Giải pháp và định hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Thương mại điện tử là một khái niệm còn khá mới mẻ đối với nghiều người ở nước ta hiện nay. Nhưng những lợi ích của nó trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng là điều không thể phủ nhận. Trong những năm gần đây khái niệm thương mại điện tử được nhắc đến khá nhiều trên báo chí, đài truyền hình và các cuộc họp của Chính phủ… Tuy nhiên phần lớn người dân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam vẫn chưa thực sự hiểu rõ về thương mại điện tử, đặc biệt là những lợi ích mà nó có t

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1592 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp và định hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hể mang lại cho các doanh nghiệp, cho người dân, cho nền kinh tế và toàn xã hội. Với đề án môn học lần này em xin chia sẻ một ít hiểu biết của mình về thực trạng và giải pháp cho việc phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Em cũng hy vọng với đề án này mọi người có thể hiểu rõ hơn về một lĩnh vực còn khá mới này. Đề án gồm 3 nội dung chính: Phần I: Giới thiệu tổng quan về thương mại điện tử Phần này giới thiệu cho bạn đọc những vấn đề cơ bản nhất của thương mại điện tử như: khái niệm, các bộ phận cấu thành thương mại điện tử, phân loại các hình thức của thương mại điện tử, lịch sử thương mại điện tử… cũng như vai trò, lợi ích của thương mại điện tử đối với nền kinh tế thế giới. Phần II: Thực trạng của sự phát triển thương mại điện tử ở Việt nam hiện nay Phần này cung cấp cho bạn đọc các thông tin về các điều kiện cơ sở hạ tầng cho phát triển thương mại điện tử ở nước ta hiện nay. Các điều kiện cơ sở hạ tầng đó đem lại những lợi thế gì cho sự phát triển của thương mại điện tử cũng như các hạn chế của nó. Phần III: Giải pháp và định hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam Phần này là quan điểm và ý kiến chủ quan của em về các giải pháp và định hướng phát triển thương mại điện tử dựa trên thực trạng của nó ở nước ta hiện nay. Nhân dịp này em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến ThS Trịnh Hoài Sơn – Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình thực hiện đề án. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ còn hạn chế nên chắc chắn đề tài của em không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong sẽ nhận được các ý kiến đóng góp của Thầy để đề án được hoàn thiện hơn. Hà Nội, tháng 12 năm 2008 Phần I: Giới thiệu tổng quan về Thương mại điện tử I.1. Khái niệm Thương mại điện tử I.1.1. Khái niệm Hiện nay định nghĩa Thương mại điện tử (E-Commerce) được rất nhiều tổ chức quốc tế đưa ra song chưa có một định nghĩa thống nhất về thương mại điện tử. Nhìn một cách tổng quát, các định nghĩa thương mại điện tử được chia thành hai nhóm tùy thuộc vào quan điểm. Hiểu theo nghĩa hẹp Theo nghĩa hẹp, Thương mại điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp trong việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử, nhất là qua Internet và các mạng liên thông khác. Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO):“ Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như các thông tin số hóa thông qua mạng Internet.” Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC):“ Thương mại điện tử là công việc kinh doanh được tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số.” Theo giáo trình Tin học đại cương của Khoa tin học kinh tế trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân: “Thương mại điện tử là việc trao đổi các thông tin thương mại thông qua các phượng tiện của công nghệ điện tử không phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch” Hiểu theo nghĩa rộng Theo nghĩa rộng, “Thương mại điện tử là các giao dịch tài chính và thương mại bằng các phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các hoạt động như