Hướng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam - Nghiên cứu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Thăng Long

Lời cảm ơn Trước khi đi vào trình bày chuyên đề này, lời đầu tiên em muốn nói là: em xin cảm ơn. Cảm ơn tất cả những ai đã giúp đỡ em để em có điều kiện được học hỏi dưới mái trường ĐHKTQD thân yêu. Em xin cảm ơn tất cả các thầy cô đã truyền dạy cho em bao kiến thức, không chỉ về kỹ năng mà còn về cách nhìn nhận cuộc sống. Em xin cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngân hàng - Tài chính đã dìu dắt em trong những năm học qua. Xin cảm ơn tập thể Ban lãnh đạo và CBCNV NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long đã t

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hướng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam - Nghiên cứu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập. Và em xin dành lời cảm ơn chân thành nhất của em tới Thầy giáo PGS.TS Vương Trọng Nghĩa, thầy hướng dẫn chính của em. Được sự thương yêu và quan tâm dạy bảo của thầy, em và bao thế hệ sinh viên khác đã được học hỏi, hiểu biết thêm nhiều điều. Thầy đã khuyến khích và giúp đỡ em rất nhiều trong việc hoàn thành bài viết này. Cuối cùng em xin cảm ơn và kính chúc các Thầy Cô giáo mọi điều tốt đẹp. mục lục chương i lý luận chung về cho vay tiêu dùng. Tính tất yếu của sự hình thành cho vay tiêu dùng. Sự hình thành và phát triển cho vay tiêu dùng. Lý do hình thnahf cho vay tiêu dùng. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM. Đối với người tiêu dùng. Đối với nhà sản xuất. Đối với NHTM. Đối với nền kinh tế. Lý luận chung về cho vay tiêu dùng. Khái niệm cho vay tiêu dùng. Đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng. Quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng lại lớn. Các khoản CVTD có lãi suất “cứng nhắc”. Các khoản CVTD có rủi ro cao. Chi phí thẩm định các khoản CVTD là khá lớn. Lợi nhuận thu được là khá cao. Phân loại cho vay tiêu dùng. Căn cứ vào đối tượng vay. Căn cứ vào mục đích vay. Căn cứ vào phương thức hoàn trả. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ. căn cứ vào thời hạn vay. Các phương thức và quy trình cho vay tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng tại các NHTM Việt Nam. Các nguồn cho vay tiêu dùng. Các tổ chức tài chính. Các ngân hàng thương mại. Hiệu cầm đồ. Công ty bảo hiểm. Ngân hàng tiết kiệm bưu điện. Hợp tác xã. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Các tổ chức khác. Giới thiệu về CVTD tại các NHTM Việt Nam. Các nhân tố ảnh hưởng tới cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nhân tố vĩ mô. Nhân tố vi mô. Nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan. chương ii thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNO&PTNT CHI NHáNH THăNG LONG 2.1 Giới thiệu về NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long 2.1.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức. 2.1.3 Các hoạt động của ngân hàng . 2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long. 2.2.1 Tình hình huy động vốn. 2.2.2 Tình hình sử dụng vốn. 2.2.3 Tình hình nợ quá hạn. 2.2.4 Kết quả tài chính. 2.3 Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long 2.3.1 Các quy chế pháp lý về cho vay tiêu dùng đang áp dụng tại ngân hàng. 2.3.2 Các loại hình cho vay tiêu dùng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long. 2.3.3 Tình hình chung về quy mô, cơ cấu của hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long. 2.4 Đánh giá hiệu quả hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long. 2.4.1 Doanh thu. 2.4.2 Lãi suất. 2.4.3 Rủi ro trong hoạt động CVTD. 2.4.4 Những thuận lợi của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long khi tiến hành CVTD 2.4.4.1 Xét dưới góc độ chủ quan 2.4.4.2 Xét dưới góc độ chủ quan. 2.4.5 Những hạn chế trong CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long 2.4.5.1 Xét dưới góc độ khách quan. 2.4.5.2 Xét dưới góc độ chủ quan. chương iii những ý kiến đề xuất nhằm mở rộng hoạt động CVTD tại NHNO&PTNT CHI NHáNH THăNG LONG 3.1 Định hướng phát triển hoạt động CVTD của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long trong thời gian tới. 3.1.1 Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT trong thời gian tới. 3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và CVTD nói riêng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long. 3.2 Những ý kiến đề xuất mở rộng hoạt động CVTD. 3.2.1 Hoàn thiện đối với cho vay không có tài sản bảo đảm 3.2.2 Hoàn thiện đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản. 3.2.3 Mở rộng hình thức CVTD có thế chấp bằng tài sản hình thành từ tiền vay. 3.2.4 Thực hiện CVTD thông qua các tổ chức trung gian. 3.2.5 CVTD thông qua người bán hàng. 3.2.6 Phát triển các sản phẩm khác. kết luận Lời nói đầu Phát triển sản xuất hàng hoá tiêu dùng nhằm phục vụ đời sống nhân dân và mở rộng sản xuất là một trong những chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trước đây, do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế cũ, sản xuất hàng hoá còn thấp kém, người dân chỉ mong “đủ ăn, đủ mặc”. Trong mấy năm gần đây, với dân số gần 80 triệu người, tăng trưởng kinh tế bình quân 8,2%, nhu cầu về hàng tiêu dùng ở nước ta đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Cùng với mức thu nhập ngày càng tăng, đòi hỏi của người dân cũng tăng lên, không chỉ dừng lại ở mức “đủ” mà cần “ăn ngon, mặc đẹp”. Trình độ dân trí cao, người ta muốn hưởng thụ sớm và nhiều hơn số tiền kiếm được. Tâm lý của người dân bây giờ không coi việc đi vay là thể hiện sự túng bấn mà là muốn sử dụng trước khi có khả năng thanh toán. Cho vay tiêu dùng (CVTD) thực sự đem lại lợi ích cho cá nhân người tiêu dùng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. CVTD giúp cho họ thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, nâng cao chất lượng cuộc sống trong lúc họ chưa đủ điều kiện. Lượng tiêu dùng hàng hoá tăng lại kích thích sản xuất kinh doanh phát triển và cuối cùng, hoạt động CVTD đem lại lợi nhuận cho người cho vay. Tuy nhiên, các NHTM tại TP.Hà Nội còn chậm trễ trong việc tiến hành CVTD, mới chỉ dừng lại ở một số ít đối tượng với món vay nhỏ lẻ. Trong khi thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế , văn hoá, thu nhập bình quân cao và nhu cầu về tiêu dùng, vay tiêu dùng rất lớn. Một thị trường lớn đang bị bỏ ngỏ, liệu các NHTM Việt Nam có kịp thời hành động nắm bắt khách hàng để mở rộng hoạt động kinh doanh cũng như cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác? Qua quá trình nghiên cứu thực tế tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long thời gian qua, em nhận thấy vấn đề CVTD đã tới lúc thật sự cần sự quan tâm và một hướng đi phù hợp, vì vậy em đã chọn đề tài “Hướng mở rộng hoạt động CVTD tại các NHTM Việt Nam (Nghiên cứu tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long )” làm mục tiêu nghiên cứu. Ngoài lời cảm ơn, lời nói đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương. Chương I: Lý luận chung về CVTD Chương II: Thực trạng hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long Chương III: Những ý kiến đề xuất nhằm mở rộng hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long CVTD là một đề tài còn mới mẻ ở Việt Nam. Do nhận thức còn hạn chế và thời gian nghiên cứu học hỏi chưa nhiều, bài viết không thể tánh hỏi thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy cô nhằm giúp em nhận thức tốt hơn về vấn đề nghiên cứu trên để bài viết trở nên hoàn thiện. chương i lý luận chung về cho vay tiêu dùng. Tính tất yếu của sự hình thành cho vay tiêu dùng. Sự hình thành và phát triển cho vay tiêu dùng. Vào những năm 1980 của thế kỷ 20, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) ở Mỹ phải tiến hành cải cách với lý do sự cạnh tranh gay gắt ảnh hưởng đến thực hiện nghiệp vụ của các NHTM. Trong thực tế, sức mạnh cạnh tranh đã và đang tạo ra những thay đổi trong lĩnh vực công nghệ, dân số học, luật pháp và chính nó sẽ góp phần vào sự thay đổi về dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, đồng thời làm giảm vai trò của các NHTM trong hệ thống tài chính, từ đó dẫn đến sự thay đổi cơ cấu của các NHTM. Môi trường cạnh tranh ngày càng thay đổi một cách nhanh chóng, các ngân hàng không còn khả năng duy trì như là tham gia cạnh tranh trong hệ thống tài chính. Cuộc khủng hoảng 1929-1933 đã từng bước xoá đi khả năng đứng vững của các ngân hàng và cuối cùng đưa tới một hệ thống ngân hàng yếu đuối và không đủ sức cạnh tranh. Công cụ để các NHTM cạnh tranh với các đối thủ khác không chỉ từ các quỹ tiết kiệm dài hạn (quỹ tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm công cộng và các liên hiệp tín dụng) mà còn từ các công ty tài chính tiêu dùng và công ty thương mại. Cuộc cạnh tranh xảy ra xuất phát từ những nhà môi giới và những nhà môi giới này đã hình thành ra “thị trường tiền tệ bán lẻ”. Cuộc cạnh tranh này xuất hiện sau những năm của thập niên 1970, nhưng phải chờ dến những năm đầu của thập niên 1980, trước đòi hỏi của các NHTM về “một lĩnh vực tham gia ở mức độ cao hơn”, Quốc hội Mỹ đã cho phép các NHTM cung ứng “tài khoản thị trường tiền tệ” và dịch vụ môi giới. Cũng trong giai đoạn này, sự tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều phương tiện liên kết giúp các NHTM có thể đặt quan hệ với mọi khách hàng trên thế giới. Sự xuất hiện của máy tính nối mạng Internet, kế đó là sự ra đời của máy rút tiền tự động (Automated Teller Machine - ATMs) đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh không chỉ giữa các ngân hàng với nhau mà còn giữa ngân hàng với các tổ chức tài khác. Các NHTM đã thực sự lột xác. Sau cuộc khủng hoảng 1930 kinh hoàng nhất trong lịch sử, hệ thống NHTM đã hết sức nỗ lực trong việc tìm kiếm con đường giành lại vị trí độc tôn trong hệ thống tài chính của mình. Các NHTM đã mở rộng hoạt động CVTD và đưa vào thị trường thế chấp bất động sản. Không có con đường nào là hoàn toàn bằng phẳng. Thời gian đầu, hầu hết các NHTM đã ngần ngại cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản CVTD nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao, do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ nay, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Sau đó, nhiều ngân hàng lớn đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Đến năm 1987, các NHTM ở Mỹ đã cung cấp 80% khối lượng tín dụng tiêu dùng, trong đó 45% chủ yếu dựa trên trả góp. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tiêu dùng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Các ngân hàng đã liên tục phát triển và trở thành những tổ chức cấp tiêu dùng chính trong lĩnh vực CVTD. Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho ngân hàng có được vị trí thống trị trên lĩnh vực CVTD là ngân hàng đã không ngừng khai thác nguồn tiền gửi của dân cư và coi đây là nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất. Rất nhiều hộ gia đình sẽ không muốn gửi tiền của mình vào một ngân hàng nếu họ không thấy được rằng mình sẽ có triển vọng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó khi có nhu cầu. Ngày nay, ngành kinh doanh tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh theo xu thế chung của nền kinh tế trên toàn thế giới. Nhiều công ty chuyên môn hoá đã tìm kiếm nhiều dạng dịch vụ khác nhau, và hiện nay đang mở rộng dần. Phù hợp với việc cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ, các tổ chức như công ty bảo hiểm, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, công ty chứng khoán...Ngày nay đã tham gia vào thị trường tài chính để cung cấp cho người tiêu dùng mà trước đây lĩnh vực này do công ty tài chính và ngân hàng thực hiện. Trong thời gian tới, chương trình tín dụng tiêu dùng sẽ tiếp tục đóng một vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng cũng như trong quản lý ngân hàng. Xu hướng này diễn ra bởi vì tín dụng tiêu dùng không chỉ là một trong những khoản mục mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng mà còn bởi vì người tiêu dùng với trình độ ngày càng cao sẽ vay nhiều hơn để nâng cao mức sống bản thân trên cơ sở triển vọng về thu nhập trong tương lai. Lý do hình thành cho vay tiêu dùng. Quan sát hoạt động mua bán thông thường, người ta thấy trên thực tế có hiện tượng phát sinh, người tiêu dùng có mong muốn sử dụng hàng hoá trước khi có khả năng thanh toán. Đó là nhu cầu tất yếu phát sinh trong cuộc sống hàng ngày của con người. Theo quan điểm marketing, “nhu cầu” được chia làm 3 cấp độ, đó là nhu cầu tự nhiên, mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán. Nhu cầu tự nhiên là vốn có, là một mặt bản thể của con người, gắn liền với chính sự tồn tại của bản thân con người như: cơm ăn, áo mặc, nhà ở... Còn mong muốn là nhu cầu tự nhiên nhưng mang tính đặc thù của từng cá nhân do sự khác biệt về bản tính, thói quen, công việc hay thu nhập...Ta thấy nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người là vô hạn. Tính hữu hạn nằm ở khái niệm thứ ba “ nhu cầu có khả năng thanh toán”, quyết định bởi sự giới hạn của khả năng thanh toán. Nếu ta lập một bảng thống kê những nhu cầu của một đời người thì đó là một con số vô hạn. Bởi lẽ nhu cầu con người là một hàm số đồng biến theo thời gian. Không chỉ dừng lại ở “ đủ ăn, đủ mặc” mà tiến tới là “ăn ngon, mặc đẹp”, nhu cầu được học hành, được tôn trọng... Nhưng xét tại một thời điểm, lợi ích thu được từ món đồ sử dụng là hoàn toàn khác nhau. Nếu ta có một chiếc xe máy lúc còn trẻ, ta có thể bớt được sức lực và thời gian, đi làm được nhiều việc. Nhưng nếu cũng chiếc xe máy lúc có tuổi, khi đó về sức khoẻ ta khó đảm bảo được sự an toàn của bản thân lúc vận hành, lại không cần thiết phải đi đây đó nhiều. Nhưng lúc tẻ ta chưa có khả năng thanh toán, phải dành dụm thì sau này mới có thể mua được. Vậy tại sao ta lại không hưởng thụ ngay từ bây giờ những thứ ta chắc chắn kiếm được trong tương lai? Cũng một ví dụ tương tự về việc học hành. Bây giờ ta cần tiền để đầu tư đi học, khi ra trường ta có thể dễ dàng tìm việc và kiếm tiền. Nhưng hiện tại ta lại không có tiền thì ước mơ đi học, có việc làm tốt cũng bay xa. Vậy tại sao ta lại không thể sử dụng số tiền ta sẽ kiếm được lúc có việc làm sau này để đi học? Đó thực sự là một ván đề quan trọng. Làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán này? Trên thực tế đã diễn ra hai cách giải quyết. Cách thứ nhất là mua bán chịu. Nhưng cách này chỉ có lợi đối với người mua và bất lợi đối với người bán và người bán thu hồi vốn chậm, lại gặp rủi ro đạo đức nếu người mua quỵt. Thế là khi cần tiền để nhập hàng (đối với người bán hàng) hoặc mở rộng sản xuất (đối với nhà sản xuất kinh doanh) thì đến lượt người bán dễ rơi vào tình trạng thiếu phương tiện thanh toán. Cách mua bán chịu hoàn toàn không khả thi, chỉ xảy ra trong trường hợp mua bán những đồ giá trị thấp, người mua có uy tín, quen biết. Thế còn cách thứ hai. Cách thứ hai là người mua vay được tiền. Họ sẽ cảm giác là đã đủ phương tiện thanh toán. Cách này vừa thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và nhà sản xuất cũng bán được hàng. Bây giờ đứng trên cương vị người bán hàng để xem xét. Ta thấy có hai trường hợp, người bán hàng là đại lý trung gian chuyên về lưu thông hàng hoá, hoặc người bán hàng trực tiếp là nhà sản xuất kinh doanh. Người bán hàng thì luôn luôn muốn tiêu thụ được hàng hoá. Nếu người mua không có phương thức thanh toán thì người bán có thể bán chịu hàng. Về phía người bán trước hết sẽ được lời mời của người bán cho họ bán chịu hàng. Tiếp đó người bán cho người đó lại được lời mời tương tự từ người bán khác. Và cuối cùng là người bán hàng cho những người kia được lời mời từ nhà sản xuất (lý do là người bán hàng muốn tiêu thụ được hàng hoá một cách nhanh chóng trong lúc người mua lại thiếu phương tiện thanh toán). Nhưng nhà sản xuất thì không thể cho vay nhiều tiền, thời hạn lớn được. Bán chịu nhiều hàng, vốn của họ cũng bị ứ đọng.Vậy là kết thúc quá trình tín dụng thương mại tại đây. Như Vậy là cần đến một tổ chức thứ ba: hỗ trợ cho cả người mua và người bán để họ luôn luôn có phương tiện thanh toán đối với các nhu cầu của họ. Không tổ chức nào đảm nhiệm được vị trí này tốt bằng các tổ chức trung gian tài chính, mà quan trọng nhất là các NHTM. Thực hiện hoạt động CVTD là ngân hàng đã mở rộng hoạt động kinh doanh, thu được lợi nhuận- mục tiêu quan trọng nhất của mọi tổ chức kinh tế. Cuối cùng, CVTD là một hoạt động tất yếu hình thành do yêu cầu của nền kinh tế, nhằm giải quyết ba vấn đề: người tiêu dùng có nhu cầu vượt quá khả năng thanh toán, người bán thì mong muốn tiêu thụ được hàng hoá( chấp nhận rủi ro có thể xảy ra) và những người có tiền muốn tìm kiếm thu nhập từ những hoạt động này. Đó là ba lí do chính hình thành nên nghiệp vụ cho vay tiêu dùng. 1.1.3 Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM. Một nhà kinh tế học lớn đã cho rằng: Ba phát minh vĩ đại nhất của loài người là lửa, bánh xe và ngân hàng trung ương. Như Vậy, chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng, huyết quản của nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng tác động đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các ngành nghề, tác động đến các biến số vĩ mô kinh tế khác. Sẽ không có một nền kinh tế vững mạnh nếu không có một hệ thống tài chính phát triển ( Ví dụ ở các nước giàu mạnh nhất thế giới như Mỹ, Nhật, EU… đều có hệ thống tài chính rất phát triển). Bất cứ hoạt động nào của ngân hàng, dù là nhỏ cũng sẽ tác động tới nền kinh tế. Hoạt động CVTD của NHTM cũng đóng một vai trò đáng kể trong đời sống xã hội và nền kinh tế. Đối với người tiêu dùng. Nhìn chung, có một số nhu cầu tự nhiên được xem là mục tiêu phấn đấu của cả đời người , là nhu cầu mà bất kì một người bình thường nào cũng cố gắng biến nó trở thành nhu cầu có khả năng thanh toán. Như nhu cầu về tổ chức hôn lễ, mua nhà, tiện nghi sinh hoạt, các phương tiện đi lại. Ngoài ra, là các nhu cầu mà con người thoả mãn càng sớm càng tốt. Chẳng hạn, nhu cầu về học hành của họ hay con cái họ, các nhu cầu phát sinh khi chuẩn bị một công việc làm ăn mới… Trong một đời người của cải được tích luỹ dần theo thời gian. Tuỳ điều kiện của mỗi người, nhưng thông thường việc mua sắm đầy đủ các tiện nghi trong gia đình thường mất khoảng thời gian dài. Khi đó lợi ích cảm nhận từ việc hưởng thụ đều có xu hướng giảm dần. Cho nên, người tiêu dùng luôn tìm cách phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn các nhu cầu với yếu tố thời gian và khả năng thanh toán hiện tại, tương lai( tìm cách hưởng thụ trước số tiền sẽ có được trong tương lai). Nếu phân tích theo khía cạnh tài chính, việc mượn tiền trước của ngân hàng để tiêu dùng khiến chúng ta phải trả lãi thực chất cũng chỉ là cách quy đổi luồng tiền mà ta sẽ có tại một thời điểm nào đó trong tương lai về thời điểm hiện tại. Chính vì những nguyên nhân trên, việc ngân hàng thực hiện và mở rộng hoạt động CVTD sẽ đem đến cho người tiêu dùng những lợi ích tốt nhất. Ta có thể khẳng định rằng người tiêu dùng là những người được hưởng trực tiếp và nhiều nhất những lợi ích mà hình thức CVTD mang lại. Đối với nhà sản xuất. Các nhà sản xuất có thể dễ dàng tìm thấy nhu cầu có khả năng thanh toán về các mặt hàng tiêu dùng khi các khách hàng đã tìm được nguồn tài trợ. Lợi ích đối với các nhà sản xuất kinh doanh là gia tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, từ đó đem lại lợi nhuận, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Khi đó, nhà sản xuất thuê thêm công nhân, tăng thu nhập cho người lao động; Vậy là CVTD lại gián tiếp đem lại lợi ích cho xã hội. Nhưng đồng thời, cho vay tiêu dùng tạo ra sự cạnh tranh cao hơn giữa các hãng sản xuất, các nhà kinh doanh cả về chất lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm. Một mặt, thúc đẩy sản xuất phát triển, một mặt người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn, qua đó tạo sự năng động cho nền kinh tế. Đối với NHTM. Hoạt động chủ yếu của các ngân hàng là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó để cho vay kiếm lời. Các NHTM song song với nỗ lực huy động vốn là khai thác tối đa thị trường tín dụng, nghĩa là đáp ứng tốt nhất các nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Hoạt động CVTD của ngân hàng đối với các cá nhân có quy mô nhỏ nhưng số lượng khách hàng tiềm năng và sự đa dạng của nhu cầu lại vô cung to lớn. Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng là vô tận, đó là nền tảng vững chắc của ngân hàng khi tiến hành CVTD. Khi tiến hành CVTD, các NHTM đều thấy rằng rủi ro trong hoạt động cho vay thường nhỏ hơn so với các nghiệp vụ khác. Lãi suất thực ngân hàng áp dụng trong loại hình CVTD rất cao, điều này khiến cho hoạt động CVTD có tỉ suất lợi nhuận không nhỏ. Hơn nữa, xu hướng hoạt động của các NHTM là phát triển đa năng tổng hợp luôn tìm cách mở rộng các nghiệp vụ cũng như đưa ra các sản phẩm mới. Việc thực hiện và phát triển CVTD vừa mở rộng được khách hàng cho vay, tận dụng được nguồn vốn huy động một cách hiệu quả, vừa đa dạng hoá các sản phẩm , dịch vụ ngân hàng. Từ đó ngân hàng tăng được sức mạnh trong cạnh tranh đồng thời tạo ra được những nét đặc trưng hấp dẫn riêng. Đối với nền kinh tế. Một trong các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của xã hội là mức sống của người dân. Vậy rõ ràng CVTD có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Bởi CVTD giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống khi chưa có khả năng thanh toán. Thị trường CVTD đã tạo nên sự sôi động của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn vốn cho khu vực sản xuất trong nước, tạo sức hút đầu tư nước ngoài. Với CVTD mà các NHTM cung cấp chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực sản xuất, cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp, thị trường hàng hoá nội địa phát triển. Bên cạnh các lợi ích về kinh tế, CVTD còn giúp nhà nước đạt được các mục tiêu xã hội như xoá đói giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm tệ nạn xã hội … Tóm lại, hoạt động CVTD là một tất yếu, phù hợp với sự phát triển của xã hội và tuân theo quy luật kinh tế. Dù cho là bên nào: người tiêu dùng, người cung cấp, NHTM hay tổng quan nền kinh tế nói chung đều được hưởng lợi ích từ hoạt động này. Vì nó thực sự là một hoạt động thiết yếu, đóng góp vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội chúng ta hiện nay. Lý luận chung về cho vay tiêu dùng. Khái niệm cho vay tiêu dùng Ngân hàng ra đời và phát triển từ rất sớm, ban đầu là nghiệp vụ giữ tiền hộ, sau đó phát sinh nghiệp vụ cho vay. Cho đến nay hoạt động của ngân hàng đã được đa dạng và chuyên môn hoá cao. Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay muợn tiền hoặc tài sản, trong đó ngân hàng là người cho vay, người đi vay là các tổ chức cá nhân trong xã hội trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả gốc lẫn lãi tại một thời điểm xác định trong tương lai. CVTD là một trong các nghiệp vụ của ngân hàng. Do đó, cho vay tiêu dùng là quan hệ vay mượn tiền, trong đó ngân hàng là người cho vay, người đi vay là các cá nhân, người tiêu dùng, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả gốc lẫn lãi tại một thời điểm xác định trong tương lai. Nhằm giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một mức sống cao hơn. Đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng. Quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng lại lớn. Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng thông thường có nhu cầu vay vốn không lớn, thậm chí khá nhỏ. Điều này là do giá của hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng không quá đắt đỏ, hoặc là khách hàng vay vốn đã có sự tích luỹ từ trước đối với các tài sản có giá trị lớn. Chính điều này đã dẫn đến quy mô của mỗi món vay tiêu dùng thường rất nhỏ, không thể so sánh với các món vay kinh doanh. Tuy vậy, trên thực tế tổng quy mô vay tiêu dùng của ngân hàng lại rất lớn. Đó là vì tuy mỗi món vay tiêu dùng có quy mô nhỏ nhưng do đây là những nhu cầu vay phổ biến, đa dạng, thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư nên số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng vay vốn là rất đông, khiến cho tổng quy mô của của CVTD lại trở lên khá lớn. Các khoản CVTD có lãi suất “cứng nhắc”. Không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường, lãi suất CVTD thường được cố định ở một mức nhất định, đặc biệt phổ biến trong CVTD trả góp. Việc chia khoản vay thành nhiều kì hạn trả nợ( đối với CVTD trả góp ) hoặc quá trình vay và trả nợ được thực hiện nhiều kì một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng ( đối với CVTD tuần hoàn như thẻ tín dụng, thấu chi) ngay từ khi bắt đầu thời kì tín dụng khiến lãi suất cho vay mang tính cố định, hầu như không thay đổi trong suốt quá trình tín dụng. Nguyên nhân chủ yếu các ngân hàng thương sử dụng lãi suất cố định là do khả năng quản lý va theo dõi cáckhoản nợ của ngân hàng chưa đủ. Nhưng với trình độ công nghệ ngân hàng hiện nay, các NHTM hoàn toàn khắc phục được yếu điểm trên. nếu khách hàng có nhu cầu, ngân hàng sẽ hoàn toàn thực hiện tốt. Các khoản CVTD có rủi ro cao. Loại hình CVTD luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro khá đáng kể. Rủi ro trong hoạt động CVTD cao hơn cho vay tài trợ sản xuất - kinh doanh dưới cả hai góc độ. Các rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thất nghiệp, bệnh tật… Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm cao theo chu kì. Nó tăng lên trong thời kì nền kinh tế mở rộng, khi mà mọi người dân cảm thấy lạc quan và tin tưởng vào tương lai. Ngược lại, khi nền kinh tế rời vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình cảm thấy không tin tưởng, nhất là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ ngân hàng. Ngoài ra, CVTD còn chịu một số rủi ro khách quan như là tình trạng công việc hay sức khoẻ của khách hàng, từ đó ảnh hưởng đến tình hình tài chính và khả năng trả nợ của các cá nhân và hộ gia đình. Vì các cá nhân và hộ gia đình thương khó vượt qua được những khó khăn về tài chính so với các doanh nghiệp. Thêm vào đó là sự ảnh hưởng của các tổ chức trung gian ( đơn vị, tổ chức có cán bộ công nhân viên vay vốn, các hội nông dân, các đơn vị chủ quản,… ), đặc biệt là hình thức vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo cũng mang lại những rủi ro đối với loại hình cho vay này. Chi phí thẩm định các khoản CVTD là khá lớn. Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục có chi phí lớn nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Thực tế là quy mô mỗi món vay tiêu dùng thường rất nhỏ, thời gian vay không kéo dài, trong khi đó số lượng các món vay tiêu dùng lại rất lớn. Hơn nữa, các thông tin về các cá nhân thường không đầy đủ và chính xác hoàn toàn. Điều này khiến cho ngân hàng rất vất vả trong quá trình cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng cũng như là quá trình giải ngân, thu nợ. Những điều trên khiến cho việc thực hiện các khoản vay tiêu dùng đối với ngân hàng là khá tốn kém, mất nhiều chi phí. Lợi nhuận thu được là khá cao. Tương ứng với mức rủi ro cao như vậy, các khoản CVTD có được mức lợi nhuận rất lớn trong các nguồn thu của ngân hàng. Các khoản vay tiêu dùng thường được định giá rất cao( có mức lãi suất cao) đến mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỉ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản vay tiêu dùng mới không đem lại lợi nhuận. Bên cạnh đó, số lượng các khoản vay tiêu dùng là khá nhiều, khiến cho tổng quy mô của CVTD là rất lớn, cùng với mức lợi nhuận trên mỗi khoản vay tiêu dùng lớn như vậy khiến cho lợi nhuận thu về từ toàn bộ hoạt động CVTD là rất đáng kể trong tổng doanh thu của ngân hàng. Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi đối tượng khách hàng trong lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay, CVTD đã trở thành một trong những nguồn thu chủ chốt của các ngân hàng thương mại, và vẫn còn tiếp tục hứa hẹn về triển vọng phát triển của loại hình cho vay này trong tương lai. Phân loại cho vay tiêu dùng. Căn cứ vào đối tượng vay. Trong việc xét duyệt cho vay, yếu tố quan trọng nhất đối với người đi vay là nguồn trả nợ. Chính vì thế, việc phân loại khách hàng theo công việc và thu nhập sẽ khiến ngân hàng dễ dàng hơn trong việc sàng lọc các đối tượng vay. ă Phân loại các khách hàng cá nhân theo mức thu nhập + Những cá nhân có mức thu nhập thấp. Nhu cầu về vay của nhóm người này thường rất hạn chế do nguồn thu nhập thường không đủ để thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng đa dạng của họ. Tuy nhiên, những người này cũng có các mong muốn chi tiêu không khác mấy so với những người có thu nhập cao hơn. Vì vậy nếu có biện pháp phù hợp cũng có thể hình thành được các món hợp lí đến nhóm đối tượng này. + Những cá nhân có thu nhập trung bình. Nhu cầu về vay tiền của nhóm này có xu hướng tăng trưởng ngày càng mạnh. Việc chạy theo những chi tiêu có tính chất phô trương dẫn đến quá khả năng thu nhập, hoặc mong muốn chi tiêu ngay lập tức các nguồn tài chính trong tương lai là những nguyên nhân làm nảy sinh nhu cầu về CVTD của nhóm người này. + Những cá nhân có thu nhập cao. Những người này thường cần tới CVTD với tư cách là những khoản phụ trợ linh hoạt, trợ giúp thêm vào khả năng thanh toán, đặc biệt khi tiền của họ đã bị trói chặt vào những khoản đầu tư dài hạn. Mặc dù sự vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng của họ chỉ thể hiện một tỷ trọng nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu, song họ lại thường đụng chạm đến những món tiền lớn và đó chính là lý do mà các ngân hàng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến nhóm khách hàng đi vay này. Nói chung, nhu cầu về tiêu dùng của hai nhóm sau là rất cao, thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức cầu tiêu dùng của các cá nhân. vì lẽ đó, nhu cầu CVTD chủ yếu đến từ những người có tu nhập trung bình và thu nhập cao. ă Phân loại khách hàng theo tình trạng công việc hay lao động. Thông thường nhu cầu vay của các cá nhân khác nhau phụ thuộc vào tình hình tài chính của họ, mà tình hình tài chính lại phụ thuộc vào tình trạng công tác hay lao động của các cá nhân. Từ khía cạnh này, ta có thể xếp loại khách hàng theo các nhóm tình trạng công tác hay lao động khác nhau, cụ thể là : Những người làm công ăn lương. Những người có công việc kinh doanh. Những người hành nghề chuyên nghiệp: bác sĩ, chuyên gia tư vấn, kiến trúc sư, ca sĩ… Những người lao động tự do. Các nhóm khác nhau, mức thu nhập cũng như sự ổn định về thu nhập cũng khác nhau. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định cấp tín dụng của ngân hàng, quyết định nguồn hoàn trả vốn và lãi chủ yếu của các cá nhân. Căn cứ vào mục đích vay. Cho vay tiêu dùng cư trú. Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng phi cư trú. Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí, du lịch, chữa bệnh hay thanh toán tiền viện phí, ma chay, cưới hỏi. Căn cứ vào phương thức hoàn trả. Cho vay tiêu dùng trả góp. Đây là hình thức CVTD trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng kì của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Đối với loại CVTD này, các ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề cơ bản sau : + Loại tài sản được tài trợ. Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản từ tiền vay đáp ứng được nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Khi lự._.a chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thường chú ý đến điều này, vì vậy thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thì hạn sử dụng lâu bền hay có giá trị lớn. Vì rằng, với những loại tài sản như vậy, người tiêu dùng sẽ được hưởng những tiện ích từ chúng trong một khoảng thời gian dài. + Số tiền phải trả trước. Thông thường ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm. Số tiền này được gọi là số tiền trả trước. Phần còn lại, ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để một mặt, làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chue sở hữu của tài sản, mặt khách lại có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng mình là chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người vay có thể sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ, trong nhiều trường hợp, ngân hàng đành phải tiếp nhận và phát mãi tài sản để thu hồi nợ. Hâù hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị, tức là giá trị thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có một vai trò rất quan trọng giúp ngân hàng hạn chế rủi ro. Số tiền trả trước thường phụ thuộc vào các yếu tố sau : Loại tài sản: đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền trả trước ít. Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng. Môi trường kinh tế. Năng lực tài chính của người đi vay. + Chi phí của khoản vay. Chi phí khoản vay là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử dụng vốn. Chi phí này chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi phí khoản vay này phải trang trải được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, rủi ro đồng thời mang lại một phần lợi nhuận thỏa đáng cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng phi trả góp. Theo phương thức này, tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản CVTD phi trả góp được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài. Cho vay tiêu dùng tuần hoàn Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là các khoản CVTD trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn cho vay thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng thời kỳ, khách hàngđược ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ. ĐCho vay tiêu dùng gián tiếp. Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho vay đối với nhà cung cấp để trên cơ sở đó nhà cung cấp trực tiếp bán chịu cho khách hàng. Ngân hàng Công ty bán lẻ (1) (4) (5) (6) (2) (3) Người tiêu dùng (1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng (HĐ), ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu… (2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết HĐ mua bán chịu hàng hoá. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản. (3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. (4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng. (5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ. (6) Người tiêu dùng thanh toán tiền nợ cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau: - Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số CVTD. - Cho phép ngân hàng tiết kiệm, giảm được chi phí trong cho vay. - Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác. - Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, CVTD gián tiếp mang tính an toàn cao, giảm bớt rủi ro. Bên cạnh đó, CVTD còn có những nhược điểm như : - Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được công ty bán chịu. - Thỉếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá. - Kỹ thuật nghiệp vụ CVTD gián tiếp có tính phức tạp cao. Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với CVTD gián tiếp. Ngoài ra còn những ngân hàng nào tham gia vào hoạt động CVTD này đều có các cơ chế kiểm soát cho vay rất chặt chẽ. Đ Cho vay tiêu dùng trực tiếp. Cho vay tiêu dùng trực tiếp là khoản CVTD trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay. Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được tiến hành thực hiện thông qua sơ đồ sau: Công ty bán lẻ Ngân hàng (3) (1) (5) (2) (4) Người tiêu dùng Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết HĐ vay. Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ. Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng. So với CVTD gián tiếp, CVTD trực tiếp có một số ưu điểm sau: - Nhân viên ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của mình trong việc quyết định các khoản vay, hơn là để cho các công ty bán lẻ thực hiện. Ngoài ra, trong hoạt động của mình, nhân viên của những công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc bán cho được nhiều hàng hóa. Thêm vào đó, tại các điểm bán hàng, các quyết định cho vay thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản cho vay được cấp không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cho vay đối với các khách hàng tốt của mình. Nếu như người quyết định là ngân hàng, những điều này có thể được hạn chế. - Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn so với CVTD gián tiếp. - Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể phát sinh, có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn ngân hàng. Căn cứ vào thời hạn vay. Giống như cho vay tới khách hàng công ty, CVTD cũng có các kỳ hạn ngắn, trung, dài hạn. Căn cứ vào đối tượng vay cụ thể, vào nguồn trả nợ của người vay, ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn vay vốn và thời hạn trả nợ cuối cùng. Khoản vay ngắn hạn có thời hạn tối đa là 12 tháng. Khoản vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng và tối đa tuỳ thuộc vàoquy định của từng quốc gia (36 tháng hoặc 60 tháng). Khoản vay dài hạn có kỳ hạn trên mức tối đa quy định cho khoản vay trung hạn. kỳ hạn của một khoản vay tiêu dùng có thể lên đến 2 năm mà việc thu nợ dựa trên hình thức trả góp hàng tháng. Các phương thức và quy trình cho vay tiêu dùng. 1.2.4.1 Các phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp. ăPhương thức 1: Cho vay trả theo định kỳ. Theo phương thức này,nếu được cấp tiền vay, toàn bộ số tiền vay được ghi nợ vào tài khoản cho vay và có ghi tài khoản tiền gửi cá nhân, hoặc được giao cho khách hàng một cách trực tiếp. Thông thường, người vay phải giải trình "mục đích sử dụng" trong hợp đồng cho vay dùng cho phương thức này. Kỳ hạn hoàn trả có thể khác nhau, nhưng thông thường không được vượt quá 3 hoặc 5 năm. Trong những chu kỳ đã thoả thuận, thường là 1 lần trên tháng, người vay tiến hành trả để giảm bớt số tiền nợ. Tiền lãi, khi đó được tính hàng tháng trên số dư còn lại của khoản tiền vay. Cũng có sự linh hoạt trong phương thức hoàn trả, chẳng hạn trong trường hợp khác, việc hoàn trả được tiến hành một lần vào thời điểm giao khoản vay bao gồm cả gốc và lãi. Ngoài sự linh hoạt về phương thức trả, còn có sự phong phú trong phương thức sử dụng tiền vay. Ngân hàng cũng cung ứng những khoản ững trước có tính chất dự phòng, nhgiã là, chỉ một phần khoản ững trước này được đem ra sử dụng trong kỳ hạn cho phép. Khi đó ngân hàng sẽ áp dụng phí cam kết có thể tính cho toàn bộ số tiền trong suốt kỳ hạn kể từ khi ngân hàng trao quyền sử dụng, hoặc có thể tính cho số tiền còn lại thuộc phần chưa dùng đến của khoản ứng trước đã cho phép. Đối với phương thức đã cho vay này, điều quan trọng là phải xem xét thu nhập ròng của khách hàng, có nghĩa là tiền lương cộng thêm nguồn thu nhập ròng của khách hàng trừ đi mọi chi phí cần thiết. Từ đó có thể đánh giá được năng lực hoàn trả của người vay cũng như quy mô của khoản tiền vay có thể được cấp. ă Phương thức 2 : Thấu chi Đây là cách thức cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai của anh ta vượt quá số dư, tới một hạn mức đã được thoả thuận, phương tiện chue yếu là séc. Nghiệp vụ này mang lại nhiều thuận lợi cho khách hàng sử dụng nó. Khách hàng chỉ phải trả lãi phần tiền của khoản ứng đã sử dụng theo mức lãi suất đã thoả thuận; không quy định các đối tượng cụ thể nào. Việc hoàn trả định kỳ không được thiết lập, khách hàng có thể hoàn trả một số tiền nào đó vào bất kỳ lúc nào đơn giản bằng cách gửi tiền vào tài khoản. Ngày tái xét được ấn định, thường là trong vòng một nưm, để cân nhắc xem có nên duy trì hay giảm bớt lượng tiền hoặc yêu cầu phải hoàn trả vào bất kỳ lúc nào. Khi cấp khoản tiền thấu chi, giám đốc hoặc cán bộ tín dụng, người có thẩm quyền quyết định vấn đề này, phát hành một thư nghiệp vụ để khách hàng ký chấp nhận. Thư nghiệp vụ bao hàm những nội dung chi tiết về khoản tiền thấu chi và điều kiện để theo đó khoản tiền thấu chi được cấp phát (gồm : hạn mức, lãi suất, yêu cầu bảo đảm, phí các loại, bảo hiểm, thời điểm tái xét, kỳ hạn nợ..). Đối với ngân hàng các tài khoản thấu chi cần được kiểm tra định kỳ nhằm xét xem tài khoản có hoạt động hiệu quả không, có tấm séc nào của chủ tài khoản bị trả về hay không, khoản khấu trừ có thực sự được dùng vào mục đích thoả thuận hay không (nếu có), số dư có biến động và cách nộp tín dụng có giao động hay không? ă Phương thức 3 : Thẻ tín dụng Đây là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng phát hành thẻ tín dụng cho những người mở tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng. Phương thức thẻ tín dụng bao gồm một sự thoả thuận giữa 3 bên : người giữ thẻ, ngân hàng và người bán hàng. Thẻ tín dụng có ý nghĩa như một sự bảo lãnh của ngân hàng đối với người bán hàng về việc chi trả một số tiền nhất định của chủ thẻ. Mỗi thẻ có một hạn mức tín dụng nhất định, có thể thay đổi tuỳ nhu cầu của khách hàng và mức độ tín nhiệm của ngân hàng. Hệ thống thẻ tín dụng đem lại rất nhiều lợi ích cho chủ thẻ. Đó là phương pháp thanh toán tiện lợi so với thanh toán bằng tiền mặt hoặc bằng séc trên các phương diện : sử dụng gọn nhẹ và an toàn về tài chính, có thể dùng thẻ để rút tiền mặt từ các ngân hàng hoặc để chuyển sang các tài khoản ngân hàng khác. nó tạo ra nguồn tín dụng được sử dụng ngay tại điểm bán hàng không cần thủ tục. Lệ phí giao dịch giảm với hoạt động của tài khoản khách hàng. Nhưng hơn cả phạm vi hoạt động của thẻ tín dụng là ưu điểm khó thay thế đối với các nhà kinh doanh và người du lịch. Đối với ngân hàng lợi tức thu được từ hoạt động thẻ bao gồm : Chiết khấu thương mại : Khi người bán hàng gửi hoá đơn đến ngân hàng thanh toán, ngân hàng sẽ chiết khấu một tỷ lệ phần trăm nhất định (thường từ 2 đến 5%) sau đó mới trả tiền cho người bán hàng. Lệ phí hàng năm : ngân hàng thu một lệ phí hàng năm từ chủ thể (ngoài việc thu tiền các tấm thẻ). Phí rút tiền mặt ứng trước : bao gồm phí điều hành cộng một tỷ lệ phần trăm của của tổng số tiền rút ra qua máy rút qua máy rút tiền tự động ATMs hoặc từ các chi nhánh ngân hàng. Lãi suất trên số dư nợ ngày đáo hạn : tính theo lãi suất ngân hàng hiện hành hoặc lãi phạt nếu khách hàng không thanh toán mức tiền tối thiểu vào ngày đáo hạn trên mức dư nợ thực tế. Lệ phí chuyển tiền liên ngân hàng : khi chủ thể sử dụng thẻ do ngân hàng phát hành và tiền thanh toán do ngân hàng khác thu, khi đó tiền chiết khấu thương mại trừ đi một tỷ lệ phần trăm. Bên cạnh những điểm mạnh, phương thức thẻ tín dụng cũng có những hạn chế. Thẻ tín dụng nói chung chủ yếu dùng ở phạm vi bán lẻ, nó không thích hợp với các hoá đơn có mệnh giá lớn (như mua xe hơi, tàu thuyền…). Mặt khác, giới hạn tín dụng với hầu hết các khoản tín dụng cũng thấp hơn các khoản chi phí như vậy. Đồng thời, cũng như séc, thẻ tín dụng cũng bị rủi ro khi nó rơi vào tình trạng bị mất hay đánh cắp nếu không được xử lý kịp thời, và quan hệ tay ba giữa ngân hàng, khách hàng và người bán hàng là một quan hệ phức tạp khó xác lập. 1.2.4.2 Các phương thức cho vay tiêu dùng gián tiếp. CVTD gián tiếp là một hoạt động tái trợ tiêu dùng được ngân hàng thực hiện htông qua việc mua bán các phiếu bán hàng từ những người bán lẻ hàng hoá, và do vậy, chính là phương thức tài trợ bán hàng trả góp của các NHTM. Cho vay trả góp của các ngân hàng thực hiện một trong hai cách sau: Cách 1: Ngân hàng, người bán hàng và người mua hàng, thoả thuận với nhau về số tiền vay, mức và thời hạn trả dần. Cụ thể là : trước tiên, người mua trả trước 20 đến 30% giá trị của tài sản; người bán giao tài sản cho người mua đồng thời giữ lại chứng từ về quyền sở hữu tài sản và giao ngân hàng cùng phiếu bán hàng làm thế chấp để thu phần tiền còn thiếu của người mua từ phía ngân hàng (70-80%), người mua trả góp cho ngân hàng theo hạn mức, lãi suất và kỳ hạn xác định. Cách 2: Cách này, người mua và người bán thực hiện hành vi mua bán chịu nên xuất hiện kỳ phiếu do người mua ký phát. Người mua ký quỹ 20%-30% giá trị tài sản, cam kết thế chấp tài sản và người bán giao tài sản cùng chứng từ nhận quyền sở hữu cho người mua. Ngân hàng cấp tín dụng dưới dạng mua lại các phiếu bán hàng trả góp cho người bán. Người mua tiến hành trả góp cho ngân hàng theo mức và kỳ hạn được xác định. Trong trường hợp này, người bán vẫn chịu trách nhiệm về việc thực hiện trả góp cho người mua. Cho vay trả góp đem lại những ưu điểm lớn. Việc mua phiếu bán hàng sẽ ít tốn kém hơn so với các chi phí xét duyệt cho vay trực tiếp. Mặt khác người bán hàng cũng chịu trách nhiệm giám sát các khoản cho vay trong một giới hạn nào đó (như theo dõi các tài khoản không trả đúng hạn, việc tái sở hữu, bán hàng hoá tái sở hữu) làm cho chi phí ngân hàng giảm xuống. Hơn nữa, đây là hình thức tài trợ rất phù hợp với cách thức mua hàng tiêu dùng lâu bền, có ý nghĩa lớn đối với cả người mua hàng (mua trước khi có tiền) và với cả người bán hàng (khi không có đủ khả năng tài chính giữ tất cả các tích trái của họ). Tuy nhiên, cho vay trả góp cũng có những hạn chế nhất định như không đánh giá được khách hàng trả góp. Nghiêm trọng hơn, trong quá trình trả góp, người mua trả lại hàng hoá vì một lý do nào đó. Loại tình huống này thương không xảy ra đối với cho vay trực tiếp. Những cuộc tranh chấp giữa người mua và người bán như vậy ảnh hưởng lớn đến kết quả khoản vay. Các khả năng lừa đảo, giả mạo, xuyên tạc cũng nhiều hơn so với cho vay trực tiếp tư phía người mua hàng. Vì những hạn chế kể trên, một số ngân hàng không CVTD bằng loại này, hoặc nếu có thì tuân theo thủ tục rất nghiêm ngặt. Để thích ứng với từng đối tượng khách hàng, ngân hàng đưa ra các phương thức khác nhau trong quá trình mua các phiếu bán hàng : phương thức được truy đòi, phương thức không được truy đòi và phương thức mua lại. * Phương thức được truy đòi : cho phép ngân hàng thu hồi nợ từ người bán hàng nếu phiếu bán hàng rơi vào tình trạng quá hạn thanh toán. Lãi suất áp dụng thấp vì ngân hàng an toàn hơn trong phương thức này. * Phương thức không được truy đòi: là phương thức mà người bán hàng không có trách nhiệm đối với các phiếu nợ bán