Hạ giá thành sản phẩm máy khoan K525A của Công ty Cơ khí Hà Nội nhằm nâng cao sức cạnh tranh

lời mở đầu Việc chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là xu hướng tất yếu khách quan bao gồm mở rộng quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường với các quy luật khắt khe của nó ngày càng chi phối mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội, đến hoạt động mọi mặt của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Thị trường mở rộng cả trong và ngoài nước, các doanh nghiệp phải tự khẳng định mình trong cuộc đấu tranh sinh tồn này bằng lợi thế cạnh tranh v

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hạ giá thành sản phẩm máy khoan K525A của Công ty Cơ khí Hà Nội nhằm nâng cao sức cạnh tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề chất lượng, giá cả và hiệu quả. Việc tối thiểu hoá chi phí sản xuất kinh doanh nhằm hạ giá thành sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp. Mức hạ giá thành và tỷ lệ hạ giá thành phản ánh trình độ sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, kỹ thuật tiên tiến của mỗi doanh nghiệp. Tuỳ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà có những biện pháp hữu hiệu hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Công ty Cơ khí Hà Nội là một công ty sản xuất công nghiệp có quy mô lớn bao gồm nhiều phân xưởng mà quy trình sản xuất vừa mang tính riêng biệt vừa mang tính liên tục. Sản phẩm sản xuất ra với chu kỳ dài, khối lượng lớn đa dạng về chủng loại, mẫu mã,... Do đặc điểm công nghệ sản xuất như vậy nên nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh là nhiệm vụ cấp bách của công ty. Đây là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển. Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc hạ giá thành sản phẩm, trong thời gian thực tập tại công ty được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo TS. Ngô Thị Hoài Lam cùng với các cô chú, anh chị trong công ty, em mạnh dạn chọn đề tài: “Hạ giá thành sản phẩm máy khoan K525A của công ty Cơ khí Hà Nội nhằm nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn tốt nghiệp của em được chia thành ba phần: Phần 1: Giá thành sản phẩm và các yếu tố ảnh hưởng đến hạ giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp công nghiệp. Phần 2: Giá thành sản phẩm máy khoan K525A của công ty Cơ khí Hà Nội và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh. Phần 3: Một số biện pháp hạ giá thành sản phẩm máy khoan K525A nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Do trình độ còn hạn chế và thời gian tìm hiểu thực tế chưa nhiều, bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp nhằm hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu. phần 1 giá thành sản phẩm và các yếu tố ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp công nghiệp. 1.1 Khái niệm và phân loại giá thành sản phẩm . 1.1.1 Khái niệm giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp công nghiệp. a-Khái niệm Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống (V) và lao động vật hoá (C) có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí tương ứng. Tương ứng với việc sử dụng tài sản cố định là khấu hao tài sản cố định, với việc sử dụng nguyên vật liệu là những chi phí về nguyên nhiên vật liệu, với việc sử dụng lao động là chi phí tiền công, tiền trích BHXH,BHYT,... Trong điều kiện kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường mọi chi phí đều được biểu hiện bằng tiền. Trong đó, tiền công là biểu hiện bằng tiền của chi phí lao động sống (V), còn chi phí về khấu hao tài sản cố định, nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu là biểu hiện bằng tiền của chi phí lao động vật hoá (C). Quá trình sản xuất là quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Giá thành được xác định cho từng loại sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể và chỉ tính toán đối với sản phẩm hoặc dịch vụ đã hoàn thành (thành phẩm) hoặc chỉ mới kết thúc một số giai đoạn công nghệ nhất định (nửa thành phẩm). Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá phản ánh lượng hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ. Do vậy, cần phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi phí khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá-tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. b- Mối quan hệ giá thành với chi phí, giá trị và giá cả ă Giá thành công xưởng sản phẩm với chi phí sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giá thành công xưởng sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất đã được tập hợp và sản lượng sản phẩm hoàn thành. Nội dung giá thành công xưởng của sản phẩm chính là chi phí sản xuất được tính cho sản lượng và loại sản phẩm đó. Tuy nhiên, chi phí sản xuất và giá thành công xưởng cũng có sự khác nhau cần được phân biệt. Mặc dù, cả giá thành và chi phí đều giống nhau về chất vì đều bao gồm hao phí lao động sống và lao động vật hoá, nhưng khác nhau về lượng. Trong giá thành chỉ được tính những chi phí gắn liền với sản phẩm hay dịch vụ đã hoàn thành, không kể chi phí bỏ ra trong kỳ kinh doanh nào. Hơn nữa trong giá thành không bao gồm những chi phí không có tính chất công nghiệp, không bao gồm những chi phí đã chi ra trong kỳ nhưng còn chờ phân bổ dần cho kỳ sau. Thực tế, trong giá thành sản phẩm còn có chi phí thuộc thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp như tiền lãi trả ngân hàng, BHXH. ă Mối quan hệ giữa giá thành và giá trị: Về kết cấu: cả giá thành và giá trị đều bao gồm ba bộ phận C, V và m. Tuy nhiên, giá thành và giá trị có sự khác nhau về lượng và về chất. Trước hết, giá thành là biểu hiện bằng tiền của tất cả những chi phí của doanh nghiệp về sử dụng tư liệu sản xuất, trả lương, phụ cấp ngoài lương và những chi phí phục vụ khác để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Giá thành được xây dựng cho từng loại sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể và chỉ tính toán đối với sản lượng sản phẩm hoặc dịch vụ đã hoàn thành (thành phẩm) hoặc chỉ mới kết thúc một số giai đoạn công nghệ nhất định (bán thành phẩm). Còn giá trị hàng hoá là lượng lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm, được đo bằng lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá. Giá thành là một đại lượng cụ thể còn giá trị mang tính trừu tượng. Mặt khác, giá thành chủ yếu bao gồm hai bộ phận đầu của giá trị sản phẩm. Về mặt số lượng, hao phí về lao động trong giá thành chỉ là một phần của toàn bộ lượng lao động kết tinh trong giá trị hàng hoá. Điều đó có nghĩa là giữa giá trị và giá thành còn một khoản chênh lệch đó chính là phần giá trị thặng dư do lao động sáng tạo ra cho xã hội. ă Mối quan hệ giữa giá thành và giá cả Giữa giá thành và giá cả có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giá thành sản phẩm là cơ sở để xây dựng chính sách giá cả của doanh nghiệp. Giới hạn thấp nhất của giá bán hàng hoá là do giá thành sản phẩm đó quy định. Hơn nữa, giá thành sản phẩm lại bị ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả. Thị trường giá cả sản phẩm này thay đổi kéo theo sự thay đổi giá cả của sản phẩm khác và như vậy gián tiếp ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Giá cả hàng hoá được xây dựng trên cơ sở giá thành sản phẩm. Ngoài ra giá thành sản phẩm chính là giá mua mà bản thân nhà sản xuất đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa nghĩa là giá mua do chính quy trình sản xuất hàng hoá quyết định. Trong nền kinh tế thị trường thì giá cả do quan hệ cung cầu quyết định. Vì vậy, giá thành chỉ cung cấp thông tin để nhà quản trị ra quyết định linh hoạt và kịp thời. c- Các loại chi phí trong giá thành . * Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá và các khoản chi phí khác mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong kỳ. Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng biệt có những mặt khác nhau. Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ phát sinh chi phí, còn giá thành lại gắn với khối lượng sản phẩm công việc, lao vụ đã sản xuất hoàn thành. Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến sản phẩm hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không bao gồm chi phí sản xuất sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, nhưng lại bao gồm chi phí sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang. Ta có thể thấy mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua sơ đồ sau: Biểu1.1: Quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất sản phẩm dở dang đầu kỳ Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ Tổng giá thành sản phẩm đã hoàn thành Chi phí sản xuất sản phẩm dở dang cuối kỳ Qua sơ đồ trên ta thấy Tổng giá thành sản phẩm dịch vụ hoàn thành = Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Tóm lại, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết vì nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra cho sản xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là căn cứ, cơ sở để tính giá thành sản phẩm, công việc lao vụ đã hoàn thành, sự tiết kiệm hoặc lãng phí của doanh nghiệp về chi phí sản xuất có ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm thấp hoặc cao. Do vậy, quản lý giá thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất. * Các phương pháp phân loại chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm Việc phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa quan trọng đối với công tác phân tích và lập kế hoạch giá thành, so sánh những chỉ tiêu về giá thành trong các thời kỳ khác nhau, giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm. Ngoài ra việc phân loại chi phí còn có tác dụng thiết thực đối với việc phát hiện những năng lực tiềm tàng về hạ giá thành sản phẩm, cung cấp những thông tin chính xác, kịp thời để xây dựng chính sách giá cả hợp lý. Nhằm những mục đích cụ thể khác nhau, người ta phân loại chi phí theo nhiều phương pháp khác nhau. ă Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế và theo công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất : + Theo nội dung kinh tế của chi phí, chi phí sản xuất được phân thành 8 yếu tố chi phí sản xuất. Những yếu tố này được sử dụng khi lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động định mức. Phân loại theo nội dung kinh tế giữ được tính nguyên vẹn của từng yếu tố chi phí, mỗi yếu tố đều là chi phí ban đầu do doanh nghiệp chi ra và không phân tích được nữa. Mỗi yếu tố đều bao gồm mọi khoản chi có cùng nội dung và tác dụng kinh tế giống nhau không kể nó được chi ra ở đâu và quan hệ của nó với quá trình sản xuất như thế nào. + Căn cứ vào công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất người ta chia các chi phí thành những khoản mục nhất định. Các khoản mục này được dùng trong việc xác định giá thành đơn vị sản phẩm cũng như giá thành sản lượng hàng hoá. Ngoài ra, cách phân loại này còn cho thấy ảnh hưởng của từng khoản mục đến kết cấu và sự thay đổi của giá thành. Qua đó, nó cung cấp những thông tin cần thiết để xác định phương hướng và biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Những yếu tố chi phí sản xuất và những khoản mục chi phí để tính giá thành đối chiếu với nhau và được sắp xếp theo biểu sau: Biểu 1.2: Nội dung của yếu tố chi phí sản xuất và khoản mục tính giá thành sản phẩm Yếu tố chi phí sản xuất Khoản mục tính giá thành 1.Nguyên vật liệu chính mua ngoài 2.Vật liệu phụ mua ngoài 3.Nhiên liệu mua ngoài 4.Năng lượng mua ngoài 5.Tiền lương CNVC 6.BHXH CNVC 7.Khấu hao TSCĐ 8.Các chi phí khác bằng tiền 1.Nguyên vật liệu chính 2.Vật liệu phụ 3.Nhiên liệu dùng vào sản xuất 4.Năng lượng dùng vào sản xuất 5.Tiền lương của công nhân sản xuất 6.BHXH của công nhân sản xuất 7.Khấu hao TSCĐ dùng vào sản xuất 8.Chi phí phân xưởng 9.Chi phí quản lý doanh nghiệp 10.Thiệt hại về ngừng sản xuất và sản phẩm hỏng 11.Chi phí ngoài sản xuất ă Phân loại chi phí theo phương pháp phân bổ chi phí vào giá thành người ta chia ra: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp + Chi phí trực tiếp là những chi phí có quan hệ trực tiếp với quá trình sản xuất ra từng loại sản phẩm và được tính trực tiếp vào giá thành của từng đơn vị sản phẩm hay loại sản phẩm. Chi phí trực tiếp bao gồm: Tiền lương và BHXH của công nhân sản xuất Nguyên vật liệu chính, phụ dùng vào sản xuất Nhiên liệu, động lực dùng vào sản xuất Công cụ lao động nhỏ dùng vào sản xuất Chi phí trực tiếp khác bằng tiền + Chi phí gián tiếp là những chi phí có quan hệ đến hoạt động chung của phân xưởng, của doanh nghiệp và được tính vào giá thành một cách gián tiếp bằng phương pháp phân bổ. Kết cấu của chi phí gián tiếp cũng tương tự như chi phí trực tiếp, nhưng những khoản này được chi ra cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp hoặc các bộ phận khác cuả doanh nghiệp. Cách phân loại này không cứng nhắc, cố định mà tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng ngành công nghiệp. Phân loại theo cách này có tác dụng trong việc tính toán giá thành kế hoạch cũng như hạch toán giá thành thực tế của đơn vị sản phẩm và sản lượng hàng hoá. ă Phân loại chi phí căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí và tình hình tăng, giảm sản lượng hàng hoá. Người ta chia ra: chi phí biến đổi (biến phí) và chi phí cố định (định phí) + Chi phí biến đổi là những chi phí có thể thay đổi (tăng hay giảm) tỷ lệ thuận hay tỷ lệ nghịch với tình hình thay đổi của sản lượng sản phẩm làm ra + Chi phí cố định là những chi phí về nguyên tắc không thay đổi theo sản lượng sản phẩm trong giới hạn đầu tư. Đó là những khoản chi phí mà doanh nghiệp phải ứng chịu trong mỗi đơn vị thời gian cho các đầu vào cố định. Nói cách khác, chi phí cố định là những khoản chi phí tồn tại ngay cả khi không sản xuất sản phẩm, nó hoàn toàn không chịu sự tác động của bất kỳ sự biến đổi nào của việc thay đổi sản lượng sản phẩm trong một giới hạn quy mô nhất định. Ví dụ khấu hao TSCĐ, chi phí lãi vay ngân hàng (trung và dài hạn), chi phí bảo hiểm, tiền thuê đất đai, tiền lương của những người quản lý,… Thông thường, chi phí trực tiếp là chi phí biến đổi còn chi phí gián tiếp là chi phí cố định. Trong chi phí biến đổi, người ta còn chi tiết hoá thành chi phí biến đổi cùng tỷ lệ (là chi phí biến đổi cùng hướng và cùng mức độ với sự biến đổi của sản lượng sản phẩm làm ra) và biến đổi không cùng tỷ lệ (là những chi phí có thể tăng nhanh hơn kết quả sản xuất hoặc cũng có thể chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất). Nhờ cách phân loại này, người ta có thể đánh giá chính xác hơn tính hợp lý của chi phí sản xuất chi ra. Mặt khác, đó là cơ sở quan trọng để xác định sản lượng sản phẩm tối thiểu và xác định chính sách giá cả hợp lý, linh hoạt đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Ngoài việc phân loại chi phí theo các cách phân loại trên còn một số cách phân loại nữa chẳng hạn như căn cứ vào quá trình luân chuyển của chi phí … Bằng những tiêu thức phân loại chi phí khác nhau cho phép nhà quản trị với những mục tiêu cụ thể sẽ vận dụng từng phương pháp vào quá trình phân tích và quản lý chi phí nhằm đạt hiệu quả cao hơn. 1.1.2 Phân loại và phương pháp tính giá thành sản phẩm