Hoàn thiện quy định pháp luật về cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước từ thực tiễn ngành Dược

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (CPH DNNN) là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, một bộ phận cấu thành quan trọng của chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện thí điểm từ năm 1990. Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam và nhiều Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng từ khóa VII đến khóa IX đã nêu các định hướng và chủ trương lớn về CPH. Quốc hội Việt Nam khóa VII

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quy định pháp luật về cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước từ thực tiễn ngành Dược, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I, kỳ họp thứ 10 (12/1991) đã đưa CPH vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 1995: “Thí điểm việc CPH một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển”. Và một lần nữa khẳng định lại chủ trương CPH DNNN trong Nghị quyết tại kỳ họp thứ 4 - Quốc hội khóa IX (12/1993): "Đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lý DNNN. Thực hiện các hình thức CPH thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả". Chính phủ, các Bộ, ngành cũng thể chế hóa chủ trương và phương hướng nêu trên về CPH trong nhiều qui định nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề pháp lí nảy sinh trong quá trình CPH. Mục tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần trong đó người lao động trong doanh nghiệp, một số tập thể, cá nhân cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp. Như vậy, thực chất của CPHDNNN trong điều kiện nước ta là đa dạng hóa, xã hội hóa sở hữu, biến từ doanh nghiệp một chủ duy nhất là Nhà nước thành doanh nghiệp nhiều chủ qua đó sắp xếp lại tổ chức và đổi mới phương thức quản lý, tạo động lực cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp và huy động được các nguồn vốn trong xã hội. Quá trình CPH DNNN đang phát huy hiệu quả rõ nét, bước đầu thu được những kết quả khả quan ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề. Kinh doanh thuốc là hoạt động kinh doanh hàng hóa đặc biệt có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của con người, vì vậy, là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động dược có đặc thù riêng là vừa phải thực hiện nhiệm vụ xã hội bảo đảm cung ứng thường xuyên và đủ thuốc đạt chất lượng cho nhân dân, vừa phải bảo đảm kinh doanh có lãi. Chính vì vậy, đổi mới tổ chức và quản lý của doanh nghiệp dược nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động là nhiệm vụ cấp bách của ngành và cũng là của chính doanh nghiệp. Mặc dù công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dược chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1997 với việc CPH các DNDNN ở địa phương và của các ngành (các DNDNN ở Trung ương đến năm 2000 mới bắt đầu CPH) nhưng đã đạt được một số kết quả khả quan và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp dược sau CPH đã tăng lên rõ rệt. Những nhược điểm của DNDNN trước đây đã dần được khắc phục. Nhiều doanh nghiệp đã khẳng định được thương hiệu của mình, đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường. Điều này đã khẳng định CPH là giải pháp quan trọng trong quá trình đổi mới DNDNN, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tiến độ CPH các doanh nghiệp trong ngành Dược vẫn chưa đạt mục tiêu và kế hoạch đặt ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong số đó là các qui định pháp luật điều chỉnh CPH cũng như điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau CPH vẫn còn không ít những bất cập. Xuất phát từ mục tiêu, lợi ích cũng như tình hình CPH DNNN trong ngành dược, việc nghiên cứu và hoàn thiện các qui định pháp luật về chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần từ thực tiễn ngành dược có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, góp phần thúc đẩy tiến trình CPH DNNN nói chung cũng như CPH DNDNN nói riêng. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về CPH DNNN như “ Bàn về cải cách DNNN” của Trương Văn Bân; “Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ phần” của Đoàn Văn Hạnh; “CPH các DNNN ở Việt Nam” của Hoàng Công Thi, Phùng Thị Đoan; “CPH DNNN - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Lê Hồng Hạnh; “CPH và quản lý DNNN sau CPH” của Lê Văn Tâm và một số luận văn cao học, bài viết v.v nhưng trong những công trình nghiên cứu đó, chưa có công trình riêng biệt nào nghiên cứu xem xét một cách toàn diện về vấn đề CPH đối với DNNN trong ngành dược từ góc độ pháp lý. Với mong muốn được tìm hiểu những vấn đề liên quan tới CPH DNDNN, đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về CPH DNNN nói chung và CPH DNDNN nói riêng, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Hoàn thiện qui định pháp luật về CPH DNNN từ thực tiễn ngành dược” làm đề tài cho luận văn Thạc sỹ luật học. 2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về CPH đối với DNNN nói chung và lĩnh vực dược nói riêng, từ đó đề xuất các ý kiến góp phần hoàn thiện pháp luật về CPH DNNN ở Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này, luận văn tập trung vào các vấn đề sau: - Cơ sở lý luận về CPH DNNN, sự cần thiết phải CPH DNDNN và thực trạng CPH DNDNN ở Việt Nam; - Nghiên cứu một số qui định pháp luật về CPH DNNN và liên quan đến CPH DNNN; - Nghiên cứu thực trạng triển khai CPH DNDNN, đánh giá thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật về CPH DNNN trong ngành dược, từ đó tìm ra các khó khăn, vướng mắc cần khắc phục. - Một số đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về CPH DNNN. 3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các qui định pháp luật và phân tích thực tiễn thực hiện qui định pháp luật về CPH DNNN trong ngành dược ở Việt Nam giai đoạn từ 1997 đến 10/2005, từ đó đề xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung khi CPH đối với DNNN. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về CPH DNNN, áp dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn về CPH DNDNN tại Việt Nam. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, nghiên cứu thực tiễn (khảo sát, điều tra, phỏng vấn, thu thập các số liệu).. .. để giải quyết những vấn đề mà đề tài nghiên cứu. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương với kết cấu như sau: Chương 1: Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dược Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dược Chương 3: Một số giải pháp pháp lý nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dược Chương 1 Khái quát về Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dược 1. 1. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 1.1.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Đổi mới hệ thống DNNN là một khâu cơ bản và rất quan trọng trong đổi mới kinh tế mà đổi mới quan hệ sở hữu lại là một trong những phương hướng vô cùng quan trọng để cải cách DNNN. Để làm được việc này, từ năm 1990 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản cụ thể hóa chủ trương đa dạng hóa hình thức sở hữu. Nhiều khái niệm và phạm trù nêu trong những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện CPH DNNN. Tuy nhiên trong các văn bản nói trên, có thể nói chưa có văn bản nào đề cập một cách chính thức khái niệm CPH DNNN. Từ trước đến nay chỉ có Thông tư 50-TC/TCDN ngày 30/08/1996 của Bộ Tài chính hướng dẫn những vấn đề tài chính, bán cổ phần và phát hành cổ phiếu trong việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần có qui định: “Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần (hay gọi là CPH DNNN) là một biện pháp chuyển DNNN từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần trong đó tồn tại một phần sở hữu Nhà nước” (Điều 1). Như vậy, theo khái niệm này thì DN CPH luôn có một phần vốn thuộc sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên khái niệm này theo qui định pháp luật hiện hành đã có sự thay đổi. Theo khoản 3 Điều 3 Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần thì một trong những hình thức CPH công ty nhà nước là “bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn”. Như vậy, theo qui định hiện hành, có thể hiểu về bản chất CPH DNNN là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ DNNN sang CTCP thuộc sở hữu của các cổ đông thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia mua cổ phiếu, chuyển đội ngũ quản lý DN từ công chức Nhà nước sang thành các nhà kinh doanh, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực sự là một chủ thể có quyền kinh doanh độc lập trong cơ chế thị trường. 1.1.2. Đặc điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Từ khái niệm trên, có thể thấy CPH DNNN ở nước ta có những đặc điểm sau: 1.1.2.1. Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần Một DNNN sau khi hoàn tất qui trình CPH sẽ không còn tồn tại dưới loại hình DNNN nữa, không chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhà nước mà chuyển sang loại hình công ty cổ phần, chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Khi đã chuyển đổi hình thức hoạt động sang công ty cổ phần thì địa vị pháp lý của doanh nghiệp đó hoàn toàn tuân thủ theo qui định của pháp luật về công ty cổ phần. Có nghĩa là toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp phải chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Theo qui định hiện hành, DNNN sau khi CPH chuyển thành công ty cổ phần có nhiều ưu thế hơn so với khi còn là DN 100% vốn Nhà nước trong việc định đoạt tài sản, quản lý doanh nghiệp và huy động vốn để phục vụ kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, CTCP được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để huy động vốn. Việc chuyển nhượng những phần vốn góp dưới hình thức cổ phần được thực hiện dễ dàng thông qua hành vi bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. 1.1.2.2. Cổ phần hóa là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần Trước khi CPH, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. Doanh nghiệp không phải là chủ sở hữu mà chỉ là người có quyền quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước đã đầu tư để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Khi CPH, sau khi xác định giá trị doanh nghiệp, xác định số lượng cổ phiếu phát hành, Nhà nước bán cổ phiếu cho các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế (có sự xác định tỷ lệ cổ phần được mua lần đầu tùy vào từng đối tượng). Những người mua cổ phiếu sẽ trở thành thành viên của công ty cổ phần, có quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với số cổ phần mà họ đã mua, đồng thời phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty tương ứng với số cổ phần đó. Do đó, những tài sản trong DN trước đây thuộc sở hữu nhà nước nhưng sau khi CPH sẽ thuộc sở hữu của những người mua cổ phiếu, thuộc sở hữu của nhiều thành phần kinh tế. Việc chuyển DN từ sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần được thực hiện chủ yếu theo ba hình thức: Thứ nhất, CPH mà trên 50% cổ phần thuộc sở hữu Nhà nước đối với các DNNN trong các lĩnh vực then chốt có khả năng điều tiết nền kinh tế quốc dân. Trên thực tế, ở các DN này, tồn tại ba loại cổ phần: cổ phần của Nhà nước đóng vai trò chi phối; cổ phần của cán bộ, nhân viên trong DN, cổ phần của các nhà đầu tư khác. Do cổ phần nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, nên đóng vai trò chi phối, định hướng sự phát triển của doanh nghiệp. Các DN này kinh doanh dưới sự quản lý, điều tiết chặt chẽ của Nhà nước. Thứ hai, CPH mà Nhà nước có tham gia cổ phần nhưng chiếm tỷ trọng không lớn, không giữ vị trí chi phối đối với các DN không giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Với doanh nghiệp loại này, Nhà nước chỉ tham gia quản lý, điều tiết ở một mức độ nhất định. Thứ ba, CPH mà không có sự tham gia của cổ phần Nhà nước. Với những doanh nghiệp này, ngoài việc quản lý theo pháp luật, Nhà nước khó điều tiết được khuynh hướng phát triển của nó. 1.1.2.3. