốc gồm 4 người, chi nhánh có 7 phòng: phòng Kế hoạch kinh doanh, phòng Tín dụng, phòng Kế toán ngân quỹ, phòng Hành chính quản trị, phòng Tổ chức cán bộ và đào tạo, phòng Kiểm tra kiểm toán nội bộ và phòng Thanh toán quốc tế; 2 chi nhánh trực thuộc là chi nhánh Bà Triệu, Bách Khoa và 6 phòng giao dịch. Tổng số cán bộ viên chức toàn chi nhánh tính đến 31/12/2002 là 153 người, trong đó: trình độ trên đại học gồm 4 người, chiếm 4,6%; đại học và cao đẳng gồm 99 người, chiếm 64,7%; trung cấp và sơ cấp gồm 20 người, chiếm 13,1%; chưa qua đào tạo gồm 30 người, chiếm 19,6%. Trong số 153 người có 51 nam (33,3%) và 102 nữ (66,7%). 2.1.2. Kết quả kinh doanh của chi nhánh trong thời gian qua 2.1.2.1. Kết quả hoạt động nguồn vốn Hoạt động nguồn vốn đã có nhiều thành tích đáng khích lệ. Chi nhánh đã huy động được một khối lượng nguồn vốn lớn từ 202 tỷ đồng năm 1997, 685 tỷ đồng năm 1998, 1.131 tỷ đồng năm 1999, 2.043 tỷ đồng năm 2000, 2.630 tỷ đồng năm 2001 và đến 31/12/2002 đã đạt 3.812 tỷ đồng. Như vậy, nguồn vốn chi nhánh Láng Hạ có sự tăng trưởng mạnh qua sáu năm hoạt động. Đặc biệt, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của các tổ chức tín dụng luôn chiếm tỷ trọng cao. Từ năm 2001, chi nhánh không ngừng mở rộng màng lưới giao dịch, góp phần không nhỏ vào việc tăng trưởng nguồn vốn tại chi nhánh. Riêng năm 2002, chi nhánh Bà Triệu đã huy động được 137 tỷ đồng, chi nhánh Bách Khoa huy động được 111 tỷ đồng. Nguồn vốn lớn không những đã góp phần điều chuyển vốn về trụ sở chính, cân đối giúp các chi nhánh NHNo&PTNT khác không thuận lợi trong công tác huy động vốn, mà còn giúp chi nhánh chủ động đầu tư tín dụng có hiệu quả đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội. 2.1.2.2. Kết quả hoạt động tín dụng Do huy động được khối lượng nguồn vốn lớn, chi nhánh đã chủ động đầu tư tín dụng có hiệu quả đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Mức dư nợ tăng trưởng vượt bậc qua các năm từ 51 tỷ đồng năm 1997 đến 81 tỷ đồng năm 1998, 521 tỷ đồng năm 1999, 661 tỷ đồng năm 2000, 1.030 tỷ đồng năm 2001 và 1.466 tỷ đồng năm 2002 Về tình hình nợ quá hạn, do công tác điều tra thẩm định cho vay luôn được coi trọng nên đến nay chi nhánh không có nợ quá hạn, 100% dư nợ lành mạnh. Về nghiệp vụ bảo lãnh, do uy tín của chi nhánh ngày một nâng cao trên thị trường trong và ngoài nước nên nghiệp vụ bảo lãnh liên tục có những bước phát triển mở rộng với các đối tượng bảo lãnh chủ yếu: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh công trình và các loại bảo lãnh khác theo quy định. Từ nghiệp vụ này đã hỗ trợ tích cực cho công tác đầu tư vốn cho doanh nghiệp. 2.1.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ Sáu năm qua chi nhánh đã thực hiện tốt công tác kinh doanh ngoại tệ với doanh số giao dịch ngoại tệ/1 chiều giao dịch từ 2 triệu USD năm 1997 đến 42 triệu USD năm 1998, 64 triệu USD năm 1999, 146 triệu USD năm 2000, 180 triệu USD năm 2001 và 266 triệu USD năm 2002. Đồng tiền kinh doanh của chi nhánh phong phú hơn, tới nay đã có 10 loại ngoại tệ. Đặc biệt với các loại ngoại tệ ngoài USD, hiệu quả kinh doanh đã đạt cao hơn. Chi nhánh đã chủ động được nguồn ngoại tệ cung ứng, thực hiện kinh doanh có hiệu quả. Năm 2002, theo quy định của NHNo&PTNT, các chi nhánh không được phép mua bán ngoại tệ với các chi nhánh khác trong ngân hàng và bán ngoại tệ ra ngoài ngân hàng nên các loại hình giao dịch mua bán như FOWARD, SWAP rất hạn chế. 2.1.2.4. Kết quả hoạt động thanh toán a, Hoạt động thanh toán quốc tế Cùng với nghiệp vụ tín dụng và huy động vốn, công tác thanh toán quốc tế tại chi nhánh cũng đạt những tiến bộ vượt bậc với doanh số thanh toán quốc tế từ 2,5 triệu USD năm 1997 đến 83 triệu USD năm 1998, 96 triệu USD năm 1999, 125 triệu USD năm 2000, 152 triệu USD năm 2001 và 241 triệu USD năm 2002. Hình thức thanh toán quốc tế chủ yếu tại chi nhánh là thanh toán bằng thư tín dụng và thanh toán chuyển tiền (SWIFT). Tất cả các bức điện SWIFT đều được chuyển an toàn, chính xác, nhanh chóng, đúng quy trình thao tác của mạng SWIFT. Chi nhánh cũng kịp thời nắm bắt được nhu cầu của khách hàng lớn, kế hoạch hóa chặt chẽ nguồn ngoại tệ, đảm bảo khả năng thanh toán đối với khách hàng. Trình độ nghiệp vụ của từng cán bộ nhân viên đã được nâng cao hơn trong việc xử lý nghiệp vụ thanh toán quốc tế, thái độ phục vụ tốt hơn đã thu hút nhiều khách hàng, tăng doanh số. b, Thanh toán nội địa Hoạt động thanh toán nội địa tại chi nhánh sáu năm qua đã có sự tăng trưởng vượt bậc cả về số món và doanh số thanh toán, từ 6.352 món năm 1997 đạt 957.632 triệu đồng đã tăng lên 8.370 món năm 1998 đạt 1.932.851 triệu đồng, 13.058 món năm 1999 đạt 2.705.991 triệu đồng, 15.669 món năm 2000 đạt 3.788.388 triệu đồng, 26.574 món năm 2001 đạt 7.521.033 triệu đồng và 31.836 món năm 2002 đạt 10.556.508 triệu đồng. Hình thức thanh toán tại chi nhánh bao gồm thanh toán bằng ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, séc và tiền mặt. Từ năm 1997 đến năm 1999, hình thức thanh toán bằng thư tín dụng được sử dụng rất ít do những quy định khắt khe và không còn được khách hàng của chi nhánh lựa chọn từ năm 2000. Riêng hình thức thanh toán bằng thẻ sẽ được triển khai áp dụng trong năm 2003. Kể từ khi hoạt động đến nay, chi nhánh mới chỉ áp dụng ba phương thức thanh toán là thanh toán chuyển tiền (thanh toán nội bộ), thanh toán bù trừ và thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước. Đặc biệt, năm 2002, chi nhánh đã tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, giúp cho việc thanh toán diễn ra rất nhanh chóng, thuận lợi và chính xác. Tính đến ngày 31/12/2002, chi nhánh đã có 605 khách hàng là doanh nghiệp và 2.427 khách hàng là cá nhân nhưng công tác thanh toán của chi nhánh đã đảm bảo thu đúng, chi đủ, kịp thời, chính xác. Từ năm 2001, các cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh đã bố trí làm việc vào ngày thứ 7, phân ca trực để giao dịch đến 18h hàng ngày nhằm phục vụ yêu cầu thanh toán của khách hàng. Với khối lượng thanh toán rất lớn, các cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh đã có nhiều cố gắng, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, hạch toán đầy đủ cập nhật những khoản tiền đi đến trong ngày, giảm tối đa phiền hà cho khách trong khâu thanh toán. Chính vì vậy, chi nhánh đã và đang thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến thanh toán. 2.1.2.5. Kết quả hoạt động kế toán, ngân quỹ a, Hoạt động kế toán Với chức năng và nhiệm vụ được giao là quản lý vốn và tài sản cho ngân hàng, bộ phận kế