Luận án Ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH THÁI DOÃN VIỆT ảNH HƯởNG ĐạO ĐứC NHO GIáO ĐếN GIáO DụC ĐạO ĐứC TRONG GIA ĐìNH ở VIệT NAM HIệN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH THÁI DOÃN VIỆT ảNH HƯởNG ĐạO ĐứC NHO GIáO ĐếN GIáO DụC ĐạO ĐứC TRONG GIA ĐìNH ở VIệT NAM HIệN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY

pdf169 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 339 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẬT LỊCH SỬ Mã số: 62 22 03 02 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT 2. PGS.TS. LÊ VĂN LỢI HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Thái Doãn Việt MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến Nho giáo và đạo đức Nho giáo 5 1.2. Những nghiên cứu liên quan đến gia đình và đạo đức gia đình 14 1.3. Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa đạo đức Nho giáo với giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam 18 1.4. Khái lược những kết quả đạt được từ các công trình khảo cứu ở trên và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết 22 Chương 2: QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ 26 2.1. Quan niệm của Nho giáo về đạo đức và đạo đức trong gia đình 26 2.2. Đạo đức Nho giáo với tư cách nhân tố chủ đạo của giáo dục đạo đức gia đình Việt Nam trong lịch sử 54 Chương 3: ẢNH HƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐẾN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 72 3.1. Những nhân tố tác động đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trong giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay và phương thức ảnh hưởng của nó 72 3.2. Thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay 86 3.3. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay 98 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 105 4.1. Phương hướng chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay 105 4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay 118 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xét về mặt ý thức hệ, Việt Nam từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng phong kiến Trung Quốc mà nền tảng của nó là Nho giáo. Bên cạnh mặt tiêu cực đã và đang ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội, Nho giáo vẫn phát huy được những mặt tích cực nhất định của nó. Ở nhiều nước phương Đông như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... Nho giáo vẫn có vị trí nhất định trong đời sống xã hội. Ông Lý Quang Diệu, nguyên Thủ tướng Singapore tại Hội nghị nghiên cứu về Khổng Tử và Đại hội thành lập Hội liên hiệp Nho học quốc tế nhân dịp kỷ niệm 2545 năm ngày sinh của Khổng Tử, đã phát biểu như sau: 76% nhân khẩu của Singapore là người Hoa. Văn hoá dân tộc Hoa chú trọng ngũ luân, cũng tức là: cha con thì có tình thân, vua quan thì có nghĩa, chồng vợ thì có khác biệt, trưởng ấu thì có thứ tự, bạn bè thì có điều tín. Họ xem lợi ích xã hội cao hơn lợi ích cá nhân, do đó không tiếp thu chủ nghĩa cá nhân vô hạn độ của người Mỹ... Từ kinh nghiệm quản lý đất nước của Singapore, đặc biệt trong những ngày gian khổ từ năm 1959- 1969, khiến tôi tin tưởng sâu sắc rằng, nếu không phải là đại bộ phận nhân dân Singapore được hun đúc qua giá trị quan của Nho học, thì chúng tôi không có cách gì khắc phục những khó khăn, trở ngại đã vấp phải [37, tr.281]. Trải qua nhiều bước thăng trầm, song ảnh hưởng cũng như giá trị và sức sống của tư tưởng Nho giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói riêng là điều chúng ta không thể phủ nhận. Tuy ở mức độ khác nhau, nhưng với hơn 2500 năm tồn tại và phát triển, tư tưởng Nho giáo trong đó có học thuyết đạo đức của nó đã thấm sâu trong đời sống tinh thần của nhiều người Việt Nam, thậm chí nó đã trở thành một phần máu thịt của họ. 2 Đạo đức Nho giáo không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân con người mà còn ảnh hưởng đến các thiết chế xã hội Việt Nam, trong đó có gia đình - với tư cách là tế bào của xã hội. Với truyền thống nhân ái, thủy chung, trọng nghĩa tình, đạo lý, chúng ta luôn luôn đề cao giáo dục đạo đức trong gia đình và vai trò của gia đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Một trong những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội được Đại hội XII của Đảng đề ra là "Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và văn minh" [48, tr.128]. Hiện nay nhiều gia đình Việt Nam vẫn giữ gìn và phát huy được những giá trị tốt đẹp của đạo đức gia đình truyền thống, trở thành giá đỡ, thành chỗ dựa tinh thần không thể thiếu trong suốt hành trình của mỗi con người. Một thực tế không thể phủ nhận là trong những giá trị đó có sự đóng góp nhất định của đạo đức Nho giáo. Tuy nhiên, dù được lựa chọn, sàng lọc qua quá trình tiếp biến văn hóa ở nước ta gần hai ngàn năm, cho đến tận ngày ngay, đạo đức Nho giáo cũng có những mặt hạn chế nhất định và ảnh hưởng không tốt đối với sự hình thành các giá trị đạo đức mới của gia đình Việt Nam, làm cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước bị cản trở. Chính vì vậy, việc kế thừa những giá trị tích cực, khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo trên lập trường đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp với thực tiễn của cách mạng nước ta để xây dựng đạo đức gia đình ở Việt Nam nói riêng, gia đình văn hóa mới nói chung ở nước ta hiện nay là vấn đề mang ý nghĩa cấp thiết. Đề tài: "Ảnh hưởng Đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay" do chúng tôi lựa chọn để làm đề tài luận án của mình chính là sự định hướng tới mục đích nói trên. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam trong lịch sử và những vấn đề đặt ra từ 3 ảnh hưởng đó đến giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình, góp phần vào sự nghiệp xây dựng gia đình văn hóa mới ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất: Nghiên cứu nguồn gốc, nội dung đạo đức Nho giáo. Thứ hai: Đánh giá thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra. Thứ ba: Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đến việc giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng đạo đức Nho giáo (cả mặt tích cực lẫn tiêu cực) đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay (nhưng số liệu điều tra, khảo sát chủ yếu từ khi đổi mới đất nước đến nay). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức gia đình. Đồng thời luận án có kế thừa những thành tựu đạt được của một số công trình khoa học có liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án kết hợp sử dụng các phương pháp cụ 4 thể: phân tích tổng hợp, lôgíc - lịch sử, quy nạp và diễn dịch, khái quát hóa, đối chiếu so sánh, thống kê xã hội học... 5. Những đóng góp mới về khoa học - Từ nguồn gốc và nội dung của đạo đức Nho giáo, luận án làm rõ đạo đức Nho giáo Việt Nam và đạo đức trong gia đình theo quan niện Nho giáo Việt Nam. - Làm rõ ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án góp phần tìm hiểu ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đến đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay. Chỉ ra những khó khăn và thuận lợi trong việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức trong gia đình, xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay. Luận án góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trương, chính sách phát triển văn hóa con người Việt Nam, đặc biệt là việc tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc góp phần xây dựng gia đình văn hóa mới. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn triết học nói chung và triết học phương Đông nói riêng, cũng như các môn về khoa học xã hội. Luận án cũng là tài liệu quan trọng cho những ai quan tâm đến đạo đức, Nho giáo và giáo dục đạo đức gia đình. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội ra đời cách đây hơn 2500 năm. Sự tồn tại, phát triển của Nho giáo và những giá trị của Nho giáo cũng như những mặt trái của Nho giáo luôn nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo từ nhiều góc độ khác nhau. Chúng ta có thể khái quát lại các công trình nghiên cứu và phân chia thành các nhóm sau: 1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHO GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO 1.1.1. Những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài Vấn đề đạo đức nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng luôn được giới nghiên cứu quan tâm và từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, với nhiều cách tiếp cận khác nhau trên thế giới. Chẳng hạn bộ sách: "20 thế kỷ Nho học nghiên cứu đại hệ 21" của Truyền Vĩnh, Hàn Chung Văn [200], là kết quả nghiên cứu từ Hội thảo khoa học quốc tế với những nội dung chính sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu về kinh điển Nho giáo. Đây là chủ đề được hội thảo bàn luận nhiều nhất. Bởi lẽ, trước khi nghiên cứu nội dung cơ bản của Nho học cần phải nắm vững kinh điển của nó. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc việc nghiên cứu Nho giáo không chỉ dừng lại ở trích dẫn kinh điển mà còn ở những nhận định khách quan, khoa học và có tính thực tiễn cao hơn. Nội dung chủ yếu của xu hướng này tập trung ở các bài viết về: Nghiên cứu kinh điển Nho gia của Trương Đào, nghiên cứu khái quát và cụ thể từng nội dung của Nho gia thời kỳ đầu và ảnh hưởng của nó đến Kinh học; Nghiên cứu Khổng Tử của Khổng Phàm Lĩnh đã đánh giá những giá trị, ảnh hưởng của học thuyết Khổng Tử không chỉ ở xã hội Trung Quốc mà còn có một số 6 quốc gia trên thế giới; Nghiên cứu các học phái Nho gia của Lý Chiêu Cường tập trung phân tích, so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa 8 phái của Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hoá truyền thống Trung Quốc. Thứ hai, nghiên cứu tư tưởng chính trị, kinh tế của Nho giáo Công trình "Nghiên cứu tư tưởng chính trị Nho gia" của Vương Nhật Mỹ [125] đã trình bày tư tưởng chính trị của Nho gia. Tác giả đã tổng kết và đưa ra những giá trị của Nho giáo đang được ứng dụng trong thực tiễn xã hội đương đại. Dương Âm Lâu chủ biên cuốn "Nghiên cứu tư tưởng kinh tế của Nho gia" tập trung nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế của các bậc đại Nho Trung Quốc như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Tư Mã Thiên, Đổng Trọng Thư, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu... Trong công trình này các tác giả đã có những kiến giải về quản lý xã hội, quản lý giáo dục, quản lý kinh tế, quản lý nghệ thuật, triết học chính trị, hay sự thích ứng của tư tưởng quản lý Nho giáo với nền kinh tế thị trường Thứ ba, những nghiên cứu tư tưởng giáo dục, luân lý đạo đức của Nho giáo Tăng Chấn Vũ với công trình "Nghiên cứu tư tưởng luân lý của Nho gia" [202]. Đây là công trình nghiên cứu những luân lý của Nho gia một cách tổng quát. Từ luận lý tác giả đã nêu bật được những ảnh hưởng của Nho giáo đến toàn xã hội Trung Quốc và ảnh hưởng của luân lý Nho gia đến xã hội Đông Á, vai trò của luân lý Nho gia đối với sự phát triển kinh tế. Lý Đào Tường với công trình "Nghiên cứu luân lý Nho gia" [186] đã tập trung nghiên cứu tư tưởng giáo dục của các nhà Nho giáo. Công trình "Nghiên cứu sự truyền bá Nho học" của tác giả Lưu Đức Tăng [146] đã nghiên cứu các vấn đề: Sự truyền bá và phân hoá hay biến thể của Nho học; Nam học và Bắc học Nho giáo; Văn hoá khu vực và các môn phái Lý học Thứ tư, những nghiên cứu Nho giáo trong tương quan của trục quan hệ so sánh. Đây là mảng đề tài được rất nhiều tác giả quan tâm. Tiêu biểu là công trình: "Nghiên cứu Nho học Nhật Bản, Hàn Quốc" của Lưu Hậu Cầm [24]. 