gửi /rút tiền bằng thẻ tín dụng.” Theo Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế định nghĩa:“ Thuật ngữ Thương mại điện tử cần được hiểu theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa và dịch vụ, thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng các công trình, tư vấn kỹ thuật công trình, đầu tư cấp vốn, ngân hàng ,bảo hiểm, thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường sắt, đường không hoặc đường bộ.” Theo định nghĩa này có thể thấy phạm vi hoạt động của Thương mại điện tử rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thương mại điện tử. Dưới các góc nhìn khác nhau có các định nghĩa khác nhau về Thương mại điện tử. Dưới cái nhìn của liên lạc viễn thông: Thương mại điện tử là việc truyền thông tin về sản phẩm, dịch vụ cũng như các khoản chi trả qua mạng điện thoại mạng máy tính hoặc bất kỳ phương tiện nào. Dưới cái nhìn kinh doanh: Thương mại điện tử là việc áp dụng công nghệ hướng tới việc tự động hóa trong những giao dịch thương mại và luồng công việc. Dưới cái nhìn viễn cảnh nghiệp vụ: Thương mại điện tử là công cụ đáp ứng mong muốn của các công ty, khách hàng để cắt giảm chi phí đồng thời nâng cấp chất lượng hàng hóa và tăng tốc độ gửi hàng hóa vào tay khách hàng. Dưới viễn cảnh trực tuyến: Thương mại điện tử cung cấp các khả năng mua và bán các sảm phẩm dịch vụ, thông tin trên Internet một cách trực tuyến. I.1.2. Các bộ phận cấu thành Thương mại điện tử Hình1 – Các bộ phận cấu thành thương mại điện tử Con người Chính sách công Tiêu chuẩn kỹ thuật Các tổ chức Dich vụ Phân phối TT Đa phương tiện Mạng máy tính Cơ sở GD SỰ QUẢN LÝ CƠ SỞ HẠ TẦNG TMĐT Nhìn vào hình vẽ có thể thấy cơ sở hạ tầng của Thương mại điện tử bao gồm 4 yếu tố chính: con người, chính sách công, các tiêu chuẩn kỹ thuật và các tổ chức. Trong đó: Con người bao gồm người mua, người bán, nhà quản lý, người phục vụ và những người trung gian. Chính sách công bao gồm luật pháp, các chính sách thông tư về thuế cùng các văn bản hướng dẫn. Các tiêu chuẩn kỹ thuật bao gồm các tài liệu về an toàn bảo mật, các giao thức trao đổi trên mạng. Các tổ chức bao gồm các đối tác, các đối thủ cạnh tranh, các hiệp hội, các ủy ban của nhà nước, của chính phủ. Sự quản lý trong Thương mại điện tử bao gồm 5 yếu tố: các dịch vụ kinh doanh, phân phối thông tin, đa phương tiện, mạng máy tính và cơ sở giao dịch. Trong đó: Các dịch vụ kinh doanh bao gồm hệ thống thanh toán điện tử, chứng thực điện tử, hướng dẫn các giao dịch và an ninh. Phân phối thông tin bao gồm dịch vụ truyền dữ liệu điện tử, thư điện tử và siêu văn bản. Đa phương tiện: các tiêu chuẩn HTML, Java, www,… Mạng máy tính Cơ sở giao dịch chính là các cơ sở dữ liệu. I.1.3. Phân loại Thương mại điện tử Thương mại điện tử có thể được phân loại theo tư cách của đối tượng tham gia. Theo người tiêu dùng: C2C (Consumer-To-Consumer): Người tiêu dùng với người tiêu dùng. C2B (Consumer-To-Business): Người tiêu dùng với doanh nghiệp. C2G (Consumer-to-Government): Người tiêu dùng với chính phủ. Theo doanh nghiệp: B2C (Business-To-Consumer): Doanh nghiệp với người tiêu dùng. B2B (Business-To-Business): Doanh nghiệp với doang nghiệp. B2G (Business-To-Goverment): Doanh nghiệp với chính phủ. B2E (Business-To-Employee): Doanh nghiệp với nhân viên. Theo chính phủ: G2C (Goverment-To-Consumer): Chính phủ với người tiêu dùng. G2B (Government-To-Business): Chính phủ với doanh nghiệp. G2G (Government-To-Goverment): Chính phủ với chính phủ. I.1.4. Lịch sử Thương mại điện tử Thương mại điện tử hình thành từ những năm đầu của thập kỉ 70 với hình thức ban đầu là chuyển tiền điện tử nhưng chỉ giới hạn trong các tập đoàn tài chính, ngân hàng, các công ty sản xuất lớn với nhau mà chưa có sự tham gia của các công ty nhỏ. Ngày nay Thương mại điện tử đã phát triển rộng rãi với nhiều ứng dụng khác nhau. Cùng với sự phát triển của Internet trong