Luận án Gia đình của người sán dìu vùng chân núi tam đảo

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG PHƯƠNG MAI GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI SÁN DÌU VÙNG CHÂN NÚI TAM ĐẢO LUẬN ÁN TIẾN S Ĩ NHÂN HỌC HÀ NỘI - 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG PHƯƠNG MAI GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI SÁN DÌU VÙNG CHÂN NÚI TAM ĐẢO Chuyên ngành: Nhân học Mã số : 62.31.03.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Thanh HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN

pdf198 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Gia đình của người sán dìu vùng chân núi tam đảo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tôi xin cam đoan, bản luận án tiến sĩ: Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trong luận án là trung thực. Các trích dẫn trong công trình đầy đủ và chính xác. Nếu có gì sai phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Nghiên cứu sinh Hoàng Phương Mai LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án Tiến sĩ với đề tài “Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo”, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ to lớn, quý báu từ tập thể các thầy giáo, cô giáo giảng viên Khoa Dân tộc học thuộc Học viện Khoa học xã hội; lãnh đạo và các đồng nghiệp tại Viện Dân tộc học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; sự giúp đỡ nhiệt tình của người dân các thôn thuộc xã Ninh Lai và xã Đạo Trù, UBND xã Ninh Lai, UBND huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; UNBD xã Đạo Trù, UBND huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận án này. Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn thầy PGS.TS Nguyễn Ngọc Thanh đã nhiệt tình hướng dẫn khoa học để luận án được hoàn thiện. Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ sự kính trọng và biết ơn của mình đến thầy. Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đã hết lòng ủng hộ, động viên giúp tôi thêm nghị lực phấn đấu và tạo những điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành tốt luận án Tiến sĩ của mình. Hà Nội, tháng năm 2016 Tác giả luận án Hoàng Phương Mai MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài.. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. 2 3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu. 2 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 3 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của của luận án.. 6 7. Bố cục của luận án.. 6 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu. 7 1.2. Cơ sở lý thuyết .... 18 1.3. Khái quát về người Sán Dìu và địa bàn nghiên cứu... 26 Tiểu kết chương 1... 36 Chương 2: CẤU TRÚC, QUY MÔ VÀ CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH 2.1. Sự hình thành gia đình của người Sán Dìu 37 2.2. Quan niệm của người Sán Dìu về gia đình. 39 2.3. Cơ sở cho việc phân loại gia đình người Sán Dìu.. 39 2.4. Những tiêu chí phân loại gia đình... 41 2.5. Cấu trúc của gia đình... 42 2.6. Quy mô gia đình.. 46 2.7. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. 48 2.8. Các chức năng cơ bản của gia đình. 57 2.9. Một vài so sánh với người Hoa, người Dao 68 Tiểu kết chương 2... 71 Chương 3: CÁC NGHI LỄ TRONG GIA ĐÌNH 3.1. Nghi lễ thờ cúng tổ tiên và thần linh... 72 3.2. Nghi lễ sinh đẻ và nuôi con. 76 3.3. Nghi lễ cưới xin. 80 3.4. Nghi lễ tang ma......................................................................... 85 3.5. Một vài so sánh với người Hoa, người Dao 94 Tiểu kết chương 3... 97 Chương 4: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH SÁN DÌU HIỆN NAY 4.1. Biến đổi về cấu trúc, quy mô, mối quan hệ trong gia đình người Sán Dìu hiện nay 98 4.2. Biến đổi các chức năng của gia đình người Sán Dìu.. 101 4.3. Biến đổi về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.. 111 4.4. Biến đổi trong nghi lễ gia đình 114 4.5. Nguyên nhân biến đổi của gia đình Sán Dìu 120 4.6. Một số khuynh hướng phát triển hiện nay của gia đình người Sán Dìu 127 Tiểu kết chương 4... 