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được tiến hành thông qua việc bán cổ phần hoặc phát hành thêm cổ phiếu Theo qui định hiện hành, có 3 hình thức tiến hành CPH bao gồm phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những DN CPH có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ; bán một phần hoặc kết hợp bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu; bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại DN hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu. 1.1.3. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Việc xác định mục tiêu CPH có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra các hình thức CPH, quy hoạch đối tượng CPH, mức độ CPH cũng như các bước tiến hành. Mục tiêu CPH được xác định dựa trên những nguyên tắc chi phối quá trình CPH DNNN dưới đây: - Thứ nhất, việc CPH phải góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế nước nhà, làm cho tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước được sử dụng có hiệu quả. - Thứ hai, DNNN thuộc hình thức sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu. Do vậy, CPH phải nằm trong chương trình tổng thể và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước đề ra, chứ không thể do sự chủ động sáng tạo của từng doanh nghiệp. Tùy theo tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của từng giai đoạn, mục tiêu, yêu cầu của CPH DNNN là khác nhau. Hiện nay, theo qui định tại Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành CTCP, mục tiêu, yêu cầu CPH DNNN ở nước ta được qui định như sau: - Một là, chuyển đổi những công ty nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Theo qui định hiện hành, diện CPH được mở rộng hơn so với trước đây trong đó bao gồm cả các tổng công ty nhà nước trong các ngành, lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để xã hội hóa và huy động thêm vốn, hình thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, tạo thêm động lực và cơ chế quản trị doanh nghiệp năng động, hiệu quả. Đối với các DNNN đã CPH, từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước, đã hình thành các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu bao gồm Nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp, trong đó người lao động trong doanh nghiệp trở thành người chủ thực sự phần vốn góp của mình trong công ty cổ phần. - Hai là, huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Hiện nay, một vấn đề rất khó khăn cho DNNN là thiếu vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của DN mà Nhà nước thì không thể và không nên cấp vốn một cách dàn trải. Các nhà đầu tư cũng sẽ không đầu tư hoặc cho DN vay nếu DN không được cải tổ và làm ăn có hiệu quả. Mục đích và bản chất của CPH DNNN chính là làm cho DNNN kinh doanh tốt hơn, hiệu quả hơn. Việc chuyển hình thức sở hữu nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm tạo ra sự thay đổi về phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN. Theo Luật Doanh nghiệp, tổ chức quản lý trong nội bộ công ty cổ phần bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, ban kiểm soát và ban giám đốc công ty. Mô hình tổ chức quản lý này thể hiện sự phân định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm của chủ sở hữu và người sử dụng tài sản của công ty để kinh doanh. Điều này đã tạo thêm động lực và tính năng động trong kinh doanh, DN được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư phát triển, phân phối lợi nhuận, tổ chức sản xuất và bổ nhiệm cán bộ. - Ba là, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này, hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước liên quan đến CPH DNNN ngày càng được hoàn thiện. Việc CPH không chỉ quan tâm đến lợi ích của Nhà nước như điều chỉnh việc xác định giá trị DN gắn với thị trường, giảm thất thoát cho ngân sách nhà nước, mà còn quan tâm đến quyền lợi của DN, nhà đầu tư và người lao động trong việc tạo điều kiện để DN hoàn thành tốt CPH cũng như các chính sách cho DN sau CPH, tạo điều kiện để các nhà đầu tư có thể mua cổ phần ở các DN với một tỷ lệ nhất định và đề ra các chính sách cho người lao động tại DN CPH. - Thứ tư, thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Hiện nay, việc định giá DN theo cách tổ chức hội đồng đã bị xóa bỏ mà do các tổ chức chuyên nghiệp thực hiện nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp và tính minh bạch trong hoạt động định giá và đẩy nhanh tiến độ CPH. Để khắc phục những bất cập trong công tác định giá và bán cổ phần (đặc biệt là xu hướng CPH nội bộ), đồng thời giảm thiểu tổn thất cho ngân sách nhà nước trong quá trình CPH, cơ chế bán cổ phần hiện nay được điều chỉnh theo hướng: nâng cao tính công khai, minh bạch, gắn với thị trường, tạo điều kiện để các nhà đầu tư tiếp cận nguồn cổ phiếu, doanh nghiệp huy động được vốn, đổi mới phương thức quản lý, đồng thời góp phần thúc đẩy thị trường vốn và thị trường chứng khoán phát triển. Như qui định việc bán cổ phiếu phải qua đấu giá; cổ phiếu ưu đãi đối với nhà đầu tư chiến lược... Các DN CPH là nguồn cung cấp hàng hóa (cổ phiếu) cho TTCK có tổ chức ở Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế trong số hơn 2.300 CTCP được chuyển đổi từ DNNN, mới có 30 DN thực hiện niêm yết trên TTCK và 6 DN đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội [53]. Đây là những con số thể hiện mối quan hệ chưa chặt chẽ giữa CPH và phát triển thị trường vốn. Việc TTCK chưa phát triển, tính thanh khoản của cổ phiếu sẽ không cao, không góp phần thúc đẩy quá trình CPH đạt hiệu quả cao. 1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dược 1.2.1. Đòi hỏi khách quan về việc cổ phần hóa doanh nghiệp dược nhà nước ở Việt Nam Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang vận động theo xu hướng thương mại hóa toàn cầu, một yêu cầu bức thiết được đặt ra là phải thực hiện cải cách DNNN nhằm phát huy sức mạnh và vai trò điều tiết của kinh tế quốc doanh, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN. Đổi mới hệ thống DNNN là một khâu cơ bản và rất quan trọng trong đổi mới kinh tế. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN đã được thực hiện, đặc biệt là từ năm 1990 trở lại đây. Đổi mới DNNN có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau tùy theo đối tượng, vai trò, vị trí khác nhau đối với nền kinh tế quốc dân. Có những cách cải cách DNNN mà nếu thực hiện sẽ dẫn đến sự xoá sổ DNNN như giải pháp bán DNNN hay nói cách khác là giải pháp tư nhân hóa. Có giải pháp chỉ đụng chạm đến cơ chế quản lý DNNN, tức là tăng cường hay giảm bớt quyền chủ động sản xuất kinh doanh của chúng trong từng lĩnh vực cụ thể. CPH chỉ là một trong những giải pháp đổi mới DNNN. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong thập kỷ qua cho thấy CPH là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay, là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN vì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của DNNN. Đó là vấn đề sở hữu, làm cho sở hữu doanh nghiệp trở nên đa dạng hơn. Những giải pháp cải cách DNNN khác chỉ động chạm đến cơ chế quản lý theo hướng tăng quyền tự chủ của DNNN trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Đối với lĩnh vực dược, trong bối cảnh nền kinh tế tập trung bao cấp trước đây, hệ thống DNDNN còn mang nhiều tính phúc lợi xã hội, hoạt động sản xuất, kinh doanh, phân phối thuốc chủ yếu là do kế hoạch Nhà nước giao. Mặc dù trong những năm gần đây, hoạt động của các DNDNN đã hiệu quả hơn trong cơ chế thị trường nhưng tình trạng thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ, trình độ quản lý kém, ít tiếp cận với công nghệ tiên tiến vẫn phổ biến tại nhiều DNDNN, dẫn đến việc còn nhiều hạn chế trong đáp ứng nhu cầu thuốc điều trị cho nhân dân, chưa chủ động trong nguồn nguyên liệu làm thuốc mà gần như bị phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Đứng trước mục tiêu đáp ứng 60% trị giá thuốc tiêu dùng trong nước vào năm 2010 [25], trong thời gian tới, việc đẩy mạnh sắp xếp đổi mới, nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp dược đặc biệt là các DNDNN là vô cùng quan trọng khi mà hàng rào bảo hộ công nghiệp nội địa ngày càng phải tháo bỏ, thách thức về khả năng cạnh tranh ngày càng gay gắt ngay cả trên thị trường nội địa. Theo thống kê của Cục Quản lý dược Việt Nam, đến hết 12/2004, số vốn pháp định của các dự án liên doanh và dự án 100% vốn nước ngoài đầu tư vào ngành dược đã lên đến 158 triệu USD. Một số nhà máy đang tích cực đầu tư với số vốn lớn tới 20 triệu USD. Một số công ty phân phối tuy còn núp bóng của các công ty Việt Nam đã tổ chức màng lưới phân phối của họ tới tuyến tỉnh, thậm chí cả tuyến huyện. Trong khi đó, vốn của toàn bộ các đơn vị trong Tổng công ty Dược Việt Nam chỉ vào khoảng 30 triệu USD. Xét về mặt cạnh tranh trên thương trường, việc sắp xếp, tổ chức lại các DNDNN nhằm tạo nội lực lớn hơn là một việc làm cần thiết. Bên cạnh đó, các DNDNN cũng hạch toán kinh doanh như các DNNN hoạt động kinh doanh ở các ngành kinh tế khác. Theo đường lối phát triển kinh tế đã được Đảng đề ra, do yêu cầu của nền kinh tế thị trường, đòi hỏi DNDNN cũng phải sắp xếp, đổi mới, tiến hành CPH theo chủ trương và định hướng của Nhà nước. Tuy nhiên phải có một lộ trình thích hợp đối với việc sắp xếp, đổi mới DNDNN trong thời gian tới vì trước mắt vẫn cần thiết phải giữ lại một số DN 100% vốn Nhà nước để đảm bảo ổn định thị trường thuốc cũng như việc thực hiện nhiệm vụ của ngành, nhưng tiến tới cần nghiên cứu để chuyển đổi sở hữu toàn bộ các DNDNN. Việc thực hiện hoạt động công ích cũng như nhiệm vụ bình ổn thị trường thuốc cần phải tách khỏi nhiệm vụ của các DN kinh doanh thuốc. Sở dĩ cho đến nay, CPH là hình thức chủ yếu trong việc sắp xếp, đổi mới DNDNN do các nguyên nhân sau: 1.2.1.1. Cổ phần hóa doanh nghiệp dược nhà nước sẽ xóa bỏ tình trạng quản lý lỏng lẻo và đầu tư dàn trải của Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Thực hiện CPH DNDNN thực tế đã giảm bớt số lượng DN thuộc đối tượng Nhà nước phải quản lý, qua đó tạo điều kiện để khắc phục tình trạng quản lý lỏng lẻo trong thời gian qua do phải đầu tư dàn trải trên một số lượng DN quá lớn trong khi năng lực về vốn đầu tư và quản lý DN của Nhà nước lại hết sức hạn chế. Đồng thời, việc CPH DNDNN cũng tạo điều kiện cho các DN chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, kịp thời đáp ứng các nhu cầu và điều kiện của thị trường. 