Giải pháp tăng doanh thu tại Công ty TNHH TM&DV Việt hoàng

LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay với xu hướng toàn cầu hoá, cùng đó, các chính sách của Nhà nước ngày càng mở rộng phạm vi tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp mà mục đích chính vẫn là nâng cao hiệu quả kinh doanh phải thực hiện tốt nguyên tắc hạch toán kinh doanh “lấy thu bù chi và có lãi”, vấn đề quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong cạnh tranh. Do đó, các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại có đầy đủ điều kiện mở rộng

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1549 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng doanh thu tại Công ty TNHH TM&DV Việt hoàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mặt hàng kinh doanh với các phương thức kinh doanh mới để tăng doanh thu, lợi nhuận cho mình. Bên cạnh đó, trong khi hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện gặp nhiều khó khăn và đang trong xu hướng chững lại. Đặc biệt, nhu cầu tiêu dùng trong nước giảm đã kéo dài, các doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá. Bên cạnh đó, giá cả thị trường tương đối ổn định, lạm phát thấp; Do vậy, chỉ là quan tâm ở tầm vi mô, thì doanh thu bán hàng đối với doanh nghiệp thương mại đang là vấn đề cần đề cập đến. Trong thời gian thực tập tại công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích nhằm tìm ra các giải pháp để không ngừng tăng doanh thu đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, qua nghiên cứu thực tế và tìm hiểu về tình hình doanh thu của Công ty trên góc độ tài chính doanh nghiệp em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Giải pháp tăng doanh thu tại Công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về doanh thu của doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng doanh thu của công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng Chương 3: Giải pháp tăng doanh thu của công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DOANH THU CỦA DOANH NGHIỆP 1.1 HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp Khi nói đến doanh nghiệp, người ta rất khó hình dung về nó. Do đó, trong Điều 3 Luật Doanh nghiệp1999 đã định nghĩa ”Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” và trong đó cũng xác định “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”đã giới hạn đi khá nhiều các loại hình doanh nghiệp, nhưng mang tính tiện lợi, dễ hiểu và trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này cũng sử dụng chủ yếu định nghĩa đó. Doanh nghiệp nói chung là một tổ chức độc lập và hoạt động theo một mục tiêu xác định, do đó, người ta có thể nhìn nhận nó trên nhiều góc độ khác nhau, theo nhiều phương diện khác nhau. - Theo mục tiêu hoạt động, người ta chia doanh nghiệp thành 2 loại: + Doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận + Doanh nghiệp hoạt động công ích - Theo nguồn gốc đầu tư, người ta cũng chia ra 2 loại: + Doanh nghiệp có đầu tư từ nước ngoài + Doanh nghiệp không có đầu tư nước ngoài - Theo công việc chủ yếu mà doanh nghiệp thực hiện, người ta chia ra 3 loại chính: + Doanh nghiệp sản xuất + Doanh nghiệp thương mại + Doanh nghiệp dịch vụ - Theo phạm vi trách nhiệm của người thành lập doanh nghiệp, người ta chia 2 loại: + Doanh nghiệp có trách nhiệm hữu hạn + Doanh nghiệp có trách nhiệm vô hạn Doanh nghiệp thương mại như ở trên đã đề cập thì là một loại doanh nghiệp mà chủ yếu thực hiện các hoạt động thương mại, chủ yếu ở đây nghĩa là các doanh nghiệp này vẫn có thể thực hiện các hoạt động khác trong sản xuất, dịch vụ nhưng chiếm tỉ lệ ít hơn so với các hoạt động kinh doanh thương mại. Hoạt động thương mại theo Luật Thương mại là việc thực hiện các việc như mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong kinh doanh thương mại, các doanh nghiệp luôn phải thực hiện kèm theo các dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại vì chỉ có thế mới tăng được lượng hàng hoá tiêu thụ, tăng khách hàng và cả các nhà cung cấp. Luật Thương mại xác định dịch vụ thương mại gồm những dịch vụ gắn với việc mua bán hàng hoá, xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy co hội mua bán hàng hoávà cung ứng dịch vụ thương mại. Ngoài ra, nhìn từ góc độ Marketing, doanh nghiệp thương mại là một khâu cơ sở của hệ trung gian thương mại trên các mạch, kênh phân phối, vận động hàng hoá nhằm tiếp thị và bán hàng trên thương trường mục tiêu của nó, là một cơ sở trọng yếu cấu trúc nên thương trường xã hội một thành tố chủ đạo tạo lập nên hệ thống mạng lưới thương mại dịch vụ xã hội. Như vậy, doanh nghiệp thương mại có thể hiểu một cách đơn giản là doanh nghiệp thực hiện tiêu thụ, lưu chuyển hàng hoá, hay thực tế hơn, đó là mua sản phẩm, hàng hoá từ những nhà sản xuất, nhà kinh doanh thương mại rồi bán cho khách hàng, người tiêu dùng. 1.1.2 Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp Hoạt động kinh doanh theo luật định là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như vậy hoạt động kinh doanh bao hàm nội dung rất rộng từ việc đầu tư, sản xuất, chế biến, các hoạt động thương mại gắn liền với sản xuất và chế biến cho tới các hoạt động thương mại thuần túy và các hoạt động cung cấp dịch vụ. Nhiệm vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh là tạo ra giá trị cho các sản phẩm dịch vụ. Đây chính là nguồn của cải vật chất của xã hội và lợi nhuận cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là một tổ chức sử dụng các nguồn lực khác nhau để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của nền kinh tế thông qua việc tổ chức sản xuất và cung cấp dịch vụ. Để quản lý các nguồn lực này, doanh nghiệp được tổ chức thành các chức năng khác nhau: thương mại, sản xuất, tài chính, nhân sự, hành chính,… Trong đó, chức năng sản xuất được coi là một trong những chức năng quan trọng nhất. Có thể nói đây là chức năng bắt đầu của họat động sản xuất kinh doanh, là khởi điểm của mọi hoạt động kinh tế. Hoạt động sản xuất thông qua các qui trình khác nhau có sử dụng các phương pháp và công nghệ khác nhau sẽ tạo ra các sản phẩm và dịch vụ với các giá trị sử dụng khác nhau cho phép thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Đây chính là hoạt động tạo ra nguồn gốc của giá trị, của cải vật chất cho xã hội, thu nhập cho doanh nghiệp và người lao động. Mỗi hoạt động sản xuất khác nhau đều có những đặc trưng riêng. Những đặc trưng này có ý nghĩa rất lớn trong việc tổ chức sản xuất cho doanh nghiệp một cách có hiệu quả. Dựa theo một hoặc một số các đặc trưng để phân loại hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Dưới đây là một số cách phân loại tiêu biểu: - Phân loại theo cách thức tổ chức sản xuất ta chia hoạt động sản xuất làm 3 loại: Sản xuất liên tục, sản xuất gián đoạn và sản xuất theo dự án. - Phân loại theo mối quan hệ với khách hàng, hoạt động sản xuất cũng được phân lam 3 loại: Sản xuất để dự trữ, sản xuất theo yêu cầu ( theo đơn đặt hàng) và hình thức hỗn hợp kết hợp 2 hình thức trên. Đối với doanh nghiệp thương mại thì hoạt động tiêu thụ đóng vai trò quan trọng. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình doanh nghiệp xuất giao hàng cho bên mua và nhận được tiền bán hàng theo hợp đồng thoả thuận giữa hai bên mua bán. Như vậy, việc chọn thời điểm để xác định quá trình tiêu thụ sản phẩm hoàn thành là một trong những khâu quan trọng liên quan đến rất nhiều vấn đề khác trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp như: trong công tác quản lý thu thuế thì giúp cơ quan thuế thu được dễ dàng, tiện lợi; trong công tác quản lý các khoản phải thu thì thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng hoàn thành việc thu tiền đảm bảo vốn cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo; trong công tác quản lý tiền mặt thì giúp các doanh nghiệp đảm bảo giao dịch hàng ngày… Tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp bao gồm: Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường nhằm trả lời các câu hỏi: Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? Bao nhiêu và cho ai? Tức là thị trường đang cần những loại sản phẩm gì? Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của nó ra sao ? dung lượng thị trường về sản phẩm đó như thế nào? Ai là người tiêu thụ những sản phẩm đó? Lựa chọn sản phẩm thích ứng theo đơn đặt hàng và tiến hành tổ chức sản xuất là nội dung quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động tiêu thụ. Sản phẩm thích ứng bao hàm về số lượng, chất lượng và giá cả. Về mặt lượng, sản phẩm phải thích ứng với dung lượng thị trường. Về mặt chất sản phẩm phải phù hợp với yêu cầu, tương xứng với trình độ tiêu dùng. Thích ứng về mặt giá cả hàng hoá có nghĩa là được người mua chấp nhận và tối đa hoá được lợi nhuận. Tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu tiêu thụ như: tiếp nhận, kiểm tra, phân loại, bao gói, ghép đồng bộ hàng hoá. Dự trữ thành phẩm ở các doanh nghiệp và định giá tiêu thụ. Lựa chọn các kênh tiêu thụ và tổ chức chuyển giao hàng cho khách hàng… Xúc tiến bán hàng ở doanh nghiệp. Và cuối cùng là các kỹ thuật nghiệp vụ bán hàng và đánh giá kết quả tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi hoàn thành việc tiêu thụ sản phẩm cũng có nghĩa là doanh nghiệp có doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà khách hàng chấp nhận trả. Đây là nguồn thu chủ yếu và thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của doanh nghiệp. Điều này cho thấy việc lựa chọn sản phẩm kinh doanh, chọn thị trường tiêu thụ, việc chọn thời điểm tiêu thụ cũng như các quyết định về giá cả liên quan chặt chẽ đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm và thu nhập của doanh nghiệp. 1.2 DOANH THU CỦA DOANH NGHIỆP 1.2.1 Khái niệm doanh thu của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế cùng tồn tại cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật. Các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá dịch vụ không chỉ có nhiệm vụ sản xuất tạo ra những sản phẩm hàng hoá dịch vụ mà còn có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Đây là quá trình đơn vị bán xuất giao sản phẩm cho đơn vị mua hoặc cung ứng dịch vụ cho đơn vị khác và được đơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng theo giá đã thoả thuận, đó là doanh thu của doanh nghiệp. Mục đích cuối cùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tiêu thụ được sản phẩm do mình sản xuất ra và có lãi. Doanh thu là toàn bộ các khoản tiền thu hoặc đã được bên mua chấp nhận thanh toán do hoạt động cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ của doanh nghiệp mang lại trong một thời kỳ nhất định. Doanh thu không chỉ có ý nghĩa đối với doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với cả nền kinh tế xã hội. 1.2.2 Xác định doanh thu của doanh nghiệp 1.2.2.1 Các loại doanh thu của doanh nghiệp Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm: doanh thu từ hoạt động kinh doanh và doanh thu từ hoạt động khác. *Doanh thu từ hoạt động kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi trừ (-) các khoản chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ), được khách hàng chấp nhận thanh toán không phân biệt đã thu được tiền hay chưa. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp còn bao gồm: các khoản phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có), trợ giá, phụ thu theo quy định của Nhà nước mà doanh nghiệp được hưởng đối với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp tiêu thụ trong kỳ; giá trị các sản phẩm hàng hoá đem biếu, tặng, trao đổi hay tiêu dùng cho sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp. Doanh thu hoạt động chính = số lượng sản phẩm bán ra x đơn giá hàng bán ra. Ngoài hoạt động kinh doanh còn hoạt động tài chính cũng có doanh thu và đây cũng là một hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp. Doanh thu từ hoạt động tài chính bao gồm: - Thu từ các hoạt động liên doanh liên kết, góp vốn cổ phần. - Lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay; tiền lãi trả chậm của việc bán hàng trả góp. - Thu từ hoạt động mua bán chứng khoán. - Thu từ hoạt động nhượng bán ngoại tệ hoặc thu nhập về chênh lệch tỷ giá nghiệp vụ ngoại tệ theo quy định của chế độ tài chính. - Tiền cho thuê tài sản đối với doanh nghiệp cho thuê tài sản không phải là hoạt động kinh doanh thường xuyên. - Hoàn nhập số dư dự phòng giảm giá chứng khoán. Tuỳ theo đặc điểm kinh tế, kỹ thuật từng ngành sản xuất kinh doanh khác nhau mà doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá bao gồm những bộ phận khác nhau.Có thể cần phải phân biệt doanh thu kinh doanh và doanh thu bán hàng. Doanh thu kinh doanh là doanh thu của tất cả các hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp nhận được trong một thời kỳ. Doanh thu bán hàng chỉ là một bộ phận của doanh thu kinh doanh, là bộ phận của doanh thu bán sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp nhận được. Doanh thu bán hàng là toàn bộ tiền thu về tiêu thụ sản phẩm và cung cấp dịch vụ cho khách hàng, sản phẩm được coi là kết thúc quá trình tiêu thụ khi đơn vị mua chấp nhận trả tiền. Nói chung, doanh nghiệp sản xuất thì vấn đề tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất. *Doanh thu từ hoạt động khác. Là các khoản thu từ các hoạt động không thường xuyên hoặc không tính trước. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác nhau, nội dung xác định thu nhập khác nhau: - Thu từ bán vật tư, hàng hoá, tài sản dôi thừa; bán công cụ, dụng cụ đã phân bổ hết giá trị, bị hư hỏng hoặc không cần sử dụng; các khoản phải trả nhưng không không trả được vì nguyên nhân từ phía chủ nợ. - Thu từ chuyển nhượng, thanh lý tài sản. - Nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu hồi được - Hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá hàng hoá tồn kho, khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi đã trích trước về bảo hành hàng hoá, sản phẩm công trình và hạng mục công trình khi hết thời hạn bảo hành. - Thu về cho sử dụng hoặc chuyển quyền sử dụng sở hữu trí tuệ. - Thu về tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế; các khoản thuế phải nộp được nhà nước giảm. Trước đây, trong thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp, các doanh nghiệp Nhà nước tiến hành sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu, kế hoạch của nhà nước, Nhà nước định giá bán nếu như lãi thì nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù. Do vậy việc đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu không phải là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước không bao cấp về vốn như trước nữa. Các doanh nghiệp được lựa chọn hình thức kinh doanh, lỗ thì tự gánh chịu, lãi thì được hưởng. Do đó đã tạo động lực cho các doanh nghiệp phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các thành phần kinh tế, các đơn vị sản xuất không chỉ có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm mà còn phải tổ chức tiêu thụ sản phẩm đó, trong điều kiện có sự cạnh tranh gay gắt, nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng tăng, vấn đề tiêu thụ sản phẩm không phải là công việc dễ dàng với bất cứ một doanh nghiệp nào. Vì vậy, việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tăng doanh thu có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mục đích đầu tiên của việc tiêu thụ sản phẩm là thu được doanh thu. Đây là nguồn tài chính quan trọng để doanh nghiệp bù đắp trang trải các chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh như: bù đắp về nguyên vật liệu, tiền công của người lao động… và làm nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp mà không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ được ít, khi đó doanh thu sẽ không đủ để bù đắp các chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh, tình trạng nợ nần sẽ gia tăng. Nếu tình trạng này cứ kéo dài thì doanh nghiệp sẽ đi đến bờ vực phá sản. Mặt khác khi doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp xét về mặt khối lượng, chất lượng, giá cả…đã phù hợp với thị hiếu của thị trường, được người tiêu dùng chấp nhận. Đây là căn cứ để doanh nghiệp tiến hành tổ chức sản xuất một cách chặt chẽ hơn nữa để ngày một nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ được giá thành, từ đó giúp doanh nghiệp đưa ra những biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi thì doanh nghiệp bán hàng và cung ứng dịch vụ tỷ lệ thuận với lợi nhuận tiêu thụ của hoạt động kinh doanh. LNtt = DTT - Ztt Khi tiêu thụ tăng thì doanh thu bán hàng và cung ứng dịch vụ tăng. Dẫn đến doanh thu thuần tăng trong khi đó giá thành tiêu thụ ( Ztt) không đổi làm cho lợi nhuận tiêu thụ (LNtt) tăng. Làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp ngày càng mạnh hơn, giúp cho doanh nghiệp thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, tăng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác công tác tiêu thụ diễn ra nhanh chóng, kịp thời và ngày càng tăng còn góp phần thúc đẩy tăng tốc độ chu chuyển vốn lưu động, tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh. 1.2.2.2 Phương pháp xác định doanh thu - Đối với các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của hoạt động kinh doanh, tài chính và hoạt động khác thuộc đối tượng chịu thuế GTGT: + Nếu tính thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thì doanh thu là số tiền thu được từ các hoạt động không bao gồm thuế GTGT đầu vào. + Nếu tính thuế GTGT theo ph ương pháp trực tiếp thì doanh thu là tổng số tiền phải thu từ các hoạt động (tổng giá thanh toán). - Đối với các sản phẩm hàng hoá, cung ứng dịch vụ của các hoạt động kinh doanh, tài chính bất thường không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT thì doanh thu hoặc thu nhập là số tiền phải thu của các hoạt động trên. - Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp thì tính vào doanh thu hoạt động kinh doanh theo giá bán trả một lần, không bao gồm lãi trả chậm. Lãi trả chậm tính vào thu nhập hoạt động tài chính hàng năm. - Đối với sản phẩm, hàng hoá dịch vụ dùng để trao đổi hàng hoá dịch vụ khác thì doanh thu tính theo giá bán của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm trao đổi. - Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ doanh nghiệp sản xuất ra để biếu tặng hoặc dùng cho sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp thì doanh thu tính theo giá thành sản xuất( hoặc giá vốn) sản phẩm hàng hoá đó. - Đối với hoạt động cho thuê tài sản có nhận trước tiền cho thuê của nhiều năm thì doanh thu của từng năm là tổng số tiền cho thuê chia cho số năm cho thuê tài sản. - Đối với hoạt động bán hàng đại lý thì doanh thu là khoản phải thu về hoa hồng đại lý. - Đối với hoạt động gia công thì doanh thu tính theo giá gia công ghi trên hoá đơn của khối lượng sản phẩm gia công hoàn thành trong kỳ. - Đối với sản phẩm giao khoán trong các doanh nghiệp sản xuất nông lâm nghiệp nếu thu bằng tiền thì doanh thu là số tiền phải thu ghi trong hợp đồng giao nhận khoán đến hạn trả, nếu thu bằng hiện vật thì khi bán sản phẩm khoán đó mới hạch toán doanh thu và tính theo giá bán thực tế. - Đối với hoạt động tín dụng, doanh thu là lãi tiền cho vay đến hạn phải thu trong kỳ. - Đối với hoạt động bảo hiểm, doanh thu là phí bảo hiểm phải thu trong kỳ. - Đối với sản phẩm xây lắp thi công trong nhiều năm thì doanh thu một năm là giá trị phải thu tương ứng với giá trị khối lượng công việc, hạng mục, công trình xây lắp hoàn thành bàn giao trong năm đó được người giao thầu chấp nhận thanh toán. - Trường hợp doanh nghiệp xây lắp giao thầu lại cho nhà thầu phụ thì doanh thu bao gồm cả phần giá trị xây lắp giao thầu lại. 1.2.2.3 Lập kế hoạch doanh thu. Hàng năm doanh nghiệp phải lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó xác định doanh thu bán hàng hoá dịch vụ trong năm. Doanh thu bán hàng là một chỉ tiêu tài chính quan trọng, nó cho biết khả năng để sản xuất cũng như quy mô của tiêu thụ. Căn cứ để lập kế hoạch doanh thu bán hành là dựa vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết với khách hàng và kết quả nghiên cứu tìm hiểu thị trường đối với sản phẩm chủ yếu ở doanh nghiệp, tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên cơ sở các nhân tố tác động của chính sách nhà nước trong vấn đề khuyến khích xuất và nhập khẩu. Doanh thu bán hàng phụ thuộc vào số lượng sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ hoặc dịch vụ cung ứng và giá bán đơn vị sản phẩm hay cước phí. Chỉ tiêu doanh thu kỳ kế hoạch được xác định theo công thức sau: DT = S(Gi x Hi) Trong đó: DT: là doanh thu về bán hàng kỳ kế hoạch. Hi: là số lượng sản phẩm tiêu thụ của từng loại hoặc dịch vụ cung ứng của từng loại trong kỳ kế hoạch. Gi : là giá bán sản phẩm hoặc đơn giá tiền công phục vụ (chưa kể VAT) i : là loại sản phẩm tiêu thụ hoặc loại dịch vụ cung ứng tiêu thụ. Trong trường hợp bán hàng xuất khẩu, tuỳ theo hợp đòng mà giá bán có thể là giá FOB, CIF, CIP, CFR, FAS…và việc thanh toán phải bằng ngoại tệ. Mỗi loại ngoại tệ có một tỷ giá hối đoái khác nhau, do đó khi tính doanh thu phải nhân thêm với tỷ giá hối đoái của từng loại ngoại tệ. Trong mua bán quốc tế có trường hợp ngoại tệ tính giá và tiền tệ thanh toán là hai loại ngoại tệ khác nhau đòi hỏi phải thận trọng trong việc tính doanh thu bán hàng. Việc xác định số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ có thể thực hiện bằng một trong hai cách sau: Thứ nhất: Căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Số lượng sản phẩm tiêu thụ hoặc dịch vụ cung ứng trong kỳ kế hoạch phụ thuộc vào số lượng sản xuất hoặc cung ứng trong kỳ kế hoạch, số lượng kết dư dự tính đầu kỳ và cuối kỳ kế hoạch. Công thức tính: Hti = Hdi + Hxi - Hci Trong đó : Hdi: Là số lượng sản phẩm, hàng hoá i kết dư dự tính đầu kỳ kế hoạch. Hxi: Là số lượng sản phẩm, hàng hoá i sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ trong kỳ kế hoạch. Hci: Là số lượng sản phẩm, hàng hoá i kết dư dự tính cuối kỳ kế hoạch. Trong công thức trên, số lượng sản phẩm kết dư dự tính đầu kỳ kế hoạch ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá gồm hai bộ phận: Số lượng sản phẩm còn lại trong kho đến ngày đầu kỳ kế hoạch và số lượng sản phẩm còn lại trong kho đến ngày đầu kỳ kế hoạch và số lượng sản phẩm, hàng hoá gửi bán nhưng chưa xác định tiêu thụ. Thứ hai: Căn cứ theo đơn đặt hàng của khách hàng: Phương pháp này căn cứ vào các hợp đồng đặt hàng của khách hàng để lập kế hoạch doanh thu bán hàng hoặc cung ứng lao vụ, dịch vụ của doanh nghiệp. Cách tính doanh thu bán hàng cũng tương tự như phần trên tức là : DT = S(Gi x Hi) nhưng do thực hiện theo đơn đặt hàng của khách hàng nên không có số lượng tồn đầu kỳ và cuối kỳ (sản xuất bao nhiêu tiêu thụ hết bấy nhiêu theo đúng đơn đặt hàng) Lợi thế của phương