Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Mục lục Trang A.Lời mở đầu ………………………………………………………………………2 B.Nội dung I.Những vấn đề lí luận về kinh tế thị trường ……………………………………..3 1.Quan niệm và đặc điểm của kinh tế tư nhân …………………………………3 2.Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát kinh tế tư nhân ……………………………………………………………...4 3.Bài học lịch sử về phát triển kinh tế tư nhân rút ra từ kinh nghiệm của một số nước trên thế giới …………………………..4 3.1.Khảo sát tư tưởng của Lê-nin về sự cần thiết phát triển kinh tế tư nhân trong thời k

doc15 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì chính sách kinh tế mới ……………….4 3.2.Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập …………………………………………………….5 II.Thực trạng kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ……………8 1.Tiền đề phát triển ……………………………………………………………….8 1.1.Thời kì trước đổi mới ………………………………………………………..8 1.2.Thời kì đổi mới ………………………………………………………………8 2.Đánh giá chung về thực trạng kinh tế tư nhân ở Việt Nam ………………….8 2.1.Thành tựu ……………………………………………………………………9 2.2.Tồn tại và nguyên nhân những tồn tại ……………………9 III.Một số giả pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự sự phát triển kinh tế nhân Việt Nam trong nền kinh tế……………………………………. …11 1.Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân ………………......11 2.Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ cho kinh tế tư nhân …………………..….11 3.Phát triển các mối quan hệ hợp doanh giữa nhà nước với tư nhân giữa tư nhân trong nước với nước ngoài………………………………………12 4.Đổi mới cơ chế chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân ……………………………………………………..13 5.Tăng cường công tác kiểm tra giám sát nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh của kinh tế tư nhân ………………………………………....13 C.Kết luận……………………………………………………………………………14 D.Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………………15 A.Lời mở đầu *-*-*-*-*-*-*-*-*-* Qua hai mươi năm thưc hiện công cuôc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp. Đóng góp vào thành công đó chúng ta không thể không nhắc tới khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay. Có thể nói rằng, quan điểm của Đảng về việc từng bước phát triển khu vực kinh tế tư nhân cho nó đi đúng theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Nó phản ánh xu thế khách quan của lịch sử. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, xác định những đặc điểm của thành phần kinh tế tư nhân, đưa ra những phương hướng nhằm thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân, mang lại hiệu quả cao theo mong muốn là chủ đề hoàn toàn thiết thực Mặt khác, chủ trương phát triển thành phần kinh tế tư nhân của Đảng và nhà nước ta được đại đa số nhân dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số ý kiến chưa thống nhất với quan điểm trên thậm chí còn nhận thức không đúng về vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tất cả lí do đó tôi đã chọn đề tài:”Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” nhằm khẳng định hơn nữa tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay. Đồng thời chỉ ra một số hạn chế trong quá trình xây dựng và phát triển thành phần kinh tế này và đưa ra một số biện pháp khắc phục các hạn chế đó. Tác giả đề án Lưu Huy Thưởng B. NỘI DUNG *-*-*-*-*-*-*-*-*-*-* I.Những vấn đề lí luận về nền kinh tế tư nhân 1.Quan niệm và đặc điểm của kinh tế tư nhân Quan niệm: Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, với lao động của các chủ thể kinh tế và lao động làm thuê, bao gồm: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Cho đến nay có nhiều cách khác để xác định cơ cấu và các nấc thang phát triển của kinh tế tư nhân. Sau cách mạng Tháng Mười 1917, V.I.Lênin đã chỉ ra kết cấu kinh tế tư nhân ở nước Nga lúc đó gồm:”Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân.” Ở nước ta, từ khi đổi mới trong các văn kiện Đại hội đã xác định có những thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân dược chia làm hai thành phần:”Kinh tế cá thể, tiểu chủ, và kinh tế tư bản tư nhân.”