130 Chương 5: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 5.1. Kết quả 131 5.2. Bàn luận.. 138 Tiểu kết chương 5... 148 KẾT LUẬN... 149 CHÚ THÍCH. 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 152 LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN. TÀI LIỆU THAM KHẢO... 153 PHỤ LỤC.. 162 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Dân số, dân tộc xã Ninh Lai... 34 Bảng 1.2: Số hộ, số người xã Đạo Trù 35 Bảng 3.1. So sánh nghi lễ cưới xin của người Sán Dìu với người Dao và người Hoa 96 Bảng 4.1. Số lượng thành viên trong gia đình ở một số thôn ở Ninh Lai 98 Bảng 4.2. Hình thức thu xếp cuộc sống của cha mẹ khi về già 100 Bảng 4.3. Quan niệm về sinh con trai và con gái ở người Sán Dìu. 101 Bảng 4.4. Cơ cấu ngành nghề của hộ gia đình thôn Đạo Trù Thượng, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo 104 Bảng 4.5. Người mang lại thu nhập nhiều nhất cho gia đình 105 Bảng 4.6. Thu nhập trung bình của hộ gia đình thôn Đạo Trù Thượng, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo 107 Bảng 4.7. Ai là người quyết định hôn nhân của lớp thanh niên hiện nay 112 DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 1. Cấu trúc gia đình hạt nhân đầy đủ.. 43 Sơ đồ 2. Cấu trúc gia đình hạt nhân không đầy đủ 43 Sơ đồ 3. Cấu trúc gia đình hạt nhân mở rộng 44 Sơ đồ 4. Các thế hệ gia đình ông Lưu Kim Thanh ở thôn Hội Kế, xã Ninh Lai 45 Sơ đồ 5 : Gia đình hạt nhân mở rộng 99 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Sán Dìu có dân số 126.565 người - đứng thứ 17 trong bảng thống kê dân số ở Việt Nam [22, tr.46]. Người Sán Dìu cư trú tập trung ở vùng trung du các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Trong nhiều thập kỉ qua, đã có không ít các công trình nghiên cứu về dân tộc này. Tuy nhiên, chưa có một chuyên khảo dân tộc học nào nghiên cứu về truyền thống và biến đổi của gia đình dân tộc Sán Dìu ở một vùng cụ thể. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của gia đình và văn hóa gia đình; Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) đã ban hành Chỉ thị số 49 - CT/TW về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Chính vì vậy, gia đình đóng vai trò quan trọng trong xây dựng phát triển đất nước và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Người Sán Dìu với phong tục tập quán phong phú chứa đựng các giá trị nhân văn sâu sắc được hình thành và phát triển trong tiến trình lịch sử đã trở thành những đặc trưng văn hóa cần được lưu giữ. Gia đình là nơi bảo lưu một phần đáng kể các yếu tố văn hóa truyền thống, là nơi biểu hiện các chân giá trị về chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, tâm lý, mối quan hệ giữa con người với con người và con người với xã hội. Do đó, cần có nghiên cứu về gia đình của dân tộc Sán Dìu để tìm hiểu và luận giải một phần cụ thể về bản sắc, văn hóa của tộc người. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các yếu tố văn hóa nảy sinh trong điều kiện xã hội mới đã tác động nhiều chiều đến đời sống của người Sán Dìu, bao gồm cả những biến đổi tích cực và những biến đổi không mong muốn. Theo quan điểm hệ thống, mỗi thiết chế xã hội biến đổi sẽ dẫn đến những thiết chế xã hội khác như tổ chức làng bản, dòng họ biến đổi theo. Gia đình và đặc biệt là gia đình các dân tộc thiểu số, phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay. 1 Nghiên cứu về gia đình các tộc người được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và giá trị thực tiễn sâu sắc. Bởi gia đình là một trong những thiết chế xã hội quan trọng, liên quan đến hoạt động của mỗi cá nhân cũng như cộng đồng. Nghiên cứu gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ trong sự nghiên cứu các yếu tố xã hội của gia đình, giữ gìn và chuyển giao các giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác mà là sự phát triển bền vững của cả thiết chế xã hội, vì ở thời đại nào văn hóa gia đình cũng là nền tảng cho văn hóa xã hội. Việc chỉ ra các đặc điểm xu hướng, nguyên nhân biến đổi gia đình ở người Sán Dìu là hết sức cần thiết để xây dựng hệ thống chính sách giúp cho gia đình của tộc người có thể thích ứng, tồn tại và phát triển trong giai đoạn xã hội hiện nay. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tôi lựa chọn đề tài: "Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo" làm đề tài luận án tiến sĩ. Qua nghiên cứu này, sẽ góp thêm tư liệu về gia đình người Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo nói riêng. Trên cơ sở nghiên cứu, luận án chỉ ra những yếu tố tích cực và những mặt hạn chế của gia đình truyền thống, góp phần bảo tồn và phát huy những yếu tố tích cực của gia đình người Sán Dìu trong bối cảnh hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Nghiên cứu một cách có hệ thống về gia đình dân tộc Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo. Từ đó chỉ ra những đặc điểm, sự biến đổi của gia đình và khuynh hướng phát triển hiện nay của gia đình dân tộc Sán Dìu. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể - Trình bày có hệ thống về quy mô, cấu trúc, loại hình, chức năng, phong tục, nghi lễ truyền thống và biến đổi trong gia đình người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo. - Chỉ rõ những đặc điểm, khuynh hướng phát triển hiện nay của gia đình người Sán Dìu và lý giải nguyên nhân tác động đến những biến đổi đó. - Chỉ ra những yếu tố tích cực cần được lưu giữ và những mặt hạn chế cần phải khắc phục trong gia đình Sán Dìu hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là gia đình của người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo (được hiểu là cư dân sống dưới chân núi Tam Đảo). 2 Đề tài tập trung nghiên cứu về gia đình người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo truyền thống và những biến đổi cơ bản, nhất là từ sau công cuộc Đổi mới (1986) đồng thời nêu lên xu hướng phát triển của gia đình hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Phạm vi nội dung Luận án đi sâu phân tích những vấn đề cơ bản về gia đình dân tộc Sán Dìu dưới góc độ nghiên cứu dân tộc học/nhân học như loại hình, cấu trúc, các mối quan hệ và chức năng của gia đình, các phong tục, nghi lễ gia đình truyền thống và những biến đổi. 3.2.2. Phạm vi thời gian Đề tài tập trung nghiên cứu về gia đình người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo truyền thống (trước công cuộc Đổi mới 1986) và những biến đổi cơ bản (sau công cuộc Đổi mới năm 1986 và đặc biệt là sau Nghị quyết Khoán 10 của Bộ Chính trị năm 1988), đồng thời nêu lên xu hướng phát triển của gia đình hiện nay. 3.2.3. Phạm vi không gian Luận án lựa chọn địa điểm nghiên cứu là hai xã thuộc hai tỉnh khác nhau, đó là xã Ninh Lai thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và xã Đạo Trù thuộc huyện Tam Đảo của tỉnh Vĩnh Phúc. Hai xã này đều nằm trong vùng chân núi Tam Đảo mang tính đặc thù của vùng chuyển tiếp giữa trung du và miền núi và cũng là nơi người Sán Dìu cư trú tập trung từ lâu đời, đồng thời còn lưu giữ nhiều yếu tố văn hóa truyền thống nhất là về phương diện gia đình. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Luận án được trình bày và biện giải theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin về vấn đề gia đình và hôn nhân, nhất là ý kiến của F.Ăng ghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước”. Trong đó F.Ăng ghen đã đề cập đến nguồn gốc, chức năng của gia đình và các loại hình gia đình trong lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả luận án còn dựa trên những quan điểm của Đảng và Nhà nước trong các văn kiện có liên quan đến lĩnh vực gia đình ở Việt Nam. Ngoài ra, luận án còn kế thừa những thành tựu nghiên cứu, lý luận và phương pháp luận của các nhà dân tộc học trên thế giới, đặc biệt các nhà dân tộc học Liên Xô (cũ) và các nhà dân tộc học Việt Nam. 3 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ đạo sử dụng trong luận án là điền dã Dân tộc học, để thu thập được thông tin đầy đủ, đa chiều, có giá trị và mang tính chân thực, chúng tôi đã vận dụng một số kỹ năng như sau: - Quan sát: Với mục đích hình dung được cảnh quan, môi trường cư trú, cách bố trí làng bản, lối sống sinh