toán đã không ngừng cố gắng về mọi mặt để tinh thông nghiệp vụ và quản lý tốt nguồn vốn an toàn, hiệu quả. Kế toán quản lý sử dụng vốn hàng tháng tính đủ các khoản lãi đến hạn trên hợp đồng, tích cực đôn đốc thu lãi của đơn vị có quan hệ vay vốn để đảm bảo nguồn thu cho chi nhánh. Công tác quản lý tài sản và chi tiêu tài chính kế toán đã làm đúng chức năng tham mưu cho lãnh đạo, đảm bảo tiết kiệm trong chi tiêu và mua sắm để nâng cao thu nhập cho người lao động. Phòng đã tổ chức theo dõi chặt chẽ tài sản cố định, công cụ lao động đang dùng, đảm bảo đúng chế độ. Trong thanh toán các khoản chi tiêu nội bộ, chứng từ phải đầy đủ các yếu tố pháp lý đảm bảo đúng quy định của Nhà nước và NHNo&PTNT Việt Nam đã đề ra. Cụ thể, đoàn kiểm tra của phòng kiểm soát, thanh tra Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hà nội đã tiến hành kiểm tra theo đề cương 1146/NHNo-KTK ngày 10/05/2002 của Tổng giám đốc, không thấy có biểu hiện tham ô lợi dụng. Các khoản nộp nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, kế toán luôn quan tâm tính đúng, tính đủ hàng tháng nộp chi cục thuế Thành phố Hà nội đúng thời gian quy định. b, Hoạt động ngân quỹ Hoạt động thu chi tiền mặt đã làm tốt nhiệm vụ với tổng số thu qua sáu năm là 7.636 tỷ đồng, chi là 6.682 tỷ đồng. Chi nhánh luôn đảm bảo thu đúng, chi đủ, an toàn, chính xác. Dù doanh số thu chi tiền mặt rất lớn, bình quân tốc độ thu chi một ngày qua ngân quỹ nghiệp vụ từ 4-5 tỷ đồng, và thường xuyên phải lĩnh tiền gửi ngân hàng Nhà nước, phải chi trả cho Bảo hiểm xã hội và Kho bạc, nhưng cán bộ kiểm ngân không để xảy ra trường hợp nào nhầm lẫn, thiếu mất, luôn giữ được phẩm chất cao quý của người cán bộ kiểm ngân ngân hàng. Một kết quả đáng ghi nhận là từ năm 1997 đến năm 2002, bộ phận kiểm ngân đã trả lại cho khách hàng hơn758 món tiền thừa với số tiền hơn 861 triệu đồng. 2.1.2.6. Kết quả hoạt động tài chính Do các hoạt động tại chi nhánh đều có sự tăng trưởng mạnh mẽ nên tổng thu nhập về hoạt động kinh doanh của chi nhánh cũng tăng trưởng mạnh qua các năm. Năm 1997, tổng thu nhập đạt 58.864 triệu đồng, năm 1998 đạt 82.410 triệu đồng, năm 1999 đạt 98.892 triệu đồng, năm 2000 đạt 128.560 triệu đồng, năm 2001 đạt 172.270 triệu đồng và năm 2002 đạt 210.169 triệu đồng. Tổng chi phí trong hoạt động kinh doanh năm 1997 là 49.077 triệu đồng, năm 1998 là 60.808 triệu đồng, năm 1999 là 78.125 triệu đồng, năm 2000 là 96.420 triệu đồng, năm 2001 là 134.631 triệu đồng và năm 2002 là 168.289 triệu đồng. 2.2. Thực trạng hoạt động thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ 2.2.1. Thực trạng thanh toán theo các hình thức thanh toán tại chi nhánh Trong thời gian qua, tại chi nhánh chỉ có hình thức thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu và tiền mặt được khách hàng sử dụng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan mà hình thức thanh toán bằng thư tín dụng không được khách hàng lựa chọn nữa, còn hình thức thanh toán bằng thẻ vẫn chưa được triển khai tại chi nhánh. Sự phát triển của mỗi hình thức thanh toán tại chi nhánh cũng như những ưu, nhược điểm của chúng sẽ được phân tích cụ thể trong bài. Dưới đây là hai bảng số liệu về tình hình thanh toán theo các hình thức thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ. Bảng 1: Tổng số món thanh toán theo các hình thức thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ Đơn vị: món Năm Hình thức thanh toán 2000 2001 2002 So sánh 2001/2000 2002/2001 Số món Tỷ trọng (%) Số món Tỷ trọng (%) Số món Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (3)-(1) (3)/(1) (5)-(3) (5)/(3) Séc 2.900 18,5 6.685 25,2 8.694 27,3 3.785 230,5 2.009 130,1 ủy nhiệm chi 10.950 69,9 18.255 68,7 21.900 68,8 7.305 166,7 3.645 120,0 ủy nhiệm thu 512 3,3 491 1,8 595 1,9 -21 95,9 104 121,2 Thư tín dụng - - - - - Thẻ - - - - - Tiền mặt 1.307 8,3 1.143 4,3 647 2,0 -164 87,5 -496 56,6 Tổng 15.669 26.574 31.836 10.905 169,6 5.262 119,8 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ Bảng 2: Tổng doanh số thanh toán theo các hình thức thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ Đơn vị: triệu đồng Năm Hình thức thanh toán 2000 2001 2002 So sánh 2001/2000 2002/2001 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (3)-(1) (3)/(1) (5)-(3) (5)/(3) Séc 174.350 4,6 467.950 6,22 669.438 6,35 293.600 268,4 201.488 143,1 ủy nhiệm chi 3.449.250 91,05 6.845.625 91,02 9.765.240 92,5 3.396.375 198,5 2.919.615 142,6 ủy nhiệm thu 1.538 0,04 1.718 0,02 2.380 0,02 180 111,7 662 138,5 Thư tín dụng - - - - - Thẻ - - - - - Tiền mặt 163.200 4,31 205.740 2,74 119.450 1,13 42.540 126,1 -86.290 58,1 Tổng 3.788.338 7.521.033 10.556.508 3.732.695 198,5 3.035.475 140,0 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ 2.2.1.1. Thanh toán bằng séc Nhìn bảng số món thanh toán, ta thấy tỷ trọng số món thanh toán bằng séc luôn chiếm vị trí thứ hai, sau ủy nhiệm chi. Số món thanh toán bằng séc đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Năm 2000, số món thanh toán bằng séc chỉ đạt 2.900 món, chiếm 18,5% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Nhưng sang năm 2001, số món thanh toán bằng séc đã tăng lên hơn hai lần so với năm 2000, đạt 6.685 món, chiếm 25,2% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. So với năm 2000, số món thanh toán bằng séc năm 2001 đã tăng lên 3.785 món, đạt 230,5%. Đến năm 2002, số món thanh toán bằng séc lại tiếp tục tăng lên, đạt 8.694 món, chiếm 27,3% tổng số món thanh toán tại chi nhánh. Số món thanh toán bằng séc năm 2002 so với năm 2001 chỉ tăng 2.009 món, ứng với 30,1%, ít hơn so với con số 3.785 món của năm 2001. Tuy tốc độ tăng trưởng số món thanh toán bằng séc năm 2002 chậm hơn so với năm 2001 nhưng tỷ trọng thanh toán bằng séc năm 2002 vẫn đạt 27,3%, cao hơn so với con số 25,2% của năm 2001. Nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng của số món thanh toán bằng ủy nhiệm chi năm 2002 chậm hơn nhiều so với năm 2001. Sự tăng lên về số món thanh toán bằng séc qua các năm kéo theo sự tăng lên về doanh số thanh toán séc. Năm 2000, doanh số thanh toán bằng séc chỉ đạt 174.350 triệu đồng, chiếm 4,6% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh thì đến năm 2001, doanh số thanh toán séc đạt 467.950 triệu đồng, chiếm 6,22% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh. So với năm 2000, doanh số thanh toán bằng séc năm 2001 tăng 293.600 triệu đồng, ứng với 168,4%. Sang năm 2002, doanh số thanh toán bằng séc đạt 669.438 triệu đồng, chiếm 6,35% tổng doanh số thanh toán tại chi nhánh, so với năm 