cho ngân hàng. Do có độ rủi ro cao hơn, lãi suất áp dụng cũng cao hơn, đồng thời các chứng từ cũng được các ngân hàng lựa chọn kỹ càng. * Phương thức mua lại: là phương thức thoả thuận không truy đòi hoặc truy đòi có giới hạn, trong đó người bán hàng được mua lại số dư thực tế chưa thanh toán, khi mà số dư này đã quá hạn thanh toán. Các yếu tố xét đến trong cho vay trả góp và cho vay trực tiếp về cơ bản không khác nhau. Tuy nhiên, do đặc điểm của cho vay trả góp là hoạt động cho vay gián tiếp, ngân hàng có những nguyên tắc có tính chất bắt buộc chi phối cả những người bán hàng trả góp nếu muốn bán phiếu nợ cho ngân hàng. Đó là nguyên tắc "khả năng trả tiền hàng hoá" của người mua (các tiêu thức quan trọng bậc nhất là uy tín, công việc làm ăn, lợi tức) và nguyên tắc "mức chi trả lần đầu", nó cần phải ở mức chấp nhận được sao cho mức chi trả nhanh hơn mức giảm hàng hoá. 1.3 Cho vay tiêu dùng tại các NHTM Việt Nam. 1.3.1 Các nguồn cho vay tiêu dùng. 1.3.1.1 Các tổ chức tài chính. Các công ty tài chính là một định chế cung ứng tín dụng tiêu dùng quan trọng nhất, xét trong bối cho cảnh tín dụng tiêu dùng đã thực sự phát triển đáng kể. Những hình thức tín dụng tiêu dùng mà công ty tài chính cung cấp lãi suấtà thuê mua, các khoản vay cho một số mục đích tín dụng khác. Phần lớn quỹ của công ty tài chính được hình thành từ tiền gửi của khách hàng, ngoài ra là các khoản vay của chính công ty, vốn đã góp đủ và lợi nhuận giữ lại. Các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng trong tài trợ tiêu dùng. Các hình thức CVTD của NHTM cũng khá đa dạng như: cho vay để mua xe, mua nhà, đi học, du lịch, đồ dùng thiết bị gia đìnhvà cho vay mua sắm khác. Khác với các nước phát triển, nơi mà việc đấu giá tài sản thế chấp còn nhiều nhiêu khê và các ngân hàng còn hạn chế CVTD, thì ở các nước phát triển, CVTD là một loại hình tài sản khá phổ biến, có khả năng sinh lời cao nhất mà ngân hàng thực hiện. 1.Hiệu cầm đồ. Đối với người tiêu dùng, các hiệu cầm đồ có khả năng cung cấp các khoản cho vay quy mô nhỏ, phù hợp với nhu cầu vốn không lớn của khách hàng, đồng thời đây là những nhu cầu mang tính ngắn hạn, việc mà các ngân hàng thương mại không mấy ưa thích. Phần lớn khách hàng của hiệu cầm đồ thuộc nhóm có thu nhập thấp, những người gặp khó khăn khi vay ngân hàng hay công ty tài chính do chỉ có thể đưa ra những đảm bảo không hiệu quả, bởi uy tín và tính cách không rõ ràng và quy mô món vay nhỏ. Mô hình hoạt động của một hiệu cầm đồ khá đơn giản. Các cá nhân đem các vật có giá trị đến hiệu cầm đồ để yêu cầu vay một khoản tiền. Lượng tiền được vay phụ thuộc vào giá trị của vật được cầm cố, bản chất dễ tính, dễ bán và thời gian sử dụng lâu dài. Những vật cầm cố thường là đồ trang sức, đồng hồ, xe cộ, quần áo... Các chủ hiệu cầm đồ chủ yếu kinh doanh dựa trên vốn của mình, hoặc các khoản vay công chúng và tiền mặt từ các khoản khác. Công ty bảo hiểm. Ngành bảo hiểm có vai trò bổ sung trong việc huy động quỹ để tài trợ tiêu dùng. Các công ty bảo hiểm cho vay chủ yếu tới những người nắm giữ các hợp đồng bảo hiểm. Các bảo đảm thường là tài sản cầm cố, thế chấp và hợp đồng bảo hiểm. Đồng thời các công ty bảo hiểm có một số chiến ược kinh doanh hỗ trợ cho vay tiêu dùng như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm thuê mua, bảo hiểm sự mất giá của taid sản cầm cố thế chấp. Nguồn vốn chính là vốn của công ty, thu nhập từ phí bảo hiême, đầu tư đến hạn và lợi tức từ các khoản cho vay. Ngân hàng tiết kiệm bưu điện. Tuỳ thuộc vào tờng quốc gia, ngân hàng tiết kiệm bưu điện có thể là chi nhánh của Tổng cục bưu điện hoặc là một ngân hàng tiết kiệm độc lập. Nó cũng tham gia cùn ứng vốn, tham gia vào thị trường chiết khấu. Phương thức tín dụng mà ngân hàng cung ứng tới các cá nhân là : cho vay mua tậu bất động sản, cho vay để sửa chữa nhà cửa, cho vay mua sắm tiện nghi sinh hoạt và các loại cho vay phục vụ các mục đích khác. Để có được sự tài trợ của ngân hàng tiết kiệm bưu điện, người xin vay phải thoả mãn một số điều kiện như phải có tài khoản tiền giử tại ngân hàng, số dư tài khoản tiền gửi phải đạt tới một mức nhất định. Tài sản mà khách hàng mua là một trong những bảo đảm cho khoản vay. Các khách hàng tiềm năng của loại cho vay này là các công dân trong nước hoặc người cư ngụ lâu năm có mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng bưu điện. Hợp tác xã. Hợp tác xã (HTX) là kiểu tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lực theo quy định của pháp luật nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và từng xã viên để giúp nhau thực hiện tốt hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh hay các nhu cầu thiết yếu của đời sống. Trong đó, có một số loại hình HTX như: HTX tín dụng, HTX tiết kiệm và cho vay, HTX đa mục đích cung cấp các khoản vay tiêu dùng cho các thành viên. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cung cấp sản phẩm, hàng hoá đến người tiêu dùng và có các phương thức thanh toán khác nhau tuỳ thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh của khách hàng, như là trả tiền trước, thanh toán ngay hay là trả chậm...Khi khách hàng chưa có được các nguồn tiên cần thiết để thanh toán cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể bán chịu hàng hoá cho khách hàng (theo phương thức giao hàng hoá trước, thanh toán tiền sau) hoặc là bán hàng trả góp đối với khách hàng (khách hàng thanh toán làm nhiều lần). Trong trường hợp này có thể coi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã cung cấp một khoản CVTD cho khách hàng của mình. Các tổ chức khác. Ngoài các nguồn vốn CVTD trên, còn có một số tổ chức đặc thù khác cung cấp CVTD. Hiện nay trên thế giới phát triển rất nhiều tổ chức cung cấp thẻ tín dụng với nhiều loại thẻ khác nhau có những đặc tính và lợi ích khác nahu. Tiêu biểu nhất là hai tổ chức Visa International và MasterCard. Ngoài ra còn có hình thức CVTD do những người bán lẻ cung cấp, đó là hính thức ghi sổ nợ khi người tiêu dùng mua hàng không trả tiền ngay. Giới thiệu về CVTD tại các NHTM Việt Nam. ý thức được tầm quan trọng của hoạt động CVTD, các NHTM trên địa bàn Hà Nội đã tích cực tiến hành thực hiện CVTD. Đó là các ngân hàng như : ngân hàng á Châu (ACB), ngân hàng kỹ thương (Techcombank), ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), ngân hàng Cổ phần quân đội, Đông á ngân hàng, ngân hàng Cổ phần nhà Hà Nội (Habubank),… cùng tứ đại ngân hàng: ngân hàng công thương (Incombank), ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV), ngân hàng No&PTNT (Argibank). Một, hai năm trở lại đây, nghiệp vụ CVTD được các ngân hàng xem xét và dần có ý thức coi trọng. Tuy vậy, do e ngại bởi các yếu tố cả bên trong (sự chuẩn bị của ngân hàng ) và bên ngoài (pháp luật, khách hàng), các NHTM Việt Nam còn rất rụt rè khi bước chân vào lĩnh vực mới này. Tại ngân hàng á Châu (Asia Commercial Bank, ACB) phục vụ các đối tượng có nhu cầu cưới hỏi, ma chay, du lịch, chữa bện, tai nạn, học hành, mua xe và tiện nghi sinh hoạt trong gia đình. Điều kiện cho vay : phải có thu nhập ổn định, có tài sản thế chấp. Thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng, thanh toán theo phương thức trả góp. Hạn mức tối thiểu 10 triệu, tối đa 50 triệu. Ngoài ra ACB còn cho vay trả góp bằng vàng 0.9999 để mua nhà, xây sửa nhà cho mọi đối tượng dân cư với thời hạn 5 năm, lãi suất 0.9% /tháng tính trên tổng số tiền vay, tạo điều kiện cho giáo viên và những người có thu nhập thấp vay ưu đãi trả góp 10 năm để mua nhà ở, lãi suất thấp hơn 2%/ năm so với các đối tượng dân cư khác. Mức được vay tối đa là 50% giá trị căn nhà mua và không quá 50% giá trị tài sản thế chấp. Còn ở ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội (Habubank), phục vụ mọi đối tượng, điều kiện có tài sản thế chấp, hình thức trả góp. Hạn mức tối đa là cho vay 50% giá trị tài sản thế chấp, lãi suất 0.9%/ tháng, thời hạn từ 12 đến 36 tháng. Tại ngân hàng Đông á, áp dụng hình thức cho vay tín chấp để giải quyết nhu cầu tiêu dùng của CBCNV, không phải thế chấp tài sản. Theo hình thức này, mọi CBCNV trong biên chế nhà nước được cơ quan bảo lãnh ký hợp đồng vay vốn ngân hàng. Các bộ có thu nhập 1 triệu đồng/ tháng được vay 1 đến 5 triệu , tổng thu nhập từ 1.5 đến 2 triệu đồng/ tháng được vay từ 6 đến 10 triệu. Thời hạn trả góp từ 12 đến 18 tháng, trả hàng tháng theo tập thể, cơ quan cử đại diện đến ngân hàng nộp tiền. Nếu vay sửa chữa, xây nhà bằng VND có tài sản thế chấp ,mức vay tối đa là được 70% giá trị xây, sửa nhà. Thời hạn được vay 12 tháng. Lãi suất 1.05%/ tháng, trả theo dư nợ giảm dần. Đối với ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, việc CVTD đối với CBCNV , nhất là trong 2 ngành y tế và giáo dục đang là đối tượng vay chính được ngân hàng quan tâm. Mức cho vay cao nhất là 10 triệu, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 1.05%/ tháng. Khách hàng thường là vay tín chấp thông qua các tổ chức công đoàn và có bảo lãnh của cơ quan phối hợp với bộ phận lao động tiền lương giúp ngân hàng thu nợ, trả góp ổn định. Tại ba ngân hàng quốc doanh (ngân hàng Công thương, ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư và phát triển ), nghiệp vụ CVTD cũng tiến hành rất thận trọng. Đối tượng cho vay chỉ là CBCNV nhà nước, đôi khi là người có hợp đồng dài hạn tại các công ty có quan hệ lâu dài với ngân hàng và những người có tài sản thế chấp. Mức vay tối đa là 20 triệu, thời hạn từ 12 đến 36 tháng, lãi suất 0.95% /tháng. So với các NHTM khác trên cùng địa bàn, NHNo&PTNT là NHTM có chính sách CVTD tích cực, cởi mở nhất. Ngân hàng thực hiện cho vay đối với CBCNV, những người được hưởng lương, hưởng trợ cấp xã hôi và thế chấp tài sản với lãi suất thấp hơn 0.85%/tháng. Mức vay tối đa đối với người không có tài sản đảm bảo là 50 triệu đồng, đối với người có tài sản đảm bảo là 50% giá trị tài cản đảm bảo. Theo quy định, thời hạn cho vay tối thiêu 12 tháng, tối đa 36 tháng nhưng thực tế ở ngân hàng có sự linh hoạt hơn. Tuỳ theo quyết định của cán bộ tín dụng mà thời hạn vay có thể tới 60 tháng, mức vay có thể lớn hơn 50% giá trị tài sản thế chấp. Hoạt động CVTD đang càng ngày thu hút được sự quan tâm của các cá nhân, hộ gia đình và ngân hàng. Thời gian tới, không chỉ có các ngân hàng mà các tổ chức tài chính khác cũng sẽ tích cực mở rộng hoạt động này nhằm đa dạng hoá hoạt động của mình. Đơn cử như ngân hàng phát triển nhà ở Đồng băng Sông Cửu Long (thành lập ngày 8/4/1998, là ngân hàng thuộc Chính phủ với số vốn 3000 tỷ đồng) sắp tới sẽ mở đại diện ở miền Bắc. Thêm vào đó là các công ty bảo hiểm, ngân hàng tiết kiệm bưu điện đã và đang triển khai hoạt động CVTD. Một tương lai sáng lạn đối với thị trường CVTD đã mở ra, hứa hẹn một thành công lớn cho ngành ngân hàng và cả nền kinh tế của thủ đô. .Các nhân tố ảnh hưởng tới cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nhân tố vĩ mô. Một số nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến hoạt động CVTD như môi trường kinh tế xã hội, yếu tố văn hóa, môi trường pháp lý, các chính sách kinh tế của nhà nước và sự liên hệ của các thành phần của hệ thống kinh tế. Môi trường xã hội với các đặc trưng như yếu tố văn hoá, thói quen, phong tục tập quán, thu nhập bình quân đầu người ...tác động đến sự hình thành và phát triển của CVTD. Tại Việt Nam, người dân có thói quen tiết kiệm dành dụm để mua sắm nhà ở, sau đó mới nghĩ tới hưởng thụ. Bởi vậy, họ không có tư tưởng vay để sống sung túc hơn trong cảnh nợ nần. Yếu tố thu nhập có tác động trực tiếp tới CVTD. Những người