hoạt của mỗi thành viên trong gia đình người Sán Dìu và sự giao tiếp của họ với cộng đồng, giúp chúng tôi thu thập những thông tin ban đầu về đối tượng nghiên cứu để định hướng chính xác hơn những vấn đề mục tiêu nghiên cứu đề ra. Đồng thời khái quát được cơ bản nội dung nghiên cứu, trên cơ sở đó phần nào nhận biết và chọn lọc được các thông tin khác nhau hoặc đa chiều trong quá trình nghiên cứu thực địa. - Quan sát tham dự: Để trải nghiệm bối cảnh nghiên cứu thông qua các kinh nghiệm cá nhân trực tiếp tại thực địa, như quan sát tham dự tại các đám ma, đám cưới, hay các công việc lao động hàng ngày của các thành viên trong gia đình. Thông qua kĩ năng này chúng tôi có thể chứng kiến được các sự kiện văn hóa đang diễn ra một cách chân thực nhất, đồng thời thiết lập được mối quan hệ thân thiết với cộng đồng đối tượng nghiên cứu của mình, giúp cho những thông tin phục vụ cho nghiên cứu sát thực để có kết quả nghiên cứu gắn với thực tiễn. - Phỏng vấn sâu: Là kỹ năng quan trọng được sử dụng trong luận án để thu thập các thông tin làm nền tảng cơ bản. Với đề tài nghiên cứu gia đình, chúng tôi lựa chọn các đối tượng phỏng vấn sâu có sự đa dạng về nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi như: là những người có uy tín trong cộng đồng (già làng, trưởng bản, trưởng họ, thầy cúng) những người tham gia công tác chính quyền địa phương, tham gia công tác kế hoạch hóa gia đình, người làm công tác văn hóa xã hội, thanh niên, nam giới/phụ nữ lớn tuổi, nam giới/phụ nữ trung tuổi Nội dung các cuộc phỏng vấn sâu này được chuẩn bị sẵn bằng một bộ câu hỏi phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài. - Điều tra theo bảng hỏi: Tiến hành điều tra theo bảng hỏi tại địa bàn nghiên cứu là hai xã Đạo Trù và Ninh Lai với số lượng 150 phiếu hỏi cho 150 hộ gia đình. Trong đó, điều tra 50 hộ trên tổng số 119 hộ người Sán Dìu của thôn Ninh Lai, xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và điều tra 100 hộ trên tổng số 190 hộ gia đình người Sán Dìu của thôn Đạo Trù thượng, xã Đạo Trù, tỉnh Vĩnh Phúc, nhằm thu thập thông tin định lượng về quy mô, phân công lao động trong gia đình; 4 tuổi kết hôn, người quyết định hôn nhân, tiêu chuẩn chọn bạn đời, cư trú sau hôn nhân, kiêng kị trong gia đình, phân công lao động trong gia đình, các mối quan hệ trong gia đình, kinh tế hộ gia đình, biến đổi của nghi lễ gia đình... Sau đó tiến hành phân tích và xử lý số liệu điều tra bảng hỏi bằng phần mềm SPSS. Việc lựa chọn điều tra phiếu tập trung ở hai thôn Ninh Lai và Đạo Trù Thượng vì ở đây người Sán Dìu đến khai hoang lập làng đầu tiên sau đó mới phát triển sang các thôn khác của các huyện như ngày nay. Hơn nữa, người Sán Dìu ở đây còn lưu giữ nhiều yếu tố văn hóa truyền thống của gia đình. Đồng thời thôn Ninh Lai là trung tâm của xã Ninh Lai, thôn Đạo Trù Thượng cũng là trung tâm phát triển nhất của xã Đạo Trù hiện nay, nên việc lựa chọn mẫu để đánh giá sự biến đổi của gia đình Sán Dìu trước ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa là phù hợp với mục đích nghiên cứu của luận án. Số lượng mẫu tuy không lớn (chỉ chiếm 50% tổng số hộ của hai thôn Ninh Lai và Đạo Trù Thượng), nhưng luận án lựa chọn mẫu điều tra gồm có cả gia đình nhiều thế hệ, gia đình hạt nhân, gia đình hạt nhân mở rộng, gia đình khuyết thiếu; hộ có trình độ học vấn cao, hộ có trình độ học vấn chưa cao; hộ làm nông nghiệp, hộ làm viên chức nhà nước, hộ kinh doanh và hộ chỉ đi làm thuê. Đối tượng trả lời phiếu điều tra là đại diện của hộ gia đình, có sự am hiểu cơ bản về gia đình mình cũng như đời sống nói chung của người Sán Dìu tại khu vưc họ sinh sống. Việc lựa chọn mẫu là ngẫu nhiên, tuy nhiên cũng đưa ra những tiêu chí như trên để việc điều tra phiếu được mang tính đại diện và phản ánh khách quan nhất về gia đình của người Sán Dìu tại địa bàn nghiên cứu chính nói riêng và vùng chân núi Tam Đảo nói chung. Bên cạnh đó, luận án còn tham khảo ý kiến của các chuyên gia nhằm bổ sung các kiến thức còn thiếu sót trong quá trình thực hiện luận án. Để hoàn thiện, luận án còn tiếp cận nghiên cứu theo hướng liên ngành dân tộc học với xã hội học, tâm lý học, với mong muốn có cái nhìn đa chiều và toàn diện hơn về chủ đề nghiên cứu. Ngoài ra, luận án còn thu thập, kế thừa và phân tích các tài liệu thống kê, tài liệu thứ cấp liên quan đến đề tài ở trung ương và địa phương. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về gia đình truyền thống và những biến đổi của người Sán Dìu ở một địa phương cụ thể. 5 - Luận án chỉ rõ những biến đổi của gia đình người Sán Dìu, đồng thời phân tích những nguyên nhân dẫn đến biến đổi đó. - Trên cơ sở nguồn tư liệu điền dã dân tộc học về gia đình người Sán Dìu, luận án góp phần làm rõ vai trò của gia đình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tộc người này tại địa bàn nghiên cứu, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay. - Luận án đóng góp thêm cơ sở khoa học giúp các nhà quản lý, hoạch định chính sách, đề xuất chính sách cụ thể bảo tồn văn hóa dân tộc Sán Dìu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án đã xây dựng được hệ thống phân tích trong nghiên cứu về gia đình đối với người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo. Bên cạnh việc xác định các lý thuyết cơ bản trong áp dụng phân tích như lý thuyết biến đổi văn hóa, lý thuyết chức năng, nhằm để làm nổi bật lên những luận điểm nghiên cứu về gia đình và sự biến đổi của gia đình trong giai đoạn hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án góp phần làm rõ vai trò của gia đình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tộc người này tại địa bàn nghiên cứu, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay. - Cung cấp các luận cứ khoa học về gia đình của người Sán Dìu làm cơ sở cho việc hoạch định những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước góp phần bảo tồn và phát huy những yếu tố tích cực của gia đình người Sán Dìu trong phát triển bền vững kinh tế, văn hóa, xã hội. 7. Cơ cấu của luận án Luận án ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần nội dung chính được trình bày trong 5 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu Chương 2: Cấu trúc, quy mô và các chức năng cơ bản của gia đình Chương 3: Các nghi lễ trong gia đình Chương 4: Những biến đổi của gia đình Sán Dìu hiện nay Chương 5: Kết quả và bàn luận 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Nghiên cứu gia đình các tộc người trên thế giới Nghiên cứu về gia đình trên thế giới đã có một quá trình lâu dài với sự quan tâm của nhiều học giả nổi tiếng, song nghiên cứu về gia đình dưới góc độ dân tộc học/nhân học chỉ thực sự phát triển từ thế kỉ XIX. Một nghiên cứu mang ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành hệ thống lý thuyết về gia đình là tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước (1884) của F. Engels. Đây là nghiên cứu dựa trên các kết quả và phát hiện của Lewis H. Morgan để phân tích lịch sử nhân loại trong các giai đoạn phát triển, luận chứng quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành xã hội có giai cấp. F. Engels cũng vạch rõ những đặc trưng của xã hội, giải thích sự phát triển các mối quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau; trong đó đề cập đến nguồn gốc, cơ cấu chức năng của gia đình, các thiết chế hôn nhân và sự tiến hoá của gia đình trong lịch sử [5]. Đây là tác phẩm có tính hệ thống và vạch ra những mối quan hệ bên trong gia đình đối với cấu trúc bên ngoài và toàn xã hội. Vào những thập niên 20 và 30 của thế kỷ XX, một số nhà nhân học Mỹ bắt đầu quan tâm tới việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các cá nhân và văn hóa, nghiên cứu mối liên hệ giữa việc nuôi dạy trẻ và sự hình thành tính cách ở các nền văn hóa khác nhau, trong đó có mối liên hệ với vai trò của gia đình trong sự hình thành tâm lý của trẻ em là một khía cạnh nổi bật. Đại diện cho xu hướng này là Margaret Mead (1901-1978), đặt dấu ấn đầu tiên trong lĩnh vực nghiên cứu tính cách và văn hóa. Năm 1928, bà công bố nghiên cứu Tuổi dậy thì ở Samoa (Coming of Age in Samoa), nói lên quan điểm của gia đình