7 Trong công trình này các tác giả đã nêu bật được những ảnh hưởng của Nho giáo đến Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Cùng thể loại công trình này, tác giả Lý Cảnh Minh, Đường Minh Quý đã đồng chủ biên hai công trình về Nho giáo là "Nghiên cứu so sánh Nho giáo và Đạo giáo" [107] và "Nghiên cứu so sánh Nho giáo và Phật giáo" [108]. Ngoài ra còn có các tác phẩm: "Nghiên cứu tư tưởng sử học của Nho gia"; "Nghiên cứu tư tưởng tôn giáo của Nho gia" trong cuốn: "Nghiên cứu tư tưởng triết học của Nho gia" của Tế Kim Giang, Lý Kiến và Trương Tụng Chi [50]... Các công trình này đã nêu được những điểm khác biệt của Nho giáo trên từng lĩnh vực đời sống xã hội so với các học thuyết ngoài nó. Thứ năm, những nghiên cứu về văn hoá trong Nho giáo Về văn hóa trong Nho giáo các tác giả tập trung khai thác ở mảng Khổng Tử và Hiến pháp, Nho giáo và Hiến pháp; Nho giáo với văn hoá truyền thống của Trung Quốc hay tính cách của Nho gia và hạn chế trong cuộc sống hiện đại. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các công trình: "Nghiên cứu tư tưởng văn hoá của Nho gia" của Dương Xuân Mai [106]; "Nghiên cứu tư tưởng văn nghệ của Nho gia" của Triệu Lợi Dân [34]. Thứ sáu, nghiên cứu Nho giáo như là một thành tố chính trong "Giá trị châu Á" tác động tới sự thành công của các nước Đông Á trong việc tổ chức quản lý đời sống xã hội và phát triển kinh tế. Các tác giả Tan Chwee Huat, Heungsik Park, Micheal T Rehg và Donggi Lee đã luận bàn về các vấn đề như: "Nho giáo và việc xây dựng quốc gia ở Singapore", "Sự ảnh hưởng của Đạo đức Nho giáo và Chủ nghĩa tập thể tới mục đích thổi còi" hay "Nho giáo và nền tảng đạo đức của bộ máy quan liêu" của H. Frederickson và nhà nghiên cứu D. Koehn với "Chữ Tín trong Nho giáo và thực tiễn kinh doanh ở Trung Quốc" Bên cạnh những nghiên cức trên còn có nhiều công trình nghiên cứu về ý nghĩa của Nho giáo đối với xã hội hiện đại. Tác phẩm: "Bình luận và giải thích giá trị hiện đại tư tưởng Nho gia" của tác giả Tào Cương [33] đã đề cập 8 đến phương pháp luận bình luận và giải thích giá trị hiện đại tư tưởng Nho gia ở một số phương diện như tư tưởng nhân học; luân lý lý tưởng Nho gia và kinh tế thị trường hiện đại; quan niệm đạo đức Nho gia và xây dựng đạo đức hiện đại; quyền lợi và nghĩa vụ theo quan điểm Nho giáo Công trình nghiên cứu: "Văn hoá Nho gia và quản lý kinh tế hiện đại" của của tác giả Đường Nhậm Ngũ [130] đã đề cập đến vai trò của văn hoá Nho giáo đến tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á; Nhân tố trong văn hoá Nho gia phù hợp với sự phát triển kinh tế; Văn hoá Nho gia thích ứng với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Công trình nghiên cứu "Nho gia truyền thống và tư tưởng nhân quyền, dân chủ" của của các tác giả Trần Khải Trí và Trương Thọ Hoa [182]. Đây là công trình tập hợp các bài viết của các tác giả Trung Quốc về tư tưởng Nho gia với các vấn đề triết học chính trị hiện đại: nhân quyền, dân quyền, dân chủ, và so sánh với xã hội phương Tây. Ở đây các tác giả cũng lấy tư tưởng của Mạnh Tử về dân bản (dân vi bản) để phân tích, đề xuất mô hình xã hội đương đại. Tác giả Trương Hưng Phúc với công trình: "Văn hoá Nho gia và nghiên cứu quản lý hiện đại" [135] đã đề cập đến những vấn đề lợi ích, chế độ, đào tạo bồi dưỡng nhân tài, hiệu ứng tâm lý, giá trị hướng thượng... của Nho giáo từ đó đề xuất, áp dụng những giá trị của Nho gia vào quản lý xã hội hiện đại. Như vậy, có thể nói cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến hầu hết các lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống con người phương Đông trong lịch sử cũng như hiện tại. Đồng thời nó phản ánh tính thời sự khoa học cấp bách mà ở mỗi nước đồng văn Trung Hoa ngày nay phải tính đến trên con đường hội nhập và phát triển của mình. Việc tìm hiểu những nội dung thiết thực liên quan đến đề tài luận án chắc chắn giúp chúng tôi ngoài việc tham khảo những đánh giá của các học giả về đạo đức gia đình, xã hội của Nho giáo, thiết nghĩ cũng cần có quan điểm riêng của mình đối với việc nghiên cứu các vấn đề đó ở Việt Nam. 9 Về vấn đề đạo đức Nho giáo đã có một số công trình nghiên cứu như: "Đạo Hiếu trong Nho gia" của tác giả Cao Vọng Chi [27] đã có những khảo cứu, so sánh khá chi tiết về nội dung của Hiếu Kinh với đạo Hiếu trong Nho gia, từ đó chỉ ra cơ sở xác lập, hoàn cảnh lịch sử và sự kế thừa tư tưởng đó trong quá trình hình thành tư tưởng đạo Hiếu của Nho giáo. Tác giả còn phân tích một cách sâu sắc những lời răn dạy của Nho giáo về đạo Hiếu đối với dân chúng với giới tri thức và đặc biệt đối với phụ nữ. Đặc biệt trong chương 8 về Đạo Hiếu trong Nho gia, tác giả đã nêu lên tầm ảnh hưởng của Nho giáo và đạo đức Nho giáo đối với các nước láng giềng như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Đối với Việt Nam, tác giả đã có sự hiểu biết rất sâu sắc về lịch sử và phân tích những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với Việt Nam như: các sắc lệnh của vua ban về đạo Hiếu, về sự bắt buộc phải tuân thủ tục để tang ba năm do Khổng Tử đề xuất, v.v. Phần cuối của cuốn sách, tác giả đã có những nghiên cứu và so sánh đạo Hiếu trong Nho gia với Phật giáo, Đạo giáo và Thiên Chúa giáo. Đây là công trình giúp chúng tôi tham khảo nhiều vấn đề liên quan đến quá trình thực hiện đề tài, đặc biệt ở cách lý giải đạo Hiếu trong Nho gia. 1.1.2. Những nghiên cứu của các tác giả trong nước Vấn đề đạo đức Nho giáo được bàn rất nhiều qua các lăng kính khác nhau: Tác giả Trần Trọng Kim trong tác phẩm Nho giáo, được Nxb Thông tin, Hà Nội xuất bản năm 2003, đã trình bày và phân tích những tư tưởng cơ bản của Nho giáo trong quá trình hình thành và phát triển. Đặc biệt nêu cao những giá trị tích cực của Nho giáo trong việc đào tạo con người và ổn định trật tự xã hội. Khi nói về cuốn Luận ngữ của Khổng Tử, ông đã viết: Trong sách ấy, cùng một chữ nhân, chữ hiếu, chữ chính mà mỗi nơi nói một khác, là vì cách lập giáo của Khổng Tử cứ tùy tư cách, hoặc tùy sở đắc, sở thất của từng người mà dạy bảo, cho nên nghĩa không đồng. Tuy hình thức thì không có trật tự, phân minh, nhưng văn từ thì thật rõ, thật đúng, ý tứ rất sáng, rất gọn, mà câu nào cũng hàm súc ung dung, đích đáng là lời dạy của thánh nhân [84, tr.171]. 10 Tác phẩm "Không học đăng" của Phan Bội Châu [25] đã trình bày về sự hình thành và phát triển Nho giáo từ Khổng Tử đến Khổng học thời Minh Thanh, tác phẩm đề cập sâu rộng một số phạm trù trong học thuyết của Khổng Tử như Nhân, Trí, Dũng... và bàn về Khổng học thời Lưỡng Hán Lục triều, thời Tống và Minh Thanh. Các tác giả của Nho giáo và Khổng học đăng đều có điểm chung là: thông qua cách trình bày một số phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo. Trong tiến trình lịch sử của nó, nhìn nhận Nho giáo từ góc độ giá trị, cho rằng Nho giáo không chỉ là một học thuyết triết học, mà còn là học thuyết chính trị xã hội, đạo đức, ở đó dường như thâu thái đầy đủ những nội dung triết học của toàn thế giới. Trong điều kiện thực dân Pháp bãi bỏ nền cổ học trên toàn cõi An Nam (1919), sự bành trướng của văn hóa phương Tây vào Việt Nam đương thời đã làm xuất hiện các quan điểm coi thường giá trị của các học thuyết truyền thống, trong đó có Nho giáo. Hai ông đã trình bày khá hệ thống nội dung tư tưởng của học thuyết này nhằm chứng minh sức sống trường tồn của Nho giáo, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức. Tuy nhiên có nhiều đánh giá, nhiều ý kiến mang yếu tố chủ quan, cá nhân. Bộ sách về "Đại cương triết học Trung Quốc" của Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê [26] đã đề cập đến các phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo qua một số phạm trù đạo đức như: nhân, trí, dũng, lễ, nghĩa, v.v. Đây là công trình với dung lượng trang lớn, các tác giả đã tập trung phân tích các phạm trù đó ở phương diện hệ thống để làm rõ mối quan hệ đạo đức gia đình - làng - nước. Công trình "Nho giáo Trung Quốc" của Nguyễn Tôn Nhan [132], là bộ sách nghiên cứu lịch sử Nho giáo một cách chi tiết, độ dày của cuốn sách lên đến hơn 1600 trang. Đây là tác phẩm mà tác giả đã dành tâm huyết và có cách nhìn mới mẻ, hệ thống về Nho giáo. Trên cơ sở trình bày lịch sử phát triển của Nho giáo, tác giả đã phân chia sự hình thành phát triển Nho giáo thành sáu giai đoạn từ Nho giáo sơ kỳ (hay còn gọi là Nho gia để phân biệt với các phái ("gia") khác cho đến Nho giáo thời Minh Thanh. Đây là cách tiếp cận về 11 phân chia Nho giáo theo nghĩa phân biệt nó với Nho gia, một trong những học thuyết chính trị - xã hội ra đời ở Trung Quốc thời cổ đại. Tuy nhiên, tác giả không nói rõ Nho giáo là một tôn giáo trong sự phân biệt với Nho gia. Đây là vấn đề được tranh luận từ lâu, song theo chúng tôi, Nho giáo với Nho gia về thực chất là một, và nghĩa chữ "giáo" ở đây chỉ chủ yếu mang nội dung giáo huấn, dù sau này Đổng Trọng Thư có đưa một số yếu tố tôn giáo thần bí vào học thuyết Nho gia, rốt cục Nho giáo vẫn chưa đủ những tiếu chí cấu thành tôn giáo. Công trình "Lịch sử triết học phương Đông" của Doãn Chính [29] đã trình bày một cách khá hệ thống nội dung tư tưởng của các học thuyết triết học Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại, Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, trong đó phần giới thiệu Nho giáo chiếm một dung lượng đáng kể. Tuy nhiên, dù số lượng trang viết khá lớn, song với nội dung vô cùng phong phú của triết học phương Đông, cuốn sách này cũng chỉ mang tính lược khảo những vấn đề cơ bản của nền triết học