Phân loại giá thành sản phẩm Giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi tính toán khác nhau. ă Căn cứ vào số liệu để tính giá thành thì giá thành sản phẩm chia ra: giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế. Giá thành kế hoạch: được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế của năm trước và các định mức kinh tế –kỹ thuật của ngành, các chi phí được Nhà nước cho phép. Nó được lập ra trên cơ sở hao phí vật chất và giá cả kế hoạch kỳ kinh doanh. Giá thành định mức: mang đặc trưng của giá thành kế hoạch, nhưng được xác định không phải trên cơ sở mức khấu hao cho cả kỳ kinh doanh mà trên cơ sở mức hiện hành cho từng giai đoạn trong kỳ kinh doanh (tháng, quý, năm,..). Việc xây dựng giá thành này cho phép các nhà quản lý xác định kịp thời những chênh lệch so với định mức, trên cơ sở đó tìm ra biện pháp thích hợp để hạ giá thành sản phẩm. Giá thành thực tế: được xác định thường vào cuối kỳ kinh doanh. Nó cũng bao gồm toàn bộ chi phí gắn liền với sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhưng được lập ra trên cơ sở quy mô và giá cả thực tế của các chi phí đã phát sinh, kể cả chi phí do khuyết điểm chủ quan của doanh nghiệp gây ra. ă Theo phạm vi tính toán và phát sinh chi phí, ta có thể chia ra: giá thành phân xưởng, giá thành công xưởng và giá thành toàn bộ để quản lý. Giá thành phân xưởng: bao gồm tất cả những chi phí trực tiếp, chi phí quản lý phân xưởng và chi phí sử dụng máy móc thiết bị. Nói cách khác, nó bao gồm những chi phí của phân xưởng và tất cả những chi phí khác của phân xưởng nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm tại phân xưởng đó. Giá thành công xưởng: bao gồm giá thành phân xưởng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Có thể nói, giá thành công xưởng (giá thành sản xuất) bao gồm tất cả những chi phí để sản xuất sản phẩm trong phạm vi toàn doanh nghiệp. Giá thành toàn bộ: bao gồm giá thành công xưởng và chi phí tiêu thụ (chi phí ngoài sản xuất). Giá thành toàn bộ được tính theo công thức: Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ = Giá thành sản xuất sản phẩm + Chi phí QLDN + Chi phí tiêu thụ sản phẩm Giá thành phân xưởng, công xưởng hay toàn bộ đều được tính cho từng đơn vị sản phẩm, loại sản phẩm, loạt sản phẩm và toàn bộ sản lượng hàng hoá tiêu thụ. Phương pháp tính giá thành sản phẩm Phương pháp chung trong việc tính giá thành là phương pháp tính toán, xác định giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm và công việc đã hoàn thành theo các khoản mục chi phí. Tuy nhiên, trong thực tế, để tính giá thành tuỳ theo phương pháp hạch toán chi phí và đặc điểm quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp người ta có thể áp dụng các phương pháp sau: + Phương pháp tính trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn) Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như: các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác… Giá thành đơn vị sản phẩm theo phương pháp này được xác định bằng cách: Tổng giá thành sản phẩm = Tổng chi phí sản xuất thực tế phát sinh trong kỳ +/- Chênh lệch giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ so với cuối kỳ Tổng giá thành sản phẩm Khối lượng sản phẩm hoàn thành Giá thành đơn vị sản phẩm = + Phương pháp tổng cộng chi phí: áp dụng đối với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất được thực hiện ở nhiều bộ phận (phân xưởng) sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, chi phí sản xuất được tập hợp theo chi tiết hoặc bộ phận sản phẩm, giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của từng chi tiết, bộ phận sản phẩm hoặc chi phí sản xuất của các giai đoạn tham gia sản xuất sản phẩm. Giá thành thành phẩm=Z1+Z2+Z3+…+Zn Phương pháp tổng cộng chi phí được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp khai thác, nhuộm, dệt,... + Phương pháp hệ số Phương pháp hệ số được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên vật liệu và một lượng lao động nhưng đồng thời thu được nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không được tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm mà được tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này trước hết phải căn cứ vào hệ số quy đổi để quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, từ đó dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã được tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm. Giá thành đơn vị sản phẩm gốc = Tổng giá thành sản phẩm của các loại sản phẩm Tổng số sản phẩm gốc quy đổi Giá thành đơn vị sản phẩm từng loại = Giá thành đơn vị sản phẩm gốc * Hệ số quy đổi sản phẩm từng loại Trong đó Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm = Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ + Tổng chi phí phát sinh trong kỳ - Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ + Phương pháp tỷ lệ Được áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách sản phẩm khác nhau (như doanh nghiệp may mặc, giày da, dệt,..). Do đó, chi phí sản xuất được tập hợp theo nhóm sản phẩm cùng loại và giá thành của từng loại sản phẩm được xác định bằng phương pháp tỷ lệ như tỷ lệ với khấu hao, giá thành định mức Tổng giá thành thực tế từng loại sản phẩm Tỷ lệ chi phí = Tổng giá thành kế hoạch (giá thành định mức) của từng loại sản phẩm * Trong đó Tổng giá thành thực tế của tất cả các loại sản phẩm Tổng giá thành kế hoạch (giá thành định mức) của tất cả các loại sản phẩm Tỷ lệ chi phí = Giá thành thực tế đơn vị sản phẩm từng loại = Tổng giá thành thực tế của từng loại sản phẩm Số lượng sản phẩm từng loại + Phương pháp kết hợp: áp dụng trong doanh nghiệp có quy trình công nghệ và kết cấu sản phẩm phức tạp, đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp tính giá thành khác nhau như: các doanh nghiệp sản xuất hoá chất, dệt kim, … Trên thực tế, có thể kết hợp phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ. + Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ Được áp dụng đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính còn có thể thu được các sản phẩm phụ, để tính giá trị sản phẩm chính phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp khác nhau như: giá có thể sử dụng, giá ước tính… Tổng giá thành sản phẩm chính = Giá trị sản phẩm chính dở dang đầu kỳ + Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Giá trị sản phẩm phụ thu hồi - Giá trị sản phẩm chính dở dang cuối kỳ + Phương pháp tính giá thành kế hoạch theo khoản mục chi phí Khi tính giá thành kế hoạch theo khoản mục chi phí ta thực hiện các bước: - Xác định chi phí trực tiếp - Xác định chi phí gián tiếp Toàn bộ chi phí gián tiếp được phản ánh cụ thể qua biểu ở phụ lục. Sau khi tính toán được chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, có thể xác định được giá thành phân xưởng, giá thành công xưởng và giá thành toàn bộ. Việc tính giá thành có thể được tính cho từng đơn vị sản phẩm, loạt sản phẩm , loại sản phẩm hay toàn bộ sản lượng hàng hoá thực hiện. Có thể dùng sơ đồ sau đây để biểu hiện mối quan hệ giữa các cấp độ giá thành sản phẩm. Biểu 1.3: Các cấp độ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Chi phí trực tiếp Chi phí sử dụng máy móc thiết bị Chi phí quản lý phân xưởng Giá thành phân xưởng Chi phí quản lý doanh nghiệp Giá thành công xưởng Chi phí ngoài sản xuất Giá thành toàn bộ 1.2- Những nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm Trong hoạt động kinh doanh, một yêu cầu khách quan đặt ra cho các doanh nghiệp là phải quan tâm tìm biện pháp giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Để thực hiện được