và đời sống tình dục tự do là nguyên nhân cho sự khác biệt tâm lý ở độ tuổi dậy thì của giới trẻ ở Mỹ và Samoa. Margaret Mead đi đến kết luận về vai trò từ phía gia đình và mô hình văn hóa của gia đình tác động đến tâm lý trẻ vị thành niên ở Mỹ nhiều hơn là các yếu tố sinh học, quan điểm này còn có giá trị phổ biến đến ngày nay [113]. Margaret Mead với cách tiếp cận liên, đa ngành và vận dụng lý thuyết chức năng để phân tích các hành vi của đối tượng 7 nghiên cứu và giải thích về cơ cấu và chức năng của hành vi này trong hệ thống xã hội. Đây là cách tiếp cận hợp lý cho nghiên cứu dân tộc học/nhân học về gia đình tộc người mà luận án có thể vận dụng, kết quả nghiên cứu không chỉ thể hiện đặc trưng của đối tượng nghiên cứu mà còn nêu lên mối quan hệ giữa cá nhân và nền văn hóa. Đóng góp quan trọng về phương pháp luận nghiên cứu gia đình trên thế giới nói chung và ở Liên Xô cũ nói riêng, có thể kể đến M.O.Koxven với cuốn Sơ yếu lịch sử văn hóa nguyên thủy xuất bản năm 1953 (dịch tiếng Việt năm 1958). Trải qua nhiều thập kỷ tác phẩm vẫn được đón nhận và là đề tài thảo luận sôi nổi của giới khoa học. Đây là nghiên cứu có giá trị về quan điểm phương pháp luận được trình bày một cách khá logic, đề cập đến những vấn đề trọng yếu của văn hóa nguyên thủy như mầm mống của văn hóa; sự phát triển của kỹ thuật - kinh tế - xã hội; văn hóa tinh thần; sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy; sự phát sinh xã hội có giai cấp sớm nhất và mô hình gia đình trong xã hội Tiếp đó có thể kể đến O.A.Sukhaneva với các nghiên cứu: Phong tục tập quán trong hôn nhân và đám cưới tại làng Tadzhiks ở Shakhristan, Gia đình Hồi giáo Uzbekistane (1960), Gia đình và gia đình các dân tộc Trung Á, Nghi lễ kết hôn truyền thống của các dân tộc Trung Á (1978). Bên cạnh đó là các tác giả Bromley, Ju.V. và Kaszuba, M.S. với cuốn Hôn nhân và gia đình các dân tộc Nam Tư (1982). Những tác phẩm của các nhà khoa học của Liên Xô trước đây vừa có tính khái quát, vừa đưa ra được những trường hợp cụ thể để chứng minh cho các giả thiết khoa học. Bằng cách tiếp cận lấy chủ thể văn hóa là đối tượng nghiên cứu, các công trình trên đây của các nhà khoa học Liên Xô cũng đánh dấu cho xu hướng nghiên cứu so sánh về gia đình giữa các nước, các lục địa, các tộc người và các nền văn hóa khác nhau. Nghiên cứu về Đông Nam Á, Georges Condominas với L’Espace social. À propos de l’Asie du Sud-Est (Không gian xã hội vùng Đông Nam Á) đã thể hiện quan điểm sắc bén cả về lý thuyết và thực địa khi nghiên cứu về các mô hình xã hội vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Từ tư liệu thu thập được ở làng Sar Luk của người Mnông Gar, Condominas không chỉ nêu lên định nghĩa về không gian xã hội theo cách tiếp cận nhân học mà còn làm nổi bật mối quan hệ họ hàng và xóm giềng của cộng đồng tộc người này. Liên quan trực tiếp đến nghiên cứu gia đình là phần viết về Điều cấm kị đối với anh (chị) của chồng (vợ) [18, tr. 369 - 375] và sự giải thích các thuật ngữ dùng trong quan hệ gia đình, họ hàng của người Mnông Gar 8 [18, tr 364 - 368]. Cách tiếp cận chủ thể văn hóa và liên đa ngành của nghiên cứu này đã đem lại kết quả nghiên cứu thể hiện tính hệ thống đặc trưng của không gian xã hội ở một tộc người cụ thể. Vì lẽ đó, công trình đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và trở thành kinh điển cho giới nghiên cứu nhân học xã hội. Những năm 1990 của thế kỉ XX, các nhà nhân học phương tây có xu hướng nghiên cứu gia đình trong bối cảnh toàn cầu hóa, tiêu biểu là Clark W.Soransen với bài viết trong Asia’s Cultural Mosaic - An Anthropological Introduction, (Bức khảm văn hoá Châu Á - Tiếp cận nhân học) đã đề cập đến gia đình các cư dân châu Á trong đó có Việt Nam, đặc biệt tác giả đã chú ý phân tích mô hình làng xã và cơ cấu của gia đình truyền thống và sự thích ứng của tổ chức xã hội làng xã cũng như gia đình trong xã hội đang biến đổi [30]. Robert Pakin với Kinship: An introduction to basic concepts (Dòng họ: Giới thiệu những khái niệm cơ bản). Mặc dù chủ đề nghiên cứu về gia đình