Đến báo cáo chính trị Đại hội X của Đảng lại xác định thành phần kinh tế tư nhân bao gồm: “Cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân.” Đặc điểm: -Kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân- một trong những động lực thúc đẩy xã hội. Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người từ xưa đền nay đã cho thấy lợi ích của mỗi cá nhân là động lực trước hết và chủ yếu thúc đẩy xã hội phát triển. Điều cốt yếu là phải tạo ra và sử dụng động lực đó cho phù hợp phục vụ cho lợi ích chung của toàn xã hội. Nền kinh tế thị trường tồn tại mấy trăm năm vẫn chủ yễu dựa trên lợi ích cá nhân. Do gắn liền với lợi ích cá nhân nên kinh tế tư nhân có sức sống mãnh liệt. Quá trình quốc hữu hóa và tập thể hóa cao độ trong các nền kinh tế mệnh lệnh trước đây đã bằng mọi cách xóa bỏ kinh tế tư nhân. Trong môi trường khắc nghiệt đó, kinh tế tư nhân vẫn len lỏi tồn tại. -Kinh tế tư nhân mà tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân là mô hình tổ chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hóa. Hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa ra đời gắn liền với sự phân công lao động xã hội. Có thể nói, quá trình đó bắt đầu từ thời kì tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Tuy nhiên, trong hàng ngàn năm tồn tại cho đến trước khi xuất hiện nền sản xuất đại công nghiệp, đó là một nền sản xuất hàng hóa giản đơn gắn liền với sản xuất nhỏ tự cung tự cấp. -Kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường khó có thể tồn tại và phát triển nếu không có sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Nói cách khác, cơ chế thị trường hiện đại chính là dạng sinh tồn của kinh tế tư nhân mà điển hình là mô hình tổ chức doanh nghiệp. Hình thức tổ chức sản xuất này là sản phẩm tự nhiên của cơ chế thị trường và tự nó lớn lên trong cơ chế thị trường. Bất kì một nền kinh tế nào hoạt động theo cơ chế thị trường đều phải thừa nhận và khuyến khích mô hình tổ chức doanh nghiệp này. Ngược lại, mô hình tổ chức doanh nghiệp tự nó ứng xử theo cơ chế thị trường và có sức sống mãnh liệt trong môi trường của cơ chế thị trường. 2.Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nà phát triển kinh tế tư nhân. Phát triển kinh tế tư nhân là một tất yếu xuất phát từ qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu chúng ta chỉ coi kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng mà không đặt kinh tế tư nhân vào đúng vị trí của nó, thì về thực chất chúng ta vẫn coi sở hữu là mục đích của mọi chính sách – chúng ta không thể để quan hệ sản xuất vượt quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như trước đây cũng như không thể “ép” kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải có tiềm lực lớn hơn kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi chúng ta chưa đủ khả năng làm điều đó một cách hiệu quả. Nếu so sánh, đối chiếu với các hình thức sở hữu khác, thì phải thừa nhận rằng trong nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là hình thức sở hữu phù hợp hơn cả. Trong hình thức sở hữu đó, mục đích của sản xuất hàng hoá không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng mà thông qua sản xuất giá trị sử dụng để thực hiện giá trị của hàng hoá, và từ đó đạt được lợi nhuận. Để làm được điều này, trước hết phải xác định rõ quan hệ hàng hoá, sau đó mới xác định quan hệ lợi ích được thực hiện trong hàng hoá. Do hàng hoá được sản xuất ra từ các tư liệu sản xuất, nên muốn xác định quan hệ hàng hoá thì phải xác định được các quan hệ sản xuất để sản xuất ra hàng hoá đó. Quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu này; bởi một đặc trưng của chủ yếu của nền kinh tế thị trường là thừa nhận lợi ích cá nhân và dựa trên cở cấu quyền tài sản phân tán. Thực tế cho thấy, nếu không có sự giao dịch chuyển nhượng tài sản giữa các doanh nghiệp, giữa các cá nhân sản xuất hàng hoá, thì cũng không có cạnh tranh về giá cả và thị trường theo đúng nghĩa của nó; do vậy cũng không có nền kinh tế thị trường thực sự. 3.Bài học lịch sử về phát triển kinh tế tư nhân rút ra từ kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. 