2001 tăng 201.488 triệu đồng, ứng với 43,1%. Để hiểu rõ hơn tình hình thanh toán bằng séc tại chi nhánh, chúng ta sẽ đi sâu phân tích từng loại séc. Những năm qua, chỉ có hai loại séc là séc chuyển khoản và séc bảo chi được sử dụng để thanh toán tại chi nhánh. Bảng 3: Số món thanh toán bằng séc tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ Đơn vị: món Năm Hình thức thanh toán 2000 2001 2002 So sánh 2001/2000 2002/2001 Số món Tỷ trọng (%) Số món Tỷ trọng (%) Số món Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (3)-(1) (3)/(1) (5)-(3) (5)/(3) Séc chuyển khoản 1.682 58 4.258 63,7 5.582 64,2 2.576 253,2 1.324 131,1 Séc bảo chi 1.218 42 2.427 36,3 3.112 35,8 1.209 199,3 685 128,2 Tổng 2.900 6.685 8.694 3.785 230,5 2.009 130,1 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ Bảng 4: Doanh số thanh toán bằng séc tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ Đơn vị: triệu đồng Năm Hình thức thanh toán 2000 2001 2002 So sánh 2001/2000 2002/2001 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) Tăng, giảm Tỷ trọng (%) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (3)-(1) (3)/(1) (5)-(3) (5)/(3) Séc chuyển khoản 59.802 34,3 153.488 32,8 210.873 31,5 93.686 256,7 57.385 137,4 Séc bảo chi 114.548 65,7 314.462 67,2 458.565 68,5 199.914 274,5 144.103 145,8 Tổng 174.350 467950 669438 293.600 268,4 201.488 143,1 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ a, Thanh toán bằng séc chuyển khoản Dễ dàng nhận thấy số món thanh toán bằng séc chuyển khoản qua các năm luôn nhiều hơn số món thanh toán bằng séc bảo chi. Năm 2000, số món thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 1.682 món, chiếm 58% tổng số món thanh toán bằng séc. Sang năm 2001, tỷ trọng số món thanh toán bằng séc chuyển khoản tiếp tục tăng, đạt 63,7% tổng số món thanh toán bằng séc, ứng với 4.258 món. So với năm 2000, số món thanh toán bằng séc chuyển khoản tăng 2.576 món, đạt 253,2%. Năm 2002, số món thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 5.582 món, chiếm 64,2% tổng số món thanh toán bằng séc, tăng 1.324 món so với năm 2001, ứng với 31,1%. Năm 2000, doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 59.802 triệu đồng, chiếm 34,3% tổng doanh số thanh toán bằng séc. Sang năm 2001, doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 153.488 triệu đồng, chiếm 32,8% tổng doanh số thanh toán bằng séc, so với năm 2000 tăng 93.686, đạt 256,7%. Năm 2002, doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản tăng 57.385 triệu đồng so với năm 2001, đạt 210.873 triệu đồng, chiếm 31,5% tổng doanh số thanh toán bằng séc. Như vậy, số món và doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản tại chi nhánh liên tục tăng qua các năm. So với hình thức thanh toán bằng séc bảo chi, hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản được áp dụng nhiều hơn. Tỷ trọng số món thanh toán bằng séc chuyển khoản luôn cao hơn so với thanh toán bằng séc bảo chi và tăng dần từ 58% năm 2000 lên 63,7% năm 2001 và 64,2% năm 2002. Tuy vậy, doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản luôn thấp hơn doanh số thanh toán bằng séc bảo chi. Tỷ trọng doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản giảm dần qua các năm, từ 34,3% năm 2000 xuống 32,8% năm 2001 và 31,5% năm 2002. Từ số liệu ở bảng, ta tính được doanh số thanh toán bình quân mỗi món là 37 triệu đồng đối với séc chuyển khoản và 130 triệu đồng đối với séc bảo chi. Điều này chứng tỏ séc chuyển khoản thường được áp dụng để thanh toán những khoản tiền nhỏ. Sở dĩ hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản được khách hàng ưa chuộng vì nó có nhiều ưu điểm. ưu điểm trước tiên là thủ tục thanh toán bằng séc chuyển khoản rất đơn giản. Khi có nhu cầu thanh toán bằng séc chuyển khoản, người trả tiền chỉ phải ghi đầy đủ các yếu tố quy định trên tờ séc theo đúng thể lệ thanh toán và quy định chung về lập chứng từ rồi giao trực tiếp cho người thụ hưởng mà không phải thông qua ngân hàng như séc bảo chi. ưu điểm thứ hai là người phát hành séc chuyển khoản (người trả tiền) không phải lưu ký bất cứ khoản tiền nào tại ngân hàng. Quy định này giúp cho họ không bị đọng vốn. Ngoài ra, hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản còn rất an toàn cho ngân hàng phục vụ người trả tiền. Trong trường hợp người trả tiền phát hành séc chuyển khoản quá số dư, ngân hàng không phải chịu trách nhiệm thanh toán ngay cho người thụ hưởng và có quyền phạt khách hàng vì phát hành séc quá số dư. Chính vì sự an toàn này đối với mình nên các ngân hàng khuyến khích khách hàng áp dụng hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản. Bên cạnh những ưu điểm trên, hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản còn nhiều hạn chế. Do thủ tục thanh toán bằng séc chuyển khoản đơn giản nên dễ dẫn đến tình trạng người trả tiền phát hành séc quá số dư. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải tuân thủ nguyên tắc ghi Nợ trước, Có sau chứ không thể ghi Có ngay cho tài khoản của người thụ hưởng như đối với séc bảo chi. Vì vậy, thời gian thanh toán bằng séc chuyển khoản lâu hơn so với séc bảo chi. Trong trường hợp tài khoản người trả tiền không đủ tiền thanh toán (phát hành séc quá số dư), người thụ hưởng phải đợi cho đến khi tài khoản của người trả tiền có đủ số dư mới được thanh toán. Điều này gây đọng vốn cho người thụ hưởng. Vì vậy, người thụ hưởng thường không thích nhận séc chuyển khoản do không đảm bảo nhu cầu an toàn, kịp thời cho họ. Do hạn chế trên nên séc chuyển khoản thường được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng có tín nhiệm nhau về thanh toán. Tại chi nhánh Láng Hạ, khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lại có quan hệ thanh toán thường xuyên với nhau nên hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản luôn được sử dụng nhiều hơn so với séc bảo chi. Vì vậy, số món thanh toán bằng séc chuyển khoản tại chi nhánh qua các năm luôn nhiều hơn số món thanh toán bằng séc bảo chi. Một hạn chế nữa của hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản là phạm vi thanh toán được quy định hạn hẹp. Hiện nay, séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong thanh toán giữa hai khách hàng mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc tại hai chi nhánh ngân hàng trên cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ. Phạm vi áp dụng còn hạn hẹp phần nào làm giảm số lượng thanh toán bằng séc chuyển khoản. Khác với séc bảo chi, séc chuyển khoản không được ngân hàng đảm bảo thanh toán nên hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản thường được áp dụng để thanh toán những khoản tiền nhỏ nhằm hạn chế rủi ro cho người thụ hưởng. Do đó, mặc dù số món thanh toán bằng séc chuyển khoản luôn nhiều hơn số món thanh toán bằng séc bảo chi nhưng doanh số thanh toán lại thấp hơn rất nhiều. b, Thanh toán bằng séc bảo chi Năm 2000, số món thanh toán bằng séc bảo chi là 1.218 món, chiếm 42% tổng số món thanh toán bằng séc. Sang năm 2001, số món thanh toán bằng séc bảo chi tăng 1.209 món, đạt 199,3% so với năm 2000. Do tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với séc chuyển khoản nên trong năm 2001, tỷ trọng số món thanh toán bằng séc bảo chi chỉ còn 36,3% tổng số món thanh toán bằng séc, thấp hơn so với con số 42% năm 2000. Hiện tượng này tiếp tục lặp lại vào năm 2002. Trong khi số món thanh toán bằng séc chuyển khoản tăng thêm 1.324 món, đạt 131,1% so với năm 2001 thì số món thanh toán bằng séc bảo chi chỉ tăng thêm 685 món, đạt 128,2% so với năm 2001. Vì vậy, năm 2002, tỷ trọng số món thanh toán bằng séc bảo chi còn 35,8%, đạt 3.112 món. Tuy số món thanh toán bằng séc bảo chi ít hơn so với số món thanh toán bằng séc chuyển khoản nhưng do séc bảo chi thường được sử dụng để thanh toán những khoản tiền lớn nên doanh số thanh toán séc bảo chi lại lớn hơn. Doanh số thanh toán bằng séc bảo chi tăng lên rất nhanh qua các năm, từ 114.548 triệu đồng năm 2000 (chiếm 65,7% tổng doanh số thanh toán bằng séc), 314.462 triệu đồng năm 2001 ( chiếm 67,2%) đến 458.565 triệu đồng năm 2002 (chiếm 68,5%). So với năm 2000, do._. phẩm ngân hàng ngày càng đa dạng. Kinh tế nước ta đang từng bước thực hiện các điều kiện của AFTA, triển khai hiệp định thương mại Việt Mỹ. Việt Nam đang đàm phán để được gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Xu hướng tự do hóa tài chính và mở cửa ngân hàng của nền kinh tế là một thực tế. Trước những cơ hội và thách thức sẽ phải đối mặt, chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ đã đề ra định hướng phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh như sau: - Thu hút ngày càng nhiều khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua chi nhánh. - Mở rộng dịch vụ mới nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. - Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ ngân hàng để hiện đại hóa công tác thanh toán, thực hiện thanh toán nhanh chóng, chính xác và an toàn. - Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán thông thạo nghiệp vụ, giỏi tin học, ngoại ngữ để nhanh chóng tiếp cận các hình thức và phương thức thanh toán hiện đại. - Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán có phong cách giao dịch văn minh lịch sự để thực hiện chiến lược thu hút khách hàng. - Nâng cao khả năng cạnh tranh của chi nhánh trong tương lai gần với các ngân hàng nước ngoài. - Thu nhập từ dịch vụ thanh toán tăng 20-25%. Để thực hiện được những định hướng đã đề ra, chi nhánh phải triển khai rất nhiều giải pháp, đồng thời phải có được sự hỗ trợ từ phía NHNo&PTNT, Ngân hàng Nhà nước và Nhà nước. 3.2. Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ 3.2.1. Xây dựng và thực hiện chiến lược khách hàng phù hợp nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua chi nhánh - Bộ phận Marketing của chi nhánh phải thu thập và phân tích đầy đủ thông tin thị trường. Trên có sở đó, phải đưa ra chiến lược khách hàng phù hợp để khuyến khích khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua chi nhánh. - Chi nhánh phải tích cực tuyên truyền, quảng cáo những tiện ích của việc mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng, hướng dẫn cụ thể nội dung của các sản phẩm, dịch vụ thanh toán (như điều kiện áp dụng, phạm vi áp dụng, quy trình thủ tục…) thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, qua băngrôn, tờ rơi… Đây phải là việc làm thường xuyên, liên tục chứ không được qua loa, đại khái mang tính hình thức theo đợt. - Chi nhánh nên khuyến mãi khách hàng bằng cách gửi quà lưu niệm đối với những khách hàng thường xuyên giao dịch và có số dư bình quân trên tài khoản ổn định nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm hay vào các ngày kỷ niệm thành lập chi nhánh, hoặc khuyến mãi bằng cách mở các đợt rút thăm trúng thưởng cho khách hàng có tài khoản. Đây chỉ là những món quà nhỏ nhưng rất có ý nghĩa, mang lại cho khách hàng niềm vui và sự tin tưởng vào chi nhánh. 3.2.2. Chi nhánh cần cải tiến cách làm hiện nay của mình về chuyển tiền cá nhân theo hướng thuận lợi hơn để thu hút khách hàng chuyển tiền qua chi nhánh ở nước ta, chuyển tiền cá nhân qua ngân hàng là việc người chuyển tiền nộp tiền mặt hoặc trích tài khoản ở chi nhánh này, trả cho người thụ hưởng ở chi nhánh khác, cùng một ngân hàng. Theo mẫu lệnh chuyển tiền đang áp dụng trong NHNo&PTNT, các chi nhánh phát lệnh phải ghi rõ mục địa chỉ/số CMND của người nhận lệnh (người thụ hưởng) trong trường hợp người thụ hưởng không có tài khoản tại ngân hàng. Như vậy, người chuyển tiền phải biết giấy tờ tùy thân của người thụ hưởng như: số chứng minh nhân dân, ngày cấp, nơi cấp. Quy định này gây trở ngại cho người chuyển tiền qua ngân hàng trong trường hợp không biết trước giấy tờ tùy thân của người thụ hưởng. Không những thế, các chi nhánh phát lệnh thường không ghi rõ địa chỉ, chỉ ghi số chứng minh nhân dân của người thụ hưởng nên khi nhận được lệnh chuyển tiền, chi nhánh nhận lệnh không thể báo cho người thụ hưởng đến nhận tiền mà người thụ hưởng phải tự đến chi nhánh hoặc liên lạc qua điện thoại để nắm được thông tin. Đây là tình huống thường gặp, gây tốn thời gian, chi phí và phiền toái cho người thụ hưởng. Chính vì lý do này khiến cho chuyển tiền qua bưu điện với thủ tục đơn giản, nhanh chóng đã thu hút được nhiều khách hàng hơn so với chuyển tiền qua ngân hàng dù phí dịch vụ cao hơn. Để thu hút khách hàng chuyển tiền qua chi nhánh, chi nhánh cần phải có sự thay đổi trong việc lập lệnh chuyển tiền. Khi đóng vai trò là chi nhánh phát lệnh, chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ phải ghi rõ địa chỉ và số điện thoại (nếu có) của người thụ hưởng. Khi đóng vai trò là chi nhánh nhận lệnh, chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ phải đề nghị chi nhánh phát lệnh ghi rõ địa chỉ người thụ hưởng, kèm số điện thoại (nếu có). Khi nhận được lệnh chuyển tiền, chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ phải thông báo ngay cho người thụ hưởng đến nhận tiền. Khi đến chi nhánh, người thụ hưởng chỉ phải xuất trình chứng minh nhân dân. Cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh có thể kiểm tra thêm bằng câu hỏi “Ai chuyển tiền cho anh/chị?”, nếu khách hàng trả lời đúng sẽ nhận được tiền. Chỉ cần thay đổi chi tiết nhỏ trên, chắc chắn chi nhánh sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng có nhu cầu chuyển tiền cá nhân. 3.2.3. Chi nhánh cần chuẩn bị sẵn sàng cho việc triển khai dịch vụ thanh toán bằng thẻ NHNo&PTNT Việt Nam từ năm 2000 đã thực hiện trả lương cho nhân viên vào tài khoản và cho sử dụng thẻ ATM để rút tiền sử dụng dần. Tuy vậy, tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, hình thức thanh toán bằng thẻ mới đang trong giai đoạn chuẩn bị triển khai. Để hình thức thanh toán bằng thẻ sớm được đưa vào áp dụng, chi nhánh cần nhanh chóng thực hiện các biện pháp sau: Chi nhánh phải hướng dẫn cho cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh để họ làm quen và thực hiện thành thạo nghiệp vụ thanh toán thẻ. Tiếp tục nâng cao trình độ nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ của họ để đáp ứng được yêu cầu của hình thức thanh toán hiện đại như thẻ. Chi nhánh phải tuyên truyền cho mọi người về nội dung và tiện ích của hình thức thanh toán bằng thẻ để hướng sự chú ý của mọi người về sản phẩm mới này, giúp họ làm quen dần với nó. Khi nghiệp vụ thanh toán bằng thẻ được triển khai, chi nhánh cần thông báo rộng rãi qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, qua băngrôn, tờ rơi… để mọi người được biết. Trước tiên, chi nhánh cho nhân viên của mình sử dụng thẻ để rút tiền lương từ tài khoản thay vì dùng giấy lĩnh tiền mặt như trước đây. 3.2.4. Mở rộng thêm các sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng - Chi nhánh cần tiếp cận với các doanh nghiệp để thực hiện dịch vụ chi trả tiền lương cho cán bộ nhân viên qua chi nhánh. Qua đó, chi nhánh không chỉ tăng số lượng tài khoản doanh nghiệp mà còn tăng số lượng tài khoản cá nhân. Từ đó, hoạt động thanh toán tại chi nhánh sẽ phát triển ngày càng mạnh. Các doanh nghiệp, cá nhân có thể ủy nhiệm cho chi nhánh thanh toán các khoản chi có tính định kỳ như tiền điện, nước, bảo hiểm, nhà ở, thuế…. Hàng tháng, thay vì gửi hóa đơn đến từng doanh nghiệp, cá nhân, các cơ quan như Bưu điện Hà nội, công ty Điện lực, công ty Kinh doanh nước sạch Hà nội, các công ty bảo hiểm... sẽ gửi trực tiếp đến chi nhánh nhờ thu hộ tiền. Không chỉ hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu sẽ tăng mà các hình thức thanh toán khác như séc, thẻ cũng tăng theo. - Chi nhánh có thể thực hiện dịch vụ chuyển tiền theo định kỳ, ví dụ như khách hàng có con học đại học, hàng tháng đề nghị ngân hàng chuyển một số tiền nhất định vào một ngày ấn định cho con. - Chi nhánh có thể thực hiện nghiệp vụ môi giới, trung gian thanh toán trong các giao dịch mua bán bất động sản và các tài sản có giá trị lớn qua tài khoản ngân hàng. Đối với những khách hàng hội đủ những điều kiện nhất định, chi nhánh có thể cho vay bù đắp phần thiếu hụt. 3.2.5. Nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ làm công tác thanh toán - Cán bộ làm công tác thanh toán không chỉ phải hiểu biết các chế độ, thể lệ về công tác thanh toán mà còn phải nắm vững chủ trương, luật pháp của Đảng, Nhà nước và của ngành. Có như vậy họ mới xây dựng được định hướng hoạt động thanh toán đúng đắn, tránh được những sai phạm trong công tác thanh toán, tránh được những lúng túng trong việc giải thích chế độ cho khách hàng, tạo lòng tin ở khách hàng. Vì vậy, chi nhánh cần tổ chức cho cán bộ làm công tác thanh toán học và nắm vững các chính sách, chế độ, quy định của Đảng, Nhà nước cũng như của ngành đề ra. - Chi nhánh phải đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ làm công tác thanh toán. Hiện nay, số cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh có 22 người, trong đó 13 người có trình độ đại học và cao đẳng (chiếm 59%), 5 người có trình độ trung cấp (chiếm 23%) và 4 người chưa qua đào tạo nghiệp vụ (chiếm 18%). Như vậy, số cán bộ chưa được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn còn cao, chiếm tới 18%. Chi nhánh cần tạo điều kiện về thời gian cho những cán bộ này tham gia học các khóa học về ngân hàng tại các trường đại học để nâng cao trình độ. Định kỳ, chi nhánh cần tổ chức các khóa đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ về nghiệp vụ chuyên môn. Khi có những thay đổi trong nghiệp vụ, chi nhánh cần nhanh chóng mở lớp hướng dẫn hoặc cử cán bộ đi học để tiếp thu nghiệp vụ mới. Có như vậy, hoạt động thanh toán tại chi nhánh mới đảm bảo nhanh chóng, chính xác và an toàn cho khách hàng. - Chi nhánh cần tiếp tục bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác thanh toán những kiến thức về tin học và ngoại ngữ. Trong điều kiện công nghệ thông tin ngày càng phát triển, nhiều sản phẩm thanh toán hiện đại ra đời, nếu các cán bộ làm công tác thanh toán chỉ giỏi nghiệp vụ thôi thì chưa đủ. Ngày nay, hầu hết hoạt động thanh toán đều có sự ứng dụng công nghệ thông tin. Mà để tiếp cận được công nghệ thông tin hiện đại của thế giới, các cán bộ làm công tác thanh toán phải có trình độ tin học và ngoại ngữ tốt. Vì thế, việc bồi dưỡng tin học, ngoại ngữ cho họ sẽ hỗ trợ họ rất nhiều trong việc thích nghi với sự phát triển nhanh chóng của các sản phẩm thanh toán. - Đặc biệt, chi nhánh phải đào tạo cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực công nghệ thông tin ngân hàng. Những cán bộ này không chỉ hiểu biết thuần túy về kỹ thuật thông tin mà phải hiểu biết cả nội dung các dịch vụ thanh toán. - Căn cứ vào năng lực, trình độ của cán bộ, chi nhánh phải phân công công việc phù hợp với khả năng của từng người để mọi người phát huy tốt năng lực của bản thân. - Chi nhánh phải không ngừng nâng cao phong cách giao dịch của cán bộ làm công tác thanh toán với khách hàng, đảm bảo tác phong giao dịch văn minh, lịch sự để tạo lòng tin cho khách hàng. - Chi nhánh cần giáo dục cho mọi cán bộ làm công tác thanh toán hiểu rằng họ phải lao động có kỷ luật, nề nếp, có ý thức trách nhiệm cao với công việc được giao. Họ còn phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong công việc, người đi trước phải dìu dắt người đi sau. Có như vậy chi nhánh mới xây dựng được tập thể đoàn kết, vững mạnh, hoàn thành tốt công tác thanh toán. 3.3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT, Ngân hàng Nhà nước và Nhà nước 3.3.1. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT - NHNo&PTNT cần ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn công tác thanh toán đi đôi với việc thường xuyên kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của từng tập thể, cá nhân làm công tác thanh toán. - NHNo&PTNT cần xây dựng và quy định các vấn đề liên quan đến bảo mật và an toàn trong thanh toán của hệ thống NHNo&PTNT phù hợp với từng giai đoạn phát triển của hoạt động thanh toán. - NHNo&PTNT cần tích cực hỗ trợ cho chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ nhanh chóng triển khai dịch vụ thanh toán bằng thẻ. Để hình thức thanh toán bằng thẻ sớm được đưa vào áp dụng tại chi nhánh, NHNo&PTNT cần nhanh chóng hoàn thiện phần mềm thanh toán thẻ trong hệ thống. Đồng thời, NHNo&PTNT phải dành một nguồn vốn thích đáng cho chi nhánh trang bị máy móc phục vụ cho quy trình thanh toán thẻ, như các máy đọc thẻ và nghiên cứu đặt máy tại những nơi có điều kiện giao dịch thuận lợi, an toàn. - NHNo&PTNT cần có chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với khách hàng là cá nhân mở tài khoản và thanh toán tại các chi nhánh của ngân hàng. Như: + Nếu cá nhân mở tài khoản và thanh toán tại các chi nhánh của ngân hàng sẽ được chi nhánh cung cấp đầy đủ các loại ấn chỉ, chứng từ miễn phí. Khi sử dụng các dịch vụ thanh toán sẽ được chi nhánh giảm phí. + Tăng mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của dân cư cao hơn mức áp dụng cho các doanh nghiệp. + Đối với những khách hàng hội đủ những điều kiện nhất định, NHNo&PTNT có thể cho phép các chi nhánh ưu đãi lãi suất cho vay khi khách hàng có nhu cầu vay. Những chính sách ưu đãi này sẽ thu hút ngày càng nhiều cá nhân mở tài khoản và thanh toán tại các chi nhánh của NHNo&PTNT, trong đó có chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ. - NHNo&PTNT cần có sự thay đổi trong quy định đối với việc chuyển tiền cá nhân. Theo mẫu lệnh chuyển tiền đang áp dụng trong NHNo&PTNT, các chi nhánh phát lệnh phải ghi rõ mục Địa chỉ/Số CMND của người nhận lệnh (người thụ hưởng) trong trường hợp người thụ hưởng không có tài khoản tại ngân hàng. Như vậy, người chuyển tiền phải biết giấy tờ tùy thân của người thụ hưởng như: số chứng minh nhân dân, ngày cấp, nơi cấp. Quy định này gây trở ngại cho người chuyển tiền qua ngân hàng trong trường hợp không biết trước giấy tờ tùy thân của người thụ hưởng. Hiện nay, mẫu lệnh chuyển tiền của Ngân hàng Nhà nước có ghi Địa chỉ (hoặc số, thời gian, nơi cấp GCMND/Hộ chiếu). Nghĩa là người chuyển tiền không nhất thiết phải biết giấy tờ tùy thân của người thụ hưởng khi đã biết rõ địa chỉ của họ. Thiết nghĩ, NHNo&PTNT cũng không nên bắt buộc người chuyển tiền phải ghi rõ số, thời gian, nơi cấp chứng minh nhân dân của người thụ hưởng khi đã biết địa chỉ của họ. Như vậy sẽ thuận lợi hơn cho người chuyển tiền qua NHNo&PTNT. Nhờ đó chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ nói riêng và các chi nhánh của NHNo&PTNT nói chung sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng có nhu cầu chuyển tiền. - NHNo&PTNT cần nhanh chóng xúc tiến việc phát hành séc cá nhân để hình thức thanh toán này có thể triển khai tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ nói riêng và các chi nhánh NHNo&PTNT nói chung. Hình thức thanh toán bằng séc cá nhân đã được quy định từ năm 1993 trong quyết định số 236-QĐ-NH1 nhưng đến nay NHNo&PTNT vẫn chưa phát hành séc cá nhân. Trong những năm gần đây, một bộ phận dân cư đã có thu nhập cao, nhu cầu giao dịch thanh toán cá nhân của họ ngày càng tăng. Thực tế này đòi hỏi NHNo&PTNT cần nhanh chóng phát hành séc cá nhân để thu hút thêm nhiều khách hàng là cá nhân mở tài khoản và thanh toán qua chi nhánh, tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Trước mắt, NHNo&PTNT có thể chọn ra những khách hàng đang mở tài khoản tại các chi nhánh của ngân hàng có thu nhập cao, ổn định làm thí điểm cho việc phát hành séc cá nhân. Những khách hàng sử dụng séc cá nhân sẽ được hưởng nhiều ưu đãi, như: tăng lãi suất tiền gửi thanh toán, giảm phí thanh toán…Từ một bộ phận dân cư sử dụng séc cá nhân chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lan rộng và kích thích nhu cầu thanh toán qua ngân hàng nói chung và thanh toán qua NHNo&PTNT nói riêng của bộ phận dân cư khác. - NHNo&PTNT cần chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ phục vụ hoạt động thanh toán trong toàn ngân hàng. NHNo&PTNT phải tập trung vốn cho việc xây dựng hệ thống thanh toán mới hiện đại, đủ điều kiện tiếp nhận và chuyển tải các lệnh thanh toán đi và đến một cách nhanh nhậy, chính xác và an toàn cao. Trong đó cần chú ý: công nghệ thông tin, máy móc thiết bị vừa đảm bảo tính hiện đại đương thời vừa phải tính đến hệ thống mở cho tương lai nhằm xử lý kết nối cho quá trình phát triển tiếp theo. - NHNo&PTNT phải xây dựng các chương trình phần mềm vừa đảm bảo tính hiện đại ngang tầm với trình độ thế giới vừa phải đảm bảo phù hợp với trình độ cán bộ làm công tác thanh toán của ngân hàng, phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế xã hội Việt Nam nhằm sử dụng một cách hữu hiệu, giảm bớt phần lãng phí về vốn. - NHNo&PTNT thực hiện nối mạng vi tính với các ngân hàng khác để có thể giao dịch trực tiếp, rút ngắn thời gian thanh toán. Từng bước thực hiện thí điểm nối mạng với khách hàng, trước hết là với khách hàng lớn, có uy tín để thực hiện việc giao dịch tại nhà. Từ đó, ngân hàng chủ động và dễ dàng cung cấp các thông tin kinh tế liên quan cho khách hàng như tình hình hoạt động thanh toán của khách hàng, số dư tài khoản, lãi suất, tỷ giá và nhiều thông tin khác. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước - Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp quy có hiệu lực cao để tạo môi trường pháp lý vững chắc cho hoạt động thanh toán. Đặc biệt, hoạt động thanh toán ngày nay được thực hiện chủ yếu dưới hình thức thanh toán điện tử nên Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho các giao dịch điện tử. - Ngân hàng Nhà nước cần cải tiến quy định hiện nay đối với hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản theo hướng thuận tiện hơn cho người sử dụng. Như chúng ta đã biết, séc chuyển khoản có ưu điểm đối với người trả tiền do thủ tục thanh toán đơn giản, người trả tiền không phải ký quỹ đảm bảo thanh toán nhưng cũng có nhược điểm là dễ bị phát hành quá số dư, gây thiệt hại cho người thụ hưởng. Ngân hàng Nhà nước nên cho phép các ngân hàng thương mại cho khách hàng vay thanh toán khi họ phát hành séc chuyển khoản quá số dư. Tuy nhiên, không phải đối tượng nào cũng được vay thanh toán séc chuyển khoản mà chỉ áp dụng đối với những khách hàng có khả năng tài chính tốt, có uy tín trong quan hệ thanh toán. Với những khách hàng có nhu cầu và hội