điều đó trước hết ta phải thấy được những nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm nhưng các doanh nghiệp cần nắm được nhân tố nào là chính, ảnh hưởng trực tiếp và quyết định. Các nhân tố đó là: Tiến bộ khoa học và công nghệ: Việc áp dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất là nhân tố cực kỳ quan trọng cho phép doanh nghiệp hạ thấp giá thành sản phẩm và thành công trong kinh doanh. Tiến bộ khoa học công nghệ đã làm thay đổi nhiều điều kiện cơ bản của sản xuất như tăng năng suất lao động nhờ sử dụng máy móc thiết bị hiện đại, giảm chi phí nguyên vật liệu nhờ sử dụng vật liệu thay thế. Chiến lược nghiên cứu và phát triển của công ty: Vai trò của nghiên cứu và phát triển trong việc giúp công ty đạt được hiệu quả cao là rất lớn. Thứ nhất, nghiên cứu và phát triển có thể nâng cao hiệu quả thông qua thiết kế những sản phẩm dễ chế tạo. Bằng cách cắt giảm số bộ phận tạo nên một sản phẩm, nghiên cứu và phát triển có thể giúp giảm mạnh thời gian lắp ráp, từ đó nâng cao năng suất lao động và hạ thấp đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên việc thiết kế chế tạo đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chức năng chế tạo và chức năng nghiên cứu phát triển của công ty. Điều này thực hiện được bằng cách thành lập các nhóm bao gồm cán bộ chế tạo và cán bộ nghiên cứu phát triển, do vậy họ có thể phối hợp giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả. Thứ hai, nghiên cứu và phát triển có thể giúp công ty đạt được hiệu quả cao hơn bằng cách đi đầu trong việc đổi mới quy trình chế tạo. Đổi mới quy trình là một sự đổi mới trong phương thức sản xuất, qua đó nâng cao hiệu quả của những quy trình này. Trình độ tổ chức lao động và sử dụng con người: Đây là một nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong sản xuất. Việc tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý loại trừ tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy. Có tác dụng to lớn thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ. Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất: tổ chức quản lý tốt và tổ chức tốt sản xuất kinh doanh là nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Tổ chức quản lý sản xuất đạt trình độ cao có thể giúp cho doanh nghiệp xác định mức tối ưu và phương pháp sản xuất tối ưu làm cho giá thành sản xuất sản phẩm giảm xuống. Việc bố trí hợp lý các khâu sản xuất có hạn chế sử dụng lãng phí nguyên vật liệu, hạ thấp tỷ lệ sản phẩm hỏng. Thêm vào đó là các yếu tố cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc hạ giá thành sản phẩm như: Phương pháp khấu hao: Hiện nay, các công ty khác nhau sản xuất sản phẩm khác nhau thực hiện các chiến lược kinh doanh khác nhau nên cũng thực hiện phương pháp khấu hao khác nhau. Từ đó, dẫn đến khấu hao trong giá thành sản phẩm cũng rất khác nhau. Mỗi công ty lựa chọn cho mình phương pháp khấu hao hợp lý sao cho thực hiện hiệu quả chiến lược kinh doanh của mình. Phương pháp khấu hao hợp lý sẽ giúp công ty hạ giá thành sản phẩm của mình Chất lượng sản phẩm: Sản phẩm có chất lượng tốt hơn sẽ mang lại cho công ty hai lợi thế. Danh tiếng về chất lượng sản phẩm giúp cho công ty tính giá cao bao gồm cả lợi nhuận siêu ngạch và loại trừ được các lỗi trong quá trình chế tạo làm tăng hiệu quả và giảm chi phí. Công cụ mà công ty có thể sử dụng để đạt chất lượng cao hơn đó là thiết kế lại sản phẩm, tìm ra các chất mới và quản lý chất lượng đồng bộ. Theo triết lý TQM đã được phát triển bởi các nhà tư vấn Hoa Kỳ thì: + Chất lượng được cải thiện nghĩa là chi phí giảm nhờ công việc sửa chữa sản phẩm hỏng ít sai sót hơn, ít đình trệ hơn và sử dụng thời gian cũng như vật tư tốt hơn. + Kết quả là năng suất tăng. + Chất lượng tốt hơn dẫn đến thị phần lớn hơn và cho phép công ty tăng giá bán. + Tăng khả năng sinh lãi và cho phép công ty tiếp tục kinh doanh. + Công ty sẽ tạo thêm nhiều việc làm. Như vậy, tăng chất lượng sản phẩm cũng đồng nghĩa với việc hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Quản lý nguyên vật liệu: Đóng góp của quản lý nguyên vật liệu đối với việc nâng cao hiệu quả cho công ty có tầm quan trọng rất lớn. Quản lý nguyên vật liệu bao gồm các hoạt động cần thiết để đưa nguyên vật liệu đến nơi sản xuất, thông qua quá trình sản xuất, ra khỏi hệ thống phân phối va đến tay người tiêu dùng. Tiềm năng để giảm chi phí thông qua quản lý nguyên vật liệu một cách hiệu quả là rất lớn. Một doanh nghiệp chế tạo có quy mô trung bình, chi phí nguyên vật liệu và vận chuyển chiếm tới 50 đến 70% doanh thu. Thậm chí, một sự giảm nhỏ các chi phí này cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với lợi nhuận của công ty. Theo ước tính, nếu công ty có doanh thu 1 triệu đô la, tỷ lệ lợi tức đầu tư là 5%, và chi phí nguyên vật liệu chiếm 50% doanh thu bán hàng, để tăng lợi nhuận thêm 15.000 đô la đòi hỏi phải tăng doanh thu bán hàng 30% hoặc giảm 3% chi phí nguyên vật liệu. Trên một thị trường đã bão hoà thì việc giảm 3% chi phí nguyên vật liệu dễ dàng hơn nhiều so với tăng 30% doanh thu bán hàng. Công ty có thể tiết kiệm chi phí thông qua quản lý nguyên vật liệu một cách hiệu quả hơn bằng cách tổ chức lại bộ phận quản lý nguyên vật liệu. Để nâng cao hiệu quả quản lý nguyên vật liệu đòi hỏi công ty cần áp dụng hệ thống cung ứng tức thì JIT (Just-In-Time). Triết lý cơ bản của việc sử dụng hệ thống JIT là tiết kiệm chi phí giữ hàng tồn kho thông qua việc chuyển nguyên vật liệu đến công ty đúng lúc cần đưa vào quá trình sản xuất. Khoản tiết kiệm chi phí chính là nhờ tăng số vòng quay tồn kho, từ đó giảm chi phí tồn kho. Ví dụ, công ty Ford chuyển sang hệ thống JIT đã đem lại cho công ty một khoản tiết kiệm là 3 tỷ đô la vào đầu thập niên 1980. Hiện nay số vòng quay tồn kho là 9 lần/năm so với 6 lần/năm của hệ thống cũ, trong khi chi phí tồn kho đã giảm đi một phần ba. Hạn chế của hệ thống JIT là công ty không tồn kho dự phòng. Mặc dù khoản tồn kho dự phòng này tốn nhiều chi phí nhưng chúng giúp cho công ty vượt qua được những khan hiếm vật tư do sự gián đoạn của các nhà cung ứng. Tồn kho dự phòng cũng giúp công ty đáp ứng nhanh chóng đối với sự tăng lên đột xuất về nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, có một số giải pháp cho những mặt hạn chế này. Chẳng hạn, để giảm rủi ro do sự phụ thuộc vào một nhà cung cấp một loại nguyên vật liệu quan trọng, công ty có thể liên kết với nhiều nhà cung cấp hơn. Trình độ lao động: Nhân viên công ty là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất. Công ty sử dụng lao động có kỹ năng càng cao thì càng hiệu quả. Nhân viên có kỹ năng càng cao sẽ thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh hơn, chính xác hơn và làm quen nhanh hơn với các nhiệm vụ phức tạp cùng với phương pháp sản xuất hiện đại so với nhân viên có kỹ năng thấp. Trình độ lao động là yếu tố quyết định năng suất lao động. Năng suất lao động là một trong những nhân tố quyết định tính hiệu quả và cơ cấu chi phí của doanh nghiệp. Năng suất lao động càng cao thì chi phí của một đơn vị sản phẩm càng thấp. Thách thức đối với quản lý nguồn nhân lực là đưa ra phương thức nhằm nâng cao năng suất lao động. Để có được nguồn nhân lực mỗi công ty có thể dựa trên ba lựa chọn chính: đào tạo và phát triển nhân viên, tổ chức nhân viên._. thành các nhóm tự quản và hình thức trả lương cho nhân viên. Mỗi sự lựa chọn đều thể hiện một động lực khích lệ nhân viên đóng góp khả năng của mình để đưa công ty đến sự thành công. Ngoài ra, các công ty còn áp dụng các chính sách khác nhằm nâng cao năng suất lao động của nhân viên như: khuyến khích