3.1. Khảo sát tư tưởng của Lênin về sự cần thiết phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì chính sách kinh tế mới. Sau cuộc nội chiến, để thoát khỏi khủng hoảng, V.I.Lênin đã đề xướng chính sách kinh tế mới. Trong chính sách kinh tế mới của mình, Lênin đã chỉ ra để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế lúc bấy giờ phải sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ như khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công; khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân; sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước; củng cố lại các doanh nghiệp nhà nước, chuyển sang chế độ hạch tóan kinh tế. Như vậy, khác với thời kì nội chiến, trong điều kiện hòa bình, nước Nga Xôviết đã chủ trương khôi phục và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. 3.2.Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc Quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư nhân của Trung Quốc -Sau ngày thành thành lập nước,Trung Quốc đã nhanh chóng hình thành một khu vực kinh tế những lớn mạnh với sự giúp đỡ của Liên Xô. Năm 1949 doanh nghiệp tư nhân chiếm 63,3%sản lượng công nghiệp nhưng đến năm 1952, tỉ lệ này nhanh chóng giảm xuống còn 39%. Trong thời gian đó chính phủ kiểm soát kinh tế tư nhân thông qua biện pháp quốc hữu hóa. Năm 1952, 62% sản phẩm đầu ra của kinh tế tư nhân theo đặt hàng của nhà nước hay được tiêu thụ thông qua nhà nước. -Năm 1966, cách mạng văn hóa bùng nổ kinh tế tư nhân không tồn tại kể từ đó cho đến cuối năm 1978. -Sau những cải cách ở khu vực nông thôn cuối năm 1978 kinh tế tư nhân đã xuất hiện. Ban đầu doanh nghiệp tư nhân không được chính thức công nhận, chỉ có hộ cá thể. Sau đó, kinh tế tư nhân đã có một vị trí khiêm tốn trong nền kinh tế”bổ sung”cho khu vực nhà nước. Tiếp theo chỉ còn những hạn chế về phạm vi hoạt động của kinh tế tư nhân . -Năm 1988 đánh dấu sự thừa nhận chính thức doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc. Nhưng đến năm 1989, sự kiện Thiên An Môn đã gây ra những tác động tiêu cực cho sự phát triển của kinh tế tư nhân. Các nhà chính trị chuyển sang khuynh hường tả và kinh tế tư nhân bị kết tội là nguồn gốc của xu hướng tư nhân hóa nền kinh tế Trung Quốc. Kết quả là Quốc vụ viện đã ban hành một chỉ thị củng cố việc thu thuế hộ cá thể và các doanh nghiệp. Chỉ sau khi ông Đặng Tiểu Bình có bài phát biểu quan trọng trong chuyến công tác phía nam nổi tiếng năm 1992, khu vực tư nhân mới được hồi phục. Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc khóa XIV đã đưa ra quyết định về việc hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Đây là bước ngoặt của Trung Quốc trên con đường tiến lên nền kinh tế thị trường. -Kể từ năm 1993, các chính sách của Đảng và chính phủ Trung Quốc ngày càng trở nên thân thiết hơn đối với khu vực tư nhân. Ngày 28-8-2004, thủ tướng Ôn Gia Bảo phát biểu tại hội thảo doanh nghiệp ngoài quốc doanh tổ chức tại thành phố Ôn Châu, Chiết Giang đã nhấn mạnh:”Theo Nghị Quyết Đại hội XVI của Đảng, chúng ta cần nắm chắc việc nghiên cứu và xây dựng chính sách về khuyến khích và ủng hộ phát triển kinh tế ngoái quốc doanh. Chúng ta phải nhanh chóng hoàn thiện pháp luật các quy chế thúc đẩy kinh tế ngoài quốc doanh phát triển một cách lành mạnh.” -Dấu ấn nổi bật trong những thay đổi về mặt chính sách là sự xác định lại cơ cấu hệ thống kinh tế Trung Quốc trong báo cáo của chủ tịch Giang Trạch Dân đã chỉ rõ:”Một đặc điểm cơ bản trong thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và cùng phát triển với nó còn có những hình thức sở hữu khác.”