pháp này là đảm bảo sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra sẽ tiêu thụ hết. Tuy nhiên phương pháp này khó thực hiện được nếu không có đơn đặt hàng trước của khách hàng. 1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI DOANH THU CỦA DOANH NGHIỆP Trong điều kiện nền kinh tế phát triển như hiện nay, để có thể tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm đạt được mức doanh thu mong muốn các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu, có những nhân tố bên trong doanh nghiệp và cũng có những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Tất cả những nhân tố đó có thể tác động có lợi hay bất lợi đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3.1 Nhân tố chủ quan. Theo công thức xác định doanh thu hoạt động kinh doanh, ngoài nhân tố thuế ta còn thấy có hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu là: Thứ nhất: Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Giả sử trường hợp giá bán không đổi thì khối lượng sản phẩm tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp đối với doanh thu bán hàng trong kỳ. Sản lượng sản xuất nhiều phù hợp với nhu cầu thị trường thì sẽ tiêu thụ hết. Ngược lại, khối lượng sản xuất ra nhiều vượt quá nhu cầu thị trường cũng gây ra hiện tượng tồn đọng sản phẩm. Do vậy, đối với mỗi doanh nghiệp việc tăng hay giảm khối lượng sản phẩm sản xuất cần phải được xác định trên cơ sở nghiên cứu thị trường và khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi thì khối lượng hàng hoá bán ra tăng lên sẽ làm cho doanh thu tăng và kéo theo lợi nhuận tăng. Do đó khi lập phương án kinh doanh, doanh nghiệp phải lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng để họ đón nhận và chấp nhận thanh toán. Ngoài ra doanh nghiệp cũng còn cần phải lưu ý vấn đề có đủ khả năng về tài chính, nhân lực, kỹ thuật để kinh doanh mặt hàng đó. Thứ hai: Giá bán sản phẩm. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm hàng hoá và nó biến động xoay quanh giá trị sản phẩm hàng hoá đó, đồng thời biểu hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế như cung - cầu hàng hoá, tích luỹ và tiêu dùng, cạnh tranh trên thị trường. Giá cả chính là giá trị tiền tệ của một sản phẩm khi nó được giao dịch trên thị trường, đó là khoản tiền phải bỏ ra để đổi lấy một hàng hoá, hay dịch vụ nhất định. Giá cả sản phẩm có tác động lớn tới quá trình tiêu thụ sản phẩm. Xác định giá cho sản phẩm hay dịch vụ trong kinh doanh có vị trí đặc biệt quan trọng đây là công việc doanh nghiệp không thể làm tuỳ tiện được. Vì thế có thể nói rằng bất cứ một doanh nghiệp nào thực hiện tốt chính sách giá cả sẽ dễ dàng tiêu thụ được sản phẩm, thu được tiền hàng nhanh. Khi một doanh nghiệp định giá bán sản phẩm hay cung ứng dịch vụ phải cân nhắc sao cho giá bán đó có thể đạt được một mức bán nào đó cao nhất có thể. Theo đuổi mục tiêu này các doanh nghiệp thường nghĩ rằng doanh số bán cao sẽ đồng nghĩa với việc lợi nhận cao. Nhưng trên thực tế không phải khi nào doanh số bán cao cũng có nghĩa là lợi nhuận cao, mà đôi khi còn ngược lại. Để tối đa doanh số bán, người ta nghiên cứu mối quan hệ giữa giá cả sản phẩm với lượng bán trên thị trường biểu hiện ở hệ số co giãn của cầu theo giá. Thứ ba: Chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một yếu tố sống còn đối với cả doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp kinh doanh. Hàng hoá có chất lượng cao thường được bán với giá cao, doanh nghiệp có sản phẩm tốt, người tiêu dùng dễ chấp nhận mua. Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm cùng loại, người tiêu dùng không chỉ lựa chọn hàng có giá rẻ mà còn lựa chọn những hàng có chất lượng tốt. Do đó, chất lượng hàng hoá là nhân tố kích thích tiêu thụ và mở rộng thị phần trong cạnh tranh với các đối thủ khác. Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cho thấy cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm luôn là cạnh tranh sắc bén có hiệu quả và lâu bền nhất, chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng giá trị sản phẩm cũng như uy tín cho doanh nghiệp. Bên cạnh việc cần đảm bảo chất lượng tốt thì đổi mới sản phẩm cũng là một vấn đề cần quan tâm. Nếu doanh nghiệp đổi mới sản phẩm thành công sẽ tạo ra nhu cầu mới cho người tiêu dùng, sản phẩm đó sẽ thay thế rất nhanh chóng những sản phẩm khác, khi đó doanh nghiệp sẽ tăng doanh thu. Thứ tư: Kết cấu hàng hoá tiêu thụ. Kết cấu sản phẩm tiêu thụ là tỷ trọng về từng loại sản phẩm chiếm trong tổng số sản phẩm sản xuất, tiêu thụ. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ thay đổi có thể làm thay đổi doanh thu tiêu thụ. Mỗi loại sản phẩm đều có tác dụng nhất định trong việc làm thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao, ngày càng phong phú, do đó để tòn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải đưa ra một kết cấu mặt hàng tiêu thụ phù hợp nhất để đáp ứng tối đa nhất nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, từ đó sẽ làm tăng khối lượng tiêu thụ và làm tăng doanh thu. Nếu doanh nghiệp tăng tỷ trọng bán ra những mặt hàng có giá bán cao, giảm tỷ trọng những sản phẩm có giá bán thấp thì dù tổng khói lượng sản phẩm tiêu thụ và đơn giá không đỏi nhưng tổng doanh thu tiêu thụ sẽ tăng lên và ngược lại. Nhưng dù thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ thế nào đi chăng nữa thì cũng phải đảm bảo kế hoạch sản xuất những mặt hàng mà doanh nghiệp đã ký hợp đồng. Thứ năm:Sự phù hợp thị hiếu của người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu của khách hàng rất đa dạng nhưng họ luôn muốn chọn cho mình một hàng hoá phù hợp với thị hiếu như: mẫu mã, màu sắc, mùi vị…do đó doanh nghiệp cạnh tranh nhau cả về hàng cung ứng phù hợp với thị hiếu của hách hàng. Nếu doanh nghiệp nào làm tốt điều đó sẽ chiếm được thị phần cao và có được doanh thu lớn. Hơn nữa, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, họ không những đòi hỏi hàng có chất lượng mà còn phải hàng hoá hợp thị hiếu. Ngày nay có những khách hàng sẵn sàng trả giá cao hơn cho mặt hàng hợp thị hiếu của họ. Trước tình hình đó đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng đổi mới sản phẩm trên cơ sở điều tra nhu cầu và thị hiếu mặt hàng và phải sẵn sàng đưa ra thị trường hàng hoá mới để kích thích tác động mở rộng thị trường. Trong kinh doanh, ngoài bán hàng trực tiếp thu tiền ra, việc ký kết hợp đồng tỉêu thụ cần làm rõ nghĩa vụ thanh toán của bên mua hàng. Thanh toán chậm sẽ làm cho vốn của doanh nghiệp chậm thu hồi và thiếu vốn để kinh doanh. Do đó khi ký kết hợp đồng tiêu thụ phải lựa chọn khách hàng có khả năng thanh toán và quy định chặt chẽ các điều khoản thanh toán doanh nghiệp còn phải biết quản lý các khoản thu và chi các hợp đồng thanh toán. Thứ sáu: Kết cấu, mẫu mã hàng hoá. Khi sản xuât, có thể có những mặt hàng sản xuất tương đối giản đơn, chi phí tương đối thấp nhưng giá bán tương đối cao nhưng cũng có những mặt hàng tuy sản xuất phức tạp, chi phí tương đối cao nhưng giá bán lại thấp. Do đó, việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất cũng ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng. Kết cấu hàng hoá và mẫu mã hàng hoá càng phù hợp với thị hiếu khách hàng, doanh thu càng nhiều. Ngược lại doanh thu sẽ ít. Thứ bẩy: Thể thức thanh toán. Nếu sử dụng các thể thức thanh toán thu được tiền ngay như thanh toán bằng séc, thanh toán bằng uỷ nhiệm chi…doanh nghiệp có thể thu được tiền ngay sẽ giúp doanh nghiệp tăng nhanh vòng quay vốn, khiến doanh thu tăng. Trong những trường hợp nhất định, bán hàng trả chậm cũng giúp doanh nghiệp tăng được doanh thu nhưng mức độ rủi ro cao. Thứ tám: Năng lực của đội ngũ nhân viên bán hàng. Nhân viên bán hàng là cầu nối trực tiếp giữa doanh nghiệp với khách hàng. Họ là người tiếp xúc nhiều nhất với khách hàng, là người đem lại nhiều thông tin nhất cho doanh nghiệp và là lực lượng quan trọng nhất để thực hiện các mục tiêu, các kế hoạch kinh doanh cũng như vấn đề tăng doanh thu của doanh nghiệp. Muốn bán được hàng các doanh nghiệp phải đào tạo bồi dưỡng đội ngũ người bán hàng thực sự chứ không phải những cái máy nói giá, những người đi lấy hàng, gói hàng, đơn thuần. Một nhân viên bán hàng giỏi sẽ làm doanh thu của doanh nghiệp tăng cao và ngược lại. Thứ chín: Hoạt động quảng cáo giới thiệu sản phẩm. Sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất xã hội đã tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn và đa dạng ở mức độ cao. Có rất nhiều sản phẩm mới ra đời, nhưng tốc độ tiêu thụ rất chậm vì được ít người tiêu dùng biết đến. Vì vậy hoạt động quảng cáo._. nhằm giới thiệu với khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng. Thông qua quảng cáo, các thông tin về sản phẩm cũng như hình ảnh của doanh nghiệp sẽ đến được với người tiêu dùng, từ đó sẽ kích thích họ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và nâng cao uy tín của doanh nghiệp. 1.3.2. Nhân tố khách quan Bên cạnh những nhân tố chủ quan còn có những nhân tố khách quan ảnh hưởng cũng không nhỏ tới doanh thu của doanh nghiệp. Những yếu tố đó bao gồm: Thứ nhất: Thị trường và sự cạnh tranh. Hai yếu tố cung và cầu trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng hàng bán ra của doanh nghiệp. Nếu cung lớn hơn cầu chứng tỏ nhu cầu về hàng hoá được đáp ứng tương đối đầy đủ, sản phẩm đó đã bão hoà trên thị trường. Lúc này việc tăng khối lượng bán ra là rất khó khăn và dẫn đến doanh thu của doanh nghiệp giảm. Ngược lại, trong trường hợp cung nhỏ hơn cầu thì hàng hoá bán ra nhanh hơn, kết quả kinh doanh tốt hơn vì vậy doanh nghiệp phải điều tra tình hình cung - cầu của thị trường để sản xuất với khối lượng vừa đủ. Mặt khác khi nói tới thị trường ta không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh.Cạnh tranh xảy ra giữa các doanh nghiệp cùng bán một loại sản phẩm hoặc các sản phẩm trên thị trường có thể thay thế lẫn nhau làm ảnh hưởng đến việc tiêu thụ.Về chất lượng, mẫu mã, thị hiếu, giá cả, doanh nghiệp nào thoả mãn được yêu cầu của người tiêu dùng sẽ dành được lợi thế. Do đó mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững được thông tin của các nhà cung cấp loại hàng hoá mà mình đang hoặc sẽ kinh doanh để từ đó có đối sách thích hợp. Thứ hai: Chính sách kinh tế của Nhà nước. Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của Nhà nước.Chính sách kinh tế của nhà nước có tác động mạnh đến hoạt động kinh doanh ở tầm vĩ mô, do đó chúng có tác động mạnh tới doanh thu, lợi nhuận. Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động của doanh nghiệp phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong mỗi thời kỳ.Trong đó thuế là một công cụ giúp hữu hiệu Nhà nước thực hiện tốt công việc điều tiết vĩ mô của mình. Thuế gián thu tác động đến giá hàng bán ra cao hay thấp và tác động đến tiêu thụ hàng hoá, ảnh hưởng tới doanh thu. Thuế trực thu làm giảm lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp tức là tác động tới tích luỹ của doanh nghiệp. Thứ ba: Sự biến động của giá trị tiền tệ. Khi giá trị đồng tiền thay đổi do lạm phát hay do tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ với đồng tiền trong nước biến động tăng, giảm sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu ra, đầu vào và giá cả thị trường vì thế sẽ tác động đến doanh thu thực tế của doanh nghiệp đạt được. Đối với những doanh nghiệp nhập khẩu yếu tố này lại càng bị ảnh hưởng. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm xuống, có nghĩa là đồng tiền bản tệ có giá trị thấp hơn so với đồng tiền ngoại tệ. Nếu không có các yếu tố khác ảnh hưởng sẽ làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn. Bởi vì doanh nghiệp nhập khẩu sẽ phải dùng đơn vị đồng tiền nội tệ hơn để mua cùng một khối lượng hành hoá nhập khẩu. Điều này sẽ làm giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp và khi đó doanh thu sẽ cũng giảm theo. Thứ tư: Thu nhập của dân cư và tập quán của người tiêu dùng. Trên thực tế hiện nay, ở mỗi nơi thu nhập của người dân là khác nhau dẫn đến khả năng mua bán khác nhau. Những nơi thu nhập của dân cư cao mức sống của họ cũng cao, còn những nơi thu nhập của dân cư thấp thì mức sống của họ thường cũng thấp. Điều này làm cho doanh thu của doanh nghiệp kinh doanh có ảnh hưởng và có thể nói thu nhập của người dân cao thì doanh nghiệp dễ kinh doanh hơn và có doanh thu cao hơn và ngược lại. Bên cạnh đó đặc điểm về phong tục tập quán cũng ảnh hưởng đến hành vi mua bởi thói quen tiêu dùng ở mỗi vùng khác nhau, tính thời vụ của hàng hoá cũng ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu. Thứ năm: Sự tiến bộ của công nghệ. Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ là một yếu tố góp phần thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ. Sự nhậy bén trong thời điểm đổi mới sẽ giúp doanh nghiệp tạo được cơ hội nắm giữ được thị trường không làm giảm lợi nhuận. Ngoài ra, việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ và kinh doanh tiêu thụ như: -Tự tổ chức tiêu thụ. -Mạng lưới độc lập -Quảng cáo tiếp thị -Hội nghị khách hàng, chính sách khuyến mại Cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu. Chương 2 THỰC TRẠNG DOANH THU CỦA CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ VIỆT HOÀNG 2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY TNHH TM&DV VIỆT HOÀNG 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng là công ty thương mại hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp. Công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng được Sở Kế hoạch Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp giấy phép thành lập ngày 30-8-2000 Địa chỉ: Tầng 6 Toà nhà Seaprodex 20 Láng Hạ Hà Nội Quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng được thể hiện qua các giai đoạn sau: - Từ năm 2001-2005: Do xu thế hội nhập thương mại và chính sách thông thoáng của nhà nước về xuất nhập khẩu cùng với sự năng động nỗ lực của ban giám đốc, công ty đã dần dần từng bước phát triển, số nhân viên trong công ty ngày càng tăng, thu nhập của nhân viên ngày càng được cải thiện.Công ty đã dần dần tạo được chỗ đứng cho mình trên thị trường điện lạnh điên tử. Chính vì vậy mà công ty đã mở rộng thêm quy mô kinh doanh: Trong thời kỳ này các mặt hàng kinh doanh của công ty ngày càng đa dạng. Ngoài mặt hàng điện lạnh điện tử công ty còn đăng ký kinh doanh thêm: Thiêt bị văn phòng - Từ năm 2005-nay: Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận để tích luỹ vốn công ty đã đăng ký kinh doanh thêm: Hàng tạp phẩm. Công ty được thành lập với số vốn pháp định là: 3.000 .000.000 VND (Ba tỷ đồng). 2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty Công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có đầy đủ tư cách pháp nhân và con dấu riêng. - Công ty có các chức năng sau Kinh doanh bán buôn bán lẻ các mặt hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước cho mọi khách hàng - Nhiệm vụ của công ty + Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định pháp luật của nhà nước trong hoạt động kinh doanh thương mại của mình + Thực hiện đầy đủ chế độ nộp ngân sách + Tổ chức quản lý vốn, quản lí tài sản, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo đời sống cán bộ công nhân viên * Cơ cấu tổ chức Công ty có hơn 40 công nhân viên và 3 cán bộ quản lí được bố trí vào các phòng ban khác nhau. cơ cấu tổ chức của công ty được thể hiện bằng sơ đồ sau : Giám Đốc Phòng Kinh doanh Phòng Hành Chính Phòng Kế Toán Phòng Maketing Phòng Nhập Phòng Quản lý NK Bán Buôn Bán Lẻ Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty Đây là mô hình tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng có sự điều chỉnh cho phù hợp với mô hình hoạt động của một công ty nhỏ. Đứng đầu là Giám Đốc công ty có nhiệm vụ điều hành quản lí chung quyết định các vấn đề quan trọng. Bên cạnh đó là các phòng ban có nhiệm vụ trực tiếp điều hành các công việc chính và các công việc hàng ngày của công ty. * Chức năng của các phòng ban của công ty Các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ được tinh tế gọn nhẹ. Công ty có các bổn phận chính như: Phòng kinh doanh, phòng hành chính, phòng kế toán, phòng nhập khẩu. Phòng kinh doanh: Có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo công tác kinh doanh của công ty, xây dựng kế hoạch kinh doanh đáp ứng yêu cầu hoạt động của công ty, kí kết các hợp đồng với khách hàng. Phòng hành chính : Là bộ phận tham mưu cho Giám Đốc trong lĩnh vực nhân sự, quản lí công việc hành chính và các vấn đề nội vụ khác Phòng kế toán tài chính : Có nhiệm vụ là giúp ban Giám Đốc chỉ đạo về các nghiệp vụ của công tác tài chính kế toán như sau: + Thực hiện việc kế toán, thống kê,và các hoạt động nhằm quản lí tiền, hàng. + Chỉ đạo quản lí và sử dụng vốn có hiệu quả, tạo nguồn vốn phục vụ cho công tác kinh doanh. + Thực hiện chế độ báo cáo định kì và đột xuất theo qui định của bộ tài chính, thay mặt công ty giải quyết các nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước, phối hợp với các phòng ban trong công ty để làm tôt công việc kinh doanh của mình Phòng Marketing : Có nghĩa vụ giao dịch với khách hàng trong việc giới thiệu sản phẩm của công ty Phòng nhập khẩu: Có nhiệm vụ là nhập các mặt hàng đúng nhu cầu thị trường, đúng về số lượng, chất lượng, giá cả, đúng thời điểm. Có phương thức thanh toán phù hợp với tình hình tài chính của công ty . Công ty có thể dựa vào các mặt hàng có sức cạnh tranh lớn và có chính sách tốt với thị trường Việt Nam để nhập. Ngoài các chức năng đã được tổ chức thành các phòng ban riêng, các chức năng khác của công ty đã được phân bổ một cách hợp lí vào các phòng ban, đồng thời có sự phối hợp thực hiện các chức năng, những công việc quan trọng được Giám Đốc trực tiếp quyết định hoặc uỷ quyền quyết định. Sự điều chỉnh này phù hợp với qui mô của một công ty nhỏ và đặc trưng của công ty thương mại. Với cách tổ chức này, công ty có thể tinh giảm tối đa bộ máy nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu công việc. * Mối quan hệ giữa các bộ phận phòng ban trong hệ thống quản lí công ty. Các phòng ban có mối quan hệ chặt chẽ với nhau hỗ trợ ban Giám Đốc hoàn thành nhiệm vụ, sự lớn mạnh của công ty phụ thuộc phần lớn vào cách thức tổ chức, phương hướng hoạt động của các phòng ban. Khi công ty gặp khó khăn về nhân lực, thị trường tiêu thụ hay một số vấn đề liên quan đến doanh thu của công ty thì trách nhiệm của các bộ phận là rất lớn chính vì vậy các bộ phận quản lí của công ty phải liên kết với nhau chặt chẽ cùng tháo gỡ những khó khăn, khắc phục trở ngại duy trì hoạt động không để công ty lâm vào tình trạng trì trệ hay phá sản. Tóm lại nền tảng vững chắc của một công ty hoạt động hiệu quả chính là sợi dây liên kết giữa các phòng ban của công ty với nhau. Các phòng ban này nhiệt tình làm việc thể hiện sự lãnh đạo tài tình, có chuyên môn nghiệp vụ cao của các cán bộ đơn vị. 2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu của công ty 2.1.3.1 Nhân tố khách quan Thị trường hàng điện tử điện lạnh cũng như thị trường các loại hàng hoá khác, nó chịu sự chi phối của các quy luật cung, cầu, giá cả. Những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường hàng hoá nói chung và hàng điện tử điện lạnh nói riêng chính là những nhân tố ảnh hưởng tới nhu cầu, mong muốn của người tiêu dùng cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới sản xuất cung ứng hàng hóa trên thị trường. Thị trường hàng điện tử & điện lạnh có đặc điểm là thị trường của loại hàng có giá trị cao và thời gian sử dụng lâu dài khác, nó bị ảnh hưởng bởi những nhân tố: - Hàng điện tử, điện lạnh là hàng có giá trị cao, do đó để mua được hàng phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập. Trong những năm gần đây các sản phẩm điện tử và điện lạnh cao cấp sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhưng những sản phẩm điện tử, điện lạnh loại trung bình vẫn chiếm thị phần lớn. Doanh số của các mặt hàng cao cấp tăng trưởng cũng là điều dễ hiểu do mức sống của người dân càng ngày càng cao, dẫn đến nhu cầu tiêu thụ sẽ ngày càng tăng. Trong khi đó, các mặt hàng loại trung bình vẫn chiếm thị phần lớn nhờ giá cả phù hợp với túi tiền của đại đa số người tiêu dùng. Trình độ dân trí nâng cao, mức thu nhập của người dân tăng, đặc biệt là thời gian gần đây có những đợt nắng nóng kéo dài cộng đã làm thị trường hàng điện tử điện lạnh nóng lên. Qua khảo sát ở một số cửa hàng thị trường điện tử điện lạnh năm nay cho thấy các mặt hàng này rất phong phú về mẫu mã chủng loại với sản phẩm của các hãng liên doanh, trong nước và đồ điện cao cấp nhập từ các nước châu Âu. Tuy nhiên theo lộ trình gia nhập AFTA, WTO các mặt hàng điện tử, điện lạnh trong nước tiến tới giảm giá. Các sản phẩm nhập từ các nước cùng khu vực như Thái lan, Philippin, Xingapo... và các hãng liên doanh như: Panasonic, Sam Sung, LG... cũng có sự giảm giá. Có thể nói thị trường hàng điện tử, điện lạnh, điện máy năm nay đang diễn ra theo hướng có lợi cho người tiêu dùng. - Khoa học kỹ thuật phát triển ảnh hưởng mạnh đến thị trường hàng điện tử điện lạnh, vì đây là các sản phẩm ứng dụng sự phát triển của khoa học đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Khoa học phát triển càng mạnh thì chu kỳ sống của sản phẩm càng ngắn, mẫu mã, chất lượng của hàng hoá được cải thiện và giá thành ngày một giảm, điều này tác động đến cung cầu sản phẩm. Chẳng hạn sản phẩm Tủ lạnh hiện nay có những tính năng mới như: Đa chiều, ở những đời tủ lạnh cũ, khí lạnh được cung cấp một phần cho ngăn đá, một phần được ống dẫn hoặc quạt thổi cho các ngăn khác từ mặt trong của lưng tủ. Thiết kế này có khuyết điểm là khí lạnh phân bố không đều, thực phẩm để gần với luồng khí lạnh thì bị quá độ lạnh, còn các thực phẩm khác nằm ở gần cửa tủ thì lại bị thiếu độ lạnh. Để khắc phục tình trạng này, các hãng đưa ra dòng tủ lạnh với luồng khí lạnh đa chiều. Khí lạnh được thổi ra từ tất cả các vách ngăn của tủ để phân bố đều cho tất cả các loại thực phẩm. Công nghệ khử mùi của các hãng có khác nhau. Electrolux thì sử dụng phương pháp khử mùi bằng ion bạc. Toshiba thì giới thiệu công nghệ khử mùi và cả diệt khuẩn gọi là Plasmashock, là công nghệ kết hợp giữa plasma và hệ thống xúc tác tia cực tím (tia cực tím dùng phân huỷ khí êtylen, loại khí được cho là nguyên nhân làm rau quả úng héo và mất dưỡng chất). Hãng Sanyo cũng dùng đèn UV (tia cực tím) và hệ thống khử mùi platinum. LG khử mùi bằng màng lọc có chất xúc tác Z-Deodorizer giúp phân huỷ khử mùi khó chịu từ cá, thịt... Samsung có bộ phận khử mùi silvernano kết hợp giữa khử mùi xúc tác kháng khuẩn và bộ khử mùi carbon. Hãng Panasonic lại đưa công nghệ khử mùi sinh học vào tủ lạnh, dùng màng lọc có chứa chất washabi (chiết xuất từ mù tạt) để khử mùi... Tươi lâu hơn: Có hãng, như Samsung, LG nhắm vào nguyên nhân thực phẩm bị mất độ tươi do