nhân viên, trao quyền và đồng thời trao trách nhiệm cho nhân viên, khích lệ nhân viên sáng tạo, đóng góp ý tưởng, tự do phát biểu ý kiến để xây dựng tập thể, tạo ra không khí và nơi làm việc thoải mái hào hứng để gây cho nhân viên một cảm tình cũng như sự gắn bó với nơi làm việc,… Tất cả các tác động trên ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề giảm chi phí sản xuất, góp phần tích cực đến hạ giá thành sản phẩm 1.3 Tác động của giá thành sản phẩm đến sức cạnh tranh của sản phẩm và yêu cầu hạ giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là nhân tố tác động mạnh mẽ, tiên quyết đến sức cạnh tranh của sản phẩm. Chính vì vậy các doanh nghiệp luôn luôn phải đặt ra yêu cầu hạ giá thành sản phẩm. Những tác động của giá thành đến sức cạnh tranh của sản phẩm được thể hiện ở những mặt sau: + Tác động của giá thành đến sức cạnh tranh của sản phẩm Trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh vừa là động lực cho sự phát triển, vừa là thách thức gay gắt đối với các doanh nghiệp. Quá trình cạnh tranh luôn gắn liền và quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình cọ xát này, mỗi doanh nghiệp muốn giành thắng lợi phải tự trang bị cho mình hai thứ vũ khí cơ bản đó là chất lượng cao và giá bán hạ. Cùng một mức chất lượng, người tiêu dùng luôn có xu hướng chọn sản phẩm có giá bán hạ hơn. Đặc biệt khi nền kinh tế còn chưa được phát triển, mức sống, thu nhập của người dân còn thấp thì chỉ tiêu giá cả có ý nghĩa quan trọng tạo nên sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Cùng một loại sản phẩm nhưng với điều kiện kỹ thuật, công nghệ, trình độ tổ chức quản lý sản xuất, cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ chuyên môn, tay nghề của người lao động mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ tạo ra sản phẩm có giá thành khác nhau, đó là giá thành cá biệt của mỗi doanh nghiệp. Nó là cơ sở tạo nên cho sản phẩm của doanh nghiệp này có sức cạnh tranh khác với doanh nghiệp kia, vì hạ giá thành mới có điều kiện giảm giá bán, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, tìm mọi biện pháp hạ giá thành sản phẩm luôn là yêu cầu bức thiết, là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp ở nước ta. Trong cơ chế thị trường, hạ giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp, điều đó thể hiện ở một số điểm sau: * Hạ giá thành sản phẩm là một trong những nhân tố tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm. Hạ giá thành sẽ tạo lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, có thể hạ giá bán để tiêu thụ nhiều hơn, thu hồi vốn nhanh hơn. * Hạ giá thành sản phẩm là nhân tố quan trọng dể doanh nghiệp tăng lợi nhuận.Trong cơ chế thị trường có điều tiết, giá cả sản phẩm được hình thành trên thị trường, nếu giá thành sản phẩm của doanh nghiệp càng thấp so với giá bán trên thị trường thì doanh nghiệp sẽ thu hồi được lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm càng cao. Mặt khác, khi giá thành thấp, doanh nghiệp có lợi thế là có thể hạ giá bán để tiêu thụ khối lượng hàng nhiều hơn, thu hồi lợi nhuận lớn hơn. Từ đó doanh nghiệp sẽ có tiềm năng trong tái sản xuất, mở rộng để tăng quy mô sản xuất, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên. Hạ giá thành sản phẩm là điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện cạnh tranh về giá. Khi giá thành sản phẩm của doanh nghiệp có lợi thế hơn các doanh nghiệp khác thì khi có những biến đổi trong môi trường kinh tế như lạm phát, tăng trưởng, suy thoái, lãi suất, thất nghiệp,…doanh nghiệp sẽ ứng phó dễ dàng hơn. Hay thái độ (phản ứng) của chính phủ qua cách thức điều tiết giá thông qua các luật lệ về giá. Mỗi doanh nghiệp khi nắm chắc giá thành sản phẩm thay đổi như thế nào khi gia tăng khối lượng sản phẩm thì sẽ có cơ sở trực tiếp để tính giá bán, vừa là căn cứ để có thể lựa chọn mức giá cạnh tranh, chiến lược cạnh tranh hiệu quả. + Vấn đề hạ giá thành sản phẩm Các doanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh phải có những vị trí nhất định, chiếm lĩnh những thị trường nhất định. Đây là điều kiện duy nhất duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp đó trong thị trường. Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn bị các đối thủ khác bao vây. Vì vậy, để tồn tại trong thị trường doanh nghiệp luôn phải vận động, biến đổi với vận tốc ít nhất là ngang bằng với đối thủ cạnh tranh. Trên thực tế ta thấy rõ trong thập kỷ vừa qua, thế giới kinh doanh sống trong môi trường mà sự xáo động của nó không ngừng làm cho các nhà kinh tế phải ngạc nhiên, mọi dự đoán đều không vượt quá 5 năm. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, các quốc gia tăng nhanh. Hầu hết các thị trường đều được quốc tế hoá. Chỉ có những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh mới tồn tại trong thị trường này. Vì vậy, trong môi trường cạnh tranh doanh nghiệp phải đưa ra những biện pháp nhằm chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Chỉ như vậy doanh nghiệp mới có chỗ đứng trên thị trường . Doanh nghiệp phải tạo ra và sử dụng cho được những lợi thế trong cạnh tranh. Mỗi doanh nghiệp tuỳ vào đặc điểm của mình và môi trường mà tạo lợi thế cạnh tranh bên trong hay bên ngoài. Lợi thế cạnh tranh bên trong là dựa trên tính ưu việt của doanh nghiệp trong việc làm chủ chi phí sản xuất. Nó tạo nên giá trị cho người sản xuất bằng cách tạo ra cho doanh nghiệp một giá thành thấp hơn so với người cạnh tranh chủ yếu. Cốt lõi của cạnh tranh hiện nay được quan niệm là tạo ưu thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Một doanh nghiệp có thể tạo lợi thế cạnh tranh theo nhiều cách khác nhau: bằng cách chọn tuyến thị trường khác với đối thủ cạnh tranh, bằng cách đầu tư giảm giá thành trong cùng một tuyến thị trường, bằng cách kiểm soát hệ thống phân phối. Muốn tạo lợi thế cạnh tranh doanh nghiệp cần phải lựa chọn vũ khí cạnh tranh phù hợp. Tìm ra phương pháp để sử dụng tối đa hiệu quả của các khí giới đó. Để lựa chọn vũ khí doanh nghiệp cần phải suy tính cân nhắc đến tài nguyên của doanh nghiệp mình cũng như sức mạnh của đối phương, những điều kiện của thị trường và nhu cầu của khách hàng. Có ba loại vũ khí chủ yếu: sản phẩm, giá cả và dịch vụ. Trong bất kỳ tuyến sản phẩm nào thì vũ khí cạnh tranh thích hợp cũng thay đổi theo thời gian. Trong hầu hết các ngành công nghiệp cạnh tranh bằng giá cả được coi là biện pháp nghèo nàn nhất bởi nó ảnh hưởng rất mạnh đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, loại vũ khí này có thể rất thành công ở các thời điểm khác nhau, áp lực cạnh tranh đôi khi ảnh hưởng đến khí cụ cạnh tranh. Các doanh nghiệp khi mới thâm nhập thị trường có chu kỳ khác hẳn nên họ chọn vũ khí khởi đầu là giá cả, sau đó là sản phẩm rồi mới đến dịch vụ. Giá thành sản phẩm là yếu tố quyết định trực tiếp và tiên quyết đến giá của sản phẩm. Mà giá là một trong những công cụ quan trọng trong cạnh tranh thường được sử dụng trong giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi doanh nghiệp mới bước vào thị trường mới… Như để thăm dò thị trường các doanh nghiệp đưa vào thị trường mức giá thấp và sử dụng mức giá đó để phá kênh phân phối của đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh bằng giá cả thường được thể hiện qua các biện pháp sau: Kinh doanh với chi phí thấp Bán với mức giá hạ và mức giá thấp Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như chênh lệch về giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Vì lẽ đó sản phẩm của doanh nghiệp sẽ ngày càng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng và cũng có nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp có vị trí ngày càng cao. Để đạt được mức giá thấp doanh nghiệp cần phải xem xét khả năng hạ giá thành sản phẩm của đơn vị mình. Có càng nhiều khả năng hạ giá thành sẽ có nhiều lợi thế so với đối thủ cạnh tranh. Khả năng hạ giá thành phụ thuộc vào các yếu tố sau: Chi phí về kinh tế thấp Khả năng bán hàng tốt, do đó có khối lượng bán lớn Khả năng về tài chính tốt Mỗi doanh nghiệp khi kinh doanh đều phải dựa vào đặc điểm của người tiêu dùng. Khi mức sống còn thấp thì người tiêu dùng thường tìm mua những hàng hóa rẻ, do đó nhiều doanh nghiệp phải chấp nhận lời ít bán giá thấp để bán được nhiều. Ngược lại khi mức sống cao hơn người tiêu dùng sẽ quan tâm đến những hàng hoá có chất lượng tốt, chấp nhận mức giá cao. Khi doanh nghiệp đã chọn được vũ khí cho mình rồi thì phải chuẩn bị sao cho vũ khí đó phát huy hiệu quả cao nhất. Mục đích của doanh nghiệp khi theo đuổi chiến lược dẫn đầu về chi phí hoặc chiến lược chi phí thấp là hoạt động tốt hơn (có lợi thế hơn) các đối thủ cạnh tranh bằng việc làm mọi thứ để có thể sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ ở chi phí thấp hơn các đối thủ. Chiến lược này có hai lợi thế cơ bản. Vì chi phí thấp hơn nên có thể đặt giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh của mình mà vẫn thu được lợi nhuận bằng của các đối thủ. Nếu các công ty trong ngành đạt các giá trị tương tự cho các sản phẩm của mình thì khi đó có thể thu được lợi nhuận cao hơn vì chi phí thấp hơn. Nếu sự cạnh tranh trong ngành tăng và các công ty bắt đầu cạnh tranh bằng giá thì lúc đó sẽ có khả năng đứng vững trong cạnh tranh tốt hơn các công ty khác vì chi phí thấp hơn của mình. Muốn vậy có thể hạ giá thành sản phẩm từ quy mô sản xuất lớn, độc quyền công nghệ, ưu đãi về nguồn nguyên liệu, cấu thành sản phẩm, mức độ dịch vụ, quy trình kỹ thuật,… Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh với mức độ chóng mặt như hiện nay các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều đối thủ. Các đối thủ này đã được M.Porter cụ thể hóa bằng mô hình sau: Biểu1.4: Mô hình 5 lực lượng của M. Porter Môi trường chính phủ, luật pháp, chính trị Môi trường văn hoá xã hội Cạnh tranh tiềm tàng Doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh áp lực của nhà cung ứng áp lực của người mua Sản phẩm thay thế Môi trường kinh tế Môi trường công nghệ Môi trường tự nhiên Theo mô hình 5 lực lượng của Porter thì doanh nghiệp phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh, những người mua có sức mạnh, các sản phẩm thay thế và những người gia nhập mới. Khi dẫn đầu về chi phí thì sẽ được bảo vệ khỏi các đối thủ cạnh tranh trong ngành bằng lợi thế chi phí của mình. Chi phí thấp của nó cũng có nghĩa là nó sẽ ít bị ảnh hưởng hơn các đối thủ cạnh tranh của nó từ việc tăng giá các đầu vào nếu có các người cung ứng có sức mạnh và ít ảnh hưởng bởi sự giảm giá mà nó có thể đặt cho sản phẩm của mình nếu có những người mua có sức mạnh. Hơn nữa, vì sự dẫn đầu về chi phí thường đòi hỏi phần lớn người dẫn đầu về chi phí mua số lượng các yếu tố đầu vào tương đối lớn, làm tăng sức mạnh mặc cả trực diện với những người cung. Nếu các sản phẩm thay thế bắt đầu vào thị trường thì người dẫn đầu về chi phí có thể giảm giá của mình để cạnh tranh với chúng và duy trì được thị phần của mình. Cuối cùng, lợi thế chi phí của người dẫn đầu chi phí là tạo ra hàng rào gia nhập, vì các công ty khác không thể gia nhập ngành và làm phù hợp chi phí hoặc giá của người dẫn đầu. Người dẫn đầu về chi phí vì thế tương đối an toàn chừng nào nó có thể duy trì lợi thế chi phí của mình-và giá là chìa khoá cho con số người mua đáng kể. Rủi ro là chỉ suy nghĩ về giảm chi phí có thể không theo dõi được những thay đổi trong thị hiếu của người tiêu dùng. Do vậy, cần lưu ý là việc theo đuổi chiến lược chi phí thấp không loại trừ khả năng chuyên môn hoá. Vấn đề quan trọng là sản phẩm phải được khách hàng chấp nhận khi so sánh với sản phẩm khác. Vì vậy, chi phí thấp chỉ có ưu thế cạnh tranh nếu công ty đảm bảo một mức độ khác biệt hoá sản phẩm nhất định được người tiêu dùng nhận biết và chấp nhận. phần 2 Giá thành sản phẩm máy khoan k525a của công ty Cơ khí Hà Nội và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh . 2.1 Đặc điểm của công ty Cơ khí Hà Nội 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty Cơ khí Hà Nội là một doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Công nghiệp nặng (nay là Bộ Công nghiệp) Địa chỉ công ty: 24 Nguyễn Trãi - quận Thanh xuân - Hà Nội Fax: 8448583268 Điện thoại: 8448584416 - 8584354-8584475 Tài khoản tiền Việt Nam: 710A-00006, Ngân hàng Công thương Đống Đa - Hà Nội Tài khoản ngoại tệ: 362.111.370.222 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam . Trong những năm đầu giải phóng miền Bắc, trong sự phát triển của xã hội và do nhu cầu xây dựng của đất nước, ngày 26/11/1955 Đảng và Chính phủ ta quyết định cho xây dựng một nhà máy cơ khí hiện đại làm nòng cốt cho việc chế tạo máy công cụ sau này. Ngày12/4/1958 đã trở thành ngày khai sinh của công ty Cơ khí Hà Nội hiện nay với tên khai sinh là Nhà máy Cơ khí Hà Nội trung quy mô. Nhà máy ra đời với sự hợp tác giữa Việt Nam, các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũ. Đây là đứa con đầu tiên của ngành chế tạo máy Việt Nam và là nhà máy duy nhất chế tạo máy công cụ. Có thể tóm tắt quá trình phát triển của công ty Cơ khí Hà Nội qua những thời kỳ như sau: Từ khi thành lập cho đến năm 1986, trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, nhà máy đã lớn mạnh vượt bậc cả về đội ngũ cán bộ công nhân viên lẫn trình độ khoa học kỹ thuật. Việc sản xuất tương đối ổn định theo chỉ tiêu Nhà nước giao, một năm sản xuất khoảng 600 máy gọt kim loại, đạt 60% công suất thiết kế, có năm sản xuất 1000 máy với tổng số công nhân là 2700 người. Năm 1960 nhà máy đổi tên thành Nhà máy Cơ khí Hà Nội. Sau giải phóng miền Nam năm 1975, nhà máy liên tục thực hiện các kế hoạch 5 năm như kế hoạch 1975-1980, 1980-1985 nên hoạt động sản xuất rất sôi động. Sản xuất của nhà máy được sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản, từng mặt hàng, từng chỉ tiêu kinh doanh được Nhà nước giao vật tư và bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Số lượng cán bộ công nhân viên lúc này lên tới 2800 người và có hơn 300 kỹ sư, nhà máy được phong tặng danh hiệu anh hùng. Đến năm 1980, nhà máy đổi tên thành nhà máy Công cụ số 1. Từ năm 1986 đến nay, theo yêu cầu đổi mới của đất nước, xoá bỏ bao cấp bước sang kinh tế thị trường, tự hạch toán kinh doanh độc lập, nhà máy đã từng bước chuyển đổi cơ chế sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm để tồn tại. Nhưng do đổi mới chậm, thị trường tiêu thụ sản phẩm giảm, cùng với các ngành cơ khí chế tạo nói chung, nhà máy đang đứng trước nhiều khó khăn, sản phẩm máy công cụ chất lượng kém, giá cao, khó chuyển đổi cơ cấu. Cụ thể từ năm 1980 đến 1990, mỗi năm nhà máy tiêu thụ khoảng 100 máy công cụ với giá rẻ, Nhà nước phải bù lỗ, không phát huy được, năng suất lao động thấp (khoảng 30%), lao động phải nghỉ do không có việc làm. Đối mặt với sự khắc nghiệt của kinh tế thị trường, công ty từng bước sắp xếp lại lao động, tổ chức lại sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, duy trì đội ngũ lao động có kỹ thuật cao, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Từ năm 1993 trở lại đây, nhà máy đã dần đi vào ổn định và phát triển. Đến nay, ngoài việc cung cấp các sản phẩm là máy công cụ nhà máy còn sản xuất các thiết bị phụ tùng công nghiệp như thiết bị xi măng lò đứng, thiết