này. Một số tác giả khác đã làm rõ những ảnh hưởng của Nho giáo trên các mặt: Chính trị, xã hội, tư tưởng, văn hóa... Cao Xuân Huy với cuốn: "Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu" [65] đã luận giải khá sâu sắc về chữ Nhân của Khổng Tử; "Khổng Tử và Luận ngữ" của Nguyễn Hiến Lê [90]; "Nho giáo và đạo đức" của Vũ Khiêu [76]; "Nho học và Nho học Việt Nam" của Nguyễn Tài Thư [174], "Khổng giáo phê bình tiểu luận" của Đào Duy Anh [1]... là những tác phẩm đã chỉ ra những yếu tố tiêu cực trong Nho giáo cần phải khắc phục, cũng như những ảnh hưởng tích cực của Nho giáo cần được tiếp thu góp phần xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. Các tác giả đi sâu vào việc luận giải nguồn gốc của Nho giáo và những chuẩn mực đạo đức của Nho giáo, từ đó làm rõ những ảnh hưởng của Nho giáo ở nước ta trong lịch sử cũng như hiện tại. Cuốn: "Ảnh hưởng của Đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt [82] đã tập hợp các bài viết 12 bàn về đạo đức Nho giáo, ở đó các tác giả đi sâu phân tích nguồn gốc, bản chất, đặc trưng của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng. Bài viết trong công trình này nhan đề: "Nho giáo - Cơ sở của đạo đức phong kiến Trung Quốc" của tác giả Nguyễn Bằng Tường [185] đã nhận định Nho giáo là cơ sở của đạo đức phong kiến và tư tưởng đạo đức Nho giáo được đặt trên cơ sở của chủ nghĩa tiên nghiệm; quan điểm duy tâm chủ quan về đạo đức, sự thống nhất tuyệt đối giữ "tâm" và "tính"; mục đích tu dưỡng đạo đức không hướng vào cuộc sống đời thường; phương pháp tu dưỡng có tính chất siêu hình, thoát ly cuộc đời. Bài viết khác nhan đề "Đạo đức phong kiến Việt Nam - nguồn gốc và đặc trưng cơ bản" của tác giả Nguyễn Tài Thư [175] đã bàn về nguồn gốc của chế độ phong kiến Việt Nam và đạo đức, đặc trưng phong kiến Việt Nam. Còn bài viết: "Từ tư tưởng "tu thân" trong Nho giáo suy nghĩ về vấn đề giáo dục cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay ở nước ta" của tác giả Nguyễn Thế Kiệt [83] đã đưa ra những nhận xét đúng về giá trị của Nho giáo. Trong bài viết này, vấn đề Tu thân được tác giả xác nhận như một biện pháp tu dưỡng đạo đức hiệu quả của Nho giáo với nhiều giá trị tích cực có thể vận dụng và phát huy trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, từ quan điểm tu thân, tác giả đưa ra những kinh nghiệm giáo dục đạo đức của Nho giáo để rèn luyện bồi dưỡng đạo đức cách mạng, động viên tinh thần học tập của cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện mục tiêu chung của đất nước. Bên cạnh các tác giả bàn về những ảnh hưởng có tính chất tích cực, lại có những tác giả có quan điểm ngược lại, nhấn mạnh mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo, chẳng hạn cuốn "Nho giáo xưa và nay" của Quang Đạm [40]; "Nho giáo tại Việt Nam" của Lê Sĩ Thắng [151]... Mặc dù có những kiến giải mới về đạo đức Nho giáo như Tam cương, Ngũ thường, Ngũ luân... nhưng các tác giả nặng về phê phán đạo đức Nho giáo, cho nó là khắt khe, một chiều, coi khinh phụ nữ, phân biệt đẳng cấp, v.v. Hội thảo "Nho học ở Việt Nam" của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Harvard - Yenching (Mỹ) [194] đã bàn thảo nhiều vấn đề như: Ảnh hưởng 13 của Nho giáo trong đời sống hiện đại, quy trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam; tư tưởng Nho giáo trong thời phong kiến và ảnh hưởng của nó trong xã hội đương đại, v.v. Trong Hội thảo này, các bản tham luận tập trung vào việc làm rõ giá trị của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, một số luận án cũng đề cập đến đạo đức Nho giáo, vấn đề con người trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam như: "Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống" của Trần Thị Hồng Thúy [168]; "Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ" của Nguyễn Tài Thư [172]; "Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con người và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Nguyễn Thị Nga [126]... Các luận án này đều tập trung bàn về vấn đề con người với tư cách là đối tượng của một học thuyết với mục đích làm rõ cách thức thực hiện mục tiêu chính trị bằng đạo đức, tức là lấy đạo đức để cảm hóa con người trong việc thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Bình: "Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX)" [14] đã phân tích về các phạm trù nhân, lễ, chính danh, đến xã hội lý tưởng, đến chuẩn mực đạo đức... Từ đó tác giả đề cập những chuẩn mực đạo đức đó của chế độ phong kiến ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh Mai: "Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay" [105] đã trình bày được nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo và nét riêng của đạo đức Nho giáo Việt Nam. Phân tích thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức cán bộ quản lý hiện nay ở nước ta, tác giả đã đưa ra một số giải pháp cơ bản để phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng đạo đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay. 14 Luận án tiến sĩ Triết học về: "Đạo đức trung hiếu trong Nho giáo và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục ý thức trách nhiệm ở Việt Nam hiện nay" của Trần Thị Lan Hương [66] đã nêu lên nguồn gốc hình thành tư tưởng đạo đức trung hiếu, sự phát triển của trung hiếu trong tiến trình lịch sử phát triển của Nho giáo để từ đó tác giả nêu lên ý nghĩa của nó đến việc giáo dục ý thức trách nhiệm ở Việt Nam hiện nay. Một số luận văn Thạc sĩ liên quan đến đề tài của luận án chúng tôi như: "Tư tưởng Nhân, Lễ, Chính, Danh, trong tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử và vận dụng vào giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Bình [15]; "Từ Trung - Hiếu của Khổng Tử đến tư tưởng Trung - Hiếu của Hồ Chí Minh" của Trần Thị Hồng Minh [120]; "Quan niệm của Nho giáo về trung-hiếu-lễ. Ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức con người Việt Nam" của Phạm Mạnh Toàn [177] đã trình bày phạm trù trung, hiếu, lễ của Nho giáo, ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam trong lịch sử và hiện tại, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm khai thác có hiệu quả yếu tố tích cực loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong điều kiện nước ta hiện nay. Ngoài ra có rất nhiều các bài viết, bài báo đăng tải trên các tạp chí, sách, đã đề cập sâu và rộng về Nho giáo chủ yếu trên bình diện chính trị, đạo đức, xã hội, triết lý... 1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIA ĐÌNH VÀ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH Đây là mảng đề tài hết sức quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và mỗi cá nhân nói riêng được đề cập dưới nhiều góc độ nghiên cứu liên ngành và chuyên ngành như: Triết học, xã hội học, tâm lý học, giá..., thiên tử lúc này không phải là con trời như ở đầu thời kỳ hưng thịnh (Tây Chu), chính vì vậy mâu thuẫn gay gắt nhất thời kỳ này là giữa thiên tử và các nước chư hầu. Mâu thuẫn này đã làm cho trật tự xã hội đảo lộn. Người ta không chỉ cướp bóc về tiền của, mà cao hơn là cướp bóc tranh giành nhau về chính trị, đất đai... Khổng Tử (551-479 trước công nguyên), người sáng lập trường phái Nho gia cho rằng, đây là thời kỳ loạn lạc, con người sống vô đạo, vua không ra vua, thần không ra thần, cha không ra cha, con không ra con. 30 Cùng với sự ra đời của nhiều học thuyết chính trị - xã hội đương thời mà người ta gọi đây là thời kỳ "Bách gia tranh minh" (Trăm nhà đua tranh) hay "Trăm nhà trăm thầy" về thực chất là đáp ứng nhu cầu thời đại nhằm khắc phục sự loạn lạc trong xã hội, Nho giáo là học thuyết có sức sống lâu bền nhất. Trong số chín phái theo xác nhận của Tư Mã Thiên (Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia, Âm dương gia, Binh gia, Nông gia, Tung hoành gia), Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia có ảnh hưởng nhất đối với xã hội Trung Hoa cổ đại. Các học thuyết này hầu hết đạt đến trình độ tư duy tương đối cao. Tuy nội dung tư tưởng của các học thuyết đó khác nhau, song đích chung của chúng là làm thế nào để xã hội được thái bình thịnh trị và nước mình trở thành bá chủ thiên hạ. Trong bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại loạn lạc, mỗi một học thuyết lại tìm cho mình một chủ trương riêng, thể hiện nội hàm triết học chính trị mà trước hết, là giành quyền lực thống trị, thiết lập trật tự xã hội, sau đó duy trì quyền lực của tầng lớp thống trị và làm cho đất nước không ngừng phát triển. Trong thời kỳ này, nói một cách tổng quát thì có ba khuynh hướng tư tưởng cơ bản: Một là, khuynh hướng sử dụng biến pháp, yêu cầu việc trị nước phải dựa vào pháp luật, từ đó hình thành nên trường phái Pháp gia; Hai là, khuynh hướng sử dụng đạo đức để cảm hóa con người, khẳng định sức mạnh đạo đức ưu việt hơn hình pháp, từ đó hình thành nên trường phái Nho gia; Ba là, khuynh hướng xa rời thực tiễn đời sống xã hội, thu mình suy ngẫm về những vấn đề triết học, không khuyến khích hoạt động chính trị - xã hội theo chủ trương "vô vi", từ đó hình thành nên trường phái Đạo gia. Ngoài ba học thuyết nói trên, phái Mặc gia ra đời từ sự phản biện đường lối trị nước của Nho gia, cho rằng đức nhân của nó với tình yêu thương con người mang tính biệt ái, dẫn đến tư tưởng nhậm hiền theo khuôn khổ "thân thân", tức là cất nhắc người thân vào các vị trí trong bộ máy Nhà nước; thưởng phạt không công minh, v.v. Từ đó phái này đưa ra học thuyết với chủ trương "kiêm ái", tức là yêu thương con người một cách rộng khắp, nhờ đó 31 mà trong xã hội có thể chấm dứt được chiến tranh, thù hận; mọi người biết làm lợi cho nhau (giao tương lợi) và xã hội vì thế mà ổn định và phát triển. Vốn là người thuộc tầng lớp quí tộc, lớn lên trong cảnh loạn lạc, được chứng kiến cảnh cướp bóc tranh giành lẫn nhau trong xã hội luân thường, đạo lý bị đảo lộn: vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, anh em chẳng ra anh em, Khổng Tử ôm ấp hoài bão chính trị là làm thế nào để xây dựng lại đất nước như thời Nghiêu-Thuấn trước đây. Đó là xã hội có đạo đức, có thứ bậc, một xã hội được sắp xếp theo một trật tự, vì thế được coi là một xã hội hữu đạo. Để thực hiện hoài bão đó, Khổng Tử trước hết chú trọng đến vấn đề con người, từ những con người đứng đầu thiên hạ (hoàng đế, thiên tử), đến những người cùng chí hướng với ông trong việc xây dựng học thuyết chính trị - đạo đức là kẻ sĩ, và cuối cùng là những con người bình thường nhất trong xã hội mà ông gọi là thứ dân. Theo Khổng Tử, tất thảy mọi người trong thiên hạ, "Từ thiên tử tới thường