mất độ ẩm, đặc biệt là rau quả. Nên họ thiết kế những ngăn bảo quản thực phẩm có khả năng duy trì hoặc bổ sung thêm độ ẩm. LG thì lập luận thêm, rau quả bị héo, không tươi lâu vì bị mất dần vitamin trong thời gian bảo quản. Họ tung ra thị trường loại tủ lạnh có bổ sung vitamin C. Loại tủ này bên trong có chứa những hộp dựng các viên vitamin và nhà sản xuất cho rằng chúng được giải phóng từ từ để bổ sung thêm cho rau quả. Hiện cũng đã có một số loại tủ lạnh có dung tích tương đối đã được thay đổi thiết kế để chia làm nhiều ngăn đựng độc lập. Mỗi ngăn là một cánh cửa hoặc hộc kéo riêng để người sử dụng có thể phân loại thực phẩm cho vào từng ngăn, rất tiện khi sử dụng. - Thị trường hàng điện tử điện lạnh bị ảnh hưởng bởi điều kiện cũng như cơ sở hạ tầng về điện, giá cả điện năng vì đây là các sản phẩm sử dụng điện. Chất lượng điện tốt tạo điều kiện cho sản phẩm tốt và ngược lại. - Trình độ dân trí cũng ảnh hưởng tới thị trường này vì những sản phẩm này tương đối khó sử dụng, phải có trình độ mới có thể khai thác hết tính năng tác dụng của sản phẩm. Các nhà cung cấp cũng như các nhà bán lẻ phải am hiểu về sản phẩm để có thể tư vấn hướng dẫn người tiêu dùng. - Nền văn hoá là một trong những yếu tố quyết định cơ bản nhất những mong muốn và hành vi của người tiêu dùng. Con người sống trong nền văn hoá hiện đại có nhu cầu và mong muốn khác với những nền văn hoá lạc hậu. Và tương ứng với nền văn hoá nào có các sản phẩm phù hợp với nó. Gia đình, các thành viên trong gia đình là những nhân tố tác động mạnh mẽ tới người mua, quyết định mua. Hàng điện tử điện lạnh không phải là sản phẩm tiêu dùng cá nhân mà là cho các hộ gia đình, chính vì thế mà các tính năng, tác dụng, hình dáng, cách sử dụng phải được nghiên cứu để đáp ứng nhu cầu cho các thành viên... Vai trò, địa vị và tầng lớp xã hội: mỗi tầng lớp có những sở thích về sản phẩm và nhãn hiệu khác nhau, nhu cầu khác nhau. Các giám đốc thường mua các sản phẩm có chất lượng cao như ti vi màn hình phẳng, 25 inch, dàn âm thanh DVD, điều hoà hai chiều... Phân biệt và nghiên cứu chi tiết từng tầng lớp có thể giúp các hãng xác định được thị trường mục tiêu của mình. Xã hội phát triển hay kém phát triển ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng. Nếu một xã hội no ấm, an toàn thì nhu cầu tiêu dùng cao hơn là nhu cầu giải trí, nhu cầu tự khẳng định mình chứ không phải là những nhu cầu sinh lý bình thường. Hàng điện tử điện lạnh là các sản phẩm tiêu dùng được phân bố theo từng hộ gia đình. Căn cứ vào dân số tương ứng có số hộ gia đình, qua điều tra, khảo sát có thể xác định được số hộ gia đình đã sử dụng các sản phẩm này chưa từ đó có thể tính được lượng sản phẩm có thể bán được. Dân số đông thì số hộ gia đình càng nhiều và nhu cầu càng nhiều. - Tâm lý khách hàng ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu. Xuất phát từ động cơ mua hàng, kết hợp với nhận thức, tri thức của người mua, người ta có được niềm tin và thái độ về sản phẩm. Người mua có những đánh giá khác biệt về các nhãn hiệu của hàng hoá: Hầu hết người mua trên thế giới đều ưa thích những thiết bị điện tử sản xuất tại Nhật có chất lượng và độ tin cậy cao - Môi trường, thời tiết, khí hậu, môi trường ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu của người tiêu dùng nhất là hàng điện lạnh. Thời tiết nóng thúc đẩy khách hàng mua hàng điều hoà, tủ lạnh, tủ bảo quản còn nếu trời lạnh thì nhu cầu này là rất ít, lúc đó, việc mua hàng điện lạnh chỉ là để đầy đủ trang thiết bị trong nhà, nhu cầu không phải là cấp thiết. Ở Việt nam, miền bắc chỉ bán được hàng điện lạnh vào mùa hè còn miền nam thì nhu cầu về loại hàng này tương đối ổn định. Chính vì vậy mà cần phải điều tiết phân phối và dự trữ hàng phù hợp, tránh tình trạng hàng ứ đọng hay thiếu hàng. Đối với hàng điện tử điện lạnh thì vào dịp cuối năm, các ngày lễ tết thì hàng được bán tốt hơn. Tivi, dàn âm thanh phục vụ nhu cầu giải trí. Đối với hàng ti vi thì thời vụ tổ chức Seagame, world cup nhu cầu cũng tăng hơn. Dựa vào thời vụ mà các nhà kinh doanh có kế hoạch dự trữ hàng hoá hợp lý. - Sự cạnh tranh khốc liệt trong kinh doanh hàng điện tử:Mặt hàng kinh doanh của công ty điện lạnh điện tử những mặt hàng chuyên dùng phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày ở gia đình và văn phòng . Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho các công ty bán lẻ nước ngoài có kinh nghiệm lâu năm và sức mạnh tài chính tham gia vào hệ thống phân phối hàng điện tử. Mắc khác trên thị trường có rất nhiều công ty tham gia đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực này. Làm cho công ty phải đối phó với rất nhiều công ty khác (Công ty Thương mại Dịch vụ Tổng hợp Hà Nội, Công ty TNHH Thương mại Ngọc Thanh, Công ty Điện lạnh Điện tử Phú Thành, Công ty Thương mại Hải Phòng, Công ty cung cấp thiết bị điện… đó là những đối thủ lớn của công ty. Các đối thủ này đã có nhiều năm kinh nghiệm trên thương trường, so với một công ty có tuổi đời chưa được 10 năm như công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng thì họ hơn Công ty rất nhiều mặt. Mặt khác các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn ngày cũng nhiều hơn làm cho công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty ngày càng gặp khó khăn hơn. Vì vậy Công ty cần nghiên cứu, tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh về giá cả, sản phẩm, kênh phân phối, các loại hoạt động khuyến mại, so sánh và xác định tỷ phần của mình đối với đối thủ cạnh tranh để có biện pháp tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty. - Chính sách thuế hàng điện tử khi Việt Nam gia nhập WTO. Xem xét nội dung cam kết WTO của Việt Nam và đối chiếu với mức thuế suất hiện hành sẽ thấy thuế nhập khẩu cam kết của WTO cao hơn so với thuế suất hiện hành của Việt Nam, thậm chí cam kết ở một số mặt hàng còn cao gấp đôi. Thuế suất mặt hàng đầu DVD hiện hành là 40%, trong khi thuế WTO là 45%, dàn HiFi có thuế suất hiện hành 30%, thuế WTO là 40%%, máy chụp hình và máy quay kỹ thuật số, thuế hiện hành là 10%, thuế WTO là 20%, máy MP3, hiện hành 40%, WTO là 45%. Hiện chỉ có mặt hàng tivi là có thuế suất khi gia nhập WTO bằng với thuế suất hiện hành là 40%. Các cam kết WTO của Việt Nam cũng cho thấy, từ nay đến hết 2008, Việt Nam không giảm thuế cho mặt hàng điện tử. Sau đó, đến 2012, thuế suất nhập khẩu tivi, đầu DVD sẽ giảm thêm 5%, dàn HiFi sẽ giảm 10%. Trong khi đó, thuế nhập khẩu máy ảnh và máy chụp hình kỹ thuật số đến năm 2009 sẽ là 15%, cao hơn 5% so với mức thuế hiện hành. Chỉ có những mặt hàng liên quan đến công nghệ thông tin như máy vi tính xách tay, máy tính để bàn, ổ CD, đĩa DVD/CD, sẽ bắt đầu giảm từ năm 2009, từ mức 5 - 10% xuống mức 0 - 5% vào năm 2012. Mặt khác, giá nhiều mặt hàng điện tử tại Việt Nam đang rẻ hơn hàng cùng chủng loại được bán tại Xinhgapo, Malaixia, Philíppin và chỉ cao hơn giá tại Thái Lan chút ít. Nghĩa là, các sản phẩm điện tử trong nước đã đủ sức cạnh tranh khi hội nhập với những nước vừa là thành viên AFTA, vừa là thành viên WTO như Xinhgapo hay Thái Lan. Như vậy, mức thuế cho hàng điện tử sẽ không có gì thay đổi ngay khi hội nhập và cuộc giảm giá ngoạn mục mà rất nhiều người kỳ vọng sẽ không xảy ra trong tương lai gần. Trước cuộc hội nhập lớn vào WTO, Việt Nam đã có dịp tập dượtt với những cuộc hội nhập nhỏ, đó là hội nhập vào AFTA với mức thuế suất cực thấp từ 0% - 5%. Cùng thời điểm này năm ngoái, nhiều người tiêu dùng đã chờ đợi với mức thuế thấp như vậy, hàng điện giá rẻ từ ASEAN sẽ tràn vào Việt Nam. Tuy nhiên, việc giảm giá đã không xảy ra. Các chuyên gia trong lĩnh vực này cho rằng dù cho trong tương lai gần hay xa, thì một cuộc giảm giá hàng điện tử do giảm thuế vẫn còn xa vời, mà giá chỉ có thể hạ do các hãng tự giảm để tăng sức cạnh tranh hoặc do giá thành hạ. Việc giảm giá do cạnh tranh giữa các nhà sản xuất điện tử và các trung tâm điện máy vào những dịp như Giáng sinh hay mùa khuyến mãi cuối năm sắp tới xem ra sẽ là thực tế hơn nhiều đối với người tiêu dùng. - Tình hình lạm phát và biến động tỷ giá ngoại tệ. Với các doanh nghiệp nhập khẩu và cả doanh nghiệp bán lẻ hàng điện máy, năm 2008 (tính đến thời điểm này) là năm khó khăn do tình hình lạm phát của nền kinh tế do có những biến động thị trường nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Nhìn doanh số kinh doanh quý 1/2008, nhiều doanh nghiệp nhập khẩu và bán lẻ hàng điện tử, công nghệ thông tin dự báo khả năngtăng trưởng của nhóm hàng này trong năm 2008 sẽ lên tới 25%. Nhưng từ tháng 5.2008 trở lại đây, sức mua nhóm hàng này đã sa sút ngoài dự đoán. Thống kê từ một số hệ thống bán lẻ và phân phối, ước tính đến giữa tháng 8.2008, sức mua trên thị trường đã giảm từ 30 - 50% so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu so với bình quân của ba tháng đầu năm 2008, sức mua từ tháng 5 cho đến tháng 8 đã giảm khoảng 20 - 25% tuỳ theo mặt hàng. Tỷ lệ giảm mạnh nhất là các mặt hàng điện máy, sau đó là nhóm hàng công nghệ thông tin, điện thoại di động. Từ giữa tháng 6.2008, khi tỷ giá đồng đô la Mỹ và đồng tiền Việt gần mức 20.000 đồng/USD đã làm các nhà nhập khẩu, nhà bán lẻ “khó xử”. Hàng hoá nhập khẩu được tính bằng đô la Mỹ, nên khi tỷ giá lên, giá sẽ cao hơn. Dù nguy cơ không bán được hàng là điều có thể nhìn thấy qua diễn tiến sức mua trên thị trường, nhưng doanh nghiệp, cả bán lẻ và nhập khẩu, vì có những ràng buộc về những đơn hàng đã đặt trước đó nên phải nhập hàng. Từ cuối tháng 7.2008, thị trường ngoại tệ đã hạ nhiệt, giá cả nhiều mặt hàng “chiến lược” như xăng dầu, vàng… cũng đã giảm xuống khá mạnh. Những yếu tố trên đã tác động đến thị trường bán lẻ các mặt hàng điện máy, công nghệ thông tin khá mạnh. Giá nhiều mặt hàng đã giảm 2 – 5% nhưng vì sức mua còn yếu (gặp thời tiết đang vào mùa mưa), cộng thêm lượng hàng nhập mới đổ về đã làm nhà nhập khẩu, nhà bán lẻ vốn khó khăn, lại càng khó khăn. 2.1.3.2 Nhân tố chủ quan * Tình hình tài chính Từ khi thành lập đến nay để thích ứng với cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt công ty đã từng bước tiến hàng bổ sung nguồn vốn kinh doanh của mình, nhận thấy nguồn vốn đóng góp của ba thành viên không đủ để tiến hành mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình, công ty đã năng động trong việc huy động các nguồn vốn vay. Nguồn vốn của công ty từ năm 2005 đến năm 2007 được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn công ty năm 2005-năm 2007 Đơn vị: Triệu đồng Các chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Tỉ lệ (%) Số tiền Tỉ lệ (%) Số tiền Tỉ lệ (%) 1. Nợ phải trả 1094 65,36 1256 67.52 1510 57.44 Nợ ngắn hạn 920 84,09 1062 84.75 1062 70.33 Nợ dài hạn 126 11,51 137 10.93 263 17.41 Nợ khác 48 4,38 54 4.3 195 12.91 2.Nguồn vốn chủ shữu 900 45,1 980 43.89 1120 42.59 SNguồn vốn 1994 100 2233 100 2630 100 (Nguồn: Phòng tài chính kế toán công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng) Qua bảng số liệu trên ta thấy: Nợ phải trả của công ty khá cao chiếm 65,36% (năm 2005), 67,52% (năm 2006), 57.414% (năm 2007) trong tổng nguồn vốn. Trong khi đó nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ 45,1% (năm 2005) và 43,89% (năm 2006) và 42.58% (năm 2007) Sở dĩ nợ phải trả của năm sau cao hơn năm trước là do công ty đầu tư thêm một khoản tài chính lớn để mở rộng thêm một số lĩnh vực kinh doanh nữa để thu thêm lợi nhuận. Chính vì vậy mà áp lực trả nợ cũng rất cao, điều