bị chế biến đường,… Năm 1995 nhà máy đổi tên thành công ty Cơ khí Hà Nội, tên giao dịch quốc tế là HAMECO (Hanoi Mechanical Company). Để không ngừng củng cố sản xuất và phát triển, tăng sức cạnh tranh trên thị trường đóng góp vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, công ty luôn phấn đấu hoàn thành kế hoạch đặt ra. 2.1.2 Đặc điểm tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của công ty Cơ khí Hà Nội Đặc điểm tổ chức quản lý Do quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu song song, tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt với khối lượng vừa theo đơn đặt hàng và theo lệnh sản xuất. Vì vậy, bộ máy sản xuất của công ty được tổ chức như sau: Công ty Cơ khí Hà Nội thực hiện chế độ quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng, trên cơ sở thực hiện quyền làm chủ của người lao động. Dưới ban giám đốc có các phòng chức năng là bộ phận tham mưu giúp việc cho giám đốc trong quản lý, điều hành sản xuất. Quan hệ giữa các phòng ban, giữa các giám đốc phân xưởng với giám đốc, phó giám đốc là quan hệ chỉ huy và phục tùng mệnh lệnh (Biểu 2.1). Cụ thể, đứng đầu bộ máy quản lý của công ty là giám đốc. Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ty, chịu trách nhiệm trước cấp trên, trực tiếp quản lý hoạt động của công ty và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của công ty. Giúp việc cho giám đốc gồm: + Phó giám đốc phụ trách sản xuất + Phó giám đốc kỹ thuật + Phó giám đốc kiêm giám đốc xưởng máy công cụ + Phó giám đốc KHKDTM và quan hệ quốc tế + Phó giám đốc nội chính + Trợ lý giám đốc quản lý sản xuất Ngoài việc uỷ quyền trách nhiệm cho các phó giám đốc, giám đốc còn trực tiếp chỉ huy thông qua các trưởng phòng hoặc các giám đốc phân xưởng. Các phòng ban chức năng được đặt dưới sự chỉ đạo và giám sát trực tiếp của giám đốc và các phó giám đốc gồm: + Phòng Kế toán- Thống kê- Tài chính + Phòng vật tư + Phòng kỹ thuật + Phòng điều độ sản xuất + Phòng cơ điện + Phòng KCS + Phòng tổ chức + Tổng kho + Ban R&D + Và một số phòng ban khác như: Phòng đời sống, phòng thiết kế, phòng bảo vệ, phòng y tế, phòng giao dịch thương mại,… Biểu 2.1: Sơ đồ tổ chức HAMECO Giám đốc Phó giám đốc thường trực Phó giám đốc phụ trách MCC Phó giám đốc phụ trách sx Phó giám đốc kỹ thuật Phó giám đốc KHKDTM&QHQT Phó giám đốc nội chính Trợ lý giám đốc Đại diện LĐ chất lượng VPCT Phòng KTTKTC VP GDTM TTXD&BDHTCSCN P.Bảo vệ P.QTĐS P.Y tế P.VHXH Xưởng MCC P.TCNS Ban dự án Tr.THCNCTM TT ĐHSX XNSX&KDVTCTM XNLĐĐT&BDTBCN TT TĐH Xưởng bánh răng X.Cơ khí lớn X.GCAL-NL Xưởng đúc X.Kết cấu thép P.Kỹ thuật P.QLCLSP&MT Thư viện Tổ chức của toàn công ty (đường đậm nét) Hệ thống bảo đảm chất lượng theo ISO 9002 (đường không liền nét) b- Đặc điểm tổ chức sản xuất của công ty Để tiến hành tổ chức sản xuất, công ty thực hiện tổ chức nhiều bộ phận sản xuất, mỗi bộ phận thực hiện một chức năng riêng, bao gồm 11 xưởng cụ thể như sau: * Xưởng công cụ: là xưởng sản xuất chính, chuyên gia công và sản xuất mặt hàng máy công cụ, tức là sản xuất ra tất cả các chi tiết để lắp ráp hoàn chỉnh máy công cụ như máy phay, máy tiện, máy bào, máy khoan,… Xưởng máy công cụ bao gồm các bộ phận sau: + Bộ phận cơ khí 4A: có nhiệm vụ gia công các mặt hàng cơ khí và các chi tiết của máy công cụ. + Bộ phận lắp ráp: làm nhiệm vụ lắp ráp hoàn chỉnh máy công cụ và nhập kho máy. + Bộ phận dụng cụ: chuyên gia công các loại chi tiết có độ gá, dụng cụ gia công cơ khí. * Xưởng cơ khí lớn: Đây là phân xưởng chuyên gia công các phụ tùng cơ khí, các chi tiết máy công nghiệp. * Xưởng đúc: làm nhiệm vụ tạo phôi thép, gang đúc và đúc các máy công cụ, phụ tùng cơ khí phục vụ cho phân xưởng máy công cụ, xưởng rèn, xưởng cơ khí. * Xưởng cơ điện: làm nhiệm vụ sửa chữa các loại thiết bị, ngoài ra còn gia công các chi tiết phục vụ cho việc đại tu. * Xưởng thuỷ lực: làm nhiệm vụ chuyên gia công mới và sửa chữa các thiết bị thuỷ lực của máy công cụ và máy công nghiệp. * Xưởng kết cấu: làm nhiệm vụ chuyên gia công hàng thuộc về mía đường. * Xưởng cán thép: làm nhiệm vụ cán các loại thép xây dựng. * Xưởng mộc: tạo mẫu đúc cho các phân xưởng đúc gang, thép. * Trung tâm lắp đặt thiết bị: làm nhiệm vụ lắp ráp các bộ phận, chi tiết thành máy công nghiệp hoàn chỉnh nhập kho. * Xưởng gia công áp lực và nhiệt luyện (AL&NL): làm nhiệm vụ gia công các chi tiết phục vụ cho phân xưởng cơ khí như máy tiện, vỏ bao che các thiết bị, nhiệt luyện các chi tiết hoặc gia công các hàng phi tiêu chuẩn. * Xưởng bánh răng: chuyên cung cấp bánh răng, trục răng, mâm cặp cho các phân xưởng. Các phân xưởng trên chịu sự chỉ đạo trực tiếp của phó giám đốc kỹ thuật sản xuất, riêng xưởng máy công cụ do phó giám đốc phụ trách máy công cụ đảm nhiệm. c- Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty Hiện nay, công ty tạm thời chia sản phẩm thành 2 luồng: Đối với sản phẩm trong kế hoạch của công ty, đó là các loại máy công cụ, được phòng kế hoạch kinh doanh dự kiến hàng năm, sản xuất những loại máy nào, cần những trang thiết bị nào, phụ tùng nào đi kèm,… Đối với các đơn đặt hàng, sau khi ký hợp đồng các sản phẩm với khách hàng, bộ phận quản lý hợp đồng chuyển toàn bộ các bản vẽ của khách hàng cho phòng kỹ thuật xử lý. Nếu đòi hỏi phải thiết kế kỹ thuật phòng sẽ cho thiết kế theo yêu cầu của khách. Căn cứ vào bản vẽ phòng kỹ thuật tính toán toàn bộ kích thước, trọng lượng, chủng loại và quy cách vật tư để lập dự trù cho từng loại hợp đồng, từng loại sản phẩm. Đồng thời, phòng kỹ thuật cũng có hướng dẫn công nghệ từ tạo phôi đến gia công chi tiết, nhiệt luyện, lắp ráp, tính toán và định mức cho từng công việc. Sau đó, phòng điều độ sản xuất phát lệnh sản xuất cho các phân xưởng tiến hành tạo phôi và gia công. Phôi đúc do phân xưởng đúc thực hiện, phôi rèn do phân xưởng rèn chế tạo, gia công cơ khí do phòng điều độ sản xuất phân công cho các phân xưởng thực hiện. Phòng điều độ sản xuất cử điều độ viên theo dõi và đôn đốc, giải quyết vướng mắc trong quá trình sản xuất nhằm giải quyết hợp đồng nhanh gọn, đúng tiến độ giao hàng. Sản phẩm của công ty cơ khí có nhiều loại, mỗi loại có quy trình công nghệ sản xuất riêng. Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp này em chỉ xin trình bày về quy trình sản xuất máy công cụ đó chính là mặt hàng truyền thống của công ty. Là sản phẩm của ngành cơ khí nói chung, sản phẩm máy công cụ của công ty có kỹ thuật phức tạp, được tạo thành do lắp ráp cơ học các chi tiết, các bộ phận có yêu cầu kỹ thuật cao. Mỗi chi tiết cấu thành máy công cụ được chế biến gia công theo một trình tự nhất định. Tuy các chi tiết có trình tự gia công cụ thể song có thể khái quát quy trình sản xuất máy công cụ theo trình tự sau: Bước 1: Xưởng đúc nhận nguyên vật liệu từ tổng kho tiến hành đúc ra phôi sản phẩm có thể là gang hoặc thép theo mác thép mà phòng kỹ thuật đã hướng dẫn. Phôi sản phẩm này phục vụ cho xưởng áp lực và nhiệt luyện hoặc phục vụ cho phân xưởng cơ khí. Bước 2: Xưởng máy công cụ tiếp nhận phôi sản phẩm gang, phôi sản phẩm thép từ xưởng đúc, phôi rèn từ phân xưởng rèn và thép cây từ tổng kho tiến hành gia công các chi tiết máy công cụ. Tuỳ theo yêu cầu của quy trình công nghệ cũng như độ phức tạp của các chi tiết mà có thể được chế tạo bằng 1 hoặc một số phương pháp công nghệ phức tạp như tiện, phay, … Các bước công nghệ trên đều được KCS kiểm tra chặt chẽ cho đến khi hoàn thiện nhập kho. Bước 3: Bộ phận lắp ráp căn cứ vào phân công sản xuất và nhận chi tiết đã gia công hoàn chỉnh từ kho bán thành phẩm, nhận vật tư ngoài từ tổng kho theo dự trù định mức, tiến hành lắp ráp hoàn