dân, ai cũng lấy việc tu thân làm gốc" [86, tr.18]. Bởi lẽ, có tu được thân sau đó mới tề được gia (làm cho gia đình êm thấm, thuần hậu), có tề được gia sau đó mới trị được nước (làm cho đất nước yên ổn), có trị được nước sau đó mới bình được thiên hạ (làm cho thiên hạ được thái bình). Chính vì vậy Nho giáo không chỉ có ảnh hưởng ở Trung Hoa thời kỳ đó mà còn tồn tại cho mãi đến ngày hôm nay và ăn sâu bám rễ ở một số quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước phương Đông. Học thuyết chính trị - đạo đức Nho giáo được hình thành trên nền tảng đạo đức truyền thống của Trung Hoa cổ đại (trước thời nhà Chu). Các vị vua thời nhà Hạ (2197-1766 trước công nguyên) nhà Thương (1766-1134 trước công nguyên) đều chuộng đức. Sử cũ chép rằng: Vua Vũ lo kẻ sĩ đến nhà mình mà không tiếp được nên tóc không kịp búi, ăn một bữa ba lần đứng dậy. Vua Thang nhà Thương là tấm gương cho người có đức nhân. Ông luôn yêu thương dân và không ngừng tu dưỡng đạo đức của chính mình. Thời nhà Chu (1134-221 trước công nguyên) được người đời ca tụng về truyền thống trọng đức, biểu hiện ở hai phương diện là "kính thiên" (kính trọng trời) và "hiếu tổ" 32 (hiếu với tổ tiên). Đây là những nội dung đạo đức cơ bản và cốt lõi nhất ở thời Tây Chu (1134-771 trước công nguyên). Kể cả việc Vũ Vương lật đổ nhà Ân-Thương để lập nên nhà Chu cũng người đời vẫn cho đó là do nhà Chu có "đức" nên được trời ban đất, ban dân. Nếu như Lão Tử nhấn mạnh đức khoan dung, khiêm nhường, tri túc của con người và chủ trương "vô vi nhi trị"; Mặc Tử thì yêu không phân biệt đối xử với thuyết kiêm ái; Pháp gia đề cao pháp, thuật, thế trong lĩnh vực trị nước, thì Khổng Tử đề cao đạo đức của nhà cầm quyền với ba phạm trù đạo đức căn bản là nhân, lễ và chính danh. Việc kêu gọi dùng đạo đức để cảm hóa con người để từ đó thiết lập sự thống trị xã hội, tiến tới xây dựng xã hội lý tưởng theo mô hình xã hội thời hoàng kim Nghiêu - Thuấn đã làm cho Nho giáo từ một học thuyết chính trị - xã hội sang một học thuyết chính trị - đạo đức đúng với nghĩa của từ. Chính vì vậy, nội dung căn bản nhất trong Nho giáo là "Đạo làm người" và khái niệm "đạo" ở đây được hiểu là con đường mà tất cả các mối quan hệ người vận hành trên con đường đó. Tuy nhiên, Nho giáo cũng như các học thuyết khác, chỉ là một trong những phương án về thiết lập trật tự và quản lý xã hội do nhu cầu thời đại đặt ra, do đó bản thân nó cũng phải trải qua quá trình lâu dài của sự kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống xã hội, có lúc thịnh, lúc suy; có lúc bị cho là không tưởng nhưng trong thời gian dài hàng trăm năm, nó đã trở thành bệ đỡ hệ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Trung Hoa và các nước đồng văn. Do đó, việc trình bày một cách khái quát lịch sử hình thành và phát triển của nó trong lịch sử cũng như nội dung đạo đức được coi là bộ phận chủ yếu của Nho giáo, theo chúng tôi, là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu của luận án. Chúng ta đều biết rằng, tuy được coi là người sáng lập Nho gia, nhưng bản thân Khổng Tử rất khiêm tốn, ông coi học thuyết của mình "chỉ thuật lại [đạo thánh hiền] mà không sáng tác, thật lòng tin tưởng mà ham chuộng chuyện cổ..." [86, tr.343]. Sau cuộc chu du thiên hạ để phổ biến chủ trương, tâm thế của mình không thành công, Khổng Tử trở về nước Lỗ ở tuổi 68 và 33 chuyển hướng hoạt động sang lĩnh vực giáo dục với hy vọng đào tạo những con người có đủ phẩm chất đạo đức, đủ năng lực cầm quyền và chính ông là người mở ra nền giáo dục tư thục đầu tiên ở Trung Hoa cổ đại. Ông được ngợi ca là "chí thánh tiên sư" (người thầy đầu tiên đạt đến bậc chí thánh); là "vạn thế sư biểu" (người thầy của muôn đời). Tuy nhiên, bao giờ ông cũng tự nhận mình là người chưa đạt tới bậc thánh nhân, hiền nhân, mà chỉ xác định "làm việc của những bậc đó không biết chán, dạy người không biết mệt, thì có thể ta nói ta được như thế, và cũng chỉ vậy thôi" [86, tr.370]. Trong quá trình dạy học cốt để truyền bá tư tưởng của mình, Khổng Tử luôn tiến hành đàm đạo với các học trò của mình, được học trò ghi chép lại và về sau tập hợp thành cuốn sách "Luận Ngữ". Tương truyền Khổng Tử còn là tác giả của cuốn sử biên niên, ghi chép lịch sử nước Lỗ thời Xuân Thu, về sau trở thành một trong ngũ kinh của Nho giáo. Ngoài ra, ông còn là người san định các bộ sách Thi, Thư, viết Hệ từ truyện (thập dực) cho cuốn Kinh Dịch, v.v. Những cuốn sách đó về sau đều được Chu Hi xếp vào hai bộ kinh điển chủ yếu của Nho gia là Tứ thư (Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử) và Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu). Sau khi Khổng Tử mất, Nho gia chia thành nhiều phái và trải qua nhiều giai đoạn lịch sử gắn liền với đặc điểm học thuật của nó. - Thời kỳ thứ nhất: Nho giáo sơ kỳ hay còn gọi là Nho giáo nguyên thủy. Căn cứ vào các tài liệu và cách phân chia của các nhà nghiên cứu thì Nho giáo từ Khổng Tử đến Mạnh Tử được gọi là Nho Sơ kỳ hay Nho Tiên Tần, hoặc Nho Nguyên thuỷ để phân biệt với các trường phái Nho về sau như Hán Nho, Tống Nho, Minh Nho... Mỗi thời kỳ của Nho giáo do có sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan mà có những luận thuyết và có những nét riêng biệt. Tuy nhiên, xét về cơ bản Nho giáo nguyên thủy thể hiện tính thống nhất về mặt tư tưởng khá cao. Trong học thuyết chính trị - đạo đức lấy con người làm đối tượng trung tâm, Khổng Tử nhấn mạnh ba đạt đức của người quân tử, tức người cầm quyền là trí, nhân, dũng. Theo đó, có trí thì 34 người quân tử biết phân biệt phải trái, có nhân thì không lo, có dũng thì sẵn sàng xả thân thủ nghĩa. Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh đức Nhân, coi nó là phạm trù mang tính bao trùm, bởi lẽ người có đức nhân mới dùng được lễ để sai khiến bề tôi; nhờ đó mà được bề tôi tận trung. Một trong những nội hàm của nhân là hiếu, hay nói theo Khổng Tử, hiếu đễ là gốc của nhân. Để có đức nhân, theo Khổng Tử, con người phải biết khắc kỷ phục lễ, nghĩa là tự ước thúc bản thân theo lễ. Mạnh Tử thì nêu nhân, nghĩa, lễ, trí, gọi chung là tứ đức. Những phạm trù đạo đức được Nho giáo sơ kỳ xây dựng thành một hệ thống chặt chẽ cho đường lối đức trị, gồm Nhân, Lễ, Chính danh. Nếu Khổng Tử đề cao đức Nhân, Mạnh Tử nêu Nhân nghĩa như một phạm trù kép đôi, thì Tuân Tử (313-238 trước công nguyên) nhấn mạnh Lễ, coi Lễ là phạm trù đạo đức quan trọng trong đường lối trị nước. Tuy nhiên, để có đường lối trị nước đầy đủ, theo ông, Lễ cần phải kết hợp với pháp luật, tức là "lễ pháp kiêm trị". - Thời kỳ thứ hai: Hán Nho. Giai đoạn Tần Thuỷ Hoàng chinh phục các nước Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ, Tần, để thống nhất Trung Hoa thiết lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần đã thực hiện nhiều chính sách cực đoan, ra lệnh đốt hết sách của Nho gia, ai bàn về Kinh Thi, Kinh Thư, hoặc cho Nho gia hơn Pháp gia thì bị đem chém giữa chợ, Tần Thuỷ Hoàng đã chôn sống 460 nho sinh ở Hàm Dương vì tội phạm điều cấm. Đây là giai đoạn đen tối trong lịch sử Nho giáo và Nho học. Những hiện tượng cấm đoán các học thuyết khác, đồng thời áp dụng một cách cực đoan tư tưởng của Pháp gia đã dẫn nhà Tần nhanh chóng bị diệt vong sau 15 năm tồn tại, quyền thống trị sau đó thuộc về nhà Hán. Để tránh những thất bại như nhà Tần, nhà Hán phục hồi lý luận chính trị, đạo đức, thần quyền thời Tây Chu để tạo ra một cách thức trị nước của riêng mình. Chính vì vậy Nho giáo được quan tâm và nhờ đó có được vị thế cao trong hệ tư tưởng của nhà nước. Sự lên ngôi của Nho giáo được bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế, và chính thức xác lập được vị trí độc tôn trong xã hội. 35 Tuy nhiên, Nho giáo thời Hán với tư cách công cụ để triều đình phong kiến thực hiện những mục đích chính trị, trong nó hàm chứa yếu tố tôn giáo thần bí và được luận chứng bằng việc nhân cách hóa "ông trời", coi trời là thủy tổ của loài người. Các học giả Nho giáo thời kỳ này là Đổng Trọng Thư, Dương Hùng, Vương Sung, trong đó vai trò của họ Đổng rất lớn về việc đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn, làm trụ đỡ cho hệ tư tưởng của chế độ phong kiến tập quyền trung ương. Về phương diện đạo đức, Đổng Trong Thư luận chứng cho cái gọi là tam cương (vua tôi, cha con, chồng vợ) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), theo đó tam cương phản ánh đạo đức xã hội thông qua ba mối quan hệ cơ bản, còn ngũ thường là năm chuẩn mực đạo đức cá nhân bất di bất dịch. Nho giáo về sau có nhiều thay đổi, song vai trò chính trị-xã hội của Hán Nho rất to lớn, kéo dài từ thời Hán cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến ở nhiều nước phương Đông. - Thời kỳ thứ ba: Tống Nho, Minh Nho. Đến cuối nhà Hán, Nho giáo bị Lão học và Phật học lấn át. Sang thời Tuỳ, Đường thì Nho giáo lại được đẩy lên cao. Nhà Tuỳ, Đường mở Thái học, Quốc tử giám,... Đến năm 960, nhà Tống thống nhất Trung Hoa. Lúc này Nho giáo mới được khôi phục và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử thời kỳ này nhà Tống phải vừa lo gạt bỏ chế độ cát cứ, vừa phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đây là thời kỳ xẩy ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, mâu thuẫn xã hội cũng ngày càng gay gắt. Do đó, để duy trì, củng cố địa vị của mình nhà Tống tìm đến Nho giáo như một phương án lý luận được xem là hiệu quả nhất để trị quốc. Nho giáo thời Tống có số lượng các học giả rất nhiều và có thể nói là nhiều nhất so với các thời kỳ trước. Với các học giả tiêu biểu: Thiệu Ung, Lục Cửu Uyên, Châu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di và tập đại thành của Tống Nho là Chu Hi. Tuy Nho giáo đời Tống có nhiều điểm khác với Nho giáo Khổng - Mạnh và Hán Nho, nhưng Tống Nho nói riêng và Tân Nho giáo nói chung, về thực chất là tìm cách đọc và luận giải mới những nội dung Nho giáo Khổng - 36 Mạnh. Cách đọc đó là việc truy tìm nguồn gốc của đạo đức và sự phát triển đến tột cùng của nó là gì. Tống Nho tìm nguồn gốc đó ở bản thể của thế giới (khí) và sự vận động có qui luật của các sự vật hiện tượng (lý), truy tới cùng của lý ấy gọi là cùng lý. Cuối cùng, các nguyên lý của vũ trụ, vạn vật được xem xét trong sự tương thích với các nguyên lý (đạo đức của xã hội). - Thời kỳ thứ tư: Minh Nho và Thanh Nho. Nho giáo đời Minh có sự chuyển biến theo hướng thực học mà đại biểu nổi tiếng của nó là Vương Dương Minh với thuyết "tri hành hợp nhất". Thuyết này chấm dứt cuộc tranh luận kéo dài giữa hai quan điểm "tri dị hành nan" và "tri nan hành dị", mặt khác nó góp phần phê phán lối học từ chương của Tống Nho, một nền học thuật xa rời thực tế. Đến thời nhà Thanh, Nho giáo phát triển khá mạnh do trào lưu phê phán Tống Minh Nho và đề cao thực học. Trên cơ sở đó Thanh Nho chia thành các khuynh hướng: Hán học; Tống học; Kinh học và Tân học phái. Vào khoảng đầu nhà Thanh, các ông vua đều đề cao Nho giáo với nguyên tắc chính thống, cho nên nhiều nho sĩ không ra làm quan. Khác với phái Hán học, Tống học vẫn lấy chú thích Tống Nho làm căn bản. Nho giáo thời kỳ nhà Thanh bị chi phối bởi ảnh hưởng từ các tư tưởng phương Tây, làm cho Nho giáo có nhiều biến đổi về các nội dung, chuẩn mực đạo đức như tam cương, ngũ thường, trung hiếu Tóm lại, đạo đức trong Nho giáo nguyên thủy mặc dù còn có những hạn chế song giá trị căn bản của nó là có tính nhân bản, biện chứng và xây dụng một xã hội hữu đạo, có trật tự theo các chuẩn mực định sẵn. Tuy nhiên những giá trị này sang đến Hán Nho, Tống Nho lại bị thay thế bởi tư tưởng duy tâm và cực đoan. Với chủ trương "chính danh" trong các mối quan hệ nhưng các triều đại về sau lại tuyệt đối hoá đạo đức đặc biệt là các phạm trù Trung hiếu (vua, tôi) để phục vụ cho mục đích cai trị của giai cấp thống trị. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế xã hội nên thời kỳ này Nho giáo nói riêng và hệ tư tưởng phong kiến Trung Quốc nói chung chịu ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây. 37 Tuy có sự dịch chuyển nhất định, nhưng nhìn một cách tổng quát các phạm trù và chuẩn mực đạo đức Nho giáo ít thay đổi. Ví dụ như trong mối quan hệ quân thần, phụ tử, Nho giáo tuyệt đối hoá quyền uy của vua, cha để nhấn mạnh bổn phận của tôi, con. Càng về sau, tư tưởng này của Nho giáo lại càng trở khắt khe hơn để duy trì chế độ đẳng cấp trong xã hội. 2.1.2. Quan niệm của Nho giáo về đạo đức Với tư cách là học thuyết chính trị - đạo đức, Nho giáo coi đạo đức là phương tiện để thực hiện mục đích chính trị. Nói cách khác, các nhà sáng lập Nho giáo đề cao đạo đức trong việc thiết lập trật tự xã hội và tiến tới xây dựng mô hình xã hội lý tưởng. Về thực chất, mục đích xây dựng mô hình xã hội lý tưởng theo tinh thần Nho giáo không phải từ tổ chức xã hội cấp thấp lên cấp cao hơn, mà là "khôi phục" mô hình xã hội được xác nhận là xã hội thời Nghiêu Thuấn. Mô hình đó được xây dựng và vận hành theo nguyên tắc đạo đức thông suốt từ vua tới thường dân, theo đó vua coi dân như con, mọi người trong xã hội đó coi nhau như anh em trong một nhà, của cải trong xã hội đều là của chung; kẻ dưới phục tùng, kính trọng người trên, người trên làm mẫu mực về mọi mặt cho kẻ dưới. Cách thức trị nước của các ông vua huyền thoại thời Ngũ đế là Nghiêu, Thuấn dựa trên nền tảng đạo đức, còn gọi là đức trị. Bản thân ông vua được ngôi vị là do được lòng dân. Việc xác lập quyền thống trị của nhà vua về cơ bản ở quyền sở hữu "đất đai và thần dân"; "Trong thiên hạ, đất đai và thần dân, ở đâu cũng là của vua". Do đó, để hướng tới mô hình xã hội lý tưởng đó, Khổng Tử và các thế hệ học trò của ông đã xây dựng và hoàn thiện học thuyết chính trị - đạo đức của mình, bắt đầu từ sự hoàn thiện nhân cách con người, cho nên "từ thiên tử cho chí thường dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc" (Đại học). Bởi lẽ, theo Nho giáo, "Thân tu sửa thì sau nhà mới ngăn nắp. Nhà ngăn nắp thì sau nước mới trị an. Nước trị an thì sau thiên hạ mới thái bình" (Thân tu nhi hậu gia tề. Gia tề nhi hậu quốc trị. Quốc trị nhi hậu thiên hạ bình) [86, tr.17]. 38 "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" vừa là phương châm của học thuyết chính trị - đạo đức, vừa là tiêu chí để con người phấn đấu thành danh và cống hiến. Sự cống hiến ấy cũng được Nho gia quan niệm là "xả thân thủ nghĩa", tức là dũng cảm làm việc nghĩa. Song muốn xả thân thủ nghĩa thì con người phải có "nhân" và "trí". Khổng Tử khẳng định rằng, có "nhân" thì không phải lo sợ; có "trí" sẽ biết phân biệt phải trái. Vì vậy, Nhân, Trí, Dũng là ba đạt đức của người quân tử, tức là người đã có công phu tu thân theo tinh thần hoàn thiện nhân cách của Nho giáo. Công dụng của tu thân theo các nấc thang nêu trên được thể hiện trong môi trường mà cá nhân thực hiện các hoạt động sống của mình. Đó là Nhà - Nước - Thiên hạ. Mối quan hệ của cá nhân với mỗi hệ thống nhỏ trong toàn bộ các tập hợp của nó là Thiên hạ là Thân - Nhà - Nước - Thiên hạ. Trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, những nguyên tắc ứng xử của mỗi cá nhân với người khác, với toàn bộ hệ thống từ chỗ được thực hiện theo Lễ (Chu Lễ được xem là điển lễ, qui tắc hoạt động của toàn xã hội trên nền tảng của chế độ tông pháp và phân phong thời đầu Tây Chu) đến tình trạng bị phá vỡ do sự bất tuân thủ của các nước chư hầu đối với thiên tử nhà Chu. Sự ra đời của Nho giáo, có thể nói, như một phương án khắc phục hiện tượng hỗn loạn đó là hoàn toàn có cơ sở. Mục đích chính trị của nó là đưa đất nước từ chỗ vô đạo trở về hữu đạo. Vì vậy, tiếp cận tới Nho giáo như một giá trị đối với xã hội Trung Hoa cổ đại đương thời là cách tiếp cận phù hợp, bởi nó đáp ứng nhu cầu thời đại. Để thực hiện mục đích đó, Nho giáo tập trung xây dựng các chuẩn mực đạo đức trên nền tảng năm mối quan hệ nhân luân mà Mạnh Tử gọi đó là ngũ luân, trong đó lấy các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình làm điểm xuất phát. Năm mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội (Ngũ luân) gồm: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè. Trong đó có 3 mối quan hệ gia đình và 2 mối quan hệ xã hội. Đến Đổng Trọng Thư, năm mối quan hệ đó được qui về ba mối cơ bản, gọi là Tam cương (gồm vua - tôi, 39 cha - con, chồng - vợ). Dù là ngũ luân hay tam cương thì các mối quan hệ gia đình vẫn áp đảo và làm nền tảng. Trong hai mối quan hệ xã hội, quan hệ vua tôi luôn được đặt lên hàng đầu, theo đó, xét về mặt quan hệ đạo đức hay ứng xử đạo đức giữa vua và bề tôi, theo Khổng Tử, là quan hệ nhân - trung, nghĩa là vua phải là người có nhân cách cao thượng, là người đạt đạo và đạt đức mới đủ khả năng giáo dưỡng thần dân trong nước mình. Đạo đức của người cầm quyền trước hết ở Nhân. Có Nhân thì người cầm quyền mới dùng được Lễ để sai khiến bề tôi, tiếp đến là thiết lập hệ thống cơ cấu tổ chức nhà nước theo hình tháp với sự phân chia tầng lớp rất cụ thể: thống trị và bị trị. Người cầm quyền lấy tu kỷ để hoàn thiện nhân cách của mình, và phải dựa vào tu kỷ để trị nhân, trị nước. Đường lối trị nước của Nho giáo cũng chính là đường lối trị nước của người đứng đầu một triều đại phong kiến, được gọi là đức trị dựa trên ba phạm trù đạo đức cơ bản là Nhân, Lễ và Chính danh. Thứ nhất, phạm trù nhân với tư cách phạm trù bao trùm, phản ánh tư tưởng nhân bản của Nho giáo. Như chúng ta đều biết, trong Luận ngữ, Khổng Tử có đến 58 chỗ đề cập đến quan niệm chữ nhân với 109 chữ, nhưng tùy thuộc vào văn cảnh khác nhau mà phạm trù nhân được giải nghĩa cho phù hợp, do đó không chỗ nào giống nhau. Khi Phàn Trì hỏi nhân là gì? Ông đáp ngay: "Yêu người". Trả lời câu hỏi của Tử Cống: "Có một câu cách ngôn nào để suốt đời làm theo chăng?" thì Khổng Tử đáp: "Đó là chữ "lượng thứ" chăng? Điều gì mình không muốn (người khác làm cho mình), chớ đem áp dụng với người" [86, tr.579]. Khi Nhan Uyên, một học trò giỏi được Khổng Tử quí mến hỏi về nhân, ông trả lời: "Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân" [86, tr.471]. Chỉ qua vài thí dụ như vậy từ sách Luận ngữ, chúng ta có thể nhận thấy sự trả lời của Khổng Tử về các nội hàm của nhân rất khác nhau, song điểm chung, mang tính bản thể của chữ nhân chính là mối quan hệ giữa người với người. Khổng 40 Tử quan niệm mối quan hệ giữa người với người phải dựa trên cơ sở tình thương, sự cảm thông từ việc suy ta ra người (trung thứ). Tuy nhiên điều đó chỉ đúng về mặt hình thức, nó chưa đầy đủ, chưa thấu tình đạt lý khi nói đến bản thể của chữ nhân. Nếu tiếp cận về mặt triết học thì những gì mà Khổng Tử nói về Nhân ở trên không phải là một định nghĩa đầy đủ, chính xác về chữ nhân. Đúng như Cao Xuân Huy nhận xét: "Nhân" là tính người, nhưng tính người là gì? Phải xác định được tính người mới biết bản thể của chữ nhân. Nhưng đó là một điều kiện không gì khó hơn thế" [65, tr.410]. Theo Khổng Tử "Tính tương cận" của con người là ngay thẳng. Ông viết: "Nhân chi sinh dã trực" [86, tr.332]. Nghĩa là "Người ta sinh ra vốn ngay thẳng". Một vấn đề đặt ra cho Khổng Tử là tại sao trong xã hội lại có kẻ "cong vậy". Ông trả lời, đó là do tập nhiễm mà tính của người ta khác xa nhau. Trung suy ta ra người, đó là thái độ xử kỉ "Kỷ dục lập nhi, lập nhân, kỷ dục đạt nhi, đạt nhân" [86, tr.340] có nghĩa là: Người nhân hễ muốn tự lập lấy mình thì cũng lo mà thành lập cho người, hễ muốn cho mình thông đạt thì cũng lo làm cho người thông đạt. Đó là những phương pháp phải thi hành để trở nên người nhân đức vậy. Do đó, Khổng Tử khẳng định Nhân là trung thứ. Thứ là tha thứ, không làm điều ác cho người "kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" [86, tr.579]. Từ cách mình ứng xử với mình mà suy ra cách đối xử với người khác, đó là đường lối của nhân. Với cách hiểu như thế, có thể suy ra rằng, hãy làm cho người ta cái điều mà mình muốn làm cho mình. Trung là suy ta ra người. Khổng Tử khẳng định: "Đạo của ta nhất quán từ đầu đến cuối". Tăng Tử bảo: "Đạo của thầy chỉ tóm tắt ở một điều "trung - thứ" mà thôi" [86, tr.277]. Đạo Nhân của Khổng Tử không chỉ là một đức tính riêng mà nó có thể chỉ chung cho mọi đức tính. Người có nhân đồng nghĩa với người có đầy đủ mọi phẩm chất cao đẹp hay gọi là toàn đức. Đó là con người có tinh thần cầu đức, luôn mong muốn điều nhân đến với mình và từ chính bản thân mình. Khổng Tử cho đó là khả dĩ. 41 Ở đây chúng ta thấy được mâu thuẫn trong học thuyết của Khổng Tử, ở chỗ từ chữ Nhân mang tính lý tưởng mà con người hướng tới, song khi đứng trên lập trường giai cấp thì Khổng Tử đi đến khẳng định cho rằng, rất ít người đạt tới điều Nhân. Nói cách khác, Nhân chỉ có ở bậc thánh hiền. Hơn nữa chữ nhân của ông lại gắn với chữ lễ mà lễ lại là quy tắc chính trị của giai cấp thống trị dùng để điều chỉnh hành vi con người. Ở đây ta thấy rõ Khổng Tử đã rơi vào vòng luẩn quẩn. Một mặt ông kêu gọi "tứ hải giai huynh đệ" nhưng mặt khác ông lại khẳng định, con người quân tử cần phải quan tâm nhiều đến người thân. Cho nên dù là yêu nghề, thương người đến đâu thì tình yêu thương đó chỉ dừng lại ở tình yêu thương mang tính giai cấp, tông tộc mà thôi. Điều này Mặc Tử đã nói: "Khổng Tử không phải là "nhân ái" mà là "biệt ái". Ông chỉ yêu thương người trong tông tộc, giai cấp mình. Khi