Ông nhấn mạnh:”Kinh tế phi nhà nước là một thành phần quan trọng trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc…” Tư tưởng này đã được chính thức thừa đưa vào hiến pháp sửa đổi sau đổi mới với nội dung:” Kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể là những thành phần quan trọng trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc…””…nhà nước có trách nhiệm bảo đảm tài sản và thu nhập hợp pháp của khu vực tư nhân”.Đây là một bước tiến lớn trong quá trình tồn tại và phát triển của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Kinh nghiệm: *Thống nhất nhận thức quan điểm về kinh tế tư nhân -Từ kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Trung Quốc chúng ta có thể thấy rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, khu vực tư nhân hoàn toàn có thể phát triển năng động trong môi trường kinh tế thị trường. Đảng Cộng sản, nhà nước hoàn toàn có khái niệm quản lí, giám sát và định hướng sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân. -Có một thực tế là ở cả Việt nam và Trung Quốc, cam kết chính trị gần như đóng vai trò quyết định cho sự phát triển của kinh tế tư nhân. Tại Trung Quốc khu vực tư nhân đã phát triển mạnh mẽ sau chuyến công du của Đặng Tiểu Bình. Tuyên bố của ông đã có tác động mạnh mẽ hơn nhiều các đạo luật chính sách, đã thực sự giải phóng tư tưởng tâm lí và những vướng mắc cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân lúc đó. Đối với Việt Nam chúng ta cần thống nhất nhận thức rằng khu vực tư nhân thực sự là động lực trưởng kinh tế quan trọng, là khu vực chủ yếu giải quyết việc làm phát huy mọi tiềm lực của người dân. Và để thúc đẩy khu sự phát triển khu vực kinh tế năng động này Việt nam cần cam kết từ phía Đảng và chính phủ đẻ giải phóng tư tưởng đối với kinh tế tư nhân. -Vấn đề giải phóng tiếp theo là quan niệm về sự “bóc lột:”. Chúng ta không thể coi một doanh nhân bỏ vốn đầu tư, tạo việc làm và mang lại thu nhập ổn định cho người lao động, đồng thời lại phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh, thậm chí thua lỗ phá sản là bóc lột.” Bóc lột” trong thời đại ngày nay không nên chỉ nhận dưới quan điểm giai cấp mà còn cần được xem xét theo các tiêu chuẩn về công bằng xã hội. Khi mà người lao động không nhận được đồng lương tương xứng với những gì họ bỏ ra hoặc không được làm việc trong các điều kiện vệ sinh an toàn đã được quy định, không được hưởng những phúc lợi xã hội như những người khác. *Chính trị hóa các hoạt động kinh tế. -Sau sự kiện Thiên An Môn, hoạt động của khu vực tư nhân Trung Quốc đã bị kiểm soát chặt chẽ hơn. Hai trong số các chính sách đã được áp dụng lúc đó là chính sách chống hàng giả và hàng bất hợp pháp của chính quyền trung ương Trung Quốc và chính sách đảm bảo việc thu thuế từ khu vực tư nhân của chính quyền Ôn Châu, và nhưng chính sách này không xuất phát từ ý đồ chính trị cũng như dưới áp lực từ khu vực kinh tế nhà nước thì hiển nhiên đó là những chính sách có lợi cho xã hội. Tuy nhiên, nó đã dược thực hiện chỉ để làm giảm bớt hay loại bỏ những áp lực cạnh tranh mà các doanh nghiệp nhà nước lúc đó đang đối mặt. -Các giáo sư Trung Quốc cho rằng cần rút ra bài học là chính trị hóa các quan hệ kinh tế thường đưa lại nhiều kết cục xấu, nếu không muốn nói là kết cục mang tính triệt tiêu mọi động lực phát triển. *Mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp tư nhân -Sau khi gia nhập WTO, thị trường Trung Quốc sẽ mở cửa cho nhiều đối tác nước ngoài trong các lĩnh vực sản xuất, tài chính…Tuy nhiên cho đến hiện tại các doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc vẫn chưa được tham gia vào một số lĩnh vực quan trọng như tài chính, thị trường bất động sản. -Các giáo sư Trung Quốc