chỉnh, hoàn thiện chạy thử không tải, có tải và các thao tác kỹ thuật khác. Sau đó làm phiếu nhập kho. Quy trình công nghệ sản xuất máy công cụ có thể khái quát qua sơ đồ sau: Biểu 2.2: Quy trình công nghệ sản xuất máy công cụ Phôi mẫu Các khâu đúc Gia công áp lực Gia công chi tiết Nhập kho bán thành phẩm Lắp ráp KCS Nhập kho (tiêu thụ) 2.2 Tình hình giá thành và hạ giá thành sản phẩm máy khoan K525A của công ty Cơ khí Hà Nội 2.2.1 Các biện pháp hạ giá thành sản phẩm đã được thực hiện ở công ty Cơ khí Hà Nội Trong những năm qua, nhất là từ khi nước ta chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, công ty Cơ khí Hà Nội luôn luôn phải thay đổi để thích ứng và đứng vững trong thị trường. Công ty đã nắm bắt nhanh nhạy và kịp thời yêu cầu chuyển đổi. Trong cơ chế thị trường thì công ty sẽ phải tự lo từ đầu vào đến đầu ra và đặc biệt là không còn việc sản xuất theo chỉ định và Nhà nước bù lỗ. Để vượt qua được những khó khăn đó công ty đã ra sức lột bỏ những thói quen cũ, những tư tưởng cũ, nắm bắt nhanh yêu cầu của thị trường để tồn tại và phát triển. Toàn công ty đã nhận thức rõ rằng chỉ có thể tồn tại bằng sự tín nhiệm và những lá phiếu đồng tiền cho sản phẩm của công ty. Muốn vậy thì phải có lợi thế trong cạnh tranh và điều đó chỉ có thể đạt được bằng chất lượng cao và giá thành hạ. Công ty đã thực hiện đồng bộ nhiều phương hướng và biện pháp. Đó là các biện pháp có liên quan đến việc giảm hoặc tăng từng loại chi phí và ảnh hưởng của nó đến giá thành sản phẩm. Cụ thể là: Giảm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng Để tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng công ty Cơ khí Hà Nội đã tiến hành cải tiến kết cấu sản phẩm máy công cụ bằng cách phối hợp các sản phẩm cùng chủng loại tạo thành sản phẩm mới. Như vậy, công ty vừa tiết kiệm được nguyên vật liệu đồng thời sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Cải tiến phương pháp, công nghệ sản xuất chế tạo sản phẩm, sử dụng tổng hợp nguyên liệu có sẵn trên thị trường sẽ giảm khâu chế biến và giảm chi phí cho sản phẩm. Thêm vào đó, công ty Cơ khí Hà Nội còn tận dụng triệt để phế liệu của phân xưởng khác cho phân xưởng Đúc và phân xưởng máy công cụ. Sử dụng vật liệu thay thế cho sản phẩm như thay một số chi tiết máy không cần sự mài mòn cao bằng chi tiết nhựa vừa giảm trọng lượng của máy vừa hạ giá thành phù hợp với yêu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Đặc biệt công ty đã đưa hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002 vào quản lý chất lượng sản phẩm và tỷ lệ phế phẩm chi phí mua sắm, vận chuyển, bảo quản, cấp phát nguyên vật liệu đã giảm và hiệu quả rõ rệt. Những tiết kiệm trên làm cho chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm của công ty đã giảm vì trong kết cấu giá thành tỷ trọng nguyên vật liệu chiếm bộ phận rất lớn đến 80%. Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành Về chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm công ty đã thực hiện tăng nhanh năng suất lao động đảm bảo cho năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân và tiền công. Công ty đã sắp xếp lại cơ cấu lao động sao cho quá trình sản xuất được tiến hành cân đối, nhịp nhàng và liên tục. Ngoài ra công ty còn chú ý phân công, bố trí lao động, đào tạo và quy hoạch cán bộ, khai thác triệt để nguồn khả năng tiềm tàng trong công ty. Tạo cơ cấu lao động tối ưu là tạo một môi trường, một động lực (sức mạnh vô hình) để kích thích sản xuất phát triển. Công ty luôn luôn chú ý vấn đề sử dụng lao động phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của mỗi người…Đảm bảo đủ việc làm cho người lao động. Các công việc giao cho người lao động phải có cơ sở khoa học: có định mức, có điều kiện và khả năng hoàn thành, đảm bảo yêu cầu người được giao việc phải có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mọi công việc giao cho công nhân đều phải quy định rõ chế độ trách nhiệm, kiên quyết không giao việc khi chưa xác định rõ chế độ trách nhiệm. Việc sử dụng đi đôi với việc đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng được yêu cầu mới của cơ chế thị trường. Công ty đã hiểu hiện nay lao động trong công ty đang trong tình trạng thừa tuyệt đối do kỹ thuật lạc hậu chưa làm chủ được thị trường, chưa chiếm được lòng tin của khách hàng và lao động được cân đối trên dây chuyền sản xuất và các khâu công tác nhưng không đủ việc làm cho cả ngày, phải ngừng việc do nhiều nguyên nhân khác nhau. Giải quyết tình trạng trên doanh nghiệp đã phân loại lao động trên cơ sở đó sắp xếp lại lực lượng lao động, mở rộng hoạt động dịch vụ, giải quyết cho nghỉ hưu, mất sức, cho nghỉ thôi việc được hưởng trợ cấp, cho đi đào tạo lại, bồi dưỡng trình độ chuyên môn đối với người có sức khoẻ, còn ít tuổi và có triển vọng trong nghề nghiệp,… Thêm vào đó, các biện pháp nhằm tăng năng suất lao động như khuyến khích phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới và công nghệ tiên tiến và tăng thời gian có ích trong ngày. Giảm chi phí cố định Công ty đã thực sự cố gắng tăng nhanh và tăng nhiều sản phẩm hàng hoá sản xuất ra. Tốc độ tăng và quy mô tăng sản phẩm sẽ làm giảm chi phí cố định trong giá thành. Để thực hiện được điều này, công ty đã tăng năng suất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, tinh giảm bộ máy quản lý doanh nghiệp, giảm các hao hụt mất mát do ngừng sản xuất gây ra Đó là một số biện pháp công ty Cơ khí Hà Nội đã thực hiện trong thời gian qua nhằm hạ giá thành sản phẩm máy công cụ. Với sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty thì kết quả cũng đã đạt được một số thành công đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần được thực hiện tốt hơn nữa. 2.2.2 Tình hình thực hiện giá thành sản phẩm máy khoan K525A trong những năm qua Trong những năm vừa qua công ty Cơ khí Hà Nội đã thực hiện sản xuất rất nhiều loại máy và chi tiết máy. Đó là các loại máy công cụ làm theo kế hoạch như T630LD, B665, K325, …., máy đại tu, máy làm theo hợp đồng, thép đúc, thép cán và các chi tiết máy lẻ. Máy khoan K525A là loại máy công cụ truyền thống. Cụ thể trong 3 năm 1999, 2000, 2001 công ty đã thực hiện giá thành máy khoan như bảng. Theo như tổng kết của công ty, thì khi sản lượng của công ty tăng lên gấp đôi thì giá thành sản phẩm của loại máy công cụ đó cũng giảm đi 80,65%. Như vậy, cứ tăng sản lượng lên gấp đôi thì giá thành sản phẩm hạ xuống chỉ còn 80,65%, đường cong kinh nghiệm có hệ số tương ứng và có phần tốt hơn các doanh nghiệp cùng ngành.Đồng thời, công ty Cơ khí Hà Nội còn luôn luôn tìm tòi và thử nghiệm nhiều biện pháp nhằm nâng cao khả năng của mình. Cụ thể như, công ty luôn luôn cải tiến sản phẩm, kết hợp các loại máy tạo thành máy đa chức năng hơn, phù hợp với người tiêu dùng hơn. Không những thế, công ty còn tiến hành sản xuất nhiều loại máy mới như máy cán tôn định hình, máy gấp mép, máy uốn dập để xuất khẩu,… Công ty Cơ khí Hà Nội đã thực hiện tính giá thành sản phẩm cho máy công cụ K 525A trên cơ sở các khoản mục chi phí. Nhìn vào bảng số liệu năm 1999 ta thấy: Bán thành phẩm tự chế tăng so với định mức là 179.520 đồng và tăng so với thực tế năm 1998 là 1,45% nguyên nhân là do đơn giá tăng lên. Nhưng công ty đã giảm được nguyên vật liệu xuống 219.267 đồng nhưng vẫn tăng so với năm 1998 là 4,91%. Trong đó, giảm số lượng thép xuống 214.928 đồng và quy chế phụ tùng xuống 5.000 đồng. Tiền lương công nhân sản xuất trực tiếp đã giảm so với năm 1998 điều này thể hiện công tác thực hiện nâng cao năng suất lao động đã có hiệu quả ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0001.doc