trả lời Diệp Công (vị tướng công cai trị huyện Diệp nước Sở) về người ngay thẳng: "Người ngay thẳng nói chúng tôi lại khác: Cha che dấu cho con, con che dấu cho cha, tính ngay thẳng ngụ trong đó" [86, tr.512]. Một nội hàm khác phản ánh nguồn gốc của đức nhân là Hiếu đễ. Hiếu là thái độ ứng xử đạo đức của con người đối với ông bà, cha mẹ mình; đễ là sự kính nhường trong quan hệ anh em. Mạnh Ý Tử là gia thần của Quý Thị và Mạnh Thị, hai nhà thế tộc, tôn thất của vua Lỗ, cha truyền con nối cầm quyền ở nước Lỗ. Lâu dần, họ lấn át cả vua, thường hay tiếm lễ, tiếm dụng nghi vệ của vua. Vì vậy, khi Mạnh Ý Tử hỏi về hiếu đạo, Khổng Tử đáp rằng: "Chớ làm trái ngược" (vô vi); và "khi cha mẹ còn sống, lấy lễ mà thờ kính; lúc cha mẹ qua đời, lấy lễ mà chôn cất, lấy lễ mà tế tự" (sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ") [86, tr.218]. Làm con tất nhiên phải thờ kính cha mẹ lúc còn sống, chôn cất và tế lễ lúc chết, nhưng Khổng Tử còn muốn qua lời nói này răn dạy Mạnh Ý Tử và Phàn Trì nói riêng, ba nhà quyền thần nói chung chớ tiếm dụng lễ của thiên tử. Mạnh Vũ Bá hỏi về hiếu, Khổng Tử khuyên "chớ để cha mẹ buồn phiền" [86, tr.219]. Sở dĩ Khổng Tử nói vậy là vì Mạnh Vũ Bá là vị công tử chơi bời 42 trác táng, Khổng Tử có ý khuyên Mạnh Vũ Bá rằng, người con có hiếu đừng để cha mẹ phải phiền lòng. Vì cha mẹ nào cũng yêu thương, lo lắng cho con mình. Đối với học trò là Tử Du, khi hỏi về hiếu, Khổng Tử lại nói: "Chẳng kính, lấy gì làm phân biệt" [86, tr.220]. Vì Tử Du vốn là người được cha mẹ hết sức cưng chiều, Khổng Tử e rằng, lòng cưng chiều của cha mẹ có thể khiến con phạm tội bất kính, cho nên Khổng Tử có ý khuyên Tử Du rằng người con có hiếu không chỉ biết nuôi cha mẹ, mà còn phải biết kính trọng cha mẹ. Khi Tử Hạ hỏi về hiếu, Khổng Tử lại nói: "Giữ sắc mặt vui vẻ là khó lắm thay" (Sắc nan!) [86, tr.221]. Sở dĩ như vậy là vì Tử Hạ có sắc mặt luôn khó đăm đăm. Nhưng không phải là Tử Hạ cau có với cha mẹ, mà vì sắc mặt ấy, Khổng Tử sợ rằng, cha mẹ của Tử Hạ không vui. Lễ là hình thức của Nhân, là quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi con người là cho xã hội nằm trong vòng trật tự. Ngoài chức năng phản ánh, Lễ còn là sự xã hội hóa nhân cách con người từ bên ngoài. Điều đó được thể hiện qua nội dung của Lễ như sau: Thứ nhất: Lễ nghi thờ cúng, thiết chế chính trị và quy phạm đạo đức. Thứ hai: Quy định và bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của mọi người. Thứ ba: Trị nước phải dùng lễ. Thứ tư: Cơ sở để người quân tử suy nghĩ và hành động đúng. Chính vì vậy mà Khổng Tử kêu gọi, cái gì thuộc về lễ thì nên làm, cái gì không thuộc về lễ thì nên bỏ, không phải lễ không nghe, không phải lễ không nói, không phải lễ không nhìn và không phải lễ là không hành động. Khi tiến hành lễ nghi, không nên chú trọng quá tới hình thức mà chủ yếu là phải bộc lộ được lòng thành kính. Khổng Tử nói: "Ngày nay, những người tự xưng là hiếu đều nói rằng mình nuôi được cha mẹ. Đến như loài chó loài ngựa còn có người nuôi được mà. Chẳng kính lấy gì làm phân biệt" [86, tr.222]. Hay khi Phàn Trì về đạo hiếu Khổng Tử đáp rằng: "Lúc cha mẹ còn sống, lấy lễ mà thờ kính; lúc cha mẹ qua đời, lấy lễ mà chôn cất, lấy lễ mà tế 43 tự" [86, tr.218]. Hơn thế, đối với những người hành lễ mà thiếu tôn kính thì ông không thèm để mắt đến họ: "Ở địa vị trên chẳng có lòng khoan dung, hành lễ chẳng kính, có tang cha mẹ chẳng có lòng thương xót, những hạng người như thế ta lấy gì làm để xem xét (mà noi theo)?" [86, tr.265]. Bên cạnh việc hành lễ phải giữ được tôn kính thì con người phải giữ được hoà khí, nếu giữ được hoà khí, con người sẽ thanh thản, thoải mái, không có sự trái ngược: "Quân tử hoà nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hóa" nghĩa là "Người quân tử hòa hợp với mọi người mà không a dua, kẻ tiêu nhân a dua mà không hòa hợp" [86, tr.528- 529]. Học lễ không chỉ để biết ứng xử mà còn phải biết chỗ đứng của mình để ứng xử cho đúng. Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ thì nhân phải là gốc mà lễ là ngọn, lễ là lễ của nhân. Nếu quên mất điều đó thành ra vô dụng "người mà không có lòng nhân dùng lễ sao được? Người mà không có lòng nhân, dùng nhạc sao được?" [86, tr.239]. Mặt khác, để nhân biểu hiện ra ngoài phải thông qua lễ, nếu không có lễ thì nhân chỉ là cái trừu tượng mà thôi. Như vậy, lễ là điều kiện là phương tiện để người quân tử đạt được đức nhân: "Khắc kỷ, phục lễ vi nhân". - Thuyết Chính danh Đối với người quân tử để nắm vững lễ và hoàn thành lễ đúng thì phải xác định được đúng vị trí của mình trong xã hội. Muốn xác định đúng mình trong xã hội thì phải "Chính danh" Nếu không chính danh thì: "Danh bất chính tắc ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng, tắc dân vô sở thố thủ túc" [86, tr.498]. Khổng Tử cho rằng một trong những nguyên nhân của việc hỗn loạn ở thời Xuân Thu là do Thiên tử không chính danh. Hay nói cách khác thiên tử không làm tròn trách nhiệm để cho các chư hầu lấn quyền. Chư hầu không tròn trách nhiệm để sĩ lấn át. Chính vì vậy Khổng Tử cho rằng muốn có một xã hội có trật tự (có trên có dưới) thì mọi ngườ...trong những vấn đề mà Khổng Tử quan tâm trong việc xây dựng học thuyết chính trị - đạo đức của mình là làm thế nào để đạo đức đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện mục đích chính trị. Đạo đức được thể hiện qua các mối quan hệ người, tức là sự phản ánh ứng xử đạo đức giữa người với người mà cơ sở đầu tiên là các mối quan hệ gia đình. Theo Nho giáo, gia đình là tế bào của xã hội, là cơ sở để hình thành đạo đức xã hội, còn xã hội là một gia đình lớn. Gia đình cũng là trường học đầu tiên để con người rèn luyện và trưởng thành. Đây là nơi có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc gìn giữ, phát triển và truyền thụ những giá trị văn hoá tinh thần cao quý từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ việc nghiên cứu nội dung đạo đức cơ bản của Nho giáo, đặc biệt là đạo đức trong các mối quan hệ gia đình, trên cơ sở đó làm rõ ảnh hưởng của nó đến gia đình Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại, luận án rút ra một số kết luận sau đây: 1. Đạo đức học là nội dung quan trọng của Nho giáo, trong đó có đạo đức gia đình với tư cách là nền tảng đạo đức xã hội dựa trên các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với các chuẩn mực đạo đức bất di bất dịch mà con người phải tuân thủ. Tuy nhiên, đạo đức Nho giáo nói chung, đạo đức gia đình nói riêng, khi vào Việt Nam, trải qua quá trình lịch sử hơn hai ngàn năm đã có những biến đổi do sự tiếp biến giữa Nho giáo với các yếu tố bản địa và với các học thuyết khác được du nhập và tồn tại song hành với nó trong lịch sử dân tộc. Những biến đổi đó hoàn toàn do tồn tại xã hội Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể qui định, do đó những chuẩn mực, nguyên tắc 149 ứng xử đạo đức cứng nhắc, thậm chí cực đoan của Nho giáo Trung Quốc được "mềm hóa". 2. Mặc dù vai trò của Nho giáo trong hệ tư tưởng của chế độ phong kiến Việt Nam đã chấm dứt từ lâu, song những giá trị đạo đức truyền thống do con người Việt Nam gây dựng luôn hàm chứa những yếu tố tích cực của Nho giáo, đặc biệt là trong các mối quan hệ gia đình vẫn cần được bảo tồn và phát huy. Với cách nhìn biện chứng và kế thừa có chọn lọc, chúng tôi khẳng định rằng, đặc điểm và cơ chế tác động, qui định ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay được biểu hiện bởi đất nước chúng ta có một quá trình phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới, gia đình văn hóa mới. 3. Từ sau thời kỳ đổi mới đất nước, nền kinh tế từ chỗ tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các mối quan hệ đạo đức gia đình vốn chịu ảnh hưởng của Nho giáo lại có những biến đổi, đòi hỏi chúng ta trên cơ sở khoa học phải làm rõ thực trạng các mối quan hệ đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện đại, từ đó chỉ ra những yếu tố tích cực cũng như hạn chế do sự ảnh hưởng của đạo đức Nho đem lại để đưa ra những giải pháp phù hợp cho việc lành mạnh hóa các mối quan hệ đó. Trong dòng chảy của cơ chế thị trường với những mặt trái của nó, chúng ta cũng phải thấy được những giá trị tích cực của Nho giáo đặc biệt là ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay như: giáo dục kỷ cương, nề nếp gia đình nêu cao tinh thần trách nhiệm của cha, mẹ, của những người lớn tuổi, trở thành tấm gương cho con cháu noi theo cũng như củng cố tinh thần trách nhiệm của cá nhân đối với gia đình, và xã hội. Tuy nhiên Nho giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến việc giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam. Một số tư tưởng như: bảo thủ, lạc hậu tạo nên sự bất bình đẳng giới trong việc phân chia và hưởng thụ các quyền lợi trong gia đình và xã hội trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá mới và gây 150 nên sự lãng phí, phiền toái trong đời sống gia đình, xã hội. Chính vì vậy chúng ta cũng cần phải giải quyết các mâu thuẫn để thúc đẩy và xây dựng gia đình văn hoá mới ở Việt Nam hiện nay. 4. Trên cơ sở phân tích thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay tác giả đã nêu ra hai phương hướng và bốn giải pháp cơ bản nhằm phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực do ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đưc gia đình Việt Nam hiện nay để hướng tới xây dựng gia đình văn hóa và xã hội hài hòa. Mặc dù học thuyết chính trị - đạo đức của Nho giáo không còn đóng vai trò hệ tư tưởng của đất nước ta hiện nay, song từ kinh nghiệm thực tiễn của đất nước cũng như từ các nước thuộc nhóm những con rồng châu Á, chúng tôi khẳng định một cách chắc chắn rằng, những yếu tố tích cực của Nho giáo trong ứng xử đạo đức giữa các thành viên gia đình cần được tiếp tục phát huy, đồng thời đấu tranh loại bỏ những yếu tố bảo thủ, lạc hậu đang cản trở sự hội nhập và phát triển đất nước là hết sức cần thiết và lâu dài. Để làm được điều đó, việc nghiên cứu, đánh giá Nho giáo trên tinh thần khách quan, khoa học là hết sức cần thiết và luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN 1. Thái Doãn Việt (2013), "Phương Pháp giáo dục của Khổng Tử", Tạp chí Giáo dục lý luận, (198), tr.74-77. 2. Thái Doãn Việt (2013), "Mâu thuẫn trong quan niệm về đối tượng giáo dục của Khổng Tử", Tạp chí Giáo dục lý luận, (201), tr.74-76. 3. Thái Doãn Việt (2016), "Đạo đức Nho giáo trong giáo dục đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (4), tr.41-44; 57. 4. Thái Doãn Việt (2016), "Vấn đề giáo dục đạo đức trong gia đình ở nước ta hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (247), tr.76-77; 81. 