đó đòi hỏi công ty phải có chiến lược, sử dụng nguồn vốn vay một cách có hiệu quả. Nguồn vốn chủ sở hữu năm 2006 tăng 8,8% tương ứng với 80 triệu đồng so với năm 2005 và năm 2007 tăng 14.2% tương ứng với 257 triệu đồng so với năm 2006. Điều đó cho thấy công ty có thể chủ động về vốn trong hoạt động kinh doanh của mình nhưng áp lực trả nợ của công ty cũng rất cao Qua bảng ta thấy không có sự chênh lệch giữa nợ ngắn hạn của năm 2007 so với năm 2006 vì công ty đã nhận thấy muốn huy động được vốn lâu dài thì phải tăng thêm nợ dài hạn để làm tiền đề mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. * Đặc điểm nguồn nhân lực Trải qua nhiều năm hoạt động kinh doanh công ty đã có trong tay đội ngũ công nhân viên có bề dày kinh nghiệm trong công tác quản lý cũng như bán hàng…., đa số các cán bộ công nhân viên của công ty đều được đào tạo trung cấp nghiệp vụ bán hàng do đó kinh nghiệm và trình độ của họ hầu hết được tích luỹ qua quá trình công tác. Số cán bộ quản lý của công ty hầu hết là những người có trình độ đại học. Công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng luôn tổ chức hạch định nguồn nhân lực của Công ty và hoạch định những bước tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó, vì vậy hàng năm Công ty luôn triển khai tiến hành thực hiện các kế hoạch và chương trình đào tạo, tuyển mộ nhân sự đúng nơi, đúng lúc, đúng công việc để đáp ứng nhu cầu của Công ty. Quá trình tuyển chọn nhân sự được công ty rất quan tâm bởi vì đây là vấn đề quan trọng quyết định hiệu quả kinh doanh của Công ty. Công ty đã tuyển chọn rất kỹ dựa trên năng lực, trình độ và sức khoẻ trên quan điểm khách quan để tìm người đáp ứng yêu cầu của công việc cho nên chất lượng lao động cũng được nâng cao hơn so với trước. Ngoài ra hàng năm công ty luôn có kế hoạch tổ chức và đào tạo nhân lực để đảm bảo và nâng cao trình độ của mọi thành viên trong công ty, nhằm đáp ứng nhu cầu cạnh tranh về trí tuệ trên thị trường. Bên cạnh đó để tạo động lực cho các thành viên trong công ty làm việc hăng hái nhiệt tình có năng suất và chất lượng cao. Công ty thường xuyên có chế độ khen thưởng kịp thời để giúp họ yên tâm hơn khi làmviệc cho công ty. Hàng năm công ty tổ chức đánh giá nhân sự để biết được năng lực đóng góp của từng người để từ đó giao trách nhiệm đề bạt chức vụ mới, tăng lương nhằm phát huy hết năng lực của họ. Những việc làm trên đã giúp cho công ty có trong tay đội ngũ công nhân viên làm việc nhiệt tình hăng hái hết lòng vì sự nghiệp đi lên của công ty. Bảng 2: Tình hình sử dụng lao động của công ty Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1.Tổng số lao động 30 47 65 2.Số lao động trực tiếp bán hàng 15 25 35 3. Số lao động gián tiếp bán hàng 15 22 30 - Cán bộ quản lý 8 10 16 - Nhân viên quản lý 7 12 14 4. Tiền lương bình qưân (1000đ/th/nv) 900 1200 1500 (Nguồn: Phòng hành chính công ty) Qua bảng trên ta thấy số lượng lao động năm sau tăng hơn so với năm trước cụ thể là: Năm 2006 tăng lên 1.57% so với năm 2005; Năm 2007 tăng lên1.383% so với năm 2006 Như vậy số lượng lao động tăng lên vì lí do mở rộng quy mô, chất lượng lao đông qua đó cũng được tăng lên do tính chất kinh doanh ngày càng quyết liệt bởi yếu tố cạnh tranh Đây là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tiêu thụ hàng hóa. Với trình độ tổ chức quản lý cao, các nhà quản lý có thể vạch ra được những chiến lược tiêu thụ phù hợp, từ đó tăng nhanh khối lượng hàng bán ra, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn đem lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác một doanh nghiệp có đội ngũ tinh thông nghiệp vụ, có tay nghề vững vàng là điều kiện tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm giảm bớt chi phí. Đây cũng là điều kiện để tăng sự cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu công ty lựa chọn đào tạo được đội ngũ cán bộ công nhân viên tốt là một nửa thành công trong tiêu thụ. Hiện nay công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng có hơn 60 cán bộ công nhân viên trong đó có gần 40 người trực tiếp bán hàng chiếm gần 2/3. Ngoài ra còn chưa kể đến số nhân viên đứng bán ở các đại lý, cửa hàng chiếm gần 100 người. Số lượng này là tương đối cao so với một công ty nhỏ thành lập chưa được bao lâu. Vì vậy công ty cần có biện pháp để đào tạo đội ngũ bán hàng giàu kinh nghiệm để thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm. - Đối với nhân viên bán hàng công ty đã trả cho họ với mức lương là 1.200.000VNĐ/1 tháng trong khi đó lương của Công ty Thương mại Dịch vụ Tổng hợp Hà Nội là 1.500.000VNĐ/ 1 tháng. Điều này có lợi là có thể làm giảm giá thành đơn vị sản phẩm nhưng bên cạnh đó không tạo động lực cho họ vì vậy Công ty cần có chính sách tăng lương và khen thưởng kịp thời đối với cán bộ công nhân viên làm tốt công tác của mình. Cụ thể trong năm 2006 vừa qua Công ty đã trích 0,5% doanh thu tiêu thụ thưởng cho nhân viên trực tiếp bán hàng. Đây là yếu tố không nhỏ góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. * Các mặt hàng kinh doanh của Công ty Mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Công ty là điện lạnh, điện tử, thiết bị máy văn phòng. Đây là những đồ dùng phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày như tủ lạnh, nồi cơm điện, thiết bị máy điều hòa, máy in, máy photocopy… được sử dụng rộng rãi trong mỗi gia đình và công sở hoặc ở phân xưởng sản xuất, nghiên cứu khoa học. Các sản phẩm này có nguyên lý hoạt động, kết cấu, các thông số. Đặc tính kỹ thuật khác nhau và do nhiều hãng sản xuất trên thế giới ._.ộc nhiều vào tổng số vốn sử dụng bình quân theo công thức: Số vòng quay toàn bộ vốn lưu động = Theo công thức trên muốn tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn thì ta phải tăng doanh thu thuần. Mà doanh thu thuần lại là chỉ tiêu có quan hệ tỷ lệ thuận với sản lượng tiêu thụ tức là sản lượng tăng thì doanh thu tăng. + Tiết kiệm chi phí trong kinh doanh: Việc thực hiện tiết kiệm chi phí là một biện pháp có hiệu quả kinh tế cao. Thực tế công ty vẫn chưa tiết kiệm được chi phí, còn để thất thoát và lãng phí nhiều. Nguyên nhân do khâu tổ chức quản lí chưa tốt, điều này ảnh hưởng trực tới hiệu quả kinh doanh. Chính vì vậy công ty cần phải xác định đúng nhu cầu vốn của từng thời kì kinh doanh. Nếu không tính đúng tính đủ sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn công ty gặp khó khăn, hoạt động kinh doanh sẽ bị ngừng trệ, khả năng thanh toán bị giảm sút hoặc nếu thừa vốn sẽ dẫn tới lãng phí và làm cho tốc độ chu chuyển vốn chậm + Đa dạng hoá các mặt hàng để tăng doanh thu: Để kế hoạch nhập hàng của công ty có hiệu quả hơn tránh được những biến động của thị trường, việc thành lập kế hoạch nhập hàng là hết sức quan trọng, công ty cần phải lựa chọn thời cơ để nhập được hàng có mức giá thấp đáp ứng nhu cầu thị trường trong thời gian tới. Ngoài ra công ty cũng cần xác định cho mình một phương thức kinh doanh tổng hợp trên cơ sở chuyên doanh ngành hàng điện lạnh điện tử,đồng thời kết hợp kinh doanh một số ngành hàng mới như thiết bị văn phòng,hàng tạp phẩm,.. Bên cạnh đó công ty cần phải tiến hành đi sâu tìm hiểu nắm bắt nhu cầu vươn ra kinh doanh các ngành hàng khác nhằm tăng doanh lợi để nguồn vốn huy động của mình ngày càng có hiệu quả hơn như kinh doanh thêm các mặt hàng may mặc, nhà hàng, khách sạn. Đây cũng là một phương thức tạo uy tín đối với khách hàng trên cơ sở đáp ứng các nhu cầu đa dạng, giúp họ có điều kiện thuận lợi và tiết kiệm trong tiêu dùng Để thực hiện tót các phương thức kinh doanh trên,công ty cần phải thực hiện tốt các hoạt động nghiên cứu thị trường, tổ chức nhập hàng cho đến việc tổ chức tốt mạng lưới bán hàng. 3.2.3 Tăng cường quảng cáo giới thiệu sản phẩm và các hoạt động xúc tiến bán hàng * Quảng cáo có vai trò đặc biệt trong công tác thúc đẩy hoạt động tiêu thụ, quảng cáo là công cụ của Marketing thương mại, là phương tiện để đẩy mạnh bán hàng. Nó là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cạnh tranh trên thị trường đồng thời có thể giúp công ty mở rộng quy mô kinh doanh, tăng khả năng sinh lời. Quảng cáo cho phép công ty thông tin đến khách hàng về sản phẩm hàng hóa, về giá cả một cách nhanh chóng, từ đó góp phần cho công ty giữ uy tín đối với khách hàng. Hoạt động kinh doanh của công ty tuy đã đạt kết quả song mật độ quảng cáo sản phẩm của công ty trên các phương tiện đại chúng còn thưa. Công ty phải nghiên cứu tìm biện pháp quảng cáo một cách có hiệu quả không chỉ bằng những biển hiệu nhỏ, truyền hình hiện nay mà có thể quảng cáo các sản phẩm của công ty trên đài phát thanh, báo chí,áp phích,nhãn mác.. qua đó giúp khách hàng biết đến sản phẩm của công ty tạo thuận lợi cho việc tiêu dùng của khách hàng. Các thị trường lớn như ở trung tâm thành phố Hà Nội là nơi cạnh tranh gay gắt giữa nhiều công ty như: Công ty Thương mại Dịch vụ Tổng hợp Hà Nội, Công ty Điện lạnh Điện tử Phú Thành, Trung tâm Thương mại Tràng Tiền, Siêu Thị Metro… Vì vậy Công ty phải tăng thêm chi phí cho quảng cáo. Mặt khác sản phẩm tiêu thụ của công ty là những mặt hàng về điện lạnh, điện tử nên có sự chênh lệch về giá giữa nông thôn và thành thị. Ở nông thôn họ là những người có thu nhập thấp cho nên họ thích dùng hàng có giá thành thấp, chất lượng đảm bảo. Vì vậy công ty cần có chiến lược quảng cáo để xâm nhập vào thị trường này, mở rộng thêm một số mạng lưới cửa hàng đại lý tiêu thụ tại các huyện, thị xã (Hải Phòng, Nam Định) nhằm đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. Còn thị trường truyền thống của công ty là khách hàng khu vực Hà Nội. Đây là thị trường của những khách hàng thích dùng đồ sang, giá đắt, công ty cần quảng cáo sản phẩm của mình bằng những Pan-no, áp-phích và trên truyền hình. Chính vì vậy mà việc trưng bày sản phẩm, nghiệp vụ bán hàng của nhân viên cần phải sao cho hấp dẫn để thu hút khách hàng đến mua. Ngoài việc tạo điều kiện cho các đại lý bán hàng nhanh, khoản hoa hồng đại lý hấp dẫn cũng là một nhân tố quan trọng làm tăng khối lượng tiêu thụ hàng hóa của công ty. - Công ty cần phải tạo điều kiện tốt cho khách hàng trong quá trình mua cũng như vận chuyển, thủ tục phải nhanh gọn. Sau đây là dự kiến kênh quảng cáo trên một số thị trường địa phương của công ty. Bảng 15: Dự báo công tác quảng cáo trong các năm sắp tới Thị trường Hình thức quảng cáo hiện tại Hình thức quảng cáo sắp tới Số lần quảng cáo trong tuần Năm 2008 Năm 2009 I. Miền Bắc 2 Hà Nội Truyền hình,báo chí Truyền hình,báo chí,apphich,nhãn mác 7 10 2Hải Phòng Truyền hình Truyền hình,báo chí 4 7 3Hà Tây Truyền hình Truyền hình,báo chí 9 12 4Nam Định Truyền hình Truyền hình 3 4 II.MiềnNam 1Sài Gòn Truyền hình,báo chí Truyền hình,báo chí, apphich 4 7 2Vũng Tàu Truyền hình Truyền hình 3 7 Ngoài ra kênh quảng cáo chính mà công ty phối hợp với các công ty thương mại khác thực hiện là kênh truyền hình VTV3-kênh thông tin thể thao giải trí văn hoá được nhiều người tiêu dùng xem thì số lần quảng cáo trong tuần rất nhiều(hơn 20 lần/tuần).Kênh truyền hình này sẽ thu hút được các khách hàng ở các địa phương khác mà công ty chưa có hình thức quảng cáo cụ thể ở đó. Quảng cáo của công ty có thể được tiến hành bằng nhiều phương tiện, nhưng bất cứ một thông điệp quảng cáo nào cũng phải đáp ứng được các yêu cầu sau đây để quảng cáo phát huy được tính hiệu quả, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của công ty + Chất lượng thông tin phải cao + Đảm