có thu nhập cao thường có thói quen mua sắm, nhu cầu hưởng thụ cao hơn. Một yếu tố khác có ảnh hưởng tới CVTD là sự dịch chuyển cơ cấu dân cư. Dân số tập trung ở các đô thị ngày càng cao, cộng với thu nhập cao nên nhu cầu vay tiêu dùng tập trung chủ yếu ở các đô thị (20% dân số). Trong khi đó 80% dân số VN cư trú ở nông thôn, thu nhập thấp. Bởi vậy dẫn tới nhu câu vay tiêu dùng tại VN còn nhỏ. Môi trường pháp lý là một nhân tố vĩ mô khác có tác động sâu rộng đến hoạt động CVTD tiêu dùng nói riêng, cho vay nói chung do ngân hàng cung cấp. Môi trường pháp lý tác động đến tính trật tự, ổn định và tạo điều kiện để hoạt động CVTD được diễn ra thông suốt, phát triển vững chắc, hạn chế những rắc rối có thể xảy ra tổn hại đến các bên tham gia quan hệ cho vay, thậm chí đến lợi ích của quốc gia. Các chính sách của nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động CVTD. Thứ nhất là các chính sách và chương trình kinh tế. Nếu nhà nước tăng đầu tư hay đưa ra các biện pháp thông thoáng để khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài như hạ trần lãi suất cho vay, giảm các thủ tục giấy tờ, giảm thuế cho các công ty mới thành lập. Một mặt nhằm mục đích phát triển kinh tế, tăng GNP, mặt khác giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, tăng mức sống của người dân. Đây rõ ràng là một tiền đề thuận lợi để phát triển CVTD. Ngoài chính sách, các chương trình kinh tế như : thuế thu nhập, chính sách ưu đãi đối với hộ nghèo vay vốn, cho vay tín chấp cho nông dân, chương trình phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa. Các chính sách này vừa có ý nghĩa rút ngắn khoản cách giàu nghèo, vừa tạo điều kiện để nâng cao mặt bằng dân trí. Những yếu tố này trước mắt, lâu dài đều ảnh hưởng đến cầu CVTD. Sự liên hệ của các thành phần trong hệ thống kinh tế, mà cụ thể là mối liên hệ giữa các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp và ngân hàng có ảnh hưởng nhất định đến CVTD theo cách riêng. Nếu sự phối hợp này là chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau thì CVTD có kết quả cao. Ngược lại, sự cố gắng đơn điệu của ngân hàng sẽ khiến vấn đề trở nên phức tạp hơn. Sự liên hệ này, trước tiên phụ thuộc vào sự nỗ lực của các bên trong xây dựng các mối quan hệ, các ràng buộc về quyền lợi...Ngoài ra một sự trợ lực từ các trung gian như nhà nước và các định chế lớn khác là cần thiết. Nhân tố vi mô. Những nhân tố vi mô ảnh hưởng đến hoạt động CVTD của ngân hàng bao gồm các nhân tố khách quan như đạo đức người vay, nguồn trả nợ, tài sản đảm bảo và những nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng như chất lượng cán bộ tín dụng, kỹ thuật và thủ tục thẩm định. Nguyên nhân khách quan. Các nhân tố khách quan nêu trên coa ảnh hưởng đến chất lượng CVTD và sự phát triển của nó. Trong các nhân tố này, đầu tiên phải kể đến là đạo đức người vay, được đánh giá dựa trên nnăng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Đây là yếu tố tiên quyết tác động đến hành vi trả nợ. Vì rằng, nếu một người vay thực sự có nguồn thu nhập khả quan để trả nợ, thậm chí đưa ra được những nguồn bảo đảm tốt nhưng được xem là không có trách nhiệm hoàn trả thì chác chắn không có thiện chí khi trả nợ. Và về nguyên tắc sẽ không có một khoản vay nào được cấp cho các khách hàng như vậy. Năng lực pháp lý là những năng lực được quy định cụ thể về mặt pháp lý mà người tiêu dùng cần phải có. Đây là cơ sở để hình thành nghĩa vụ trả nợ của khách hàng trong quan hệ tín dụng. Độ tín nhiệm là một yếu tố khó đo đếm, liên quan đến sự sẵn lòng và quyết tâm thực hiện đúng hợp đồng. Độ tín nhiệm được xây dựng trên cơ sở tính thật thà, liêm chính của người vay, được phản ánh khá rõ trong hồ sơ._.triển các dịch vụ ngân hàng. Nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, tăng tỷ trọng nguồn vốn thu từ dịch vụ, ngân hàng đề ra các hướng: + Phát triển các dịch vụ tiền gửi có áp dụng lãi suất tiết kiệm thay đổi, tiền gửi có tham dự thưởng, tiền gửi tiết kiệm hưu trí, đưa ra lãi suất biến đổi cho các khoản tiền gửi có kỳ hạn… + Phát triển các sản phẩm cho vay : hoàn thiện các sản phẩm hiện thời và giới thiệu sản phẩm cho vay mới như : thấu chi, áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn; giới thiệu sản phẩm cho vay mua nhà, cho vay giáo dục… + Phát triển các sản phẩm dịch vụ và hệ thống cung cấp dịch vụ, mở rộng mạng lưới cung cấp như : mở rộng phương tiện thanh toán, ATM kết nối với các tài khoản khách hàng, phát hành thẻ ghi nợ trên ATM, thử nghiệm các dịch vụ ngân hàng trên mạng, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm… Š Tăng cường hệ thống quản lý rủi ro. Xây dựng chính sách về mức tín dụng cho khách hàng, thiết kế lại hệ thống thang điểm đánh giá khách hàng, thường xuyên đánh giá tình hình hoạt động của khách hàng, phân loại khoản vay và trích lập dự phong theo các quy định của NHNN. Š Xây dựng hệ thống MIS và kế toán hiện đại, phục vụ kịp thời cho công tác quản lý điều hành, từng bước tuân thủ các chuẩn mực kế toán quốc tế. Š Cải tổ bộ máy tổ chức. Chuyển dần NHNo&PTNT sang hoạt động 2 cấp : cấp quản trị diều hành và cấp trực tiếp kinh doanh. Š Phát triển nguồn nhân lực Tiêu chuẩn hoá quy trình tuyển chọn, đánh giá, đề bạt cán bộ, tiến hành đào tạo và đào tạo lại cán bộ đáp ứng nhu cầu kinh doanh của một ngân hàng hiện đại. Xãc định các chức danh cụ thể cho từng vị trí chuyên môn và quản lý, quy định những yêu cầu về năng lực, trình độ học vấn, nhận thức cho từng vị trí, hoàn thiện quy trình tuyển cán bộ, hệ thống thù lao cán bộ. Mỗi năm đào tạo khoảng 100.000 đến 150.000 lượt người. Š Phát triển công nghệ tin học. Tập trung hoá dữ liệu ở mức cao, chú trọng 2 lĩnh vực chính gồm hệ thống thông tin khách hàng và hệ thống sổ cái, xử lý các giao dịch thanh toán theo phương thức trực tuyến. Xây dựng chiến lược công nghệ thông tin : nhân lực, máy móc thiết bị. Xây dựng hệ thống ngân hàng bán lẻ : triển khai mở rộng và thực hiện kết nối với hệ htống WB :31/12/2002. Triển khai dự án hiện đại hoá hệ htống thanh toán nội bộ ngân hàng và kế toán khách hàng do WB tài trợ : triển khai hệ thống 31/08/2002, mở rộng hệ thống 31/12/2005. | Tăng cường huy động vốn. Đa dạng hoá các sản phẩm tiết kiệm, huy động tiết kiệm tại các vùng nông thôn tăng ít nhất 25%, tăng cường huy tiết kiệm trung dài hạn. Mở rộng chương trình ngân hàng lưu động. Dự kiến, đến cuối năm 2005, mỗi chi nhánh NHNo được trang bị ít nhất 1 xe ô tô ngân hàng lưu động. Thành lập thêm các chi nhánh ngân hàng loại 4 tại các làng, xã có điều kiện; thí điểm và mở rộng chương trình cho vay thông qua các tổ nhóm tín dụng và tiết kiệm. Gắn huy động vốn với hoạt động cho vay. Với những nội dung trên, thực hiện “Đề án tái cơ cấu” cũng chính là một cuộc cách mạng trong tổ chức bộ máy và hoạt động của NHNo&PTNT, cả tư duy và hoạt động. Thực hiện tốt đề án có ý nghĩa quyết định tới sự tồn tại, phát triển của NHNo&PTNT trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và CVTD nói riêng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long. NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long, với định hướng phát triển phù hợp với sự phát triển chung của toàn hệ htống ngân hàng, trong thời gian tới cũng sẽ tiếp tục chiến lược phát triển khối khách hàng mới. Ngân hàng trong tương lai sẽ định hướng chiến lược phát triển khách hàng nhằm vào khối khách hàng có nhu cầu vay những khoản nhỏ, đồng thời cũng chú trọng phát triển về mảng dịch vụ cá nhân. Ngân hàng có xu hướng phát triển theo hướng liên kết với các tổ chức, doanh nghiệp, vừa thực hiện cho vay thương mại đồng thời có những hỗ trợ như tài trợ cho CBCNV theo hình thức sản phẩm dịch vụ ngân hàng trọn gói : mở tài khảon cá nhân, trả lương qua tài khoản cho CBCNV, gửi tiết kiệm, cấp thẻ tín dụng, cho vay tiêu dùng. Đối với hoạt động CVTD nói riêng, do ngân hàng cũng định hướng phát triển về sản phẩm dịch vụ cá nhân, hoạt động này của ngân hàng trong tương lai sẽ được mở rộng, phát triển nhằm nâng cao hiệu quả, tạo nguồn thu lớn hơn cho ngân hàng, đưa ngân hàng trở thành ngân hàng hàng đầu về cung ứng sản phẩm dịch vụ cá nhân. NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long trong thời gian tới sẽ chú trọng phát triển, mở rộng đối tượng khách hàng CVTD, khai thác các thị trường khách hàng tiềm năng trên địa bàn Hà Nội và các khu vực phụ cân, mở rộng quy mô hoạt động ngân hàng và tạo nguồn thu cho ngân hàng. Bên cạnh đó, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của các nhóm khách hàng này, ngân hàng cũng sẽ quan tâm tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng, đồng thời phát triển và hoàn thiện các loại hình sản phẩm CVTD, tạo nên hệ htống sản phẩm dịch vụ cung ứng liên kết cho các khách hàng cá nhân, giúp cho các khách hàng có thể hưởng những lợi ích đầy đủ từ các sản phẩm dịch vụ củ ngân hàng. Tất cả những chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh này của ngân hàng đều cũng nhằm tới phương châm, đó là “hướng tới khách hàng ” 3.2 Những ý kiến đề xuất mở rộng hoạt động CVTD. Dựa vào thực tiến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và đề án tái cơ cấu NHNo&PTNT Việt Nam mới ra đời, tôi xin đưa vài đề xuất để thực hiện mở rộng hoạt động CVTD của NHNo&PTNT. Hoạt động CVTD không thể tốt được nếu thiếu đi các yếu tố đồng bộ trong hoạt động của ngân hàng. Bởi vậy, để thực hiện ngân hàng cần phải thay đổi và hoàn thiện một số hoạt động của mình. Thứ nhất, NHNo&PTNT cần phải bổ sung thêm vốn cho chi nhánh Thăng Long. Theo Đề án tái cơ cấu lại hệ thống NHNo&PTNT thì hệ thống sẽ được Chính phủ bổ sung thêm vốn tự có. Vì vốn có vai trò rất lớn đối với viịec mở rộng quy mô cho vay, mở thêm mạng lưới chi nhánh và ảnh hưởng đến khả năng thanh toán. Chi nhánh Thăng Long cần phải có vốn để thúc đẩy các hoạt động theo định hướng đã đề ra. Nếu vốn không tăng, các hoạt động tiếp theo của ngân hàng sẽ khó thực hiện cho được. Thứ hai, ngân hàng phải đầu tư trang thiết bị, đổi mới công nghệ. Công nghệ cao sẽ giúp ngân hàng giảm được số lượng CBCNV trong một số công việc, việc quản lý các hoạt động cho vay, thu nợ và điều hành sẽ dễ dàng hơn. Đây là một việc rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu trong tương lai, khi các Công ty giao trách nhiệm thanh toán tiền lương hộ cho nhân viên của họ. Công nghệ thông tin phát triển, ngân hàng mới có thể cho ra đời các loại hình sản phẩm dịch vụ mới như : cho vay thấu chi, thẻ tín dụng, ATM…được. Thứ ba, ngân hàng cần mở thêm chi nhánh tại các địa điểm khác trong dân cư, nhiệm vụ vừa huy động vốn vừa cho vay. Kết hợp với các biện pháp Marketing quảng cáo tiếp thị, đổi mới phong cách phục vụ của cán bộ ngân hàng, trang hoàng lại trụ sở để làm nổi bật bộ mặt ngân hàng, làm cho khách hàng biết tới ngân hàng, tin tưởng vào khả năng tài chính của ngân hàng và hài lòng khách hàng bởi thái độ phục vụ của các nhân viên giao dịch. Thứ tư, ngân hàng cần phải phối hợp tốt với chính quyền địa phương, các cơ quan ban ngành ở thành phố Hà Nội. Vì đây là những cơ quan cung cấp thông tin tốt nhất cho ngân hàng trên tất cả các lĩnh vực, và cũng là cơ quan phối hợp tốt nhất cho ngân hàng trong việc xử lý giải quyế trong thu hồi, xử lý nợ. Đồng thời đây là các tổ chức có đông đảo CBCNV có thu nhập ổn định, là nguồn khách hàng tiềm năng tốt nhất của ngân hàng. Thông qua ban lãnh đạo các cơ quan, ngân hàng khơi gợi và tạo ra nhu cầu vay tiêu dùng của họ. Thứ năm, ngân hàng cần quan tâm chăm lo đới sống vật chất tinh thần của người lao động, giữ gìn đoàn kết. Nguồn lực khiến cho ngân hàng hoạt động được không gì khác chính là toàn thể CBCNV của ngân hàng, những con người sống và làm việc với ngân hàng, bởi vì họ được làm việc và có thu nhập để trang trải cuộc sống. Với chế độ lương, thưởng hợp lý sẽ kích thích người lao động làm việc, khi đó hoạt động của ngân hàng sẽ trở nên tốt hơn. Cả ngân hàng đoàn kết sẽ tạo thành sức mạnh lớn, đưa ngân hàng tiến tới. Thực hiện hteo phương châm mỗi người đều coi ngân hàng là gia đình của mình. Thứ sáu, phải đưa ra các sản phẩm dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng. Đưa vào sử dụng hệ thống tính điểm trong việc thẩm định cho vay khách hàng tiêu dùng, nhằm giảm chi phí cho các khoản vay. Tuy nhiên, không phải đợi mọi yếu tố đã đầy đủ, hoàn thiện ngân hàng mới tiến hành mở rộng hoạt động CVTD mà song song với nó, ngân hàng cần đưa ra ss sản phẩm mới, để khách hàng quen sản phẩm, rồi dần mở rộng theo phậm vi khả năng của ngân hàng. Dưới đây là một số loại hình sản phẩm mà theo tôi ngân hàng hoàn toàn có đủ điều kiện để tiến hành mở rộng trong thời gian tới. 3.2.1 Hoàn thiện đối với cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Với phương thức cho vay không cần thế chấp tài sản, ngân hàng thực hiện cho vay đối với CBCNV nhà nước (phần 2.3.2), mức vay tối đa 70% lương nhưng không quá 50 triệu đồng. Thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng. Nhưng trong khả năng của mình, ngân hàng cần mở rộng thêm các đối tượng khách hàng khác : những người có hợp đồng dài hạn tại các công ty tư nhân, công ty liên doanh, công ty nước ngoài có uy tín, hoạt động hiệu quả. Đây là các khách hàng có thu nhập ổn định và tương đối cao trên địa bàn Hà Nội. Đa số sinh viên ra trương đều muốn ở lại thủ đô và làm việc tại các công ty ngoài quốc doanh, mức lương trung bình từ 1 đến 2 triệu đồng, phần lớn còn độc thân nên nhu cầu mua sắm nhiều, dân trí cao nên thích được hưởng thụ trước số tiền sẽ có trong tương lai và ý thưc trách nhiệm trả nợ cũng cao. Đây là tâng lớp biết nhiều, lại hay quan tâm tới lĩnh vực kinh tế, nên rất dễ tiếp xúc với ngân hàng. Mặt khác, khi đã có hợp đồng dài hạn thì mức độ ổn định của khách hàng là khá cao, độ rủi ro thấp. Còn đối với những người được hưởng trợ cấp như hưu trí, ngân hàng cũng nên xem xét mở rộng cho vay. Đa số người về hưu có con lớn nên phần cho tiêu không nhiều, có thể dành dụm được số tiền đáng kể. Nhưng bên cạnh đó còn có nhiều trường hợp khác khiến ngân hàng không thể cho vay được. Như người về hưu có tuổi cao, vấn phải nuôi con, nuôi cháu. Hoặc người về hưu có bệnh trọng, ốm yếu, tiền lương không đủ trang trải cho cuộc sống. Các con sống ở xa, không có điều kiện chăm sóc bố mẹ. Trong các trường hợp này, khả năng đổ vỡ tài chính của người vay là rất cao, nếu không cũng ảnh hưởng đến mức sống tối thiểu của họ. Trong những trường hợp như vậy, cần phải có con cái (có đủ điều kiện về tài chính, việc làm ổm định, ở gần) ký vào hợp đồng bảo đảm trả nợ khi ba mẹ không có khả năng, cũng như cam kết chăm nom cha mẹ già; lúc đó ngân hàng mới có thể yên tâm cho vay mà không phải lo nghĩ về người vay không trả được nợ hoặc họ rơi vaò tình trạng túng quẫn. Bởi vì sự rủi ro có thể đến bất cứ lúc nào nên ngân hàng cần phải có sự sàng lọc trước khi quyết định các khoản cho vay đối với 2 loại khách hàng trên. + Đối với người làm việc tại cơquan ngoài quốc doanh : phải là những cơ quan làm việc tốt, có uy tín. Khách hàng được ký hợp đồng dài hạn, có sự bảo đảm của cơ quan trong việc hoàn trả nếu khách hàng không trả được. + Đối với người được hưởng trợ cấp (lương hưu), ngoài việc xét tới nguồn thu nhập, hộ khẩu, cư trú, số người sống dưa, người thừa kế… ra thì cần xét tới tuổi tác, tình trạnh sức khoẻ, đóng góp bảo hiểm. Trong trương hợp người vay không có sự bảo đảm từ con cái (những yếu tố khác đã đáp ứng đủ), ngân hàng cần làm việc với quỹ hỗ trợ phường để khi có xảy ra rủi ro, ngân hàng có thể thu hồi được vốn từ quỹ hỗ trợ này. Để giảm bớt chi phí thẩm định, ngân hàng nên lập hệ thống tính điểm để ngân hàng giảm chi phí và cũng tạo sự nhanh chóng đối với khách hàng. Về thời hạn, ngân hàng đang áp dụng trung hạn từ 12 đến 60 thàng. Mức vay của ngân hàng tối đa là 50 triệu, không quy định mức tối thiểu. Như vậy cũng đã phù hợp trong điều kiện hiện nay. Các cá nhân có thu nhập thấp có thể vay được các khoản vay nhỏ khi cần thiết như mong muốn. Tuy nhiên thời hạn vay ngân hàng nên mở rộng sang cả ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu vay tạm htời của một số bộ phận dân cư khi họ cần tiền gấp trong khoản thời gian ngắn (sắp có thu nhập khác). Còn về lãi suất, từ trước tới nay ngân hàng thường sử dụng lãi suất cố định với lý do ngân hàng dễ quản lý và người vay kém nhạy cảm với lãi suất. Nhưng hiện nay với công nghệ hiện đại, ngân hàng hoàn toàn có khả năng quản lý khoản vay với lãi suất thay đổi phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng. Phương thức cho vay có thể áp dụng cấp một lần hoặc giải ngân nhiều lần đối với các khoản vay lớn. Quy trình cho vay ngân hàng đã hoàn thiện, được trình bày ở phần 2.3.2. 3.2.2 Hoàn thiện đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Đây là phương thức CVTD có độ rủi ro thấp, bởi vậy áp dụng cho mọi đối tượng là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi và năng lực dân sự. Nhưng để hoàn thiện thêm phương thức này, tôi có một số ý kiến: Về thời hạn vay, nên áp dụng cả 3 hình thức ngắn, trung, dài hạn. Bởi một số người có thu nhập bất thường (bà con Việt kiều, được hưởng của thừa kế, những nhà giàu có) sẽ có khả năng trả nợ sớm. Về phương thức trả, thống nhất hình thức trả góp. Bởi vì món vay thường lớn, bản thân người vay khó có khả năng trả một lần được. Về mức vay, nên tuỳ thuộc vào giá trị tài sản thế chấp mà định ra mức vay tối đa, không nên cố định ở 70% giá trị tài sản thế chấp. Tài sản người vay thế chấp thường là những tài sản có giá trị : nhà cửa, đất đai, xe cộ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, sổ tiết kiệm, có khả năng chuyển đổi sang tiền mặt bất kỳ lúc nào. Sau đó, dựa sự ổn định giá trị của tài sản và xu hướng biến động của thị trường để đưa ra tỷ lệ cho vay phù hợp. Đối với nhà ở, đất đai ở Hà Nội ngày càng tăng, nên ta có thể cho vay tới 90% giá trị của tài sản. Các loại giấy tờ đều có khả năng thanh khoản cao, chuyển thành tiền ngay lập tức được. Xe cộ thì có nhiều loại, khấu hao nhanh, biến động giá lớn, tỷ lệ cho vay cần xem xét lại dựa vào xu hướng của thị trường. Về lãi suất, đề xuất áp dụng lãi suất thay đổi. Vì việc thế chấp bằng tài sản có liên quan đến một số ban ngành, đặc biệt vấn đề nhà cửa liên quan đến chính quyền địa phương, nên ngân hàng cần kết hợp với Sở địa chính trong việc cấp giấy tờ chứng nhận, phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan thi hành án trong việc trả nợ. Trên thực tế, việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất tại địa bàn Hà Nội còn rất yếu kém. Hiện mới chỉ cấp được 94.416 trên 191.304 tổng số giấy chứng nhận cần phải cấp (theo Nghị định số 60/1994/NĐ-CP) của các quận huyện đến 1/11/2002, đạt 49,35% (Nguồn Sở địa chính nhà đất HN). Điều này gây nhiều khó khăn cho khách hàng trong việc thế chấp tài sản và cũng là điều bất lợi lớn đối với ngân hàng. 3.2.3 Mở rộng hình thức CVTD có thế chấp bằng tài sản hình thành từ tiền vay. Điều 15 đến điều 19 trong Quyết định167/HĐQT-03 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT ngày 7/thế chấp/2001 về việc “Ban hành quy định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống NHNo&PTNT ” có quy định đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. NHNo&PTNT áp dụng cho các đối tượng là chủ trang trại vay vốn trên 10 trđ, HTX,doanh nghiệp. Tỷ lệ mức vốn tự có tham gia vào dự án áp dụng tối thiểu 30% vốn đầu tư của dự án. Như vậy là không tính đến các đối tượng là cá nhân, hộ gia đình, khách hàng vay tiêu dùng. Bởi trong một vài trường hợp vay để xây nhà không có bảo đảm bằng tài sản (ở trên), nhu cầu của khách hàng thường quá lớn so với mức lương có thể có nên ngân hàng ngại cho vay, còn có tài sản để thế chấp vay khách hàng chưa có. Rồi các công trình xây dựng (như khu tập thể Định Công, Linh Đàm) vốn vay cần lớn và thời hạn dài, khách hàng không thể có đủ tài sản để thế chấp. Trong hai trường hợp trên, việc thế chấp tài sản hình thành từ tiền vay là hoàn toàn hợp lý. Ngân hàng có thể mở rộng được đối tượng vay, chấp nhận thời hạn dài (cho vay dài hạn). Nếu có rủi ro thì tài sản đó thuộc về ngân hàng. Nhà ở là những tài sản giá trị cao, ít biến động, sẽ không gây rủi ro lớn cho ngân hàng. Đây là một hình thức được coi là mạo hiểm đối với các NHTM Việt Nam, vì ngân hàng xác định thời hạn quá dài (5-10 năm) nên nhiều rủi ro, thu hồi vốn chậm. Bởi vậy, sẽ phải có quy định chặt chẽ trong việc sàng lọc đối với các đối tượng cho vay. Đối tượng : người có thu nhập cao, ổn định: các ca sĩ, kiến trúc sư, bác, những người có chức vụ cao hoặc những người làm việc ở các công ty nước ngoài, lương lớn hơn 500 USD/tháng. Mức vay : tuỳ vào nguồn tài chính (thu nhập- chi tiêu) mà khách hàng sẵn sàng trả để tiến hành cho vay. Lãi suất áp dụng thay đổi theo thị trường, bởi vì thời hạn vay thường là trung, dài hạn. Quy trình cho vay: + Hồ sơ vay vốn ngoài các giấy tờ thông thường, đòi hỏi cần phải có: Hợp đồng cầm cố thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay . Phụ lục hợp đồng thế chấp, câm cố tài sản hình thành từ vốn vay sau khi tài sản hình thành từ vốn vay đã hình thành. Báo cáo- kế hoạch hình thànhvà tình trạng tài sản hình thành từ vốn vay do khách hàng lập. Báo cáo kiểm tra tiến độ hình thành của tài sản hình thành từ vốn vay. Biên bản họp hội đồng tín dụng quyết định cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Các giấy tờ sở hữu tài sản hình thành từ vốn vay sau khi tài sản đã hình thành. Mọi thủ tục thẩm định, ký hợp đồng (thời hạn, mức vay, lãi suất, phương thức trả, tiến độ giải ngân...) theo dõi giám sát, xử lý thu hồi nợ, thực hiện tương tự cho vay có bảo đảm bằng tài sản. 3.2.4 Thực hiện CVTD thông qua các tổ chức trung gian. Hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian đã được các NHTM thực hiện. Thường là do các chi nhánh của NHNo&PTNT ở nông thôn liên hệ với đoàn thể hội phu nữ, quỹ bảo trợ, quỹ khuyến nông, HTX... để thực hiện cho vay đối với các thành viên của tổ chức. Thông qua các tổ chức trung gian, ngân hàng dễ dàng tiếp cận với khách hàng vì người vay tin tưởng tổ chức mình,cảm thấy thuận tiện trong thủ tục khi nhận tiền trả nợ cho tổ chức mà mình là thành viên. Hình thức này cũng tạo nhiều thuận lợi cho ngân hàng vì không mất chi phí thẩm định, giải ngân, ký hợp đồng, lập phương án kiểm soát, thu nợ. Vì các việc này sẽ do tổ chức trung gian đảm nhiệm, và đương nhiên họ được hưởng hoa hồng. Tính ra chi phí trả cho tổ chức lại nhỏ hơn nếu ngân hàng trực tiếp thực hiện. Đây cũng là phương án tốt nhất để tiếp xúc với các tầng lớp có trình độ và thu nhập thấp. Những đối tượng mà tôi đề xuất cho vào loại hình cho vay này gồm có: + CBCNV các cơ quan nhà nước, tổ chức có uy tín. Ngân hàng cần thiết lập quan hệ tốt đẹp với ban lãnh đạo công ty, quảng cáo về hình ảnh của mình để khi có nhu cầu vay tiêu dùng, họ sẽ tới ngân hàng hoặc thông qua ban lãnh đạo cơ quan mình. Hiện nay chưa có NHTM nào ở Việt Nam thực hiện công việc Marketing này vì họ chưa chú ý vào CVTD, thị trường còn bỏ ngỏ. Đi bước này, ngân hàng sẽ dễ dàng xâm nhập thị trường