những năm 90 thì thuật ngữ Thương mại điện tử ra đời.Từ những năm 1998, 1999 cho đến nay Thương mại điện tử đã có rất nhiều ứng dụng trong quảng cáo, đấu giá, xuất bản, …Hầu hết các công ty lớn và vừa của Mỹ cũng như các nước khác trên thế giới đều có website riêng của mình. I.1.5. Bản chất của thương mại điện tử Thương mại điện tử là 1 lĩnh vực mới mà nền tảng lý thuyết và thực tế của nó phải dựa rất nhiều vào nền tảng lý thuyết của các ngành khoa học khác. Muốn nghiên cứu thương mại điện tử ta cần hiểu rõ các nghiệp vụ sau: Tiếp thị & Marketing: nhiều vấn đề của Marketing có liên quan trực tiếp tới thương mại điện tử. Ví dụ như trong Marketing người ta nghiên cứu đến chi phí đồng vốn bỏ ra cho quảng cáo cũng như lợi nhuận và doanh số bán hàng là bao nhiêu? Khoa học máy tính: cơ sở phát triển của thương mại điện tử liên quan đến khoa học máy tính như ngôn ngữ, phương tiện truyền thông, mạng máy tính, an ninh mạng, tình báo mạng,… Hành vi và tâm lý người tiêu dùng: hành vi người tiêu dùng là vấn đề mấu chốt, chìa khóa thành công của kinh doanh B2C. Tài chính: tài chính, ngân hàng là những đối tượng tham gia chính vào thương mại điện tử. Rất nhiều tổ chức tài chính giữ vai trò quan trọng trong giao dịch trực tuyến. Kinh tế học: chịu tác động bởi các nguồn lực kinh tế học thuyết kinh tế vĩ mô được ứng dụng trong việc xây dựng hệ thống thương mại điện tử và thương mại điện tử cũng tác động trở lại đối với các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Hệ thống thông tin quản lý: chịu trách nhiệm về sự phát triển của thương mại điên tử như phân tích hệ thống, phát triển hệ thống, lập kế hoạch bảo hành, bảo vệ và chi trả không những trong 1 hệ thống mà còn giữa hệ thống này với hệ thống khác. Kế toán, kiểm toán: kiểm toán thương mại điện tử là một thách thức cho ngành kiểm toán. Khoa học quản lý: những vấn đề đạt được của thương mại điện tử cần phải được quản lý một cách đúng đắn. Ngoài việc quản lý thông thường thương mại điện tử cần tiếp cận với các phương thức quản lý mới. Luật kinh doanh và đạo đức kinh doanh: những vấn đề đạo đức, pháp lý là rất quan trọng trong thương mại điện tử đặc biệt trong môi trường toàn cầu hóa như hiện nay. Nhiều dự luật được soạn thảo và hình thành luật chuẩn. Ví dụ như luật bản quyền, luật sở hữu trí tuệ ,… Các vấn đề khác: như ngôn ngữ, hệ thống cảm ứng, quản trị học, chính sách công, y tế, thông tin liên lạc, … I.2. Vai trò và lợi ích của Thương mại điện tử I.2.1. Vai trò của Thương mại điện tử Sự phát triển và phồn vinh của một nền kinh tế không còn chỉ dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động, mà ở mức độ lớn được quyết định bởi trình độ công nghệ thông tin và tri thức sáng tạo. Cùng với xu thế đó, thương mại điện tử xuất hiện đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới bởi những ảnh hưởng to lớn của nó. Thương mại điện tử làm thay đổi tính chất nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như nền kinh tế toàn cầu. Làm cho tri thức trong nền kinh tế ngày càng tăng lên và tri thức đã thực sự trở thành nhân tố và nguồn lực sản xuất quan trọng nhất, là tài sản lớn nhất của một doanh nghiệp. Thương mại điện tử mở ra cơ hội phát huy ưu thế của các nước phát triển sau để họ có thể đuổi kịp thậm chí vượt các nước đã đi trước. Thương mại điện tử xây dựng lại nền tảng, sức mạnh kinh tế quốc gia và có tiềm năng làm thay đổi cán cân tiềm lực toàn cầu. Thương mại điện tử rút ngắn khoảng cách về trình độ tri thức giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển. Thương mại điện tử tham gia vào quá trình cách mạng hóa marketing bán lẻ và marketing trực tuyến. I.2.2. Lợi ích của thương mại điện tử Khi xem xét các ứng dụng khác nhau có thể có được dùng để làm việc với thông tin số, chúng ta thấy rằng Thương mại điện tử không chỉ đơn giản là phân phối thông tin và hàng hóa ma nó còn có thể làm