5. Thái Doãn Việt (2016), "Quan điểm của Khổng Tử về đạo đức gia đình và ý nghĩa hiện thời của nó", Tạp chí Triết học, (303), tr.79-84. 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1939), Khổng giáo phê bình tiểu luận, Quan hải tùng thư, Hà Nội. 2. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 3. Minh Anh (2004), "Về học thuyết lý luận và đạo đức của Nho giáo", Tạp chí Triết học, (8), tr.27-31. 4. Minh Anh (2005), "Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (10), tr.21-24. 5. Ph.Ăngghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội. 6. Lê Thị Tuyết Ba (1999), "Vấn đề bảo vệ các các giá trị đạo đức trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (1), tr.28-32. 7. Lê Thị Tuyết Ba (2000), "Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học, (5), tr.34-38. 8. Lê Thị Tuyết Ba (2003), "Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (10), tr.45-49. 9. Đặng Xuân Bảng (1980), Cư gia khuyến giới tắc, quyển 1, (Bản dịch phòng Tư liệu Viện Triết học), Hà Nội. 10. Đặng Xuân Bảng (1980), Cư gia khuyến giới tắc, quyển 2, (Bản dịch phòng Tư liệu Viện Triết học), Hà Nội. 11. Đặng Xuân Bảng (1980), Cư gia khuyến giới tắc, quyển 3, (Bản dịch phòng Tư liệu Viện Triết học), Hà Nội. 12. Tào Thượng Bân (2005), Tư tưởng nhân bản của Nho học Tiên Tần, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 13. Mai Văn Bích (2003), Xã hội học gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 14. Nguyễn Thanh Bình (2005), Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ 153 XIX), Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. 15. Nguyễn Thị Bình (2006), Tư tưởng Nhân, Lễ, Chính, Danh, trong tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử và vận dụng vào giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 16. Nguyễn Văn Bình (2001), Quan niệm Nho giáo về các mỗi quan hệ xã hội. Ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 17. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 18. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Giáo trình triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2011), Thông tư số12/2011 ngày 10/10/2011, Hà Nội. 20. Bộ Văn hoá thông tin, Cục Văn hoá thông tin cơ sở (1997), Xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Lê Thị Bừng, Nguyễn Thị Vân Hương (2006), Công dung ngôn hạnh thời nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 22. Phan Văn Các (1993), "Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh khu vực và thời đại", Tạp chí Triết học, (3), tr.41-46. 23. Phan Văn Các (1995), "Nho học trong sự nghiệp đổi mới đất nước", Tạp chí Cộng sản, (9), tr.22-26. 24. Lưu Hậu Cầm (1990), Nghiên cứu Nho học Nhật Bản, Hàn Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 25. Phan Bội Châu (1998), Khổng học Đăng, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 26. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 27. Cao Vọng Chi (2014), Đạo Hiếu trong Nho gia, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 154 28. Doãn Chính (Chủ biên) (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Doãn Chính (Chủ biên) (2012), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (Chủ biên) (2003), Mấy vấn đề về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đoàn Trung Còn (1995), Tứ thơ Luận ngữ, Nxb Thuận Hoá, Huế. 32. Đoàn Trung Còn (Dịch) (2003), Hiếu Kinh, Nxb Tổng hợp, Đồng Nai. 33. Tào Cương (2000), Bình luận và giải thích giá trị hiện đại tư tưởng Nho gia, Nxb Đại học Sư phạm Hoa Đông, Trung Hoa. 34. Triệu Lợi Dân (Chủ biên) (1995), Nghiên cứu tư tưởng văn nghệ của Nho gia, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 35. Phan Đại Doãn (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Vũ Trọng Dung (2004), "Tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức người quản lý", Tạp chí Triết học, (5), tr.5-11. 37. Vũ Trọng Dung (2006), Giáo trình Đạo đức học Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 39. Quang Đạm (1991), Đại học - Trung dung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 40. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật Hà Nội. 42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 155 44. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 49. Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo (2007), Văn hoá Đạo đức ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 50. Tế Kim Giang, Lý Kiến và Trương Tụng Chi (Chủ biên) (1994), Nghiên cứu tư tưởng triết học của Nho gia, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 51. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng tám, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 52. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng tám, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 53. Trần Văn Giàu (1978), "Đạo đức Nho giáo và đạo dức truyền thống Việt Nam", Tạp chí Triết học, (1), tr.33-50. 54. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 55. Nguyễn Ngọc Hà (2002), "Những nguyên nhân của chủ quan dẫn đến trình trạng suy thoái đạo đức", Tạp chí Triết học, (3), tr.17-19. 56. Đặng Thị Hồng Hạnh (2006), Quan niện của Nho giáo về gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 57. Lương Đình Hải (2002), "Phân hoá giàu nghèo trong kinh tế thị trường và các giá trị đạo đức ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (8), tr.23-25. 156 58. Lương Đình Hải (2008), Hiện đại hoá xã hội vì mục tiêu công bằng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 59. Cao Thu Hằng (2004), "Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (7), tr.17-24. 60. Nguyễn Hùng Hậu (2003), "Đặc điểm của Nho Việt", Tạp chí Triết học, (3), tr.41-43. 61. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hoá phương Đông, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội. 62. Lê Như Hoa (2001), Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 63. Khuất Thu Hồng (1996), Gia đình truyền thống - một số tư liệu xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 64. Nguyên Văn Hồng (Dịch) (2001), "Tư tưởng Nho giáo và luân lý gia đình", Thông tin khoa học xã hội, (12), tr.29 - 35. 65. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội. 66. Trần Thị Lan Hương (2014), Đạo đức trung hiếu trong Nho giáo và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục ý thức trách nhiệm ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 67. Trần Đình Hượu (1984), "Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo", Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, (3), tr.35-37. 68. Trần Đình Hượu (1986), "Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong cách mạng hiện nay", Tạp chí Thông tin lý luận, (2), tr.34-40. 69. Trần Đình Hượu (1992), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 70. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 71. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 157 72. Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2007), Gia đình học, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. 73. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hoá gia đình Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 74. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 75. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 76. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1995), Nho giáo và đạo đức, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 77. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 78. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, Quyển 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 79. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1997), Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 80. Nguyễn Thị Khoa (2002), "Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học, (4), tr.52-57. 81. Đặng Phương Kiệt (2006), Gia đình Việt Nam - Các giá trị truyền thống và những vấn đề tâm - bệnh lý xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội. 82. Nguyễn Thế Kiệt (2001), Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 83. Nguyễn Thế Kiệt (2002), "Từ tư tưởng "tu thân" trong Nho giáo suy nghĩ về vấn đề giáo dục cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay ở nước ta", Tạp chí Triết học, (8), tr.15-18. 84. Trần Trọng Kim (2003), Nho giáo, Nxb Thông tin, Hà Nội. 85. Tương Lai (Chủ biên) (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 86. Nguyễn Đức Lân (1998), Tứ thư Tập chú, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 158 87. Phan Duy Lê, Vũ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước, Hà Nội. 88. Nguyễn Hiến Lê (1994), Kinh Dịch - Đạo của người quân tử, Nxb văn học, Hà Nội. 89. Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi (1994), Tuân Tử, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 90. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử và luận ngữ, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 91. Phan Huy Lê (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII- XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 92. Nghiêm Sĩ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc Giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 93. Ngô Sỹ Liên (2011), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 94. Bùi Dương Lịch (1990), Bùi gia huấn hài, quyển 1, Phòng tư liệu Viện Triết học, Hà Nội. 95. Bùi Dương Lịch (1990), Bùi gia huấn hài, quyển 2, Phòng tư liệu Viện Triết học, Hà Nội. 96. Nguyễn Thế Long (1990), Nho học ở Việt Nam, giáo dục và thi cử, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 97. Nguyễn Thế Long (1996), Truyền thống gia đình và bản sắc dân tộc Việt Nam - Truyền thống đạo đức, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 98. Nguyễn Thế Long (1998), Gia đình và dân tộc, Nxb Lao động, Hà Nội. 99. Dương Lực (2002), Kinh điển Văn hoá 5000 năm Trung Hoa, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 100. Trường Lưu (Chủ biên) (1998), Văn hoá đạo đức và tiến bộ xã hội, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội. 101. C.Mác và Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 102. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 159 103. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 104. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 105. Nguyễn Thị Thanh Mai (2000), Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 106. Dương Xuân Mai (Chủ biên) (1998), Nghiên cứu tư tưởng văn hoá của Nho gia, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 107. Lý Cảnh Minh, Đường Minh Quý (Đồng chủ biên) (1993), Nghiên cứu so sánh Nho giáo và Đạo giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 108. Lý Cảnh Minh, Đường Minh Quý (Đồng chủ biên) (1995), Nghiên cứu so sánh Nho giáo và Phật giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 109. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 110. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 111. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 112. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 113. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 114. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 115. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 116. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 117. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 118. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 119. Hồ Chí Minh (1997), Phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội. 120. Trần Thị Hồng Minh (2006), Từ Trung - Hiếu của Khổng Tử đến tư tưởng Trung - Hiếu của Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 121. Hà Thúc Minh (1999), Lịch sử Triết học Trung Quốc, Tập 1, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 160 122. Hà Thúc Minh (1999), Lịch sử Triết học Trung Quốc, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. 123. Hà Thúc Minh (2001), Đạo nho và Văn hoá Phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 124. M.T. Stepaniants (2003), Triết học Phương Đông (Trung Hoa, Ấn Độ vcà các nước Hồi giáo, (Dịch giả Trần Nguyệt Việt), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 125. Vương Nhật Mỹ (Chủ biên) (1990), Nghiên cứu tư tưởng chính trị Nho gia, Nxb giáo dục, Hà Nội. 126. Nguyễn Thị Nga (1999), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục con người ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học quốc gia, Hà Nội. 127. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 128. Phan Ngọc (1998), Vấn đề về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 129. Phan Ngọc (2000), Một cách tiếp cận văn hoá, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 130. Đường Nhậm Ngũ (2003), Văn hoá Nho gia và quản lý kinh tế hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 131. Nguyễn Tôn Nhan (Chú giải) (1996), Kinh Lễ, Nxb Văn học, Hà Nội. 132. Nguyễn Tôn Nhan (2005), Nho giáo Trung Quốc, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 133. Nhiều tác giả (2002), Văn hóa gia đình và sự hình thành xã hội, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 134. Nguyễn Ngọc Phú (2006), Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 135. Trương Hưng Phúc (2003), Văn hoá Nho gia và nghiên cứu quản lý hiện đại, Nxb Nhân dân Cam Túc, Trung Hoa. 136. Lê Văn Quán (1997), Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 161 137. Lê Văn Quán (2003), "Thử bàn về đạo "hiếu" của Nho gia", Tạp chí Hán Nôm, (2), tr.3- 8. 138. Lê Văn Quán (2004), "Bước đầu tìm hiểu luân lý đạo đức trong văn hoá truyền thống Nho gia", Tạp chí Hán Nôm, (2), tr.3-10. 139. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 140. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 141. Nguyễn Duy Quý (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 142. Phạm Côn Sơn (2003), Đạo nghĩa trong gia đình, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 143. Phạm Côn Sơn (2006), Nề nếp gia phong, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 144. Nguyễn Đức Sự (1987), "Sự vận dụng Nho giáo trên lập trường nhân dân của Nguyễn Đình Chiểu", Tạp chí Triết học, (3), tr.27-31. 145. Hà Văn Tác (2011), Vai trò của gia đình đối với sự phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 146. Lưu Đức Tăng (1996), Nghiên cứu sự truyền bá Nho học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 147. Nguyễn Thanh Tâm (2000), "Nguyên nhân ly hôn của gia đình thành phố", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (3), tr.15-20. 148. Vũ Minh Tâm (2001), "Lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Lý luận chính trị, (12), tr.21-26. 149. Lê Sỹ Thắng (1987), "Mấy nét về tổng quát về Nho giáo trong lịch sử tư tưởngViệt Nam", Tạp chí Triết học, (2), tr.18-21. 150. Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 151. Lê Sỹ Thắng (Chủ biên) (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 162 152. Nguyễn Chương Thâu (1998), "Nho giáo với vấn đề hiện đại hoá ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (2), tr.150. 153. Trần Ngọc Thêm (1995), Nho giáo và văn hoá Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 154. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 155. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 156. Lê Thi (2005), "Mỗi quan hệ cá nhân - gia đình trong bối cảnh Việt Nam đi vào toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Triết học, (4), tr.35-39. 157. Lê Thi (2006), Cuộc sống và biến động của hôn nhân, gia đình Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 158. Lê Thi (Chủ biên) (2006), Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 159. Nguyễn Thị Thọ (2010), Đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 160. Vi Chính Thông (1996), Nho gia với Trung Quốc ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 161. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030, Hà Nội. 162. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 163. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 164. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 3, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 165. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 4, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 163 166. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 5, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 167. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 6, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 168. Trần Thị Hồng Thuý (1996), Ảnh hưởng của Nho giáo với chủ nghĩa yêu nước truyền thống, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 169. Lê Thị Thuỷ (2001), Vai trò đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 170. Nguyễn Tài Thư (1982), "Thử tìm hiểu vị trí của ba đạo: Nho, Phật, Lão trong lịch sử tư tưởng Việt Nam", Tạp chí Triết học, (1), tr.120- 134. 171. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 172. Nguyễn Tài Thư (1996), Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 173. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 174. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học Việt Nam (một số vấn đề lý luận và thực tiễn), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 175. Nguyễn Tài Thư (1997), Đạo đức phong kiến Việt Nam-nguồn gốc và đặc trưng cơ bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 176. Nguyễn Thị Thường (1999), "Gia đình Việt Nam hiện nay, Truyền thống hay hiện đại?" Thông tin lý luận, (253), tr.43-45. 177. Phạm Mạnh Toàn (2007), Quan niệm của Nho giáo về trung-hiếu-lễ. Ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức con người Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 178. Trần Hữu Tòng, Trương Thìn (Chủ biên) (1997), Xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 179. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê, Hà Nội. 164 180. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê 2014, Nxb Thống kê, Hà Nội. 181. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2015, Nxb Thống kê, Hà Nội. 182. Trần Khải Trí, Trương Thọ Hoa (2003), Nho gia truyền thống và tư tưởng nhân quyền, dân chủ, Nxb Tề Lỗ thư xã, Hà Nội. 183. Trung tâm Nghiên cứu về khoa học gia đình và phụ nữ (1997), Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ, Hà Nội. 184. Trí Tuệ (2003), Đạo trị gia, Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau. 185. Nguyễn Bằng Tường (1990), Nho giáo - Cơ sở của đạo đức phong kiến Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 186. Lý Đào Tường (Chủ biên) (19900, Nghiên cứu luân lý Nho gia, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 187. Nguyễn Đình Tường (2002), "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thi trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục", Tạp chí Triết học, (6), tr.27-32. 188. Khương Lâm Tường, Lý Cảnh Minh (Chủ biên) (1990), Khổng Tử gia giáo, Nxb Thế giới, Hà Nội. 189. Lê Ngọc Văn (1998), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 190. Lê Ngọc Văn (2000), "Một số đặc điểm biến đổi gia đình từ xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hoá", Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, (15), tr.27-29. 191. Nguyễn Thị Vân (2005), Học thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 192. Nguyễn Khắc Viện (1993), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội. 193. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu khoa học về phụ nữ Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu hội nghị khoa học, Hà Nội. 165 194. Viên Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam (2004), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Việt Nam, Hà Nội. 195. Viện Ngôn ngữ Khoa học xã hội Việt Nam (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội. 196. Viện Sử học (2013), Quốc triều hình luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 197. Tân Việt (1997), Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 198. Trần Nguyên Việt (2002), "Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học, (5), tr.34-39. 199. Trần Nguyên Việt (2004), "Phạm Trù "Đức" trong học thuyết của Khổng Tử", Tạp chí Triết học, (3), tr.25-30. 200. Truyền Vĩnh, Hàn Chung Văn (Chủ biên) (2004), 20 thế kỷ Nho học nghiên cứu đại hệ 21, Nxb Trung Hoa thư cục, Trung Hoa. 201. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 202. Tăng Chấn Vũ (1995), Nghiên cứu tư tưởng luân lý của Nho gia, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 203. Trương Như Vương (1998), Góp phần tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong kinh thánh, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội. 204. Nguyễn Đình Xuân (1997), Giáo dục đời sống gia đình, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 205. Trần Thị Kim Xuyến (2001), Gia đình và những vấn đề của gia đình hiện đại, Nxb Thống kê, Hà Nội. 206. Nguyễn Bình Yên (2002), Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_anh_huong_dao_duc_nho_giao_den_giao_duc_dao_duc_tron.pdf
Tài liệu liên quan