nhưng cuốn sách chưa đi sâu vào lý thuyết nghiên cứu gia đình mà chủ yếu đề cập tới một số khái niệm về dòng họ và giải thích các khía cạnh khác nhau của lý thuyết về dòng họ qua một số dẫn chứng dân tộc học. Sách gồm 2 phần chính. Phần I: Các khái niệm cơ bản (dòng dõi, gia đình, họ tộc...). Phần II: Lý thuyết về dòng họ, trong đó có giải thích những ý nghĩa của dòng họ trong nhân học; lý thuyết dòng họ và một số dẫn chứng dân tộc học [117]. Thông qua hướng tiếp cận liên ngành nhân học - xã hội học và vận dụng chủ yếu lý thuyết biến đổi văn hóa của các nghiên cứu này giúp luận án lựa chọn cách tiếp cận phù hợp khi nghiên cứu gia đình trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời nhận thức được sự khách quan của các nhà nghiên cứu nước ngoài nhìn nhận về mô hình gia đình của Việt Nam nói chung trước khi nghiên cứu sâu sắc hơn về gia đình Sán Dìu là đối tượng nghiên cứu chính của luận án. Một trong những tiếp cận mang tính ứng dụng và hiện đại trong nghiên cứu về gia đình đó là tác phẩm Nhân học - một quan điểm về tình trạng nhân sinh [29], của Emily A. Schultz và Robert H.Lavenda, đã đưa ra những vấn đề cơ bản của nghiên cứu nhân học, trong đó luận án đặc biệt quan tâm đến nghiên cứu gia đình và cách phân loại gia đình, thể hiện ở Chương 18 - Thân tộc và Chương 19 - Hôn nhân và gia đình. Với cách vận dụng lý thuyết cấu trúc, chức năng trong nghiên cứu và phân tích vấn đề gia đình được nhìn nhận sâu sắc từ góc độ thực tế với mô hình cấu trúc có tính đại diện. Hệ thống thân tộc được được đặt tên theo các xã hội đại biểu cho mô hình gốc của từng loại hình: Hawai, Eskimo, Iroquois, Crow, Omaha và 9 Xudang. Bên cạnh đó, Emily A. Schultz và Robert H.Lavenda cũng đưa ra những quan điểm về cấu trúc của gia đình, với cách phân loại thành: gia đình hạt nhân, gia đình hạt nhân mở rộng (cha mẹ sống với con cái đã kết hôn) và gia đình liên hợp những anh em (chị em) cùng gia đình của họ chung sống [29, tr. 323-327]. Đây là những quan điểm nghiên cứu có giá trị giúp luận án tham khảo đưa ra các định nghĩa về gia đình và phân loại gia đình một cách hợp lý khi nghiên cứu gia đình người Sán Dìu. Sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến T. N. Madan với Family and Kinship: A study of the Pandits of rural Kashmir, đề cập đến gia đình và dòng họ Pandits thuộc vùng nông thôn Kasmia dưới góc độ nhân học xã hội. Sách gồm các nội dung như dòng họ Pandits ở Kasmia (Lịch sử và tổ chức xã hội); nông trại và hộ gia đình; các khía cạnh kinh tế hộ gia đình; sự phân chia hộ gia đình; gia đình và chế độ phụ hệ [116]. Cùng theo hướng nghiên cứu này Martine Segalen Historical anthropology of the family (Lịch sử nhân loại học gia đình). Tác giả trình bày hướng nghiên cứu mới trong nghiên cứu gia đình qua các nguồn tư liệu nhân học xã hội và nhân học lịch sử, trong đó phân tích sâu: dòng họ và nhóm dòng họ, quan hệ dòng họ trong xã hội đô thị; hình thành các nhóm gia đình (cưới xin và ly dị trong xã hội đương thời); vai trò của gia đình và các hoạt động trong gia đình (vai trò của vợ chồng trong thế kỷ XIX; nhóm gia đình và vai trò kinh tế; gia đình và xã hội) [114]. Nhìn chung, các nhà khoa học phương Tây và Liên Xô cũ đã đưa ra những luận điểm lý thuyết làm nền tảng cho những nghiên cứu sau này của nhân học gia đình và xã hội học về gia đình nói chung và làm cơ sở nền tảng để luận án nghiên cứu về gia đình Sán Dìu dưới góc độ nhân học, trong đó thể hiện rõ khung lý thuyết về gia đình, quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình, các đặc điểm của gia đình, xu hướng vận động và phát triển của gia đình, biến đổi của gia đình trong điều kiện mới Hiện nay, những nghiên cứu về gia đình ngày càng được hoàn thiện từ nhiều khía cạnh khác nhau nhờ các phương pháp nghiên cứu thu thập tư liệu hiện đại cả về định lượng và định tính. Song rất cần những nghiên cứu vừa có tính hệ thống lý thuyết, vừa vận dụng thực tế phù hợp để nghiên cứu về nhân học gia đình được toàn diện hơn, minh chứng một cách sâu sắc hơn để khái quát hóa từ lý thuyết đến