1.2.1.2. Giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo điều kiện để Nhà nước tập trung đầu tư và quản lý các doanh nghiệp dược nhà nước có qui mô lớn, có khả năng chi phối hoạt động của toàn ngành. Cổ phần hóa là giải pháp vừa đạt được mục đích giải phóng vốn nhà nước ra khỏi những lĩnh vực xét thấy không cần phải duy trì 100% vốn nhà nước như trước nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát được hoạt động của các DN nếu cần thiết bằng cách giữ lại một tỷ lệ nào đó vốn nhà nước. Việc giảm bớt số lượng DNDNN thông qua chương trình CPH hoặc đa dạng hóa những DNDNN không thuộc đối tượng Nhà nước cần thiết phải nắm giữ (đặc biệt những DN có hiệu quả thấp) sẽ giúp cho ngân sách nhà nước giảm bớt các khoản chi để duy trì các DN này, chuyển giao cho các DNDNN khác đảm nhận. Mặt khác, Nhà nước lại có thể huy động thêm các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội để tập trung đầu tư, đổi mới, hiện đại hóa trang thiết bị, công nghệ cho các DNDNN mà Nhà nước cần nắm giữ và phát triển. 1.2.1.3. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dược có thể thu hút nguồn vốn đầu tư, khắc phục những tồn tại do các cơ chế trước đây để lại. Thông qua việc CPH, các DN có thể phát hành cổ phiếu để thu hút vốn đáp ứng cho nhu cầu đầu tư, hiện đại hóa máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất, mở rộng qui mô và nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của DN. Bên cạnh đó, thông qua việc thực hiện CPH cũng sẽ giúp cho các DNDNN xử lý các vấn đề tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh do cơ chế cũ để lại như: xử lý công nợ khó đòi, xử lý hàng hóa tồn kho kém, mất phẩm chất, xử lý tài sản DN không cần dùng... tạo điều kiện để lành mạnh hóa tình hình tài chính DN, giúp cho DN hoạt động tốt hơn khi chuyển sang hình thức CTCP. Đặc biệt thông qua việc thực hiện CPH, sẽ thay đổi được phương thức quản lý trong các DNDNN trước đây để áp dụng phương thức quản lý mới, tự chủ, linh hoạt và trách nhiệm hơn trên cơ sở xã hội hóa cao độ quyền sở hữu. 1.2.1.4. Tạo điều kiện để người lao động tham gia và thực sự làm chủ doanh nghiệp, qua đó khai thác triệt để tiềm năng vốn có của doanh nghiệp. Khắc phục tình trạng chủ hờ trước đây của DNDNN, CPH đã xác lập quyền làm chủ thực sự của người lao động, người quản lý ở các DN, trong đó tạo điều kiện để người lao động trong các DN thực sự làm chủ thông qua việc thực hiện các chính sách ưu đãi cho những người này khi phát hành cổ phiếu. Trên cơ sở đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn thể người lao động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, gắn chặt lợi ích của họ với lợi ích của DN. Ngoài ra, thông qua ĐHĐCĐ và HĐQT, người lao động còn thực hiện quyền làm chủ của mình khi bỏ phiếu bầu cử, bãi miễn để lựa chọn những người thực sự có năng lực vào các cơ quan điều hành và tham gia ý kiến với phương án, chiến lược sản xuất kinh doanh của DN, đảm bảo tính khả thi cho các dự án và chiến lược phát triển DN. Qua đó, Nhà nước mới thực sự khai thác được triệt để khả năng vốn có của DN và thực hiện được mục tiêu quan trọng đã đặt ra cho chương trình cải cách DNNN là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Như vậy, CPH một số DNNN trong ngành dược không phải là ý muốn chủ quan mà xuất phát từ yêu cầu khách quan, để các DN hoạt động kinh doanh có hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, khắc phục những yếu kém của các DN trong ngành ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững, ổn định, lâu dài của các DN. Thông qua CPH một số DNNN trong ngành dược, các mục tiêu CPH vẫn được thực hiện, mà còn góp phần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế. Cổ phần hóa DNNN trong ngành dược có thể phân loại thành: một số DN CPH nhưng Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối; một số DN CPH nhưng Nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần hạn chế hoặc không giữ cổ phần ở DN. 1.2.2. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dược Thuốc là hàng hóa đặc biệt, có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người nên kinh doanh thuốc là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, doanh nghiệp dược vừa phải thực hiện nhiệm vụ xã hội bảo đảm cung ứng thường xuyên và đủ thuốc đạt chất lượng cho nhân dân, vừa phải kinh doanh có lãi. Vì vậy khi CPH, ngoài việc thực hiện các mục tiêu, yêu cầu của CPH DNNN nói chung, DNDNN còn phải đảm bảo các mục tiêu, yêu cầu sau: 1.2.2.1. Tổ chức sắp xếp và đổi mới hệ thống cung ứng thuốc tạo ra cơ cấu hợp lý trong khu vực kinh tế nhà nước, nhằm góp phần ổn định thị trường thuốc chữa bệnh trước mắt và lâu dài; thực hiện đa dạng hóa nhiều hình thức sở hữu vốn để sử dụng có hiệu quả tài sản Nhà nước và huy động thêm vốn ngoài xã hội vào việc sản xuất kinh doanh thuốc, tạo thêm động lực mạnh mẽ trong DN, phát huy tính năng động, nhạy bén, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DN trong cơ chế thị trường. Trên cơ sở đó, chuyển đổi Tổng công ty dược Việt Nam sang tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con sau khi các DN thành viên độc lập đã chuyển đổi sở hữu theo danh sách và kế hoạch tổng thể sắp xếp, đổi mới DNDNN [27]. 1.2.2.2. Chuyển đổi những công ty dược nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Theo Quyết định số 117/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 11/06/2003 về việc phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN trực thuộc Bộ Y tế giai đoạn 2003 - 2005, sẽ có 7 doanh nghiệp dược Nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% vốn. Tuy nhiên, căn cứ tiêu chí DN mà Nhà nước giữ 100% vốn theo Quyết định 155/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/08/2004 thì chỉ có hai doanh nghiệp dược đáp ứng các điều kiện qui định. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này, Bộ Y tế phải xây dựng được kế hoạch sắp xếp DNNN, tổng công ty nhà nước thuộc Bộ Y tế giai đoạn tới. 1.2.2.3. Tập trung nguồn lực cho việc đầu tư các lĩnh vực trọng điểm theo chủ trương, chính sách của Chính phủ và Bộ Y tế: sản xuất nguyên liệu làm thuốc, thuốc kháng sinh, sản xuất thuốc thiết yếu, thuốc đặc trị, thuốc thay thế thuốc nhập khẩu...; tổ chức lại hệ thống phân phối thuốc... 1.2.2.4. Huy động vốn của các cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, xây dựng các dây chuyền GP. Các doanh nghiệp dược là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng đặc biệt, đó là “thuốc”, một mặt hàng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng người sử dụng. Việc nâng cao chất lượng thuốc không chỉ là mục tiêu của các doanh nghiệp dược để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN mình mà còn là nhiệm vụ của các DN hoạt động trong lĩnh vực dược nhằm góp phần đảm bảo việc sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả. Vì vậy, các DNDNN ngoài việc cần vốn nhằm tăng năng lực tài chính như các DNNN khác, theo qui định của Luật Dược và các qui chế chuyên môn, các doanh nghiệp kinh doanh dược theo lộ trình nhất định phải đạt các tiêu chuẩn GP mới được phép hoạt động. Do đó, muốn thu hút vốn để đầu tư cho phát triển, tăng năng lực tài chính, doanh nghiệp dược phải chuyển thành công ty cổ phần thông qua việc bán cổ phần cho công nhân viên chức, cá nhân, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Trong quá trình hoạt động dưới hình thức CTCP, doanh nghiệp được phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. 1.2.2.5. Thực hiện nhiệm vụ xã hội bảo đảm cung ứng thường xuyên và đủ thuốc đạt chất lượng cho nhân dân bên cạnh việc kinh doanh có hiệu quả. Lý do là vì các DNDNN khi đã CPH, điều quan tâm là lợi nhuận của DN, cổ tức của các cổ đông nên DN thường tập trung sản xuất, buôn bán những mặt hàng thuốc có lợi nhuận cao, không hoặc hạn chế sản xuất, buôn bán các mặt hàng có lợi nh._.uận thấp hoặc không lợi nhuận. Điều này là phù hợp với qui luật của kinh tế thị trường, tuy nhiên sẽ dẫn đến việc không đảm bảo cung ứng thường xuyên và đủ thuốc có chất lượng cho người dân, không hoàn thành nhiệm vụ của ngành. 1.2.3. Một số yếu tố tác động đến quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dược Trong quá trình CPH DNDNN, có nhiều yếu tố tác động ảnh hưởng tích cực hoặc hạn chế quá trình này, trong đó có yếu tố khách quan, chủ quan, có yếu tố bên trong, bên ngoài, có yếu tố kinh tế, chính trị, yếu tố xã hội... nhưng tựu chung có các yếu tố cơ bản sau đây: 1.2.3.1. Về con người + Đối với cán bộ, cơ quan quản lý: trong quá trình thực thi quyền hạn được Nhà nước trao, cơ quan chủ quản vừa có quyền ban hành các cơ chế, chính sách riêng áp dụng cho doanh nghiệp, đặc biệt là các loại giấy phép con, vừa có quyền ban phát cho DN những ưu ái trong phê duyệt dự án đầu tư, cấp phát vốn, bổ sung vốn điều lệ... Để được như vậy, các DNNN thường phải có những chi phí nhất định cho những cơ quan và cá nhân có thẩm quyền quyết định. Sau khi CPH, không còn tồn tại cơ quan chủ quản và cũng không còn cơ chế “xin - cho” đối với DN nữa. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của DN sẽ bị chi phối bởi các qui luật thị trường và pháp luật. Mối quan hệ giữa Nhà nước và các CTCP chỉ là quan hệ giữa cổ đông với công ty. Chính vì vậy, mặc dù nhận thức về CPH của các cơ quan quản lý, các cấp lãnh đạo đã được nâng cao rõ rệt, nhưng chủ trương CPH chưa được sự hưởng ứng tích cực của lãnh đạo các ngành, các cấp chính quyền trong các cơ quan nhà nước. + Đối với Giám đốc, người quản lý DNDNN: Các DNDNN hoạt động trong cơ chế thị trường chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý DN có khả năng kinh doanh. Tuy nhiên sự bao cấp của Nhà nước đối với DN, cơ chế “xin - cho” là mảnh đất tốt cho những hoạt động lãng phí, tham nhũng. CPH tạo ra sự giám sát chặt chẽ của chủ sở hữu (cổ đông) đối với giám đốc và cán bộ quản lý của DNNN CPH. Điều này có nghĩa là giám đốc, các nhân viên quản lý không dễ dàng thực hiện hành vi vụ lợi như khi DN đang hoàn toàn thuộc sở hữu Nhà nước. Ngoài ra nhiều giám đốc lo ngại rằng khi chuyển sang CTCP chưa chắc họ đã được cử hoặc được bầu làm thành viên HĐQT, chưa chắc được cử làm giám đốc. Bên cạnh đó, họ phải bỏ chính tiền túi của mình để mua cổ phần chứ không phải việc sử dụng vốn Nhà nước như trước đây. Vì vậy nhiều lãnh đạo DN vẫn chưa thực sự quyết tâm trong CPH DN mình quản lý. + Đối với người lao động: hiện nay, người lao động trong các DN dược đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh, đã hiểu được rằng CPH DNNN là xu thế tất yếu. Việc chuyển đổi phương thức quản lý đối với công ty CPH sẽ tạo cơ chế minh bạch hóa, công khai hóa hoạt động của DN, đặc biệt vấn đề tài chính. Người lao động được đóng cổ phần, trở thành cổ đông, hưởng lợi nhuận tương ứng với phần vốn góp và là chủ thực sự phần vốn góp của mình, có quyền tham gia quản lý DN một cách có hiệu quả bằng việc dự ĐHĐCĐ để thông qua điều lệ công ty, bầu các thành viên HĐQT và ban kiểm soát, biểu quyết các vấn đề có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc thẩm quyền ĐHĐCĐ như chiến lược kinh doanh, tăng giảm vốn điều lệ... Tuy nhiên, người lao động làm việc trong các DNDNN có việc làm và thu nhập tương đối ổn định, nhất là đối với các DN làm ăn có hiệu quả. Lợi nhuận của DNDNN được phân bổ theo qui định của pháp luật cho các quỹ (gồm quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi). Người lao động được chia các quĩ này. Khi chuyển sang CTCP thì HĐQT sẽ xác định lợi nhuận được phân bổ như thế nào, có thể người lao động hưởng cổ tức không nhiều bằng số tiền họ nhận từ các quỹ. Một số người lao động e ngại, số tiền họ đầu tư vào CTCP sẽ không được an toàn bằng các loại đầu tư khác như tiền gửi ở ngân hàng. Một trong những mục tiêu của chính sách CPH là thay đổi cơ cấu quản lý của DN cho hợp lý và hiệu quả hơn, trong đó có việc sắp xếp lại quy trình sản xuất kinh doanh. Những thay đổi này chắc chắn sẽ kéo theo sự thay