thay đổi mối quan hệ giữa chúng. Giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc chọn lựa khi mua hàng Quảng cáo điện tử cung cấp cho khách hàng thông tin chính xác về cửa hàng gần nhất chứa mặt hàng đó, thời gian và cách kinh doanh của cửa hàng thậm chí gợi ý cả cách xem xét sản phẩm. Nếu khách hàng không muốn tận mặt xem hàng trước khi mua, các đơn hàng có thể được đặt và thanh toán theo kiểu điện tử. Thương mại điện tử tạo ra nhiều cơ hội mới cho cả người tiêu dùng cá lẻ cũng như các doanh nghiệp. Khi thương mại điện tử ngày càng hoàn thiện và ngày càng nhiều doanh nghiệp tổ chức kinh doanh trực tuyến thì khách hàng có thể so sánh mua hàng dễ dàng và được hưởng nhiều dich vụ hơn. Là lực lượng trung gian mới Thông qua thương mại điện tử các doanh nghiệp có thể thông báo cho khách hàng tiềm ẩn về các mặt hàng mà họ đặc biệt quan tâm. Mặc dù hiện nay tất cả đều có xu hướng loại bỏ trung gian, xu hướng tương tác trực tiếp giữa người mua và người bán ngày càng tăng là xu thế bất lợi đối với môi giới trung gian. Nhưng thương mại điện tử vẫn sẽ mở ra các loại hình trung gian mới. Ví dụ: Sẽ xuất hiện trung gian môi giới về: tìm kiếm các thị trường đặc biệt, thông báo cho khách hàng các cơ hội kinh doanh tốt, các mặt hàng thực sự khó tìm, tổ chức điều tra nghiên cứu định kỳ về mặt hàng cụ thể cho các doanh nghiệp. Cơ hội giảm chi phí Trong vài năm trở lại đây, Internet ngày càng thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng. Các trang web khiến người tiêu dùng tin tưởng dùng Internet hơn, nó cung cấp cho cả người tiêu dùng và doanh nghiệp nhiều phương thức mới để mô tả và tìm kiếm thông tin. Giao dịch thương mại trên cơ sở dùng Internet làm cho trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) và các giao dịch ngân hàng ít tốn kém hơn dùng các mạng nội bộ chuyên dùng. Nó không chỉ tiết kiệm chi phí tiềm ẩn cho các doanh nghiệp lớn, mà còn tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ có thể dùng các tiến trình điện tử và qua đó cắt giảm bớt các khoản chi phí không đáng có như trong quá khứ. Mặt khác, thời gian giao dịch trên Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, bằng 0,05% thời gian giao dich qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay qua bưu điện, bằng 10%-20% chi phí thanh toán thông thường. Hơn nữa, Thương mại điện tử giúp giảm chi phí bán hàng và tiếp thị. Chi phí văn phòng cấu thành trong chi phí sản phẩm, việc giảm chi phí văn phòng theo nghĩa giảm thiểu các khâu in ấn giấy tờ, giảm thiểu số nhân viên văn phòng…cũng có ý nghĩa là giảm chi phí sản phẩm. Chính những yếu tố này sẽ tạo điều kiện cho các công ty lớn xuất hiện và các doanh nghiệp nhỏ có thể cung cấp dịch vụ tới khách hàng với chi phí thấp hơn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu có thể lập các cửa hàng ảo với một chi phí thấp hơn nhiều so với việc lập các cửa hàng thực ở nước ngoài. Qua đó người tiêu dùng có thể mua được hàng hóa với giá thấp hơn, các nhà sản xuất tại các nước đang phát triển có thể mua linh kiện, bộ phận với giá rẻ hơn. Nắm được thông tin phong phú Với một nguồn thông tin khổng lồ trên Internet và với nhiều cách tiếp cận khác nhau tới thông tin, thậm chí với các thông tin miễn phí đã giúp cho các doanh nghiệp có cơ hội vô cùng thuận lợi để nắm bắt thông tin. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ- đối tượng được xem là động lực chính cho phát triển kinh tế hiên nay. Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế số Đối với một quốc gia, Thương mại điện tử được xem là động lực kích thích phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, một ngành mũi nhọn và có đóng góp chủ yếu vào việc hình thành nền tảng cơ bản của nền kinh tế thế giới mới. Đây là cơ hội cho việc hội nhập kinh tế toàn cầu. Đối với doanh nghiệp Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể mở rộng hoạt động kinh doanh bằng cách áp dụng thương mại điện tử nhằm: Hợp lý hóa khâu cung cấp nguyên vật liệu, sản phẩm, bảo hành. Tự động hóa mọi quá trình hợp tác, kinh doanh để nâng cao hiệu quả. Cải tiến quan hệ trong công ty với đồng nghiệp, với đối tác, với bạn hàng. Giảm chi phí kinh doanh tiếp thị. Tăng năng lực phục vụ khách hàng. Tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Mở rộng phạm vi kinh doanh vượt qua vùng biên giới. 7. Đối với xã hội - Thương mại điện tử cho phép nhiều người có thể làm việc ở nhà qua đó giảm ách tắc giao thông, giảm ô nhiễm môi trường. - Hàng hóa được bán với giá thấp hơn tạo điều kiện mua sắm cho người có thu nhập thấp, nâng cao mức sống của người dân. - Cho phép người dân nước thứ ba, vùng sâu vùng xa có thể mua được hàng hóa mà bình thường có tiền họ cũng không thể mua được. Từ đó tạo điều kiện nâng cao tri thức, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao đời sống. - Tạo điều kiện để đưa các dịch vụ công như y tế, giáo dục, các dịch vụ xã hội của chính phủ tiếp cận với người dân với chi phí vừa phải và chất lượng được cải tiến. I.3. Những hạn chế của Thương mại điện tử 1. Về mặt kỹ thuật Hiện nay thương mại điện tử còn thiếu các tiêu chuẩn kỹ thuật, các hệ thống mạng hoạt động chưa đủ độ tin cậy, thiếu các hiệp ước thỏa thuận giữa các nước và vùng lãnh thổ, thiếu mạng lưới bưu chính viễn thông, vẫn chưa hoàn thiện các phần mềm. Rất nhiều các phần mềm trong thương mại điện tử khó kết hợp hoặc chưa hoàn toàn tương thích với Internet, cơ sở dữ liệu, phần cứng và các ứng dụng hiện có. Rất nhiều người bán hàng trên mạng họ cần có các trang web đặc biệt cũng như cơ sở hạ tầng đặc biệt, mạng lưới kỹ thuật cao nhưng điều này vẫn chưa được đáp ứng. Về mặt phi kỹ thuật Do chi phí để xây dựng hệ thống thương mại điện tử thường khá cao hơn nữa chưa có nhiều chuyên gia giàu kinh nghiệm nên còn trì trệ, chậm trễ. Một số nhà đầu tư muốn đầu tư vào thương mại điện tử nhưng không có tổ chức nào tư vấn cho họ nên đầu tư vào đâu. Việc xác định lợi ích vô hình rất khó gây hạn chế khả năng nâng cấp dịch vụ khách hàng. Thương mại điện tử hiện nay còn thiếu lòng tin và sự kiên trì của khách hàng ( thiếu khách hàng truyền thống). Ngoài ra do còn nhiều vấn đề liên quan đến pháp luật chưa được giải quyết nên thương mại điện tử luôn luôn biến hóa và thay đổi nhanh chóng. Chưa có nhiều dịch vụ hỗ trợ cho thương mại điện tử cũng như chưa có các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực này. Vì thế thương mại điện tử còn khá đắt và chưa thực sự tiện lợi cho khách hàng. Phần II: Thực trạng của sự phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay II.1. Lợi ích của Thương mại điện tử đối với Việt Nam II.1.1. Lợi ích của Thương mại điện tử đối với doanh nghiệp nói riêng Thương mại điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có được các thông tin về thị trường và đối tác một cách nhanh và rẻ nhất, qua đó có thể tiêu thụ tốt hơn các sản phẩm của mình. Thị trường tiêu thụ đặc biệt là thị trường ngoài nước đang là một vấn đề bức xúc đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Vì vậy thương mại điện tử với các ưu thế của nó như đã được trình bày ở các phần trước sẽ hỗ trợ hiệu quả nhất cho các doanh nghiệp xâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường nước ngoài. Thương mại điện tử là hình thức hiệu quả nhất để các doanh nghiệp Việt Nam hòa nhập với quốc tế và khu vực do trong thương mại điện tử mọi doanh nghiệp đều bình đẳng với nhau và với khách hàng. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ, khả năng tài chính rất hạn chế. Thương mại điện tử là hình thức tốt nhất để họ có thể thực hiện tốt hoạt động Marketing của mình phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp Nhờ có thương mại điện tử khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam được nâng cao đáng kể trên thị trường quốc tế. Có rất nhiều nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có các nguyên nhân về quy mô sản xuất, khả năng tài chính, vị trí địa lý, hệ thống thông tin,…Việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử sẽ làm giảm bớt các bất lợi trên tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp. II.1.2. Lợi ích của Thương mại điện tử đối với toàn xã hội Những ứng dụng của thương mại điện tử sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp tạo ra nhiều giá trị gia tăng. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu ấy thì ngành dịch vụ phải chiếm một tỷ trọng khoảng 45%-50% GDP. Phát triển thương mại điện tử sẽ góp phần tăng nhanh hơn tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP bởi thương mại bao gồm cả thương mại điện tử là bộ phận cấu thành quan trọng trong ngành dịch vụ. Thương mại điện tử với tư cách là một ngành, một thành tố của nền kinh tế tri thức sẽ là động lực quan trọng để Việt Nam thực hiện thành công chiến lược đi tắt đón đầu của Đảng. Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ. Thương mại điện tử sẽ giúp chúng ta rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa, nhanh chóng đuổi kịp các nước trên thế giới. Thương mại điện tử tạo ra một bộ mặt xã hội Việt Nam mới, làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Phát triển thương mại điện tử là con đường ngắn nhất để nâng cao các mức hưởng thụ văn hóa (bao gồm cả văn hóa dân tộc và văn hóa quốc tế) cho nhân dân và đảm bảo cho đất nước không chỉ phát triển nhanh về lực lượng sản xuất mà còn nhanh chóng trở thành một xã hội công bằng, dân chủ văn minh – một mục tiêu hết sức quan trọng của Đảng. Hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử sẽ nâng cao tính kịp thời trong công tác chỉ đạo của bộ máy nhà nước, nâng cao chất lương cán bộ, tinh giảm được bộ máy quản lý quá cồng kềnh hiên nay, tiết kiệm chi phí cho bộ máy nhà nước các cấp. II.2. Các điều kiện hạ tầng cho phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam II.2.1. Các chính sách của nhà nước về việc phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử Ngày 05/06/2000, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP về xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm ở nước ta giai đoạn 2000-2005. Sau khi khẳng định vị trí, vai trò của ngành công nghiệp phần mềm; đánh giá lại tình hình phát triển công nghệ thông tin ở nước ta trong những năm qua, theo tinh thần thực hiện Nghị quyết số 49/CP ngày 04/08/1993 thì Nghị quyết đã nêu rõ quan điểm, mục tiêu, nội dung, biện pháp,và việc tổ chức thực hiện xây dựng phát triển công nghiệp phần mềm của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: Về quan điểm, mục tiêu xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm: Nhà nước khuyến khích và ưu đãi tối đa việc phát triển công nghiệp phần mềm (chú trọng xuất khẩu gia công và cung cấp dịch vụ cho nước ngoài). Mở rộng thị trường trong nước, thay thế các sản phẩm phần mềm nhập khẩu. Xây dưng công nghiệp phần mềm thành một ngành kinh tế mũi nhọn, phát huy tiềm năng trí tuệ của người Việt Nam, chuẩn bị nguồn nhân lực chất lương cao cho những thập kỷ tới. Về nội dung, biện pháp xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm: Phát huy mọi hình thức đào tạo để đến năm 2005 nước ta sẽ có khoảng 25000 chuyên gia trình độ cao và lập trình viên chuyên nghiệp thông thạo tiếng Anh. Khuyến khích các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin nói chung và công nghiệp phần mềm nói riêng dưới hình thức doanh nghiệp dịch vụ phần mềm và các hình thức khác. Thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi, Nhà nước áp dụng ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp làm phần mềm, miễn thuế giá trị gia tăng cho các sản phẩm dịch vụ phần mềm được sản xuất trong nước, nếu xuất khẩu thì được áp dụng mức thuế 0%. Nhà