cho rằng cần mở cửa khu vực tài chính cho doanh nghiệp tư nhân vì thứ nhất, đó là vấn đề về sự đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; thứ hai Trung Quốc cũng như Việt Nam cần nhiều ngân hàng quy mô nhỏ để cung cấp vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà phàn lớn trong đó là các doanh nghiệp tư nhân, và cuối cùng, phhaanf lớn các khoản vốn hoạt động kinh doanh của cá doanh nghiệp ngoài nhà nước là từ thị trường vốn phi chính thức, tỷ lệ vay vốn từ ngân hàng chỉ chiếm 20%. Mở cửa và chính thức hóa khu vực tài chính tư nhân sẽ giúp nhà nước quản lí hiệu quả hơn hoạt động của khu vực tài chính đưa ra những chính sách tài chính tiền tệ sát thực tế hơn. *Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục -Tổ chức tuyên truyền phổ biến và giáo dục trong bộ máy Đảng chính quyền nhà nước các cấp, các tổ chức đoàn thể, các hiệp hộ, tổ chức quấn chúng và các tấng lớp nhân dân, nhất là cộng đồng các nhà kinh doanh, học sinh, sinh viên về: +Những giá trị và địa vị xã hội, những thách thức và rỉu ro đối với nghề kinh doanh và doanh nhân, hệ thống chuẩn mực đạo đức và văn hóa kinh doanh. +Quan điểm và những thay đổi tư duy của Đảng nhà nước về vai trò, vị trí tầm quan trọng và tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, tầm quan trọng của phát triển kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. +Những quy định cơ bản của pháp luật kinh doanh và doanh nghiệp như luật thương mại, luật doanh nghiệp, luật hợp tác xã, chế độ hỗ trợ và ưu đãi của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh… ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ nội dung các quy dịnh nói trên với việc phát triển kinh tế tư nhân. II.Thực trạng kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1.Tiền đề phát triển 1.1.Thời kì trước đổi mới Trong thời kì này, Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế thị trường thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên, trong nhận thức và chỉ đạo của nhiều địa phương, nhiều cơ quan nhà nước không thực sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế quốc doanh và hợp tác xã là kinh tế xã hội chủ nghĩa, khu vực kinh tế còn lại là kinh tế phi xã hội chủ nghĩa nên đã tìm cách ngăn cản phát triển, tiến hành cải tạo các thành phần kinh tế được coi là phi xã hội chủ nghĩa này. Tuy nhiên, trong thực tiễn các thành phần kinh tế này vẫn hoạt động dưới dạng kinh tế ngấm ngầm không kiểm soát được. . 1.2.Thời kì đổi mới Khu vực này từng bước được khôi phục và phát triển theo chủ trương cải cách của nhà nước. Với chủ trương giao ruộng đất cho xã viên hợp tác xã nông nghiệp thì ở nông thôn các hộ gia đình đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ hoàn toàn. Sự tan rã của các tập đoàn sản xuất và các hợp tác xã đã thúc đẩy sự phục hồi rất nhanh của kinh tế cá thể. Quyết định 26 và 27/HĐBT ngày 9-3-1988 cho phép các cơ sở kinh tế tư nhân qui mô nhỏ được phép hoạt động trong các ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng, vận tải và dịch vụ. Năm 1990, Quốc Hội ban hành một số luật như: luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, luật thuế doanh thu… đã tạo cơ sở pháp lí cho hoạt động của khu vực này. Hiến Pháp mới ban hành năm 1992 qui định mọi công dân được tự do kinh doanh theo pháp luật không hạn chế qui mô vốn và số lao động được sử dụng, Sau đó, hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn chỉnh và nhiều chính sách mới được ban hành nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân và cá thể. 2. Đánh giá chung về thực trạng kinh tế tư nhân ở Việt Nam. 2.1.Thành tựu. Mặc dù là thành phần kinh tế mới được Đảng và nhà nước tạo điều kiện phát triển nhưng thành phần kinh tế này đã đạt những thành tựu đáng kể. Tốc độ tăng trưởng GDP của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn cao hơn gấp rưỡi, gấp đôi tăng