đủ điều kiện, ngân hàng và khách hàng sẽ ký kết hợp đồng quy định rõ lãi suất, hạn mức và thời hạn vay thanh toán séc chuyển khoản. Ngân hàng Nhà nước cần quy định mức lãi suất phạt phát hành quá hạn mức cho vay và phạt trả chậm thật cao trong trường hợp khách hàng phát hành séc vượt quá hạn mức cho vay thanh toán. Việc cho vay thanh toán séc chuyển khoản chắc chắn sẽ khuyến khích mọi người sử dụng hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản nhiều hơn vì cả người trả tiền, người thụ hưởng và ngân hàng cùng có lợi. + Đối với người thụ hưởng, khi nộp séc vào ngân hàng, nếu người trả tiền phát hành séc chuyển khoản quá số dư nhưng vẫn thuộc hạn mức cho vay thanh toán thì người thụ hưởng vẫn được thanh toán ngay mà không phải đợi cho đến khi tài khoản của người trả tiền đủ tiền thanh toán. Do đó, họ không phải chịu rủi ro đọng vốn. + Đối với người trả tiền, việc được vay thanh toán sẽ giúp họ đảm bảo uy tín với người thụ hưởng. Trong giao dịch mua bán, đôi khi chỉ vì một khoản chi đột xuất có thể khiến người trả tiền thiếu tiền thanh toán séc chuyển khoản. Số tiền vượt quá số dư có thể rất nhỏ nhưng người trả tiền sẽ bị phạt còn người thụ hưởng sẽ bị đọng vốn. Việc chậm trả sẽ làm giảm uy tín của người trả tiền đối với người thụ hưởng. Trong trường hợp này, cho vay thanh toán giúp cho việc thanh toán diễn ra thuận lợi, kịp thời, đảm bảo uy tín cho người trả tiền.Về phía người trả tiền, mặc dù phải trả lãi cao cho khoản vay “nóng” nhưng vẫn có tâm lý thoải mái hơn nhiều so với việc bị phạt phát hành quá số dư và phạt trả chậm. Việc cho vay thanh toán không hề khuyến khích khách hàng phát hành quá số dư vì lãi suất cho vay thanh toán và lãi suất phạt khi phát hành quá hạn mức cho vay sẽ được quy định ở mức cao. + Đối với ngân hàng, khi áp dụng cho vay thanh toán, ngân hàng sẽ kết hợp được nghiệp vụ thanh toán và nghiệp vụ tín dụng. Việc cho vay thanh toán được thực hiện với hạn mức và thời hạn nhất định nên ngân hàng hoàn toàn có thể chủ động được về vốn. áp dụng hình thức này, ngân hàng có thể thu lãi cao nhờ khoản tiền cho vay “nóng” mà vẫn giữ được quan hệ tốt đẹp với cả người trả tiền và người thụ hưởng. - Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với khách hàng sử dụng séc bảo chi và mở rộng phạm vi áp dụng của hình thức thanh toán này. Ngược với séc chuyển khoản, séc bảo chi có ưu điểm đối với người thụ hưởng do họ luôn được ngân hàng đảm bảo về khả năng thanh toán nhưng lại có nhược điểm đối với người trả tiền do họ phải lưu ký tiền đảm bảo thanh toán séc bảo chi mà không được hưởng lãi. Để khuyến khích khách hàng sử dụng hình thức thanh toán bằng séc bảo chi nhiều hơn, Ngân hàng Nhà nước nên cho phép các ngân hàng thương mại trả lãi cho số tiền lưu ký. Đây là việc làm gây tốn kém cho các ngân hàng thương mại nhưng hoàn toàn có thể thực hiện được. Như chúng ta đã biết, tại các nước phát triển, tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng không được trả lãi. Nhưng ở Việt Nam, để khuyến khích khách hàng thanh toán qua ngân hàng, các ngân hàng thương mại vẫn đang thực hiện trả lãi cho tiền gửi không kỳ hạn. Vì vậy, trong hoàn cảnh séc bảo chi còn ít được sử dụng tại Việt Nam, các ngân hàng thương mại vẫn có thể thực hiện trả lãi cho số tiền lưu ký nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng thanh toán bằng séc bảo chi. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cần mở rộng phạm vi thanh toán của séc bảo chi, cho phép séc bảo chi được sử dụng để thanh toán trong phạm vi toàn quốc do séc bảo chi đã được ngân hàng bảo chi séc đảm bảo thanh toán. - Ngân hàng Nhà nước cần có những quy định linh hoạt hơn đối với hình thức thanh toán bằng thư tín dụng để khuyến khích khách hàng áp dụng hình thức này trong thanh toán nội địa. Như chúng ta đều biết, thanh toán bằng thư tín dụng là một hình thức thanh toán rất an toàn đối với cả người mua và người bán thế nhưng từ lâu đã không được khách hàng lựa chọn do những quy định quá chặt chẽ. Để khuyến khích khách hàng áp dụng hình thức thanh toán này, Ngân hàng Nhà nước có thể hạ thấp mức tiền tối thiểu của mỗi thư tín dụng, cho phép các ngân hàng thương mại trả lãi cho số tiền lưu ký đảm bảo thanh toán thư tín dụng. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước nên mở rộng phạm vi thanh toán bằng thư tín dụng ra toàn quốc do thư tín dụng đã được ngân hàng mở thư cam kết thanh toán. - Trước mắt, Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các thành viên chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng để tất cả ngân hàng thương mại nhanh chóng được tham gia vào hệ thống này. Hiện nay, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng mới được thực hiện ở sáu tỉnh, thành phố lớn là Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và Khánh Hòa. Nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt nam, các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô lớn đã nộp đơn, nhưng chưa trở thành thành viên. Do đó, mỗi ngày có khoảng 1.000 tỷ đồng chưa chuyển qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, chưa phát huy cao độ công suất của hệ thống này. Khi hệ thống này được triển khai trong toàn quốc, việc thanh toán vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ với các chi nhánh ngân hàng khác sẽ diễn ra thuận lợi hơn. Hiện nay, khi cần thanh toán vốn với các chi nhánh ngân hàng chưa tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ vẫn phải áp dụng phương thức thanh toán truyền thống, làm giảm tốc độ thanh toán. - Theo quy định về thanh toán điện tử, mọi chứng từ điện tử sau khi đã dùng để hạch toán kế toán và thanh toán phải được chuyển hóa thành chứng từ giấy và những người có trách nhiệm phải ký xác nhận trên chứng từ giấy. Để giảm bớt lượt ký trên chứng từ giấy, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để chuyển hóa chữ ký điện tử thành chữ ký tay khi chuyển hóa chứng từ điện tử ra chứng từ giấy. - Ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa công nghệ thanh toán qua ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp, kế hoạch tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ của nước ngoài, đặc biệt là của Ngân hàng Thế giới. Từ các nguồn tài trợ này, Ngân hàng Nhà nước cần ưu tiên đầu tư vốn cho phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng vào hoạt động thanh toán, từng bước hoàn thiện hệ thống thanh toán quốc gia theo hướng tự động hóa, tạo nền tảng kỹ thuật để mở rộng dịch vụ thanh toán trong dân cư và toàn xã hội. 3.3.3. Kiến nghị đối với Nhà nước - Nhà nước