đổi trong việc bố trí, sử dụng lao động. Thêm vào đó, khi công nghệ, qui trình sản xuất và cơ chế quản lý lao động mới được áp dụng sau khi CPH, nhu cầu sử dụng lao động của DN CPH giảm. Ngay cả khi nhu cầu lao động không giảm song do tính chất hiện đại của công nghệ, của qui trình sản xuất và quản lý, lao động chưa qua đào tạo hay đào tạo không phù hợp với trình độ mới trong các DNDNN tiền thân sẽ phải được thay thế, nhất là khi việc tuyển dụng và bố trí lao động trong DN CPH thuộc quyền tự chủ của công ty. Đương nhiên, những người lao động trong biên chế của DNDNN trước đây phải đối mặt với nguy cơ mất việc làm. Hệ quả đương nhiên trên của CPH là lý do vì sao một bộ phận người lao động trong các DNDNN không mong muốn quá trình này diễn ra đối với doanh nghiệp của mình, nếu không có bảo đảm chắc chắn rằng nó có thể đem lại những điều tốt đẹp hơn. 1.2.3.2. Về cơ sở vật chất của doanh nghiệp Cơ sở vật chất của DNDNN nói chung ngày càng được hiện đại, góp phần sản xuất nhiều mặt hàng thuốc có chất lượng cao phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, phần lớn DNDNN, đặc biệt là DNDNNĐP, qui mô hoạt động rất nhỏ bé, một số DN của tỉnh vốn điều lệ chỉ xấp xỉ trên dưới 01 tỷ đồng, còn hầu hết các DN của huyện vốn điều lệ chưa được 01 tỷ đồng, trang thiết bị hiện đại hầu như không có hoặc cách đây từ vài chục năm nên rất hạn chế trong việc kinh doanh sản phẩm. Hơn nữa một số DN hiệu quả kinh doanh không cao, không có mặt hàng mới, bạn hàng không nhiều, không hấp dẫn người lao động và các nhà đầu tư mua cổ phần do không tin tưởng vào khả năng hoạt động kinh doanh của DN trong tương lai đặc biệt khi hội nhập với khu vực và thế giới. Vì vậy, gặp khó khăn trong việc bán cổ phần khi CPH. 1.2.3.3. Kết quả hoạt động của DN đã CPH và kinh nghiệm thực tiễn của các nước về CPH Hầu hết các DNNN và DNDNN sau khi chuyển sang CTCP hoạt động có hiệu quả: năng suất lao động, thu nhập của người lao động, các khoản nộp ngân sách đều tăng. Điều đó chứng tỏ khả năng ổn định và phát triển của DN, như những bằng chứng đầy tính thuyết phục rằng CPH DNNN với phương thức sở hữu, quản lý mới sẽ tạo điều kiện cho các DN hoạt động tốt hơn chứ không phải nhằm tước bỏ các đặc quyền của DN. Do đó, đã khuyến khích các DN và người lao động tham gia vào quá trình CPH DNNN. Hơn nữa, các kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên thế giới trong quá trình CPH, tư nhân hóa DNNN sẽ là những bài học bổ ích và quí giá để Nhà nước ta tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện công việc CPH DNNN tại Việt Nam. 1.2.3.4. Trạng thái phát triển kinh tế Trạng thái phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến việc CPH DNNN nói chung cũng như DNDNN nói riêng, ở nước ta. Một là, sự tồn tại của các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân đã làm thay đổi tính chất của nền kinh tế nước ta, biến nó từ nền kinh tế thuần túy sở hữu Nhà nước và tập thể sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh đã trở thành những hiện tượng bình thường của đời sống kinh tế, là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính những yếu tố của cơ chế thị trường này đã tạo ra sự vận động của vốn và tài sản giữa các chủ thể của thị trường. Đặc biệt, trong nền kinh tế nước ta đã xuất hiện một loại thị trường đặc biệt - thị trường chứng khoán, nơi các cổ phần của các công ty được trao đổi, mua bán. Hai là, tình hình kinh tế của đất nước đã có những biến đổi theo hướng tích cực. Giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất kinh doanh đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Những vấn đề này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phần trong các DNNN được CPH. Ba là, nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của Nhà nước qua hơn 15 năm chuyển đổi cơ chế, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được CPH. Bốn là, sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh nước ngoài tại Việt Nam trên cơ sở Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, hệ thống các văn bản dưới luật... góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các DNNN được CPH. 1.2.3.5. Tiền đề pháp lý Hiện nay, điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập. Tất cả các doanh nghiệp dược đều hoạt động theo cơ chế thị trường, có quyền tự do kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật. Các quyền cơ bản đó của doanh nghiệp dược được qui định trong Hiến pháp, trong các đạo luật, đặc biệt là Luật Dược vừa được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề CPH các DNNN và quyết tâm thực hiện. Để thực hiện CPH DNNN, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Điều này thể hiện ở hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật qui định chuyển một số DNNN thành CTCP từ năm 1990 đến nay. Những qui định này góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng DN triển khai thực hiện. Khi các DNDNN tiến hành CPH thì hệ thống văn bản về CPH DNNN đã và đang được hoàn thiện. Những khúc mắc trong CPH dần được tháo gỡ. Cơ chế chính sách CPH theo hướng mở rộng ưu đãi hơn, đơn giản hóa thủ tục, đảm bảo thỏa đáng các chính sách đối với người lao động. Tiền đề pháp lý của CPH DNDNN được tạo nên bởi những yếu tố chủ yếu sau: Thứ nhất, tuy chưa được ban hành trong một văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhưng trong hệ thống pháp luật hiện hành đã tồn tại nhiều qui định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ CPH DN. Các qui định này tập trung chủ yếu tại Nghị định số 187/2004/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành. Toàn bộ các văn bản này tạo nên lĩnh vực pháp luật về CPH khá đặc thù. Bên cạnh đó, các quan hệ phát sinh từ CPH còn có các qui định của các lĩnh vực pháp luật có liên quan trực tiếp khác điều chỉnh như qui định của các luật về doanh nghiệp, các qui định về chứng khoán... Thứ hai, trong hệ thống pháp luật đã tồn tại các loại công ty đối vốn. Đặc điểm của các loại hình công ty đối vốn là tính trường tồn của chúng bất chấp sự thay đổi cổ đông, là tính dễ chuyển nhượng phần vốn góp và khả năng thanh khoản của các cổ phần mà chúng phát hành. Đây là tiền đề pháp lí quan trọng vì không thể tiến hành CPH nếu trong hệ thống pháp luật không có các công ty đối vốn này. Thứ ba, trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật thực định đã hình thành rất nhiều phạm trù pháp lý được coi là điển hình của nền kinh tế thị trường như: đối vốn, đối nhân, trách nhiệm hữu hạn, trách nhiệm vô hạn, cạnh tranh, hội đồng quản trị, cổ phần, cổ phiếu, chứng khoán... Thứ tư, Luật Dược ra đời thay thế các qui định về hành nghề dược tư nhân được qui định tại Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân. Đối tượng điều chỉnh của Luật Dược bao gồm cả các cơ sở kinh doanh thuốc của Nhà nước và của tư nhân trên cơ sở các điều kiện kinh doanh là không khác biệt, thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy không còn sự phân biệt về điều kiện hành nghề dược đối với DN thuộc sở hữu nhà nước và DN thuộc sở hữu của các thành phần kinh tế khác. Trong 15 năm thực hiện CPH, chúng ta đã rút ra một bài học quan trọng về giá trị của pháp luật đối với việc đẩy nhanh tiến trình và nâng cao hiệu quả của CPH. Vì vậy việc hoàn thiện các qui định pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoặc có liên quan đến quá trình này là rất cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay các văn bản pháp luật cũng như việc thực thi pháp luật của các cơ quan chức năng nhiều khi thể hiện sự chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tình hình đó đòi hỏi các văn bản pháp luật liên quan tới quản lý, điều hành DN như: Luật doanh nghiệp, Luật tài chính ngân hàng, Luật phá sản, các chính sách cạnh tranh và các quy định về sở hữu, giao kết hợp đồng, vấn đề về lao động... phải được hoàn thiện một cách đồng bộ, tạo môi trường pháp lý lành mạnh, thực sự bình đẳng. 1.3. Pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Nhận thức được tính ưu việt của CPH DNNN, ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, cùng với việc đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chủ trương và tổ chức thực hiện việc chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần. Để thấy rõ kết quả và những thay đổi cơ bản trong chủ trương và đường lối của Đảng và Nhà nước về CPH, có thể tạm chia tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam theo các giai đoạn: 1.3.1. Giai đoạn thí điểm (Từ 1990 đến 5/1996) Văn bản pháp luật đầu tiên về CPH DNNN là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/05/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Quyết định này đã đưa ra một số điều kiện để chọn các DNNN làm thí điểm CPH. Theo Quyết định này, chỉ những DNNN kinh doanh có lãi, tập thể DN đoàn kết và có khả năng mua cổ phần mới được tiến hành CPH. Tuy nhiên, trong hai năm 1990 và 1991, việc CPH DNNN được chọn làm thí điểm không thực hiện được. Quyết định số 143/HĐBT chưa tạo được những cơ sở pháp lý đầy đủ cho CPH. Hơn nữa, các tiêu chí cho việc chọn DNNN thí điểm CPH hoàn toàn dựa vào mong muốn chủ quan của DN, ý chí của chủ sở hữu không được thể hiện rõ. Chương trình CPH DNNN ở Việt Nam thực sự bắt đầu từ năm 1992 với việc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 202-CT ngày 08/06/1992 và Chỉ thị số 84/TTg ngày 04/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên trong thời gian 5 năm thí điểm CPH, cả nước chỉ tiến hành CPH được 5 doanh nghiệp thuộc 3 Bộ và 2 địa phương [37]. Nguyên nhân là CPH DNNN mới chính thức được thực hiện tại Việt Nam nên các ngành, các địa phương cho đến các đơn vị kinh tế cơ sở hầu như chưa hiểu rõ về chủ trương CPH DNNN. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh về CPH còn chưa rõ ràng, đầy đủ, chưa lường hết được những khía cạnh phát sinh trong tiến trình CPH DNNN như: - Đối tượng CPH giai đoạn này vẫn còn khá hẹp. Đối tượng mua cổ phiếu chủ yếu là cán bộ công nhân viên trong DN tuy có cho phép cổ đông trong nước ngoài DN nhưng mức độ khuyến khích chưa cao. - Còn quá nhiều ưu đãi cho DNNN, đặc biệt là các chính sách tài chính, tín dụng nên dẫn đến các DN cảm thấy bị thiệt thòi, khó khăn khi chuyển sang hình thức CTCP; - Việc xử lý các tồn tại về tài chính trong DN chưa có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, làm cho các DN gặp nhiều khó khăn, lúng túng, thậm chí một số DN xin thôi không làm thí điểm vì trong một thời gian dài vẫn chưa xác lập được quyền sở hữu đối với một số tài sản, công nợ khó đòi ..; - Chưa có chính sách ưu đãi thỏa đáng cho DN và người lao động trong DN CPH, dẫn tới người lao động cảm thấy quyền lợi của mình không được đảm bảo, bị thiệt thòi khi chuyển sang hình thức CTCP. - Nguyên tắc định giá DN vẫn còn chung chung, chủ yếu căn cứ vào kiểm kê giao vốn. Hơn nữa, việc định giá tài sản mang nặng tính chủ quan của người bán là Nhà nước, chưa xét đến nhu cầu và quyền lợi của người mua nên đưa vào giá trị DN những tài sản thuộc đối tượng không có nhu cầu sử dụng, sinh lời. Tình hình trên đã làm cho tiến trình thí điểm trong giai đoạn này hết sức khó khăn và chậm chạp. 1.3.2. Giai đoạn mở rộng (từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998) Sau năm năm thực hiện thí điểm CPH DNNN, để chương trình CPH DNNN được triển khai theo đúng định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, trong kết luận của Bộ Chính trị về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 