trưởng chung cũng như tăng trưởng của các khu vực kinh tế khác. Khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao dộng đang làm việc (88,8%), cao hơn nhiều so với tỷ trọng 9,75%của khu vực nhà nước(2005). Trong tổng số lao động làm việc ở khu vực doanh nghiệp (5175000 lao động ) thì doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42,9% cao hơn tỷ trọng 39,9% của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Với những con số đáng thuyết phục đó, khu vực này cũng đã có những đóng góp đáng kể vào việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế quốc dân như tăng nguồn thu ngân sách: trong năm 2002 thu ngân sách của khu vực này đạt 7,4% so với 6,4% của năm 2001. Các khoản thu thuế công nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh tăng 13% đạt 103,6% kế hoạch năm. Ngoài ra, các khoản thuế môn bài VAT trong nhập khẩu và các phí khác. Trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, thành phần kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ cao, tỉ trọng đóng góp vào ngân sách nhà nước lớn. Theo số liệu thống kê, công nghiệp ngoài quốc doanh (bao gồm cả kinh tế tư nhân) tuy vẫn là khu vực nhỏ nhất so với các khu vực khác, nhưng có nhịp độ tăng trưởng cao nhất: năm 2000 chiếm 26,4% trong giá trị sản xuất theo giá thực tế của toàn ngành công nghiệp, năm 2003 là 27,5%, năm 2004 tăng lên 28,5% và năm 2005 đạt trên 37% Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, hiện có hàng triệu cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, hơn 71 nghìn trang trại và hơn 120 nghìn doanh nghiệp tư nhân. Chỉ tính trong 4 năm gần đây với 72 601 doanh nghiệp có vốn đăng kí đạt 145 nghìn tỉ đồng (tương đương với 9 tỉ USD), tỉ trọng đầu tư của các loại doanh nghiệp tư nhân trong tổng đàu tư xã hội đạt từ 23% đến 25%. Năm 2005 kinh tế tư nhân đóng góp khoảng hơn 37% GDP. 2.2.Tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại -Cơ cấu kinh tế hộ nông đân chậm được cải thiện với tỉ trọng nông nghiepj đóng góp 79%. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn rất chậm, làm cho thu nhập người nông dân có tăng khá nhưng khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày một cách xa. -Sự chậm chuyển dịch lao động từ khu vực noonhg nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ làm cho tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn vẫn rất nghiêm trọng. Theo công bố của ban chỉ đạo điều tra lao động việc làm, đến ngày 1-7-2005 tỉ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn trong cả nước là 80,7%. Như vậy, quy ra còn 4,7 triệu lao động ở trong nông nghiệp ở nông thôn chưa có hay thiếu việc làm. -Kinh tế hộ gia đình ở đô thị có quy mô sản xuất, kinh doanh nhỏ, lẻ. Phần lớn các cơ sở này sản xuất thủ công, công nghệ lạc hậu, sản xuất kinh doanh nằm đan xen với khu dân cư, gây ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng, nhất là ở làng nghề. Đa số hoạt đông phi chính thức, nên một mặt việc hạch toán sản xuất, kinh doanh làm thiếu công khai minh bạch làm cho nhà nước khó nắm bắt đúng thực trạng phát triển để có chủ trương chính sách phù hợp, mặt khác trong chừng mực nào đó gây cạnh tranh thiếu lành mạnh, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư kinh doanh. -Doanh nghiệp tư nhân phần lớn có quy mô nhỏ vốn ít một số có quy mô vừa và lớn thuộc loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (vốn sản xuất kinh doanh bình quân năm 2003 của một doanh nghiêp tư nhân là 1,34tỷ đồng trong đó dưới 1tỷ đồng chiếm 66%.Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần các con số lần lượt là 1,47 tỷ và 38%;5,09 tỷ và 25%). Nhìn chung các doanh nhiệp của tư nhân có trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị lạc hậu tay nghề của người lao động thấp hơn so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, chất lượng sản phẩm dịch vụ thấp sức cạnh tranh yếu. - Quản trị doanh nghiệp yếu kém hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của bản thân và của gia đình. Phần lớn chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lí chưa qua đào tạo. quản lí tài chính thiếu mionh bạch, số liệu báo cáo chưa phản ánh được đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp, độ tin cậy chưa cao. -Nhiều doanh nghiệp hoạt động với những khuyết tật cố hữu như phát triển tự phát vi phạm pháp luật ( tùy tiện tăng giảm vốn, đổi trụ sở kinh doanh, thay đổi mặt hàng đăng kí sử dụng hóa đơn đỏ sai đăng kí …) hoạt động bất hợp pháp, trốn thuế đầu cơ làm hàng giả… -Các doanh nghiệp thường có định mức lao động cao thời gian lao động kéo dài đa số không áp dụng chế độ phụ cấp hiện hành của nhà nước, thiếu điều kiện bảo hộ và an toàn lao động, chưa thực hiện được đầy đủ chế độ bảo hiểm xã hội, số lao động tham gia bảo hiểm thấp, chỉ chiếm vài chục phần trăm tổng số lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội , thường kí hợp đồng lao động ngắn hạn để tránh nộp bảo hiểm xã hội. Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém: Quan điểm của Đảng về đảng viên làm kinh tế tư nhân chưa thật rõ ràng và đang tiếp tục được làm rõ.Đảng viên là những người tiên tiến nhất trong xã hội, nếu được làm kinh tế tư nhân như người dân bình thường tất nhiên phải tuân thủ điều lệ Đảng và pháp luật của nhà nước, không phải là sẽ huy động được một nguồn lực lớn cho phát triển kinh tế xã hội. Vì đảng viên có số lượng không lớn vốn ít, mà quan trọng hơn là tạo tâm lí yên tâm cho người dân bình thường bỏ vốn, bung ra làm ăn lâu dài và quy mô lớn hơn nữa. Một số cơ chế chính sách của nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân với đại bộ phận có quy mô vừa và nhỏ; quản lí có phần buông lỏng và có nhiều sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng. Hiệp hội ngành nghề và hiệp hội doahnh nghiệp chưa phát triển, còn hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân nước ta mới phát triển nên nhìn chung khái niệm tích tụ, huy động vốn xã hội còn hạn chế, quy moo nhỏ bé, trình độ công nghệ thấp, chưa tạo được uy tín khó chiếm lĩnh thị trường. Tính riêng rẽ, cá nhân của mỗi doanh nghiệp còn phổ biến, còn cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép nhau . III. Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong nền kinh tế. Kinh tế tư nhân cũng có vị trí vai trò quan trọng và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiện nay Đảng và nhà nước ta đang chủ trương giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ vè vốn, khoa học và công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm… Song kinh tế tư nhân có những hạn chế không phù hợp với kinh tế xã hộ chủ nghĩa.Vì vậy, cần hướng dẫn nó đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “vệ tinh” cho các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Đó là cách tốt nhất để “chung sống” với các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên, để lôi kéo được các thành phần kinh tế này hướng theo con đường xã hội chủ nghĩa thì các doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã phải tỏ rõ bản chất ưu việt của mình trong mọi hoạt động kinh tế và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. 1.Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân. - Khung pháp lí phải tạo sân chơi bình đẳng , phải có những quy phạm pháp luật áp dụng chung cho các thành phần kinh tế, cho các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước. Khắc phục mọi kì thị, phân biệt đối xử đối với kinh tế tư nhân. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, cũng phải từng bước mở sân chơi bình đẳng với các nhà đầu tư trong nước, theo lộ ttình hội nhập đã cam kết. - Phải tiếp tục xoá bỏ thể chế kế hoạch tập trung quan liêu, giảm bớt đi đến xoá bỏ sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan chức năng vào hoat động kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện hoạt động quản lí theo phương thức gián tiếp, chủ yếu là bằng hệ thống qui hoạch, kế hoạch, chính sách, xoá bỏ cơ chế xin-cho.Tự do kinh doanh gắn liền với cạnh tranh, còn xin-cho thì không bình đẳng, không cạnh tranh lành mạnh. 2. Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ cho kinh tế tư nhân. Bên cạnh việc cải thiện môi trường chung cho đầu tư, kinh doanh, nhà nước cần khuyến khích doanh nghiệp tư nhân bằng các chính sách hỗ trợ phát triển, chu yếu trên mấy lĩnh vực: -Giúp đỡ việc tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh bằng chính sách đất đai và các điều kiện về kết cấu hạ tầng. - Vốn tín dụng được thực hiện bằng các chính sách và hình thức thích hợp cho các doanh nghiệp tư nhân có thể vay vốn phát triển. - Ứng dụng khoa học và công nghệ: nhà nước đầu tư công nghệ mới; áp dụng hình thức khuyến công, ứng dụng công nghệ mớ, hỗ trợ việc đào tạo cán bộ, chuyển giao vận hành… - Hỗ trợ thông tin, tiếp thị: tạo điều kiện thuận lợi cho nối mạng thông tin, phát triển dịch vụ thông tin, hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực thông tin tiếp thị của doanh nghiệp và hiệp hội, nhưng không làm thay. -Áp dụng chính sách ưu đãi đối với các lĩnh vực ngành nghề cần khuyến khích: bằng chính sách thuế, tín dụng và cá hình thức khen thưởng.. Đi đôi với các chính sách khuyến khích hỗ trợ cần xúc tiến mạnh hơn chủ trương xoá bao cấp, giảm bảo hộ, kiểm soát độc quyền kinh doanh tạo ra sức ép rất mạnh thúc đẩy doanh nghiệp phải vươn lên nâng cao sức cạnh tranh để hội nhập để tồn tại và phát triển, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. -Hỗ trợ trong đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những hạn chế của thành phần kinh tế tư nhân hiện nay đó là thiếu lao động có trình độ và tay nghề cao. Chính vì vậy, nhà nước cần có những biện pháp phát triển giáo dục nhằm tạo ra đội ngũ tri thức cũng như người lao động trình độ và tay nghề cao. Đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế trong tương lai. 3. Phát triển những mối quan hệ hợp doanh giữa nhà nước với tư nhân, giữa tư nhân trong nước và nước ngoài. Thực hiện liên doanh liên kết giữa kinh tế tư nhân với nhau, giữa kinh tế tư nhân với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp đầu tư nươc ngoài bắt nguồn từ đặc điểm, nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân mỗi tổ chức kinh tế cũng như của toàn bộ nền kinh tế.Trong khi hiểu quả trong sản xuất kinh doanh cũng như sức cạnh tranh còn yếu, xét cả trong phạm vi mỗi tổ chức kinh tế (đối với nền kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế hộ gia đình, cá thể, tiểu chủ và doanh nghiệp của tư nhân), cũng như trong toàn bộ nền kinh tế, lại phải đối phó với áp lực cạnh tranh hết sức gay gắt trong kinh tế khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập. 4. Đổi mới cơ chế tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam vừa được khôi phục lại với thời gian không nhiều trong một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu. Do vậy, vốn cho các hộ, các doanh nghiệp tư nhân tát yếu phải được quan tâm hỗ trợ bằng các hướng và nhiếu cách: hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước (kể cả miễn giảm thuế) hỗ trợ thông qua các dự án trong và ngoài nước, hỗ trợ thông qua các quỹ và hệ thống ngân hàng. Cải tiến về các điều kiện thế chấp tài sản; Nhà nước cần điều chỉnh lại giá nhà, đất cho phù hợp với thực tế. Trong khi chưa có điều chỉnh này, các ngân hàng cần phải linh hoạt trong việc định giá đối với tài sản thế chấp 5.Tăng cường công tác kiểm tra quản lí kiểm tra giám sát của nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân. Một trong những yếu kém, hạn chế._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35921.doc
Tài liệu liên quan