nước có chính sách tài trợ lại cho doanh nghiệp làm công nghệ phần mềm, ưu đãi về thuế thu nhập các nhân cho người lao động chuyên nghiệp tham gia trực tiếp phát triển công nghệ phần mềm, các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi cao nhất về tín dụng và việc sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Các Bộ: Tư pháp, Khoa học công nghệ & môi trường, Văn hóa thông tin và các bộ ngành có liên quan triển khai rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến sản xuất, kinh doanh và bản quyền tác giả về phần mềm. Tăng cường trong lĩnh vực an ninh và an toàn thông tin, đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục, nghiên cứu ban hành chính sách phù hợp, công bố các số liệu thống kê về công nghệ thông tin nói chung và công nghiệp phần mềm nói riêng theo phân ngành kinh tế quốc dân. Mở rộng thị trường, khuyến khích các cơ quan, các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp làm công nghệ phần mềm trong nước. Như vậy, Nhà nước và Chính phủ đã và đang dần quan tâm đến công nghiệp phần mềm và công nghệ thông tin, bước đầu xây dựng nền móng cơ bản cho phát triển Thương mại điện tử. Từ năm 2005, Ban Thương mại điện tử thuộc Bộ Thương mại đã xúc tiến một dự án quốc gia nhằm thúc đẩy Thương mại điện tử tại Việt Nam. Dự án này bao gồm 14 tiểu dự án với tổng trị giá 1 tỷ đồng lấy từ ngân sách nhà nước. Kinh phí cho 14 tiểu dự án được phân bổ cụ thể. Dự án nâng cao nhận thức do trung tâm thương mại xúc tiến được phân 60 triệu đồng, dự án hạ tầng cơ sở pháp lý do Viện nghiên cứu pháp lý (Bộ Tư pháp) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án hạ tầng cơ sở bảo mật do Ban cơ yếu Chính phủ xúc tiến: 100 triệu đồng, dự án hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử do Ngân hàng công thương xúc tiến: 100 triệu đồng, dự án hạ tầng cơ sở tiêu chuẩn hoá công nghiệp thương mại do Viện nghiên cứu (Bộ Thương mại) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án bảo hộ quyền trí tuệ do Vụ chính sách (Bộ Thương mại) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án bảo vệ người tiêu dùng do Cục quản lý thị trường (Bộ Thương mại) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án an ninh quốc gia về Thương mại điện tử (Bộ Công an) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án các khía cạnh xã hội do Bộ Văn hoá thông tin thực hiện: 50 triệu đồng, dự án xây dựng kế hoạch chung và áp dụng Thương mại điện tử do Vụ Kế hoạch (Bộ Thương mại) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án đào tạo do Trung tâm tin học Bộ Khoa học công nghệ & Môi trường xúc tiến: 100 triệu đồng và dự án thử nghiệm các dạng thức hoạt động của Thương mại điện tử do Hội tin học Việt Nam xúc tiến: 150 triệu đồng. Hiện dự án đang có tốc độ xúc tiến nhanh nhất là tiểu dự án hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử do Ngân hàng Công thương xúc tiến. Dự án này ngoài tiền ngân sách cấp còn có kinh phí của ngành ngân hàng cho phát triển Thương mại điện tử là 100000USD và còn được sự hỗ trợ thêm 100000USD của hãng Fujitsu (Nhật Bản). Tiểu dự án được cấp vốn lớn nhất do Hội tin học Việt Nam xúc tiến sẽ cho phép trên 40 doanh nghiệp về thương mại, dịch vụ thử nghiệm áp dụng Thương mại điện tử. Những doanh nghiệp này sẽ được hỗ trợ miễn phí xây dựng website, quảng cáo trên Internet trong vòng 48 tháng. II.2.2.Thực trạng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin: Điều kiện đầu tiên để ứng dụng Thương mại điện tử là phải có một nền công nghệ thông tin đủ mạnh, đủ năng lực tính toán, xử lý và truyền thông tin, dữ liệu. Điều này còn có ý nghĩa là để ứng dụng Thương mại điện tử, Việt Nam phải có một nền công nghiệp phần cứng và phần mềm hiện đại, một nền bưu chính viễn thông tiên tiến dựa trên một nền điện lực vững mạnh làm nền tảng. Tất cả các vấn đề trên phải đảm bảo tính kinh tế, hiệu quả tức là mức