bảo tính pháp lý + Đảm bảo tính nghệ thuật + Phù hợp với kinh phí dành cho quảng cáo + Chân thực Sở dĩ theo bảng dự kiến trên số lần quảng cáo trong tuần của công ty ở kênh Hà tây nhiều hơn trên kênh Hà Nội vì chi phí cho một lần quảng cáo trên kênh Hà Tây thấp hơn nhiều lần so với trên kênh Hà Nội * Công ty có thể áp dụng các biện pháp xúc tiến bán hàng như sau: - Công ty nên áp dụng hình thức chiết khấu thanh toán. Đây được coi là một khoản tiền thưởng của công ty cho các đại lý thực hiện thanh toán nhanh. Trong năm 2007 công ty đã áp dụng mức chiết khấu là 0,8%/ doanh thu/ tháng. Có nghĩa là nếu đại lý thanh toán sớm 1 tháng thì sẽ được hưởng một khoản chiết khấu 0,8%/ doanh thu. Điều này sẽ làm cho các đại lý tiêu thụ hàng nhanh hơn. - Công ty nên giảm giá cho những khách hàng đến mua với khối lượng lớn để kích thích họ đến mua vào những lần sau. - Đối với những mặt hàng như: Điều hòa, tủ lạnh, ti vi, công ty nên có quà khuyến mại và chương trình bốc thăm may mắn cho khách hàng khi đến mua hàng. Còn đối với những mặt hàng là thiết bị văn phòng công ty nên tặng cho khách hàng những đồ vật trang trí làm đẹp thêm cho văn phòng của họ. Đối với hàng tạp phẩm tùy theo từng loại mà thực hiện khuyến mại, mua thử. Chẳng hạn như mua 2 ví da hoặc 3 dây lưng sẽ được tặng một, mua 2 bộ quần áo thời trang sẽ được tặng một dây thắt lưng. - Ngoài ra công ty cũng nên quan tâm đến những phàn nàn của khách hàng để giải quyết kịp thời cũng như hướng dẫn họ sử dụng sản phẩm của công ty một cách nhiệt tình để khách hàng có thể yên tâm hơn khi bỏ tiền ra mua hàng của công ty. 3.2.4 Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm Có nghĩa là sắp xếp theo đúng trình độ chuyên môn, theo đúng tay nghề và năng lực của công nhân. Điều đó phát huy khả năng lao động của từng người, nâng cao chất lượng giờ công, giờ máy, từ đó nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Trong việc trả lương, thửơng cần tính toán hợp lý, đảm bảo bù đắp sức lao động của công nhân, tránh tình trạng lãng phí. Công ty có thể áp dụng nhiều hình thức tiền thưởng như: Thưởng, sử dụng tiết kiệm vật tư thưởng phát minh, sáng kiến... để khuyến khích công nhân viên. Tuy nhiên cũng cần có mức phạt đối với những trường hợp vi phạm kỷ luật lao động, làm lãng phí vật tư, làm hỏng sản phẩm...thửơng phạt nghiêm minh, đúng mức độ sẽ công nhân thấy được trách nhiệm , nghĩa vụ , quyền lợi của mình trước công ty. Đồng thời làm cho họ thấy được giá trị sức lao động bỏ ra được đền bù sứng đáng thúc đẩy họ tăng năng suất lao động, sử dụng tiết kiệm vật tư hạ giá thành sản phẩm. Để tiết kiệm chi phí Công ty TNHH Việt Hoàng cần phải phải duy trì và tìm kiếm nguồn hàng thích hợp tiến tới có thể chủ động về nguyên vật liệu như là chủ động đặt hàng trước đối với nguồn đầu vào như các đồ hộp giấy bao bì, thùng … của các doanh nghiệp cung cấp, cũng như dự đoán xăng dầu tăng để từ đó tiết kiệm đúng mức. Thực tế cho thấy nguyên vật liệu mà không chủ động được thì chất lượng sản phẩm sẽ khó đảm bảo, làm hạn chế phần nào việc tiêu thụ sản phẩm. Việc đảm bảo nguồn nguyên vật liệu đày đủ, đúng phẩm chất, quy cách là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó làm khối lượng sản phẩm của công ty tăng nhiều hơn. * Ngoài các biện pháp trên, công ty nên trú trọng đến vấn đề vận chuyển sản phẩm: Thực ra công ty có nhiệm vụ sản suất sơn và bột bả chứ không phải là doanh nghiệp dịch vụ vận tải. Tuy nhiên nếu có hệ thống phương tiện vận tải tốt thì công tác tiêu thụ sản phẩm còn đạt được kết quả cao hơn. Vì khách hàng tiêu thụ sản phẩm của công ty thường yêu cầu công ty vận chuyển sản phẩm đến tận kho, công trình của khách hàng. Vậy để thiết lập được các hình thức vận chuyển cho khách hàng công ty cần phải đầu tư vốn cố định, trang bị hệ thống phương tiện vận tải trở hàng, đồng thời đào tạo một số lao động có khả năng hoạt động ở dịch vụ vận chuyển. Làm tốt được công tác vận chuyển này chắc chắn sẽ tạo cho khách hàng sự an tâm thoải mái khi sử dụng sản phẩm của công ty. 3.2.5 Các biện pháp khác Trên thị trường ngày nay việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng diễn ra gay gắt. Chính vì vậy mà việc kinh doanh ngày càng khó khăn hơn. Bên cạnh những thành tựu mà công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng đã đạt được như sản xuất kinh doanh có lãi đảm bảo công ăn việc làm cho toàn bộ cán bộ công nhân viên… Đây là sự nỗ lực của toàn bộ công ty trong thời gian qua. Nhưng trên thực tế khi phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty ta nhận thấy mặc dù ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ công nhân viên đã cố gắng đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ nhưng vẫn còn một số hạn chế cần phải có biện pháp giải quyết kịp thời. Kết hợp với kiến thức tích lũy trong nhà trường cùng với thời gian tìm hiểu thực tế tại công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tiêu thụ của công ty như sau: 3.2.5.1. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Ngày nay trên thị trường có rất nhiều công ty thương mại đăng ký kinh doanh các mặt hàng của Công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng. Vì vậy tình hình kinh doanh của công ty sẽ gặp rủi ro nếu như công ty không có biện pháp nghiên cứu thị trường hợp lý. Nghiên cứu thị trường có tầm quan trọng trong việc xác định đúng đắn phương hướng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với công tác tiêu thụ sản phẩm thì nghiên cứu thị trường ngày càng có tầm quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng giá bán, mạng lưới kinh doanh, chi phí và hiệu quả của công tác tiêu thụ. Vì vậy công ty cần tăng cường nghiên cứu thị trường để nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng của khách hàng từ đó có kế hoạch tiêu thụ cho phù hợp. Công tác nghiên cứu thị trường của công ty phải do phòng kinh doanh phối hợp với phòng marketing đảm nhận. Công ty nên tập trung nghiên cứu nhu cầu thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp theo từng mặt hàng, từ đó đưa lại cho công ty những thông tin phản hồi và có những đề xuất với ban lãnh đạo công ty. Đối tượng nghiên cứu chính của công ty là khách hàng truyền thống, thường xuyên và liên tục. Công ty sẽ dự đoán ai là người mua hàng của công ty, sau đó xác định khả năng tài chính tính hợp pháp của đối tác để có những biện pháp cụ thể đồng thời công ty cũng dự đoán nhu cầu và đưa ra những mạng lưới bán buôn bán lẻ hợp lý,nhằm đáp ứng những nhu cầu tức thời của khách hàng,nhằm củng cố và nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty Để xác định được các vấn đề trên Công ty có thể sử dụng một số phương pháp thống kê để phân tích số liệu của các kỳ kinh doanh theo các năm để xác định số lượng, cơ cấu mặt hàng đã tiêu thụ,tốc độ chu chuyển của từng mặt hàng, trên cơ sở đó công ty có thể dự báo khả năng mua của khách hàng trong thời gian tới Hoặc Công ty có thể sử dụng các phiếu thăm dò, gặp gỡ trao đổi với khách hàng lớn, thu thập các thông tin phản hồi từ các cửa hàng đại lý. Bên cạnh đó, công ty còn sử dụng một số hình thức như: điện thoại, fax để chào hàng Ngoài ra công ty nên đào tạo một đội ngũ marketing có năng lực thực sự để đảm bảo định hướng kinh doanh đã đặt ra trong năm 2008 là mở rộng hơn nữa thị trường vào thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Bắc khác, giữ vững thị trường truyền thống Hà Nội. Việc mở rộng thị trường là một vấn đề mang tính chiến lược bởi vì có phát triển thị trường thì sản phẩm của công ty mới tiêu thụ được nhanh chóng và doanh thu sẽ tăng. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần chú ý mở rộng thêm một số đại lý ở thị trường miền Nam và khu vực phía Bắc. Bên cạnh đó cần phải liên kết chặt chẽ với các cửa hàng đại lý đang bán sản phẩm mà công ty phân phối. Công tác này công ty cần giao cho phòng Marketing phối hợp với phòng kinh doanh đảm nhiệm thì công tác nghiên cứu mới khoa học và có chiều sâu hơn. Sau đây là dự báo thị trường của công ty trong năm 2008 Bảng 14: Dự báo thị trường tiêu thụ chủ yếu của công ty trong năm 2009 Thị trưòng Năm 2008 Năm 2009 I. Miền Bắc 1. Hà Nội * * 2. Hải Phòng * * 3. Hưng Yên * * 4. Quảng Ninh * 5. Hà Tây * * 6. Nam Định * * 7. Hà Giang 8. Thái Bình * 9. Sóc Sơn * * 10. Lào cai II. Miền Nam 1. TP HCM * * 2. Vũng Tàu * 3. Tây Nguyên 4. An Giang 5. Đà Nẵng * Qua bảng dự báo thị trường của công ty năm 2009 có thể thấy sản phẩm của công ty đã dần dần thâm nhập vào được các tỉnh khu vực phía Bắc (Quang Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định…) Còn ở khu vực Miền Nam sản phẩm của công ty sẽ được tiêu thụ thêm ở một số thành phố lớn như: Vũng Tàu, Đà Nẵng… Mặt khác công ty cần cử các nhân viên phòng Marketing trực tiếp đi nghiên cứu từng đối tượng khách hàng đã từng sử dụng sản phẩm của công ty. Nghiên cứu thị truờng tiêu thụ sản phẩm công ty cũng cần nghiên cứu giá cả của sản phẩm trên thị truờng,cần nắm được mức giá trung bình thị trường của sản phẩm cũng như giá bán của các doanh nghiệp cạnh tranh, phải tìm ra được mức giá khác biệt giữa giá cao nhất và giá thấp nhất của sản phẩm trong một thời gian nhất định nhằm có chính sách giá và phương thức định giá thích ứng và dự báo khuynh hướng biến động của giá cả trên thị trường. Từ việc nghiên cứu thị trường mà công ty có thể biết được mặt hàng nào hợp với thị hiếu khách hàng, nơi nào bán nhanh, đối tượng nào cần hàng, số lượng là bao nhiêu, sản phẩm nào có lãi nhất, sản phẩm nào lỗ, qua đó biết rõ đối thủ cạnh tranh trên thị trường của công ty là bao nhiêu, thị trường nào có triển vọng nhất để có những quyết định đúng đắn phù hợp nhằm thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm. 3.2.5.2. Nâng cao chất lượng, thay đổi mẫu mã sản phẩm nhăm tăng hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của công ty Điều kiện kinh tế thị trường hiện nay sự cạnh tranh về giá đã nhường chỗ cho cạnh tranh về chất lượng. Vì vậy chất luợng sản phẩm đã được đặt lên hàng đầu vì khách hàng ngày càng khó tính.Hơn nữa sản phẩm của công ty chủ yếu là điện lạnh điện tử,thiết bị văn phòng, là loại sản phẩm mà người tiêu dùng đòi hỏi phải có chất luợng tốt. Chính vì thế công ty cần phải nhanh chóng tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm. Để tăng chất lượng sản phẩm các mặt hàng nhập về công ty cần phải kiểm tra kỹ càng cẩn thận cả về mẫu mã, công dụng, xem có đúng như trong hợp đồng đã ký kết giữa công ty và đối tác nhập khẩu hay không trước khi đem bán cho người tiêu dùng. Khi kiểm tra chất lượng sản phẩm nhập về nếu phát hiện ra sản phẩm kém chất lượng thì phải loại ngay sau đó tính toán giá trị thiệt hại và kiến nghị với nhà cung cấp. Đặc biệt khi hàng đã đem bán nếu khách hàng gửi trả lại hoặc đòi hạ giá vì chất lượng thì công ty nên tìm hiểu nguyên nhân và quy trách nhiệm cho các cán bộ đã kiểm tra. Các mặt hàng của công ty chủ yếu là thiết bị điện lạnh điện tử, thiết bị văn phòng đó là những mặt hàng đắt tiền, dễ bị hư hỏng. Vì vậy công ty nên có biện pháp bảo quản trước khi phân phối cho các đại lý để tránh hư hỏng bởi vì nếu bị hư hỏng chất lượng giảm sẽ làm giảm uy tín của công ty. Ngoài ra công ty cần phải có chiến lược để nhập những mặt hàng có mẫu mã kiểu dáng đẹp phù hợp với sở thích của người tiêu dùng.Chỉ cần thay đổi một chút màu sắc, kích thước… của sản phẩm cũng có ảnh hưởng rất lớn tới hành vi mua của nguời tiêu dùng