đã khẳng định: “Tổng kết kinh nghiệm một số DNNN đã CPH để có những kết luận cần thiết. Thực hiện CPH từng bước vững chắc một bộ phận DNNN vì mục tiêu, hiệu quả của sự phát triển và giữ vững định hướng XHCN”. Thực hiện các chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/CP ngày 07/05/1996 về việc chuyển một bộ phận DNNN thành CTCP, Nghị định số 25/CP ngày 26/03/1997 sửa đổi một số điều của Nghị định 28/CP, Chỉ thị 658/TTg ngày 20/08/1997 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy, triển khai vững chắc công tác CPH... Các qui định này đã tạo ra được cơ sở pháp lý để chuyển các DNNN sang hình thức CTCP đã được Luật Công ty năm 1990 xác định. Tuy nhiên trong giai đoạn này, cả nước mới chỉ thực hiện CPH thêm được 25 DNNN [37]. Kết quả này cho thấy hệ thống cơ chế chính sách về CPH vẫn còn chưa hoàn chỉnh. Nghị định 28/CP và Nghị định 25/CP của Chính phủ còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện: - Việc huy động vốn chưa được khai thác tốt là do Nghị định 28/CP giới hạn vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước 5 - 10% giá trị doanh nghiệp; chưa qui định về việc bán cổ phần cho người nước ngoài. - Việc hướng dẫn, giải thích các tiêu chí để lựa chọn DNNN CPH chưa đầy đủ, rõ ràng. Ví dụ: thế nào là qui mô vừa và nhỏ, thế nào là không thuộc diện Nhà nước cần thiết giữ 100% vốn đầu tư... - Nghị định 28/CP đưa ra 3 hình thức CPH DNNN nhưng có hình thức lại quá mơ hồ, không có tiêu chí rõ ràng, cụ thể như tách một bộ phận DNNN có đủ điều kiện để CPH. Vậy thế nào là đủ điều kiện? đó là những điều kiện gì? cách thức tách và tổ chức CPH theo hình thức này ra sao?.. - Về việc xác định giá trị DN CPH còn nhiều hạn chế: chưa qui định vấn đề xử lý nợ, thiếu một hệ thống văn bản qui phạm pháp luật qui định và hướng dẫn, thiếu đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ để định giá DN. - Chưa chú ý đúng mức tới quyền lợi người mua: giá trị DN CPH vẫn còn chứa đựng những yếu tố rủi ro cao, hoặc người mua không có nhu cầu như tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, công nợ dây dưa. - Chính sách ưu đãi cho DN và người lao động khi tiến hành CPH chưa thực sự hấp dẫn. - Các chính sách nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý cho chương trình CPH chưa đầy đủ, đồng bộ và còn nhiều bất cập. 1.3.3. Giai đoạn đẩy mạnh (từ 7/1998 đến nay) Để khắc phục những mặt tồn tại, nhằm tháo gỡ những vướng mắc, đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành TW Đảng (khóa VIII) tháng 12/1997 đã nêu rõ định hướng và giải pháp CPH một bộ phận DNNN như sau: “Phân loại doanh nghiệp công ích, doanh nghiệp kinh doanh, xác định danh mục doanh nghiệp cần giữ 100% vốn Nhà nước; loại DNNN cần nắm giữ cổ phần chi phối; loại DNNN chỉ cần giữ cổ phần ở mức thấp”. Quán triệt chủ trương của Đảng, ngày 29/06/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP thay thế Nghị định 28/CP. Các Bộ, ngành chức năng cũng đã ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn Nghị định. Nghị định mới đã thay đổi một cách căn bản cơ chế chính sách CPH hiện hành theo hướng: xác định rõ và giảm thiểu danh mục ngành nghề Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, chủ động trong việc triển khai thực hiện CPH DNNN, mở rộng ưu đãi, tạo thêm thuận lợi, đơn giản hóa các thủ tục, bảo đảm chính sách xã hội thỏa đáng đối với người lao động. Chính vì vậy, số lượng DN được CPH tăng đáng kể. Sau 4 năm thực hiện Nghị định 44/1998/NĐ-CP, đã CPH được 793 DNNN và bộ phận DNNN [4]. Tốc độ CPH sau Nghị định 44/1998/NĐ-CP tuy được đẩy nhanh hơn, song so với số lượng gần 6.000 DNNN đang tồn tại ở thời điểm đó, có thể thấy quá trình đổi mới, sắp xếp DNNN không tiến triển đáng kể. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự chậm trễ trên, trong đó có những nguyên nhân về mặt cơ chế chính sách như: qui định về đối tượng CPH chưa rõ ràng, quyền mua cổ phần lần đầu của các nhà đầu tư còn bị hạn chế, cơ chế xử lý những tồn tại về tài chính của DN trước khi CPH chưa được cụ thể. Công tác định giá chưa gắn với thị trường. Chính sách cho người lao động và doanh nghiệp CPH còn chưa hợp lý. Thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan trong công tác CPH chưa rõ ràng, còn chồng chéo... Để tạo thêm động lực mới cho tiến trình CPH, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển đổi DNNN thành CTCP. Với 36 điều, Nghị định số 64/2002/NĐ-CP đã qui định nhiều vấn đề cụ thể hơn về tiến trình CPH. Rút kinh nghiệm của các văn bản pháp luật trước đây về CPH, Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã điều chỉnh một số vướng mắc mà trong quá trình CPH theo các văn bản pháp luật trước đây không giải quyết được, đó là: mở rộng đối tượng CPH, xác định rõ hơn mục tiêu CPH, mở rộng quyền mua cổ phần lần đầu của các nhà đầu tư, bỏ mức khống chế quyền mua cổ phần lần đầu, bổ sung các ưu đãi đối với DN CPH cũng như đối với người lao động trong DN và đặc biệt là việc xác định giá trị DN theo hướng gắn với thị trường. Kết quả là số lượng DNNN CPH trong thời gian thực hiện Nghị định 64/2002/NĐ-CP tăng lên đáng kể với tổng số 1.449 DNNN [5, 37]. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Nghị định 64/2002/NĐ-CP, nhiều vấn đề nảy sinh cần phải được điều chỉnh. Nghị định số 187/2004/NĐ-CP được ban hành đã điều chỉnh, bổ sung một số vấn đề để phù hợp hơn với thực tiễn CPH sinh động: Thứ nhất, mở rộng đối tượng DN thực hiện CPH với việc bổ sung thêm đối tượng là công ty nhà nước có qui mô lớn không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn và DN phải còn vốn Nhà nước sau khi xử lý các tồn tại về tài chính, nợ và tài sản tồn đọng, không cấp thêm vốn cho DN để CPH. Thứ hai, tăng cường trách nhiệm của DN CPH trong việc xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, nợ và tài sản tồn đọng khi chuyển công ty nhà nước sang CTCP, khẳng định vai trò của công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN đối với việc xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng của DN CPH. Thứ ba, đổi mới nội dung và phương pháp xác định giá trị DN CPH. Nghị định qui định cụ thể 2 phương pháp xác định giá trị DN là phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu và cho phép DN áp dụng các phương pháp khác sau khi thỏa thuận với Bộ Tài chính. - Xóa bỏ cơ chế xác định giá trị DN thông qua Hội đồng chuyển sang cơ chế định giá do các tổ chức chuyên nghiệp thực hiện để nâng cao tính chuyên nghiệp và tính minh bạch trong hoạt động định giá. Tuy nhiên để đảm bảo tiến độ CPH, đối với DN có qui mô dưới 30 tỷ đồng thì giao cho DN tự xác định để trình cơ quan có thẩm quyền quyết định. - Bổ sung xác định giá trị tài sản là giá trị quyền sử dụng đất của DN (tùy theo từng trường hợp thuê hay được giao) cho phù hợp với qui định của Luật Đất đai 2003. - Sửa đổi, bổ sung qui định về việc xác định giá trị vốn đầu tư dài hạn của DN CPH tại các DN khác theo hướng DN được quyền lựa chọn việc kế thừa hay không kế thừa các hoạt động đầu tư dài hạn vào các DN khác. Trường hợp DN kế thừa thì giá trị vốn đầu tư dài hạn của DN CPH tại các DN khác được đánh giá theo giá thị trường tại thời điểm định giá nhưng không được thấp hơn giá trị ghi trên sổ sách kế toán. Thứ tư, về cơ chế bán cổ phần lần đầu. Để khắc phục những bất cập trong công tác định giá và bán cổ phần (đặc biệt là xu hướng CPH nội bộ), đồng thời giảm thiểu tổn thất cho ngân sách nhà nước trong quá trình CPH, cơ chế bán CP được điều chỉnh theo hướng nâng cao tính công khai minh bạch, gắn với thị trường, tạo điều kiện để các nhà đầu tư tiếp cận nguồn cổ phiếu, DN huy động được vốn, đổi mới phương thức quản lý, đồng thời góp phần thúc đẩy thị trường vốn và TTCK phát triển, cụ thể: - Về phương thức bán CP: Nghị định qui định việc bán CP phải qua đấu giá thay cho cơ chế ấn định giá trước đây, xóa bỏ cơ chế bán cổ phần theo giá sàn cho người lao động trong DN. Đấu giá trực tiếp tại DN đối với trường hợp có tổng mệnh giá của số CP bán đấu giá từ 1 tỷ đồng trở xuống; đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian đối với trường hợp trên 1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng và từ 1 tỷ đồng trở xuống nếu có nhu cầu; đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán đối với trường hợp trên 10 tỷ đồng và từ 10 tỷ đồng trở xuống nếu có nhu cầu. - Về đối tượng và quyền mua CP: bên cạnh việc duy trì cơ chế bán CP ưu đãi giảm giá cho người lao động trong DN, Nghị định đã chú trọng và tạo điều kiện để các nhà đầu tư tham gia góp vốn mua CP thông qua qui định: + Không khống chế quyền mua của các nhà đầu tư. Riêng nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế tỷ lệ CP được mua ở một số ngành nghề nhất định do Chính phủ qui định. + Nhà đầu tư chiến lược được mua tối đa 20% số CP bán ra với giá ưu đãi giảm 20% so với giá đấu thành công bình quân. DN CPH lựa chọn nhà đầu tư chiến lược trình cơ quan có quyết định CPH phê duyệt. + DN phải dành tối thiểu 20% vốn điều lệ để bán đấu giá công khai cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, Nghị định còn khuyến khích DN đủ điều kiện niêm yết trên TTCK thì thực hiện bán CP lần đầu gắn vói việc niêm yết trên TTCK. Thứ năm, về chính sách ưu đãi đối với người lao động trong DN CPH. Nghị định này vẫn kế thừa các chính sách ưu đãi qui định trước đây, riêng chính sách về bán CP ưu đãi có điều chỉnh bổ sung như sau: - Điều chỉnh số lượng CP được mua ưu đãi giảm giá lên tối đa 100 CP/năm công tác trong khu vực nhà nước. - Về giá bán CP: người lao động được mua theo giá đấu thành công bình quân với mức giá giảm 40% và được quyền tự do mua bán, chuyển nhượng CP ưu đãi (trước đây được mua theo giá sàn với mức giá giảm 30% và chỉ được quyền chuyển nhượng sau 3 năm sở hữu). - Cùng với việc xóa bỏ cơ chế bán CP theo giá sàn, cơ chế bán CP trả chậm cũng được xóa bỏ. Thứ sáu, về chính sách đối với DN sau CPH: Để tạo điều kiện giúp DN sau CPH ổn định và phát triển, Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định DN khi chuyển sang hoạt động theo CTCP được hưởng ưu đãi như DN mới thành lập mà không cần phải có thủ tục chứng nhận ưu đãi đầu tư. Đồng thời để khuyến khích CTCP niêm yết trên TTCK thì ngoài ưu đãi như DN mới thành lập, công ty thực hiện niêm yết ngay sẽ được hưởng thêm chính sách ưu đãi theo qui định của pháp luật về TTCK. Thứ bẩy, về quản lý phần vốn nhà nước tại CTCP. Đối với phần vốn nhà nước tại DN, đại diện chủ sở hữu được quyền quyết định việc bán tiếp cổ phần thuộc sở hữu nhà nước tại CTCP thông qua niêm yết, đấu giá theo qui định của Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty chứ không phải sau 3 năm như Nghị định 64/2002/NĐ-CP nhằm khắc phục xu hướng CPH khép kín trong nội bộ và tạo điều kiện có thêm nhân tố mới để đổi mới phương thức quản lý. Kết quả số lượng DNNN CPH trong thời gian thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP cho đến 10/2005 là 440 DNNN [5, 36, 37]. Tóm lại, qua việc trình bày khái quát về CPH DNNN và DNDNN cũng như sự phát triển của các qui định pháp luật về CPH DNNN ta thấy việc sắp xếp, đổi mới DNNN nói chung và DNDNN nói riêng là một yêu cầu tất yếu khách quan, trong đó CPH là một giải pháp cơ bản với nhiều ưu điểm. Các cơ chế chính sách của Nhà nước ta về CPH cũng liên tục được sửa đổi, bổ sung để giải quyết các vướng mắc nảy sinh trong thực tế tùy theo yêu cầu phát triển của từng thời kỳ. Vì vậy việc tiến hành CPH ngày càng thuận lợi và có bước chuyển biến rõ rệt về chất trong cơ chế chính sách và pháp luật của Nhà nước ta, thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, từ CPH các DNNN trong một số lĩnh vực đến CPH hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế; Thứ hai, từ CPH các DNNN vừa và nhỏ đến CPH các DN có qui mô lớn, thậm chí rất lớn và không chỉ CPH doanh nghiệp độc lập mà toàn tổng công ty; Thứ ba, từ cơ bản là CPH khép kín, nội bộ đến hình thức CPH thông qua đấu giá công khai, bán ra ngoài thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chương 2 Thực trạng thi hành pháp luật về Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước Trong lĩnh vực dược 2.1. Khái quát về doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dược Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực dược (sau đây gọi chung là doanh nghiệp dược nhà nước) là một bộ phận cấu thành nên ngành dược Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng thuốc, đáp ứng cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Những đóng góp cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân của DNDNN là to lớn và là một bộ phận kinh tế quan trọng không thể tách rời trong ngành y tế. Doanh nghiệp dược có hai nhiệm vụ song song, đó là kinh doanh và phục vụ trong đó mục đích phục vụ sức khỏe nhân dân được đặt trên mục đích kinh doanh. 