chi phí phải phù hợp để nhiều người tiêu dụng có thể tiếp cận được. Đây có thể coi là điều kiện quan trọng nhất để ứng dụng Thương mại điện tử. Công nghệ thông tin gồm 2 phần: công nghệ tính toán và công nghệ truyền thông. Thực trạng Công nghệ tính toán Từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, những chiếc máy tính đầu tiên đã xuất hiện ở Việt Nam, một số ở miền Bắc do Liên Xô viện trợ, một số khác do Mỹ trang bị ở miền Nam. Đến cuối những năm 70 chúng ta có khoảng 40 dàn máy tính lớn đặt ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm các máy Misnk, EC và IBM. Đây có thể xem là những bước khởi đầu đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp tính toán ở Việt Nam. Vào đầu những năm 80, máy vi tính ra đời và bắt đầu được nhập vào ở Việt Nam, mở đầu thời kỳ phát triển nhanh chóng tin học ở Việt Nam. Từ cuối năm 1994 đầu năm 1995, Việt Nam bắt đầu triển khai Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin, các công ty tin học hang đầu thế giới như IBM, Compag, Digital… bắt đầu tham gia thị trường Việt Nam. Số lượng máy tính PC nhập khẩu tăng vọt với tốc độ 50%/năm. Cũng theo số lượng thống kê, máy tính lắp ráp trong nước đang có xu hướng tăng nhanh khoảng 80-100 nghìn chiếc một năm. Trong nhiều cơ quan, doanh nghiệp dữ liệu đã được tổ chức thành các kho thông tin có cấu trúc (cơ sở dữ liệu) và chuẩn hoá dựa trên các phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu nền mạng như Fox, Access, Oracle, SQL Server… Các phần mềm nhóm như MS Office, Lotus Notes… đã được sử dụng nhiều. Chúng ta xây dựng được 6 cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ cho mục tiêu tin học hoá quản lý nhà nước. Nhiều mạng máy tính dạng LAN, Intranet, chạy trên các hệ điều hành mạng khác nhau như Unix, Windows NT Nowell Netware… đã được triển khai như mạng Văn phòng Chính phủ, mạng của Bộ Quốc Phòng, mạng của Bộ Tài chính, mạng Ngân hàng, mạng Tổng cục Hải quan… Năm 1993, gần 99% máy tính được trang bị là thuộc các cơ quan Nhà nước. Tình trạng này ngày càng thay đổi đáng kể. Theo số liệu năm 1998, tỷ lệ là 75% ở các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp, 10% thuộc các cơ quan nghiên cứu và quốc phòng, 10% ở các cơ sở giáo dục và 5% ở các gia đình. Xu hướng chung ngày càng có nhiều gia đình trang bị máy tính tại nhà phục vụ công việc và học tập. Công nghiệp phần cứng ở nước ta mới chỉ ở khâu lắp ráp. Phần cứng thiết bị tin học chủ yếu là nhập khẩu. Từ năm 1998, chúng ta đã lắp ráp được máy tính mang thương hiệu Việt Nam đầu tiên và đến nay chủng loại máy tính lắp ráp trong nước rất phong phú. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hoá thấp, phần lớn linh kiện phải nhập khẩu nên giá thành còn khá cao. Công nghiệp phần mềm Việt Nam đã và đang phát triển, từ chỗ chủ yếu là các dịch vụ cài đặt và hướng dẫn sử dụng các phần mèm có sẵn, đến nay đã có nhiều công ty phần mềm cho ra đời (cả nước ta có khoảng trên 300 công ty đăng ký trên mạng và trên 200 công ty vừa xuất khẩu phần mềm vừa kết hợp các hoạt động kinh doanh) nhiều sản phẩm đáp ứng các nhu cầu công việc cụ thể trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tài chính kế toán, địa chính, quản lý nhân sự, quản lý văn thư, điều tra thống kê… Đặc biệt, một số công ty tin học hàng đầu như FPT, Lạc Việt… đã có nhiều sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên, quy mô của các công ty phần mềm còn khá nhỏ, chỉ có khoảng 10-20 nhân viên. Chỉ có một vài công ty có số nhân viên trên 100 người. Đội ngũ làm phần mềm chưa thật sự lành nghề, chưa có nhiều kinh nghiệm trong Thương mại điện tử. Các công ty trong nước mới chỉ đạt được 10% thị trương phần mềm trong nước. Tình hình trên do các nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, khách hàng (bao gồm cả các cơ quan và các nhân)._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6048.doc