Dễ nhận thấy trong năm 2005 công ty đã thực hiện phân phối một loại sản phẩm có nguồn gốc từ Malaysia mang nhãn hiệu điều hoà Think do công ty Biss-33 Âu Cơ phối hợp nhập khẩu,các sản phẩm này đã không được người tiêu dùng ưa chuộng vì màu của sản phẩm là màu tối hơn nữa độ dài của sản phẩm lại hơn các sản phẩm khác cùng loại,ngoài ra nó chỉ có một chức năng làm lạnh.Vì vậy mặt hàng này đã bị tồn kho nhiều, trong năm 2006 vừa qua công ty đã cố gắng bán hoà vốn để bù đắp chi phí Chính vì vậy công ty có thể nhập những mặt hàng có mẫu mã ,chức năng khác như sau: Bảng 15: Hướng cải tiến mẫu mã sản phẩm của công ty như sau Tên sản phẩm Mẫu mã hiện tại Mẫu mã sẽ cải tiến 1. Tủ lạnh 4 mẫu. Tủ lạnh 2 ngăn Tủ lạnh 3 ngăn 6 mẫu tủ lạnh 4 ngăn Tủ lạnh 1 ngăn 2. Điều hoà Máy một chức năng(chỉ làm việc ở chế độ lạnh) Máy 2 chức năng(làm việc ở cả chế độ lạnh và nóng) Máy có thêm các chức năng khác như:Hút ẩm, thông gió 3. Ti vi 2 mẫu Tivi 14 in Tivi16 in Tivi 21 in 4 mẫu Có thêm :ti vi 29 in Ti vi 100 in Ti vi siêu mỏng 4. Thiết bị văn phòng 2 mẫu 1 chức năng 4 mẫu 2 chức năng 5. Nồi cơm điện Loại 1;1.5;1.8 lit Có thêm loại 2.5; 2.8 lit Nhưng để làm được điều đó đòi hỏi nguồn chi phí rất lớn.Vì vậy công ty cần huy động thêm một số nguồn vốn khác và sử dụng nó sao cho có hiệu quả. 3.2.5.3 Giữ vững và phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm Hiện nay công ty có mạng lưới tiêu thụ khá ổn định tại khu vực nội thành Hà Nội. Đây là tiền đề thuận lợi để cho công ty mở rộng thêm mạng lưới tiêu thụ của mình. Mạng lưới tiêu thụ của công ty tuy đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của người dân nội thành nhưng một số điểm (cửa hàng) lại hoạt động kém hiệu quả đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ tiêu thụ của công ty. Vì vậy công ty cần có biện pháp khắc phục chuyển đổi đầu tư thêm vào một số đại lý khác ở miền Nam và các tỉnh phía Bắc (Thái Bình, Hải Phòng,…). Bên cạnh đó còn một phần khu vực thị trường ngoại thành chưa khai thác, có thể nói đây là một thị trường hứa hẹn (Gia Lâm, Đông Anh…) nên việc thành lập thêm một số đại lý ở đây sẽ mở ra cho công ty một hướng kinh doanh mới đầy hiệu quả. Tuy nhiên mạng lưới bán hàng gần hay xa cần phải đảm bảo sự liên kết chặt chẽ với công ty. Những nơi nào có nhu cầu ít hoặc vừa phải thì hệ thống cửa hàng cần ít hơn đảm bảo để không bị phân phối chồng chéo giữa các cửa hàng đại lý với nhau. Dự kiến mạng lươi tiêu thụ của công ty năm 2008 như sau Bảng 16: Dự kiến số các đại lý tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2008 Thị trường Số các đại lý tiêu thụ sản phẩm Doanh số tiêu thụ trên tổng doanh số(%) Năm 2006 Năm 2008 Năm 2006 Năm 2008 I. Miền Bắc 44 59 65 62 1. Hà Nội 25 30 45 40 2. Hải Phòng 10 12 10 11 3. Hưng Yên 1 2 2 3 4. Hà Tây 5 6 4 4 5. Quảng Ninh 0 2 0 1.5 6. Thái Bình 0 1 2 1 7. Nam Định 2 3 1 1.5 8. Sóc Sơn 1 3 1 1 II. Miền Nam 13 20 35 38 1. TP HCM 13 16 35 35 2. Vũng Tàu 0 2 0 1.5 3. Đà Nẵng 0 2 0 1.5 Tổng 57 79 100 100 Theo dự kiến thì số các đại lý tiêu thụ của công ty tăng lên nhiều ở khu vực phía Bắc và có xu hướng mở rộng ở thị trường Miền Nam. - Để hoàn thiện mạng lưới tiêu thụ theo dự kiến trên và đảm bảo cho sự hoạt động một cách có hiệu quả giữa các đại lý ở từng khu vực thị trường công ty cũng cần có những chính sách phù hợp đối với từng đại lý. + Chẳng hạn công ty nên chú trọng phát triển và hố trợ mạng lưới các cửa hàng. Vì bán hàng là hướng công ty tới khách hàng và phục vụ khách hàng. Trong toàn mạng lưới cần phục vụ tốt hơn nữa khách hàng, đáp ứng và thoả mãn đầy đủ nhu cầu thị trường, đảm bảo cho khách hàng thuân tiện, vui vẻ an tâm bỏ tiền ra mua hàng của công ty. Do vậy công ty cần nâng cấp các cửa hàng nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng, tăng số luợng khách hàng và tăng cơ hội bán hàng. + Bên cạnh đó để giúp các đại lý của công ty hoạt động một cách nhịp nhàng, lành mạnh,tránh xảy ra xung đột (như các cửa hàng ở Đại Cổ Việt..) công ty nên thực hiện giá chung cho các đại lý và huớng họ tới mục tiêu chung là vì lợi ích của công ty. + Ngoài ra công ty có thể giảm cước vận chuyển hoặc vận chuyển miễn phí cho các cửa hàng ,để khuyến khích các đại lý phân phối sản phẩm của công ty, công ty có thể vận chuyển miễn phí cho các đại lý ở khu vực Hà Nội, còn các đại lý nằm ở Hải Phòng, Nam Định, Hà Tây….công ty nên giảm cước vận chuyển cho họ. Điều này sẽ khiến cho các đại lý yên tâm hơn khi phân phối sản phẩm cho công ty. Theo bảng dự kiến trên trong năm 2008 có gần 80 đại lý thực hiện phân phối cho công ty. Hiện nay phương thức phân phối, tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của công ty đang áp dụng là tiêu thụ gián tiếp theo sơ đồ sau: Sơ đồ 3: Kênh phân phối gián tiếp Công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng Người bán buôn Đại lý Người bán buôn Người bán lẻ Người tiêu dùng cuối cùng Người bán lẻ Kênh phân phối mà công ty đang áp dụng đó là kênh 2 cấp và kênh 3 cấp. Các loại kênh này giúp công ty có thể tiêu thụ đuợc lượng hàng lớn trong thời gian ngắn, thúc đẩy quá trình kinh doanh, đồng thời thu hồi vốn nhanh, tiết kiệm chi phí bảo quản, có thời gian nhiều để đầu tư mở rộng các mặt hàng kinh doanh khác, nhưng hạn chế của kênh này là do thời gian lưu thông dài, chi phí tiêu thụ lớn nên hàng hoá đến tay người tiêu dùng giá có thể bị đẩy lên, công ty phải mất nhiều thời gian để kiểm soát giá bán của các tổ chức trung gian đồng thời không nắm bắt được các yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm của mình một cách trực tiếp Vì vậy ngoài việc thực hiện phân phối theo kênh gián tiếp công ty nên áp dụng thêm kênh phân phối trực tiếp Sơ đồ 4 :kênh phân phối trực tiếp Công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng Người tiêu dùng cuối cùng Sử dụng kênh phân phối trực tiếp công ty có thể thu được nhiều lãi vì giảm được chi phí trung gian nhưng đòi hỏi trình độ chuyên môn hoá cao,tổ chức quản lý tốt. Vì vậy công ty cần đào tạo một đội ngũ công nhân viên có trình độ giỏi để có thể đáp ứng được các kênh tiêu thụ của mình Bảng 17: Dự kiến số liệu tiêu thụ theo các kênh Kênh tiêu thụ Năm 2008 Năm 2009 Năm 20010 Doanh thu(triệu đồng) Tỷ lệ(%) Doanh thu(triệu đồng) Tỷ lệ(%) Doanh thu(triệu đồng) Tỷ lệ(%) 1.Gián tiếp 6900 96 8935 93.2 10580 92 2.Trực tiếp 300 4 650 6.8 920 8 3 .Tổng 7200 100 9585 100 11500 100 Có thể nói hiệu quả tiêu thụ của công ty phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các đại lý và các kênh tiêu thụ mà công ty áp dụng. 4. Một số kiến nghị 4.1. Kiến nghị với nhà nước Nhà nước nên thường xuyên tổ chức các đợt hội chợ thương mại, hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao để các công ty có thể tham gia và giới thiệu, quảng bá sản phẩm của mình. Trong xu thế hội nhập với thế giới như hiện nay, nhà nước có những chính sách thu hút đầu tư từ nước ngoài, phá bỏ rào cản thuế quan cho các mặt hàng nhập khẩu. Chính vì thế, cường độ cạnh tranh ngày càng gay gắt nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cũng như nên có hỗ trợ như khuyến khích người dân tiêu dùng hàng Việt Nam chất lượng cao... góp phần xây dựng quê hương. Nâng cao chất lượng ngân hàng, thủ tục vay vốn nên đơn giản hơn nhằm giúp doanh nghiệp có nhiều cơ hội đầu tư, mở rộng sản xuất cho phù hợp với xu thế cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cần nghiêm minh trong việc quản lý, xử lý những vi phạm: hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận trong thương mại, cướp bản quyền... hoặc trốn thuế đảm bảo cho môi trường hoạt động kinh doanh luôn công bằng, cạnh tranh lành mạnh. Thúc đẩy các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động hiệu quả góp phần xây dựng nền kinh tế nước ta. 4.2. Kiến nghị với ban lãnh đạo công ty. Ban lãnh đạo công ty cần tổ chức tốt hoạt động của tổ chức, cơ cấu lại bộ máy sao cho gọn nhẹ và hiệu quả. Ban lãnh đạo công ty luôn sát sao với mọi hoạt động liên quan hoạt động tiêu thụ để tăng doanh thu của công ty. Xây dựng chính sách khuyến khích, khen thưởng xứng đáng cho các tập thể, cá nhân có thành tích trong hoạt động của công ty. Luôn đề cao và tận dụng hiệu quả các sáng tạo của mọi người trong và ngoài công ty. Xây dựng chính sách tuyển dụng, thu hút nhân viên lành nghề, có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực kinh doanh của công ty. Luôn chủ động linh hoạt, sáng tạo và có chiến lược kinh doanh lớn để liên kết với nhiều công ty khác nhằm thúc đẩy quá trình phát triển và tăng doanh thu của công ty. KẾT LUẬN Trong nền kinh tế thị trường, việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tăng doanh thu luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Thông qua tiêu thụ doanh nghiệp mới có được các nguồn thu để bù đắp các khoản chi phí đã ứng ra và tiếp tục tái đầu tư để quá trình tái sản xuất được diễn ra liên tục. Tiêu thụ sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, thu được lợi nhuận và đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên. Tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ là một vấn đề có tính quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Vì vậy muốn tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường thì các Công ty cần phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện mình trong khâu tổ chức tiêu thụ sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường một cách nhanh chóng, kịp thời nhất. Qua việc phân tích trên cho thấy Công ty TNHH TM&DV Việt Hoàng đã đạt được những kết quả khả quan trong công tác tiêu thụ. Tuy mới thành lập và đi vào hoạt động chưa được 10 năm nhưng công ty đã khẳng định chỗ đứng vững chắc của mình trên thị trường. Có được như vậy là nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Ban lãnh đạo Công ty. Bên cạnh đó Công ty cũng còn một số hạn chế trong công tác tiêu thụ sản phẩm cần khắc phục, để mang lại hiệu quả hơn nữa trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh của Công ty. Vận dụng những kiến thức đã học trong trường Đại học, sau một thời gian tìm hiểu thực trạng tiêu thụ của Công ty, em đã đi sâu tìm hiểu nghiên cứu và phân tích về tình hình tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu tiêu thụ tại Công ty trong giai đoạn 2005-2007. Qua đó em đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu tiêu thụ tại Công ty. Em mong rằng những ý kiến đề xuất này sẽ phần nào giúp cho doanh thu của Công ty được tốt hơn. XÁC NHẬN CỦA CÔNG TY TNHH TM&DV VIỆT HOÀNG ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ Hà Nội, ngày tháng năm 2008 TM. CÔNG TY TNHH TM&DV VIỆT HOÀNG DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS - TS Lưu Thị Hương Tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản lao động 2004. 2. TS.Nguyễn Đặng Nam, PGS-TS.Nguyễn Đình Kiệm, Giáo trình Quản trị Tài chính Doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài Chính, 2001 3. Th.s. Đặng Thúy Phượng, Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài Chính, 2001 4. Nguyễn Thành Độ, Nguyễn Ngọc Huyền, Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, Nhà xuất bản lao động-xã hội 2002 5. TS. Nguyễn Thế Khải, Giáo trình Phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài Chính – Hà Nội 2003 6. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty năm 2005-2007 MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7919.doc
Tài liệu liên quan