2.1.1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp dược nhà nước Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, các cơ sở sản xuất thuốc ở cả miền Bắc và miền Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, còn việc phân phối thuốc được giao cho Bộ Nội thương quản lý. Từ năm 1954, việc quản lý nhà nước về thuốc được giao cho Bộ Y tế đảm nhiệm. Cho đến cuối những năm 80, theo chủ trương phân cấp các hiệu thuốc huyện cho UBND huyện quản lý, ngành Dược Việt Nam có hàng trăm công ty, xí nghiệp Trung ương, tỉnh và hơn 50 công ty dược cấp huyện [31]. Hệ thống doanh nghiệp được tổ chức theo hệ thống quản lý hành chính nhà nước trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Mạng lưới sản xuất, cung ứng thuốc do Nhà nước độc quyền trong chế độ bao cấp nói chung, chưa hình thành các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh thuốc do cơ chế, chính sách chung của Nhà nước thời kỳ đó. Việc cung ứng thuốc được thực hiện theo một kênh phân phối duy nhất từ Trung ương đến địa phương do các DNNN đảm nhiệm. Nhà nước thực hiện chế độ phân phối bao cấp về giá, về chủng loại, số lượng thuốc thì hạn chế. Các DNDNN được thành lập tràn lan, nhiều về số lượng nhưng lại nhỏ về qui mô, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý. Hệ thống DNDNN nằm trong hệ thống quản lý hành chính - kinh tế khá phức tạp với các mối quan hệ đa dạng. Cơ quan quản lý nhà nước có sự lẫn lộn trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước với việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các DNDNN từ Trung ương tới địa phương với hoạt động chỉ mang tính chất phúc lợi xã hội, từ khâu sản xuất tới lưu thông phân phối thuốc đều theo kế hoạch Nhà nước giao. Doanh nghiệp phải thực hiện đúng chỉ tiêu kế hoạch, không có quyền tự chủ trong kinh doanh. Thị trường thuốc chưa hình hành theo đúng nghĩa nên các nhu cầu đều xuất phát từ sự hoạch định chủ quan của các tổ chức vạch kế hoạch. Điều này có thể phù hợp với thực trạng nền kinh tế, trình độ quản lý kinh tế của nền kinh tế tập trung, trong thời kỳ bảo vệ tổ quốc và thời kỳ đầu xây dựng đất nước thống nhất, tuy nhiên bộc lộ một số nhược điểm: - Nhà nước giữ độc quyền về sản xuất, phân phối thuốc nên không tạo ra sự cạnh tranh, không kích thích sản xuất phát triển. Nguồn thuốc chủ ._.ng các phương thức thị trường, tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng diện CPH DNNN, kể cả các tổng công ty nhà nước trong các ngành, lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để xã hội hóa và huy động thêm vốn, hình thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, tạo thêm động lực và cơ chế quản trị DN năng động, hiệu quả. Thực hiện việc bán cổ phần của các DNNN CPH, trước hết là các tổng công ty, công ty có qui mô lớn, hoạt động có hiệu quả trên TTCK. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khóa IX, Chỉ thị số 45 CT/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN trong hai năm 2004 - 2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg ngày 24 tháng 08 năm 2004 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty nhà nước và yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty rà soát, bổ sung DNNN thực hiện sắp xếp theo tiêu chí này, trong đó chú trọng CPH DNNN. Theo tiêu chí trên, số DNDNN ở Trung ương tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước ở 03 doanh nghiệp tại 3 khu vực Bắc, Trung, Nam: Công ty Dược phẩm Trung ương I, Công ty Dược phẩm Trung ương II và Công ty Dược phẩm Trung ương III. Số DNDNN ĐP tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước là 03 doanh nghiệp: Công ty Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Dược Bình Định và Công ty Dược Phú Yên. Số doanh nghiệp còn lại sẽ sắp xếp theo hình thức CPH; trường hợp không CPH được thì lựa chọn hình thức sắp xếp khác phù hợp (giao, bán, giải thể, phá sản...). Cụ thể là trong thời gian tới, DNDNN TW còn 06 doanh nghiệp cần CPH, trong đó có 03 doanh nghiệp còn tồn lại chưa CPH được từ những năm trước, DNDNN ĐP còn 36 doanh nghiệp cần CPH. Ngoài ra, theo tiêu chí tại Quyết định 155/2004/QĐ-TTg, Tổng công ty Dược Việt Nam và các đơn vị thành viên (đã CPH hay chưa CPH hoặc giữ nguyên 100% vốn nhà nước) cũng cần được sắp xếp lại theo mô hình công ty mẹ - công ty con phù hợp với yêu cầu phát triển của thời kỳ đổi mới cùng với việc sắp xếp lại và đổi mới hệ thống cung ứng thuốc thống nhất trong toàn Tổng công ty. Việc sắp xếp này nhằm góp phần ổn định thị trường thuốc, làm cơ sở để thay thế dần chức năng điều hành của Tổng công ty, đảm bảo việc cung ứng thuốc cho nhân dân ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn, kịp thời hơn và phù hợp với nội dung cơ bản của Chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam là đảm bảo cung ứng đủ thuốc thường xuyên và có chất lượng cho nhân dân. Đồng thời chuyển mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên từ liên kết hành chính sang cơ chế đầu tư tài chính, tạo ra sự liên kết bền chặt. Trên cơ sở đó, xác định rõ quyền lợi, trách nhiệm về vốn và lợi ích kinh tế giữa công ty mẹ với các công ty con; thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn, tập trung nguồn lực cho đầu tư hiện đại hóa và phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng cường năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu hướng hội nhập. Bên cạnh đó, trong thời gian tới, Bộ Y tế cũng như các địa phương cần tiến hành rà soát hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp dược đã CPH có vốn Nhà nước tham gia; bán đấu giá cổ phần thuộc vốn nhà nước tại những công ty cổ phần hoạt động không hiệu quả, hoặc Nhà nước không cần thiết phải nắm giữ cổ phần. Đồng thời, xem xét cấp bổ sung vốn cho các doanh nghiệp dược cần ưu tiên phát triển. Các nhiệm vụ nêu trên thực sự nặng nề vì cho đến nay có thể thấy rằng tiến độ CPH DNDNN không những không đạt chỉ tiêu đề ra mà còn có xu hướng chững lại. Nguyên nhân chủ yếu là các DNDNN chưa CPH còn lại hầu hết là các doanh nghiệp đang có những vướng mắc: nhiều doanh nghiệp đang thực hiện những dự án đầu tư lớn, nhiều vấn đề tài chính cần xử lý ở tầm liên ngành..., mô hình tổ chức lại Tổng công ty dược chưa được thống nhất hoàn thiện, phê duyệt. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương và đặc biệt là từ phía doanh nghiệp, ngoài ra cũng cần có những giải pháp hữu hiệu để có thể hoàn thành nhiệm vụ. 3.2. Một số giải pháp pháp lý nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp dược nhà nước Để thúc đẩy tiến trình CPH DNDNN, có nhiều giải pháp cần được tiến hành như: giải pháp kinh tế, giải pháp chính trị, giải pháp pháp lý, giải pháp xã hội... Tuy nhiên luận văn tập trung vào giải quyết các giải pháp pháp lý trong việc CPH DNDNN. Pháp luật hiện hành về CPH DNNN ngày càng được hoàn thiện, đã tạo ra một hành lang pháp lý khá đầy đủ cho vấn đề CPH DNNN song vẫn còn những điểm bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN xét từ hai khía cạnh: - Thứ nhất, xét riêng trong lĩnh vực CPH; - Thứ hai, xét trong mối liên hệ với các lĩnh vực liên quan khác như pháp luật về chứng khoán, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về lao động, cũng như một số lĩnh vực khác. Vì vậy, Nhà nước cần hoàn thiện các qui định của pháp luật về CPH DNNN cũng như pháp luật điều chỉnh hoạt động của DN nói chung. Để CPH DNNN thực sự đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp, CPH DNNN phải được tiến hành trên một nền tảng pháp lý vững chắc. Qua phân tích tình hình thực hiện qui định pháp luật về CPH DNNN trong lĩnh vực dược tại Chương II, có thể rút ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về CPH DNNN trên hai góc độ như sau: 3.2.1. Hoàn thiện qui định pháp luật trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nói chung 3.2.1.1. Củng cố và có chính sách hợp lý đối với các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa Theo kinh nghiệm CPH DNNN trong thời gian qua và kinh nghiệm quốc tế, các doanh nghiệp đang trên đà phát triển, sản xuất và kinh doanh các mặt hàng có chất lượng, hiệu quả, đang nằm trong thị hiếu tiêu dùng, có mức thu lợi nhuận lớn, không có khó khăn về khả năng thanh toán, tình hình tài chính lành mạnh, có đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý nhiều kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn giỏi và phẩm chất tốt, đang nhận được sự tín nhiệm cao của đông đảo quần chúng lao động trong DN, sẽ là những đơn vị thực hiện CPH hiệu quả nhất, kể cả quá trình tổ chức thực hiện cũng như hoạt động sau CPH. Vì vậy, để một DNNN hấp dẫn các nhà đầu tư, có thể CPH được nhanh chóng và đạt kết quả tốt, trước tiên doanh nghiệp đó phải có cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại, đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có xu hướng phát triển ổn định, có lãi, khả năng sinh lời cao và tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi CPH phải tương đối lành mạnh. Do đó, trước khi CPH, đối với những DN chưa đủ điều kiện cần thiết để thực hiện thì cần phải có chính sách cũng như kế hoạch chuẩn bị trên mọi phương diện kể cả thực hiện những biện pháp để giúp DNNN thực hiện cơ cấu lại. Đó có thể bao gồm những chính sách hỗ trợ vốn, bổ sung thay thế cán bộ, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là xử lý các khoản nợ tồn đọng để nhanh chóng hội tụ đầy đủ điều kiện tham gia CPH. Cụ thể là: a) Cơ cấu lại năng lực sản xuất kinh doanh Cần có cơ chế hỗ trợ cho các DNNN thuộc diện CPH để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các DNNN thuộc các ngành nghề kinh doanh có điều kiện như ngành dược mà điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp này còn chưa đáp ứng theo các qui chế chuyên môn về dược. Trên cơ sở đó, sau khi chuyển sang hình thức tổ chức mới, các doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động được ngay, không bị gián đoạn. Các doanh nghiệp này cần được nhận sự giúp đỡ từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN và được vay các khoản ưu đãi với sự điều chỉnh giảm về lãi suất và gia tăng về thời hạn. b) Lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp Quá trình CPH DNNN nói chung và DNDNN nói riêng chưa đạt được kế hoạch đề ra một phần là do vướng mắc trong việc giải quyết, xử lý nợ tồn đọng khó đòi lâu năm và nợ mới phát sinh, nhưng chủ yếu là nợ lâu năm khó đòi. Một số DNDNN từ Ban lãnh đạo đến người lao động trong doanh nghiệp đều rất tha thiết và quyết tâm CPH đối với DN mình đang công tác nhưng do vướng mắc về giải quyết công nợ tồn đọng đã phát sinh từ hàng chục năm, chưa được xử lý từ các giai đoạn trước nên không thể xác định được giá trị doanh nghiệp và dẫn đến việc không CPH được DN hoặc quá trình CPH kéo dài, gây tâm lý không ổn định cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc chưa xử lý được các khoản công nợ tồn đọng này có cả nguyên nhân khách quan, chủ quan và nguyên nhân từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước có liên quan (như cơ quan thi hành án, cục thuế...). Vì vậy, đối với nợ tồn đọng khó đòi, phát sinh trước thời điểm CPH, các cơ quan chức năng cần hỗ trợ DN CPH giải quyết dứt điểm. Đối với các khoản nợ có khả năng thu hồi thì hỗ trợ DNNN để thu hồi được trước khi CPH. Đối với những khoản nợ không thể thu hồi ngay thì cần xây dựng cơ chế cho phép doanh nghiệp được bóc tách công nợ chưa xử lý được để tiến hành CPH đối với phần vốn còn lại của doanh nghiệp. Việc xử lý công nợ tồn đọng sẽ được giải quyết theo các qui định pháp luật về xử lý nợ tồn đọng. Có như vậy, việc CPH DNNN mới có thể thực hiện được theo tiến độ đề ra và DN mới có thể ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, các qui định về xử lý nợ tồn đọng cần phải thông thoáng hơn bởi nếu qui định quá chặt chẽ, doanh nghiệp sẽ tìm mọi cách để xác định các khoản nợ đó không có khả năng thu hồi. Chẳng hạn như xác định khách nợ là doanh nghiệp, tổ chức đã giải thể, phá sản hoặc khách nợ là cá nhân đã chết, mất tích... Hơn nữa, cũng cần nghiên cứu lại tính khả thi của qui định pháp luật về vấn đề xác định các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi. Chẳng hạn điểm 1.3.2 phần I Mục B Thông tư số 85/2002/TT-BTC ngày 26/09/2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 69/2002/NĐ-CP qui định các căn cứ xác định các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi đối với khách nợ đã ngừng hoạt động là xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp về việc doanh nghiệp đã ngừng hoạt động không có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, do thay đổi hệ thống chính trị ở nhiều quốc gia, nhiều cơ quan thành lập doanh nghiệp nước ngoài nay đã thay đổi hoặc không còn tồn tại nữa. Vì vậy, đề nghị bổ sung việc cho phép đại sứ quán hoặc thương vụ của Việt Nam tại nước sở tại có quyền xác nhận doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, tránh trường hợp không có cơ quan nào xác nhận cho DN. Ngoài ra, cần cho phép thành lập các công ty hỗ trợ chuyển đổi sở hữu và mua bán nợ để giúp doanh nghiệp chủ động xử lý các khoản nợ phải thu ngay trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này rất cần thiết để xác định tài sản doanh nghiệp trước CPH theo hướng tiếp nhận, quản lý, khai thác và tổ chức bán đấu giá những loại tài sản không đưa vào giá trị doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu. Những giải pháp nêu trên nhằm mục tiêu là tạo cho CTCP chuyển đổi từ DNNN sự rõ ràng, minh bạch về vốn, có một điểm xuất phát với đầy đủ những gì cần có cho một CTCP theo đúng nghĩa. 3.2.1.2. Cụ thể hóa và phân định rõ ràng hơn về phương thức, lộ trình và trách nhiệm thực hiện Phương thức, lộ trình CPH DNNN là vấn đề lớn, có ảnh hưởng đến tiến độ CPH DNNN. Vì vậy, cần qui định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý có liên quan cũng như lãnh đạo DN trong trường hợp chậm CPH, gắn trách nhiệm hành chính của người lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương, lãnh đạo DN với kết quả sắp xếp và CPH ở đơn vị mình theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Các cấp trên quản lý DN phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với các quyết định của mình nếu quyết định đó sai hoặc chậm chễ, làm thiệt hại lợi ích của DN và cũng là lợi ích chung của xã hội. Điều 9 Nghị định 187/2004/NĐ-CP và khoản 4 Điều 19 Nghị định 69/2002/NĐ-CP qui định doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên lại không qui định thời hạn phải trả lời của các cơ quan này. Thực tế là vì chưa có quy định nên khi gặp tình huống khó khăn thì DN phải một mình hứng chịu, mặc dù DN không tự quyết định được các tình huống đó. Bên cạnh đó, cần qui định cụ thể trách nhiệm của lãnh đạo DN trong trường hợp DN chậm CPH so với tiến trình đã được phê duyệt. Điểm e khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 40 Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã bổ sung trách nhiệm của các Bộ, UBND tỉnh, thành phố trục thuộc Trung ương, Hội đồng Quản trị Tổng công ty nhà nước trong trường hợp không thực hiện phương án CPH đã được phê duyệt. Theo đó thì Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước, HĐQT Tổng công ty nhà nước phải chịu các hình thức kỷ luật theo qui định hiện hành. Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có tổ chức, cá nhân nào phải chịu hình thức kỷ luật về vấn đề này. Vì vậy, cần qui định rõ loại trách nhiệm pháp lí đối với hành vi này (trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hình sự...). Ngoài ra cũng cần qui định cụ thể trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chính sách, chế độ cho DN sau chuyển đổi, giải quyết kịp thời các vướng mắc cho DN. Hoàn thiện hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh và thông tin DN thuộc cơ quan kế hoạch và đầu tư để kết hợp đăng ký kinh doanh đối với DN sau CPH và cung cấp thông tin cho DN sau CPH. 3.2.1.3. Về vấn đề định giá doanh nghiệp Cần bổ sung qui định về việc tính toán và định giá tài sản vô hình như các mối quan hệ hợp tác, bằng phát minh sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa và đặc biệt là yếu tố nhân sự, đội ngũ lao động trong doanh nghiệp có trình độ, tâm huyết - “nguồn vốn” chất xám có tính chất quyết định đến thành công của DN, quyết định năng suất lao động - một yếu tố chi phí của đầu vào, đồng thời nó cũng quyết định định đến quá trình đổi mới công nghệ và hoàn thiện sản phẩm cũng như khả năng thích ứng của doanh nghiệp đối với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Đây là những yếu tố tác động đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Vì vậy, cần được quan tâm khi định giá doanh nghiệp, tránh thất thoát tài sản Nhà nước. Về việc xác định giá trị phần vốn đầu tư dài hạn của DN CPH tại DN khác, Nghị định 187/2004/NĐ-CP qui định DN được quyền lựa chọn việc kế thừa hoặc không kế thừa. Trong trường hợp doanh nghiệp kế thừa thì giá trị vốn đầu tư dài hạn của DN CPH tại các DN khác được đánh giá theo giá trị thị trường tại thời điểm định giá nhưng không được thấp hơn giá trị ghi trên sổ sách kế toán. Việc sửa đổi, bổ sung qui định này được lý giải là do “các hoạt động liên doanh, liên kết những năm đầu thường lỗ (theo kế hoạch), có trường hợp đối tác cố tình lỗ thông qua việc chuyển giá để mua lại phần vốn của DNNN” [5]. Qui định này nhằm giảm thiểu tổn thất cho Nhà nước trong quá trình CPH DNNN nhưng là phi thực tế, đi ngược lại với nguyên tắc gắn với thị trường trong định giá doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng có trường hợp DNNN góp vốn bằng quyền sử dụng đất và một số DNNN giờ đây thừa nhận rằng quyền sử dụng đất đó có thể đã được định giá quá cao khi thành lập liên doanh, góp vốn. Vì vậy, việc xác định giá trị tài sản DN cần phải được tính tại thời điểm xác định giá trị DN. Như vậy mới chính xác và là giá trị thực và cũng chính là tôn trọng quy luật thị trường, quy luật kinh tế. Do đó, việc áp đặt giá trị phần vốn đầu tư dài hạn vào DN khác tối thiểu phải bằng giá trị ghi trên sổ sách kế toán theo qui định pháp luật hiện hành không phải là giá trị thực tế và qui định này mới chỉ bảo vệ quyền lợi của Nhà nước. Điều này là không hợp lý và cần thiết phải qui định lại việc xác định phần vốn này theo giá thị trường tại thời điểm định giá DN CPH. Theo quan điểm của ông Daniel Musson, chuyên gia về DNNN, Ngân hàng thế giới tại Việt Nam về vấn đề định giá thì “Định giá không phải là một môn khoa học chính xác. Các phương pháp định giá hoặc là dựa trên thông tin quá khứ, hoặc là dựa trên dự đoán về tương lai. Phương pháp dựa trên thông tin quá khứ có thể không phản ánh được hiện tại và tương lai, còn phương pháp dựa trên suy đoán về tương lai thì phụ thuộc vào độ chính xác của suy đoán. Cách duy nhất để hạn chế những điểm yếu này là chào bán trên thị trường công khai”.[12] Ngoài ra, cần bổ sung việc tính tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật vào giá trị DN trên cơ sở chuyển thành cổ phần để chia cho người lao động trong DN tại thời điểm CPH theo thời gian thực tế đã làm việc tại DN. 3.2.1.4. Cụ thể hóa qui định về quyền của các cổ đông thiểu số Cần qui định quyền của các cổ đông thiểu số trong việc đề cử người vào HĐQT, ban Kiểm soát và quyền triệu tập ĐHĐCĐ, nhất là qui định về nguyên tắc xác định số lượng người mà họ được cử, cũng như hình thức và nội dung của việc yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ nhằm đảm bảo các quyền này có thể thực thi có hiệu quả trong thực tế. Bên cạnh đó, cần bổ sung cơ chế uỷ quyền biểu quyết nhằm tạo điều kiện tập trung lượng phiếu nhất định cho những quyết định tại ĐHĐCĐ trước áp lực của các cổ đông đa số. 3.2.1.5. Sửa đổi qui định về quyền, nghĩa vụ cổ đông là người lao động, nhà đầu tư chiến lược Các chính sách ưu đãi cho cổ đông là người lao động, cổ đông chiến lược cần thống nhất với Luật Doanh nghiệp hiện hành và theo nguyên tắc thị trường, tức là có thể bán cổ phần ưu đãi nếu họ muốn, để cổ phiếu có tính chuyển đổi. Điều này có nghĩa là người lao động, nhà đầu tư chiến lược có quyền bán cổ phiếu của mình nếu họ thấy lợi hơn là giữ, là hình thức đầu tư linh hoạt phù hợp với nhu cầu của người lao động... Điều này buộc Ban quản lý doanh nghiệp phải quản lý tốt cũng như cần phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cổ đông này. 3.2.1.6. Về trách nhiệm của doanh nghiệp sau cổ phần hóa Theo qui định tại Điều 108 Luật Doanh nghiệp, các công ty chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty được chuyển đổi. Khoản 2 Điều 8 Nghị định 187/2004/NĐ-CP cũng qui định công ty cổ phần được kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công ty nhà nước trước khi cổ phần hoá và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Qui định này gây khó khăn cho các doanh nghiệp CPH vì việc chuyển đổi hình thức hoạt động của DN tư nhân hoàn toàn khác với DNNN CPH. Khi DNNN CPH, hình thức sở hữu thay đổi từ sở hữu nhà nước sang các hình thức sở hữu khác (tập thể, tư nhân...), trong đó nhiều doanh nghiệp không còn vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề này cần phải phân biệt làm hai trường hợp: nếu nghĩa vụ, trách nhiệm của công ty nhà nước trước khi CPH đã được tính đến khi xác định giá trị doanh nghiệp thì CTCP có thể kế thừa các nghĩa vụ, trách nhiệm đó. Trường hợp các nghĩa vụ, trách nhiệm chưa được tính đến khi xác định giá trị DN thì CTCP không thể kế thừa. Tức là CTCP không thể kế thừa các trách nhiệm của DNNN trong mọi trường hợp. Đây là vấn đề nhạy cảm, gắn liền với lợi ích và nghĩa vụ của các cổ dông. Nếu qui định không rõ ràng sẽ gây bất lợi cho các cổ đông khi tham gia đầu tư vào DN CPH. 3.2.1.7. Có chính sách hợp lý giữa doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác Cần nghiên cứu và ban hành các chính sách để tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các DN CPH và các DNNN. Thực hiện việc xóa bỏ các ưu đãi mang tính chất bao cấp đối với DNNN như cho vay chỉ cần tín chấp với phương án được duyệt, cho vay với lãi suất ưu đãi, cho khoanh nợ, xóa nợ, giãn nợ... Mặc dù Nghị định 187/2004/NĐ-CP qui định DN CPH được tiếp tục vay vốn tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như áp dụng với các DNNN. Tuy nhiên trên thực tế các nhà cung cấp tín dụng đều khống chế mức tín dụng thấp hơn rất nhiều so với trước đây. Các hợp đồng tín dụng đều phải chuyển từ mối quan hệ tín chấp sang thế chấp bằng tài sản bảo đảm. Do đó, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trên cơ sở ban hành mới hoặc bổ sung sửa đổi một số luật như: Luật Doanh nghiệp, Luật Tín dụng ngân hàng... để từng bước và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn sự khác biệt về đối xử trong hoạt động kinh doanh đối với các loại hình doanh nghiệp, khuyến khích DN nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh. 3.2.1.8. Hoàn thiện qui định pháp luật nhằm thúc đẩy cổ phần hóa gắn với niêm yết trên thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán ở nước ta đã ra đời nhưng còn ít tác động tới chương trình CPH. Trong khi đó, phần lớn các DN CPH nói chung cũng như doanh nghiệp dược CPH nói riêng cũng lại “thờ ơ” với thị trường chứng khoán. Cho đến nay, chưa có doanh nghiệp dược CPH nào tham gia vào thị trường chứng khoán. Để tháo gỡ những vướng mắc từ cả hai phía, cần thực hiện các biện pháp: - Cần có các mức ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp CPH tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Việc thu hút được rất ít DN niêm yết là do DN chưa thấy những lợi ích mà TTCK mang lại là hấp dẫn. Mức ưu đãi giảm 50% thuế thu nhập DN trong 2 năm theo qui định hiện hành là không lớn, không đủ hấp dẫn doanh nghiệp. - Có chế tài để CTCP công khai hóa thông tin tài chính, bao gồm nội dung, hình thức công khai cũng như thời gian công khai. Số liệu công khai phải được cơ quan kiểm toán xác nhận. - Thành lập công ty tư vấn đầu tư chứng khoán giúp các công ty và người dân có vốn nhàn rỗi song ít hiểu biết về thị trường chứng khoán cũng có thể tham gia được. - Một trong nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp dược chưa tham gia vào thị trường chứng khoán là không đủ điều kiện để tham gia, trong đó điều kiện phải có ít nhất 50 cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ 20% vốn của doanh nghiệp. Trong khi đó, tỷ lệ phần vốn của Nhà nước trong doanh nghiệp dược là còn khá cao. Vì vậy trong giai đoạn tới, cần có cơ chế giảm dần vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp dược mà Nhà nước không cần thiết phải nắm giữ tỷ lệ cổ phần chi phối hoặc giữ cổ phần lớn. Trước mắt, cần bán toàn bộ phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp dược CPH có vốn dưới 01 tỷ đồng, tiến tới bán toàn bộ phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp dược CPH mà Nhà nước không cần thiết giữ cổ phần. 3.2.2. Hoàn thiện qui định pháp luật thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp dược nhà nước nói riêng 3.2.2.1. Không phân biệt điều kiện kinh doanh thuốc giữa các thành phần kinh tế Đối với các doanh nghiệp dược, cần có qui định thống nhất, bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong việc qui định các điều kiện kinh doanh thuốc. Mặc dù Luật Dược đã được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2005 trong đó điều chỉnh hoạt động đối với cả DNDNN lẫn các doanh nghiệp dược thuộc các thành phần kinh tế khác theo những qui định chung, thống nhất, nhưng việc thực hiện Luật và đưa Luật vào cuộc sống lại phụ thuộc rất nhiều vào các văn bản hướng dẫn Luật. Vì vậy, Chính phủ, Bộ Y tế cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Dược, đặc biệt là về vấn đề điều kiện kinh doanh thuốc để có cơ sở pháp lí thực hiện. Bộ Y tế đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược tại Tờ trình Chính phủ số 7721/TTr-BYT ngày 26/09/2005, nhưng cho đến nay Nghị định này vẫn chưa được ban hành. Bên cạnh đó, Bộ Y tế cần khẩn trương sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản hướng dẫn mà Luật Dược giao như: các bộ tiêu chuẩn thực hành tốt, danh mục và quy chế quản lý các dược liệu có chứa chất độc, chất gây nghiện, chất hướng tâm thần, tiền chất, quy chế đăng ký thuốc, quy chế thử lâm sàng... để có cơ sở pháp lý thực hiện thống nhất trong các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu. Ngoài ra, Bộ Y tế cần sửa đổi, bổ sung một số qui chế điều chỉnh hoạt động kinh doanh thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần và tiền chất làm thuốc theo hướng qui định các tiêu chuẩn, điều kiện kinh doanh các mặt hàng thuốc này áp dụng chung cho các doanh nghiệp dược thuộc các thành phần kinh tế. Bất kể là nhà nước hay tư nhân, DN nào đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện qui định thì đều được phép kinh doanh thuốc đó, chứ không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp dược thuộc khu vực nhà nước được phép kinh doanh mặt hàng thuốc này. 3.2.2.2. Cần sửa đổi Nghị định về thanh tra trong lĩnh vực y tế đối với việc qui định thanh tra hành chính doanh nghiệp dược nhà nước đã cổ phần hóa Trước đây, khi còn là DNNN, thuộc sự quản lý của cơ quan chủ quản, doanh nghiệp chịu sự thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, tổ chức nhân sự, hoạt động kinh doanh và thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan quản lý mình. Tuy nhiên, khi chuyển đổi hình thức sang công ty cổ phần, doanh nghiệp CPH hoạt động như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, thanh tra y tế chỉ có thể thanh tra đối với các hoạt động chuyên môn của doanh nghiệp chứ không thanh tra về tổ chức nội bộ doanh nghiệp cũng như là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như trước đây. Do đó, cần qui định rõ vấn đề này trong Nghị định về thanh tra trong lĩnh vực y tế. 3.2.2.3. Cần có cơ chế, chính sách để có thể thực hiện được nhiệm vụ xã hội của ngành dược Để có thể thực hiện được nhiệm vụ xã hội của ngành dược sau CPH DNDNN, cần có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách của Nhà nước cho ngành dược. Đó là: - Miễn giảm thuế, cho vay với lãi suất thấp và các ưu đãi khác đối với các doanh nghiệp dược đầu tư trang thiết bị, công nghệ tiên tiến sản xuất nguyên liệu làm thuốc, sản xuất, kinh doanh thuốc thiết yếu nhằm bảo đảm đáp ứng được 60% nhu cầu thuốc trong nước đến 2010; 100% DN sản xuất thuốc thành phẩm đạt tiêu chuẩn GMP của Tổ chức y tế thế giới; 100% cơ sở kiểm nghiệm thuốc đạt GLP của Tổ chức Y tế thế giới; 100% DN nhập khẩu và lưu thông thuốc có qui mô lớn đạt tiêu chuẩn GSP. - Cấp kinh phí cho nhiệm vụ dự trữ lưu thông thuốc theo danh mục thuốc do Bộ trưởng Bộ Y tế qui định và lượng kinh phí theo từng thời kỳ do liên Bộ Tài chính và Y tế thống nhất để phục vụ trong trường hợp có dịch bệnh, thiên tai, bình ổn giá và một số nhiệm vụ công ích khác của ngành dược. - Hỗ trợ về thuốc bằng những hình thức thích hợp cho các đối tượng thuộc diện chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; - Hạ bớt các tiêu chuẩn, điều kiện kinh doanh thuốc ở các vùng xa, vùng sâu, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, thực trạng đội ngũ cán bộ y tế và nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân trong từng giai đoạn. 3.2.2.4. Xây dựng kịp thời kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp dược nhà nước trong thời gian tới Bộ Y tế và các địa phương mà DNDNN chưa CPH phải xây dựng kế hoạch thực hiện CPH về danh sách các DNDNN sẽ CPH, tiến độ về thời gian, các bước thực hiện và phân công trách nhiệm theo dõi chỉ đạo. Có như vậy mới có thể phần nào khắc phục được tình trạng chậm chễ trong việc tiến hành CPH DNDNN. Phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN thuộc Bộ Y tế giai đoạn 2003- 2005 đến nay đã đi đến giai đoạn kết thúc. Vì vậy, để có cơ sở cho việc sắp xếp, đổi mới DNDNN trong thời gian tới, Bộ Y tế cần khẩn trương xây dựng Đề án tổng thể sắp xếp DNNN thuộc Bộ Y tế trong giai đoạn tiếp theo. Đối với lĩnh vực dược, cụ thể là: - Từ 2006 - 2007, thực hiện CPH tiếp 03 doanh nghiệp gồm Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 1, Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 5, Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25. - Sắp xếp các đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty theo hướng khuyến khích, tạo điều kiện để các đơn vị này lựa chọn phương án CPH nhằm phát huy các tiềm năng của đơn vị; - Chuyển đổi các DNNN thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên gồm Công ty Dược phẩrm Trung ương 1, Công ty Dược phẩm Trung ương 2 và Công ty Dược Trung ương 3 Đà Nẵng; - Thành lập Công ty dược có qui mô lớn theo hình thức công ty mẹ - con, trong đó lựa chọn một công ty thành viên độc lập của Tổng công ty làm nòng cốt cùng Văn phòng Tổng công ty hình thành một công ty mẹ, con là các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên và các CTCP có vốn góp chi phối của Nhà nước. Các công ty liên kết là các CTCP có vốn góp của nhà nước (không chi phối) gồm những DN đã CPH và những DN đang và sẽ CPH và các công ty liên kết khác theo sự tự nguyện. Kết luận Cho đến nay, tiến trình CPH DNNN nói chung cũng như CPH DNDNN nói riêng đã đạt được những thành công nhất định, đã khẳng định chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn và là giải pháp quan trọng trong việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Đây cũng là một giải pháp rất quan trọng cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả của nền knh tế. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh việc CPH một cách kiên quyết và dứt khoát, trên cơ sở đó, phát huy tính năng động và thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế, nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và ổn định, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, quá trình CPH DNNN vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập mà một trong những nguyên nhân của nó là hệ thống pháp luật về CPH DNNN và pháp luật liên quan đến hoạt động của DN sau CPH vẫn chưa được hoàn thiện và còn nhiều vướng mắc khi thực hiện. Do đó có ảnh hưởng nhất định tới tiến trình CPH DNNN. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện qui định pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước từ thực tiễn ngành dược” với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN. Trên cơ sở nghiên cứu qui định pháp luật về CPH DNNN và qui định pháp luật điều chỉnh hoạt động của DN sau CPH cũng như thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật này trong ngành dược, luận văn đã tìm ra các khó khăn, vướng mắc cần khắc phục và từ đó đề ra một số giải pháp pháp lý nhằm thúc đẩy quá trình CPH DNNN nói chung cũng như DNDNN nói riêng. Các giải pháp này cần được sử dụng kết hợp với nhau một cách hợp lý cùng với sự cố gắng nỗ lực từ phía Nhà nước, các Bộ, ngành, doanh nghiệp, các nhà đầu tư và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân. Có như vậy CPH DNNN nói chung và CPH DNDNN nói riêng mới đi đến thành công và đạt được mục tiêu đề ra. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32432.doc
Tài liệu liên quan