cần sớm ban hành luật séc. Như chúng ta đều biết, thanh toán bằng séc là một hình thức thanh toán phổ biến trên thế giới ngay cả khi xuất hiện hình thức thanh toán mới hiện đại hơn như thanh toán bằng thẻ. Việt Nam cũng đang nỗ lực phát triển hình thức thanh toán bằng thẻ. Nhưng nhìn chung, những điều kiện để phát triển thanh toán thẻ ở nước ta phải mất một thời gian dài nữa mới có thể phát triển đầy đủ do nền kinh tế còn nghèo nàn. Vì thế, hiện tại và trong tương lai lâu dài, thanh toán bằng séc vẫn được coi là hình thức thanh toán chủ yếu ở nước ta. Séc không chỉ thanh toán bằng tiền VND mà còn có séc ngoại tệ, không chỉ để thanh toán trong nước mà còn phải được sử dụng để thanh toán với các nước trong khu vực và thế giới. Muốn vậy, cần có luật về séc để tiêu chuẩn hóa séc của Việt Nam theo thông lệ quốc tế. Luật phải quy định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan đến séc; quy định rõ các tội danh và hình phạt khi vi phạm các điều cấm như: giả mạo, sửa chữa séc… Có như vậy, người sử dụng séc và ngân hàng mới thực sự yên tâm khi sử dụng séc sẽ không gặp rủi ro. Điều này đặc biệt quan trọng khi chúng ta đang có chủ trương khuyến khích sử dụng séc cá nhân, một loại séc có nhiều phức tạp, dễ phát sinh rủi ro. - Ngày nay, thanh toán điện tử là xu thế tất yếu, vấn đề bảo mật cho khách hàng phải được đặt lên hàng đầu nên Nhà nước cần xử lý nghiêm các tội phạm tin học. - Nhà nước cần có giải pháp nâng cao trình độ dân trí về các kiến thức kinh tế, công nghệ thông tin và ngoại ngữ. Một khi trình độ của người dân được nâng lên, họ sẽ nhận thức được tốt hơn về lợi ích của việc thanh toán qua ngân hàng, cũng như nhanh chóng năm bắt được nội dung của các hình thức thanh toán qua ngân hàng. Họ sẽ không còn cảm thấy e ngại khi tiếp xúc với những hình thức thanh toán qua ngân hàng. - Nhà nước cần tạo điều kiện làm tăng thu nhập cho dân, cho công chức Nhà nước. Khi thu nhập còn thấp, chưa đủ đáp ứng những nhu cầu tối thiểu thì người dân chưa thể nghĩ tới việc gửi tiền vào tài khoản ngân hàng để thực hiện thanh toán. Đối với công chức Nhà nước, một số cơ quan đã thực hiện việc trả lương qua tài khoản để khuyến khích thanh toán qua ngân hàng. Nhưng ngay sau đó, họ đến ngân hàng và rút hết lương để chi tiêu. Việc trả lương qua tài khoản vì thế chỉ mang tính hình thức. Chỉ khi nào thu nhập của người dân tăng lên thì họ mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu thanh toán qua ngân hàng của mình. - Nhà nước nên cho phép không thu thuế thu nhập cá nhân trên tài khoản cá nhân của các đối tượng có thu nhập cao khi họ mở tài khoản và thanh toán qua tài khoản trong một vài năm tới. Miễn hoặc giảm cho họ một số loại thuế như: thuế quyền sử dụng đất, thuế trước bạ,… - Đối với các doanh nghiệp thương nghiệp, dịch vụ có bán hàng cho dân cư sử dụng séc, thẻ tín dụng… thì doanh số bán bằng hình thức thanh toán qua ngân hàng nên được miễn hoặc giảm thuế trong một thời kỳ nhất định. áp dụng thuế suất cao đối với những doanh nghiệp đòi thanh toán bằng tiền mặt, với lý do đơn giản là chống trốn thuế. - Nhà nước cần hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thanh toán, cũng như có chính sách khuyến khích các dự án đầu tư phát triển công nghệ thanh toán hiện đại. Kết luận Như vậy, hoạt động thanh toán qua ngân hàng có vai trò hết sức to lớn vì nó giúp cho việc điều hòa lưu thông tiền tệ được dễ dàng, nền kinh tế thu hút được một nguồn vốn lớn trong dân cư để đầu tư vào sản xuất, việc thanh toán giữa các khách hàng nhanh chóng tạo điều kiện cho quá trình sản xuất, kinh doanh diễn ra trôi chảy, nhịp nhàng. Xuất phát từ vai trò to lớn này thì việc nghiên cứu nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán qua ngân hàng là một yêu cầu bức xúc cho cả các nhà lập chính sách và các nhà ngân hàng. Chính vì thế, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động thanh toán tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, tìm nguyên nhân gây ra những hạn chế, trên cơ sở đó đề ra giải pháp để phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh có ý nghĩa hết sức thiết thực. Qua việc nghiên cứu hoạt động thanh toán tại chi nhánh, em đã tìm ra được những nguyên nhân chủ quan và khách quan khiến cho hoạt động thanh toán tại chi nhánh còn kém phát triển. Đó là do chi nhánh còn chưa tích cực tuyên truyền, quảng cáo cho người dân thấy được những tiện ích của việc thanh toán qua ngân hàng, trình độ của cán bộ làm công tác thanh toán tại chi nhánh còn chưa cao, vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ tại chi nhánh còn thiếu. Nguyên nhân khách quan là do tâm lý ưa thích tiền mặt của nhân dân ta không dễ xóa bỏ, thu nhập và trình độ của đại đa số người dân còn thấp; các văn bản pháp quy về hoạt động thanh toán còn thiếu và chưa khoa học; cơ sở hạ tầng đảm bảo cho hệ thống thanh toán qua ngân hàng còn yếu và thiếu. Từ những nguyên nhân trên, em đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để phát triển hoạt động thanh toán tại chi nhánh. Tuy nhiên, do em không được trực tiếp tham gia vào hoạt động thanh toán tại chi nhánh để tìm hiểu sâu hơn về các hình thức và phương thức thanh toán tại chi nhánh nên bài luận văn còn có hạn chế. Một số giải pháp nêu ra còn chung chung, chưa có những bước đi cụ thể để thực hiện. Chính vì thế, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các cán bộ nhân viên tại chi nhánh. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Lê Đức Lữ và các cán bộ nhân viên tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo 1. Ngân hàng thương mại – GS. TS. Lê Văn Tư 2. Giáo trình Kế toán và xử lý thông tin trong các ngân hàng thương mại - Đại học Kinh tế quốc dân. 3. Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng – Học viện ngân hàng. 4. Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ. 5. Quyết định số 22/QĐ-NN1 ngày 21-2-1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành “Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt” 6. Nghị định của Chính phủ số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. 7. Văn bản chuyển tiền điện tử – NHNo&PTNT Việt Nam. 8. Hệ thống hóa văn bản về thanh toán điện tử – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 9. Tạp chí ngân hàng S5/2000, S6/2000, S7/2000, S9/2000, S10/2000, S12/2000, S5/2001, S6/2001, S10/2001, S5/2002, S11/2002, S3/2003. 10. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ S3/2000, S6/2000, S3/2001, S7/2001, S7/2002,S9/2002, S10/2002. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29682.doc