và tìm kiếm khách hàng. Đây cũng là những khách hàng chủ yếi, có độ an toàn cao nhất, dễ thực hiện cho vay nhất. + Đối tượng là những người buôn bán tại các chợ lớn và vừa trên địa bàn Hà Nội. Những người buôn bán vải, đồ điện tử, gia dụng thường có vốn rất lớn, hiếm khi vay ngân hàng. Còn những người buôn bán nhỏ lẻ thường ít vốn. Họ buôn bán tạm để kiếm bữa ăn hàng ngày. Ví dụ, một người mở hàng bún, họ cần 200.000đ buổi sáng để mua nguyên liệu, bán trong ngày, đến chiều thu hồi đủ vốn và có lãi. Với món vay nhỏ đó sẽ rất khó vay thường xuyên được. Theo gương của ngân hàng Công thương Bến Thuỷ (TP.HCM) đã phối hợp với ban quản lý chợ Bến Thành, thực hiện các món vay nhỏ trong ngày đối với người bán hàng nhỏ, lãi suất 1%/ngày. Đầu ngày, người vay nhận được số tiền muốn vay, họ thực hiện buốn bán trong ngày, đến cuối chiều trả cho ngân hàng. Lãi suất 1%/ngày là rất cao, nhưng vì chỉ vay trong 1 ngày nên số tiền lãi sẽ rất nhỏ. Vay 200.000đ, lãi là 2.000đ, người vay sẵn lòng trả. Mặc dù, chợ và những người bán hàng rong tại Hà Nội chưa sầm uất và lớn lắm, nhưng cũng đủ nếu ngân hàng quan tâm thực sự trong việc mở rộng CVTD. + Những nông dân ven ngoại thành Hn, tham gia vào quỹ khuyến nông. Rau xanh, sạch đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của xã hội vì sự an toàn thực phẩm. Đã có khá nhiều chương trình trồng rau xanh được thực hiện, các NHTM cũng đã tham gia voà chương trình này. Rau xanh, sạch rất có giá tại HN, trừ các yếu tố về thiên tai ra còn lợi nhuận thu được là khá cao. Ngân hàng cần mở rộng thêm các chi nhánh tới các địa bàn này hoặc cho cán bộ trực tiếp tới liên hệ với các quỹ khuyến nông. Mỗi đối tượng vay có một đặc điểm riêng, đòi hỏi phải có biện pháp cụ htể khi tiến hành cho vay. Quan trọng nhất là nắm bắt được nhu cầu người vay và liên hệ với các tổ chức trung gian. Sau đó mới lập ra các yêu cầu về mức vay, lãi suất, phương thức trả, thời hạn. Tôi cũng thực sự hi vọng địa bàn HN có đủ điều kiện để thực hiện hình thức này, nó sẽ góp phần đáng kể trong việc giúp đỡ những người có thu nhập thấp, nâng cao mức sống người dân. Quy trình thực hiện, gồm các bước : Bước 1: Ngân hàng tổ chức họp hội nghị khách hàng gồm thủ trưởng, chủ tịch công đoàn, thủ quỹ của các cơ quan, đơn vị để phổ biến hướng dẫn thực hiện các quy định cho vay thông qua người đại diện. Bước 2 : Giám đốc ngân hàng cùng với thủ trưởng đơn vị, chủ tịch công đoàn ký biên bản thoả thuận CVTD, trong đó xác định rõ trách nhiệm của mỗi bên và của người đại diện của bên vay trực tiếp giao dịch với ngân hàng. Bước 3 : Đại diện bên vay tổ chức họp CBCNV phổ biến cho CBCNV biết chủ trương cho vay và các quy định CVTD thông qua người đại diện. Bước 4 : CBCNV có nhu cầu vay, viết giấy đề nghị vay vốn kèm theo phương án trả nợ theo mẫu in sẵn của ngân hàng. Trong đó có chữ ký cam kết của vợ hoặc chồng nếu có, ý kiến xác nhận của thủ trưởng đơn vị và nộp cho người đại diện. Trong giấy đề nghị vay vốn, người vay phải uỷ quyền cho người đại diện để trả đủ nợ gốc lãi vay cho ngân hàng. Bước 5 : Người đại diện tập hợp các giấy đề nghị vay vốn và báo cho ngân hàng để cử CBTD xuống đơn vị cùng với người đại diện thẩm trả khae năng vay và trả nợ của từng người vay. Sau khi thẩm tra xong, CBTD và người đại diện lập danh sách CBCNV có đủ điều kiện vay, có ý kiến xác nhận của thủ trưởng đơn vị để trình lãnh đạo ngân hàng xét duyệt vay. Bước 6 : Sau khi có kết quả xét duyệt cho vay, người đại diện ký HĐtín dụng với ngân hàng. Bước 7 : Trên cơ sở HĐtín dụng đã ký, ngân hàng phối hợp với người đại diện phát vốn vay trực tiếp cho người vay tại đơn vị (sau người vay lập khế ước nhận nợ). Bước 8 : Định kỳ hàng tháng căn cứ vào lịch trả nợ mà người vay đã cam kết, ngân hàng lập bảng kê danh sách thu nợ gốc và lãi của từng người vay để gửi cho người đại diện tiến hành thu nợ (bằng cách trích thu nhập của người vay tại thủ quỹ đơn vị). Để đảm bảo quyền lợi của người đại diện, nhằm khuyến khích người đại diện hoàn thành tốt trách nhiệm được giao, ngân hàng có chính sách hàng tháng trích 3% số lãi thực thu vf hỗ trợ tiền tàu xe trong các kỳ trả nợ. Nhu cầu vay tiêu dùng trong CBCNV ngày càng tăng và là điều kiện thuận lợi để ngân hàng mở rộng cho vay. Với phương thức này sẽ giải quyết những khó khăn cả ngân hàng lẫn người vay, thúc đẩy CVTD càng phát triển. 3.2.5 CVTD thông qua người bán hàng. Một trong những mục đích chính của người đi vay tiêu dùng là thoả mãn các nhu cầu về sinh hoạt, nâng cao chất lượng cuộc sống bằng cách mua sắm các phương tiện sinh hoạt như: nhà cửa, ô tô, xe máy, giường tủ… Thu nhập bình quân của 1 CBCNV khoảng từ 1-2 trđ/tháng. Sau khi trừ đi các khoản chi tiêu như ăn uống, sinh hoạt cá nhân, học tập, mỗi gia đình có thể tiết kiệm được 300.000-500.000đ/ tháng. Đây chỉ là ước tính, còn tuỳ thuộc vào mức độ sinh hoạt, thu nhập của từng hộ gia đình. Sau đây là một số mặt hàng tiêu dùng chủ yếu: Nội thất: giường, tủ kính, bộ ghế phòng khách… Với những đồ trang trí nội thất số tiền không nhiều. Với giường cao nhất là 2 trđ/ chiếc, bàn khoản 1,5 trđ. Rất ít hộ gia đình vay ngân hàng để sắm sửa những vật dụng này. Với số tiền 2-3 trđ họ có thể dành dụm được trong một thời gian ngắn. Đồ điện tử, điện lạnh: ti vi, đầu video, đài, tủ lạnh, máy điều hoà, bếp ga… Đây là các phương tiện giải trí hoặc giúp người nội trợ giảm bớt công việc nặng nhọc. Giá của mỗi loại cũng rất khác nhau, tuỳ vào từng hãng. Giá từ 2-10 trđ. Với các đồ đắt tiền, người tiêu dùng chưa có đủ hoặc họ còn muốn để dành tiền làm việc khác, nên họ thích chọn hình thức mua trả góp. Xe máy: đây là phương tiện đi lại quan trọng, mọi nhà đều cố gắng sắm trong nhà một chiếc xe máy, nếu có thì mua cho con. Nhu cầu về xe máy đặc biệt tăng cao trong những năm gần đây. Có rất nhiều hãng khác nhau với giá cả đa dạng. Rẻ nhất là xe Trung Quốc khoảng trên dưới 10 triệu, cao là xe @ 60 triệu. Nhưng nhìn chung xe máy là tài sản có giá trị lớn, trung bình 20-30 trđ. Số tiền này nhiếu gia đình không thể có ngay, vì vậy mua trả góp là mong muốn và là sự lựa chọn đầu tiên khi họ mua sắm. Đứng trước thực tế trên, ngân hàng không nên chần chừ mà bỏ qua mất cơ hội mở rộng hoạt động CVTD của mình. Điều làm cho ngân hàng lo lắng ở đây là biện pháp quản lý kiểm soát và thu hồi nợ. Bởi vậy cần phải sàng lọc đối tượng cho vay, đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Về đối tượng : những người hưởng lương, trợ cấp xã hội, có tài sản bảo đảm. Phương thức hoàn trả: trả góp hoặc trả một lần. Lãi suất : thay đổi, tuỳ theo điều kiện của ngân hàng và nhu cầu của khách hàng. Thời hạn: ngắn hoặc trung hạn. Quy trình cho vay: đã trình bày ở phần 1.2.3.4. Đây là hình thức đang được người tiêu dùng rất quan tâm và hưởng ứng. Thực hiện phương thức này, ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng hoạt động CVTD. 3.2.6 Phát triển các sản phẩm khác. Tại các nước phát triển, CVTD thông qua thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động ATM, thấu chi đã phát triển mạnh. Song các phương thức này đòi hỏi phải có hệ thống thông tin phát triển cùng với đội nghũ cán bộ giỏi, trình độ chuyên môn cao (trình bày ở phần 1.2.4). Hiện tại, ngân hàng chưa thể phát triển các phương thức này được, Nhưng ban lãnh đạo nên đề ra kế hoạch cho các sản phẩm mới, khi điều kiện cho phép (mà theo Đề án tái cơ cấu lại NHNo&PTNT dự định năm 2003, toàn hệ thống NHNo thông qua một cửa ngõ giao dịch, trang bị máy móc công nghệ và nâng cấp chương trình tin học) ngân hàng sẽ tiến hành nhanh chóng kịp thời, chiếm lĩnh thị trường, đáp ứng yêu cầu của người vay. Không có hoạt động nào thành công nếu thiếu đi sự hài hoà giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài ngân hàng. Bản thân NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long phải có định hướng cụ thể, sự quan tâm đặc biệt đến CVTD như là phương thức cho vay chủ chốt, mang tính chiến lược dài hạn trong tương lai. Không có hoạt động nào là hoàn toàn an toàn. Nếu ngân hàng qua thận trọng sẽ bỏ lỡ mất cơ hội giành được thị trường khách hàng tiềm năng. “Chấp nhận rủi ro để hi vọng có được lợi nhuận lớn trong tương lai”. Là một tổ chức kinh tế, ngân hàng là người hiểu rõ điều này, và ngân hàng cần mạnh dạn đưa ra các chính sách mới, tạo sự năng động trong hoạt động ngân hàng. Các nhân tố bên ngoài tác động trực tiếp lên hoạt động của ngân hàng là các quy định của Nhà nước và NHnn. Mỗi quy định khác nhau của cấp trên đều gây tác động lớn đến việc tiến hành CVTD của ngân hàng. Để hoạt động CVTD của ngân hàng được tiến hành suôn sẻ, tối cũng nêu một số đề xuất với các cơ quan cấp trên: Chính phủ nên giao quyền quyết định trên thị trường CVTD cho NHNN đảm nhiệm. Bởi trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng mới thực sự là các chuyên gia. Phương thức CVTD không có ảnh hưởng quá lớn tới các ngành nghề cũng như định hướng đầu tư, phát triển của đất nước. Về phía NHNN, cần tạo khả năng cho các NHTM tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh. Để hoạt động CVTD phát triển, NHNN cần có chủ trương, chính sách rõ ràng thông qua các văn bản hướng dẫn cụ thể đến các NHTM. Bên cạnh các chủ trương nêu trên, NHNN cần có sự hỗ trợ về nhiều mặt cho NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long như: cử cán bộ đi nghiên cứu về CVTD ở các nước phát triển để học hỏi kinh nghiệm, tổ chức hội thảo, liên kết, phối hợp với các ngân hàng, ban ngành đoàn thể… Về phía NHNo&PTNT, cần hõ trợ đặc biệt về vốn, công nghệ và đào tạo cán bộ cho chi nhánh Thăng Long. Điều này sẽ tác động đến cách nhình nhận và thái độ làm việc của CBTD, mặt khác sẽ tác động đến chất lượng cho vay nói chung, CVTD nói riêng. Khi điều kiện cho phép, NHNo&PTNT cần tạo điều kiện giúp đỡ chi nhánh Thăng Long có thể lập một phòng chuyên môn nghiên cứu về các loại hình CVTD, biện pháp xử lý và các biện pháp bảo đảm. Kết luận Hoạt động CVTD vẫn còn mới mẻ không chỉ đối với người tiêu dùng mà còn đối với chính các NHTM Việt Nam, cũng như các cán bộ, nhân viên ngân hàng. Nhưng mấy năm gần đây, triển vọng phát triển CVTD là tất yếu rõ ràng. Người dân đã biết đến CVTD và số lượng người vay CVTD ngày càng tăng lên. Các NHTM cũng đang tích cực triển khai loại hình CVTD này cũng như là những thành công đã được kiểm chứng của các ngân hàng các nước, đặc biệt ở các nước phát triển. NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long là một chi nhánh có đầy đủ điều kiện để thực hiện CVTD nhằm đa dạng hoá hoạt động ngân hàng. Số lượng khách hàng đến vay tiêu dùng ngày càng tăng, tỷ lệ thu nhập cao, rủi ro thấp. Tuy nhiên, chi nhánh Thăng Long chưa có chủ trương phát triển hoạt động này thành một nghiệp vụ lớn. Trong thời gian tới, ngân hàng nên đầu tư hơn nữa vào việc nghiên cứu đối tượng khách hàng, tạo bước tiến thuận lợi cho ngân hàng chiếm lĩnh thị trường CVTD, giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả và đạt được mục tiêu đề ra. Do còn hạn chế về mặt kiến thức lý luận cũng như thực tiễn, đồng thời do hạn chế về mặt tài liệu và thời gian nghiên cứu, nhiều vấn đề cần đi sâu phân tích và xem xét lại cũng như những vấn đề mới chưa được đề cập đến trong bài viết này. Em rất mong có thể nghiên cứu tiếp và hoàn thiện đề tài này vào một ngày gần đây. Cuối cùng, em rất mong sự góp ý , nhận xét của các Thầy Cô, các cán bộ công nhân viên ngân hàng, những người có cùng mối quan tâm về hoạt động CVTD và các bạn. Xin chân thành cảm ơn! ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29709.doc