thực tế. 10 1.1.2. Nghiên cứu gia đình các tộc người ở Việt Nam Nghiên cứu về gia đình các tộc người ở Việt Nam từ lâu đã nhận được sự quan tâm của nhiều học giả. Trước tiên phải kể đến cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) năm 1978, của Viện Dân tộc học. Đây là công trình tập thể của các nhà dân tộc Việt Nam đề cập đến 36 tộc người cư trú ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Trong tác phẩm này, những mô tả về gia đình, hôn nhân, các mối quan hệ trong gia đình bước đầu được giới thiệu một cách khái quát. Sách được tái bản năm 2014 và bổ sung, cập nhật thêm các tư liệu mới dự kiến sẽ hoàn thiện trong năm 2016. Cuối những năm 1980 đầu 1990 của thế kỉ XX, nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các nhà dân tộc học đẩy mạnh việc nghiên cứu về các tộc người thiểu số. Rất nhiều nghiên cứu chuyên sâu về gia đình các dân tộc thiểu số được công bố. Trước tiên, có thể kể đến các bài viết về lý thuyết trong nghiên cứu gia đình của Phạm Quang Hoan: Vài suy nghĩ về phương pháp phân loại gia đình [33];Gia đình, bản chất, cấu trúc, loại hình [34]; Gia đình các dân tộc thiểu số ở nước ta [35]; Vài suy nghĩ về hôn nhân và gia đình của các dân tộc ở nước ta hiện nay [36]; các bài viết này đã chỉ rõ cấu trúc gia đình các tộc người thiểu số ở nước ta, như số cặp vợ chồng và số thế hệ, số lượng người trong gia đình, số con cái, cấp độ và tính chất quan hệ thân tộc hay thích tộc. Thực trạng tuổi kết hôn sớm và sự phổ biến của nội hôn tộc người. Qua phân tích, tá...ề biến đổi văn hóa, các nhà nhân học còn lý giải dưới nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau như Thuyết tiến hóa luận (Edward B. Tylor và Lewis Henry Morgan), Truyền bá văn hóa (Grafton Elliot Smith, W.J. Perry, Fritz Graebner và Wilhelm Schmidt) Thuyết chức năng (Radcliffe Brown và Malinowski), Thuyết sinh thái văn hóa (Julian Steward (1955)... Lý thuyết tiếp biến văn hóa được vận dụng trong luận luận án lý giải sự biến đổi của các phong tục tập quán trong gia đình, những nhận thức về xã hội mới tiếp xúc vào cơ cấu gia đình truyền thống tạo nên những văn hóa mang sự thích ứng với biến đổi của môi trường tự nhiên - xã hội, sự biến đổi đó xuất phát từ chính trong nội bộ tộc người hay còn gọi là biến đổi nội sinh. Văn hóa không phải là bất biến mà nó luôn vận động và biến đổi để duy trì và phát triển yếu tố truyền thống. Sự biến đổi đó ngày càng rộng lớn về quy mô và mạnh về cường độ, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa; mọi dân tộc, mọi quốc gia muốn tồn tại và phát triển vững bền phải hội nhập trên mọi lĩnh vực văn hóa, kinh tế và chính trị. - Thuyết chức năng và chức năng cơ cấu Luận điểm cơ bản trong cách tiếp cận chức năng là phân tích cơ cấu của một xã hội, những mối liên hệ giữa các hệ thống khác nhau của nó. Cách tiếp cận này coi xã hội như một cơ thể sống, bao gồm nhiều cơ quan, bộ phận. Các bộ phận khác nhau 23 thực hiện các chức năng đối với nhau và với toàn cơ thể. Khi chức năng của một trong những bộ phận hoặc hệ thống xã hội thay đổi thì sẽ dẫn đến sự thay đổi chức năng của các bộ phận khác trong hệ thống xã hội. Xu hướng nghiên cứu này được các nhà nhân học xã hội quan tâm và đưa ra những lý thuyết mang tính phổ quát. Công nghiệp hóa và đô thị hóa được coi là những nhân tố chủ yếu phá vỡ đời sống của gia đình truyền thống ba thế hệ. Hình thái gia đình mở rộng này đã chuyển sang gia đình hạt nhân hai thế hệ. Sự hình thành của lý thuyết gia đình hạt nhân vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XX gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học Mỹ đã chi phối lý luận xã hội học và có ảnh hưởng rộng lớn trên toàn thế giới cho đến tận ngày nay, đại diện là Talcott Parsons và William Goode. Gia đình là nơi thực hiện các chức năng thiết yếu cho cả cá nhân và xã hội. William Goode (1982) cho rằng nếu gia đình không thực hiện đầy đủ các chức năng của nó thì những mục tiêu rộng lớn của xã hội cũng sẽ không đạt được. Khi cấu trúc gia đình thay đổi thì mô hình gia đình cũng biến đổi phù hợp để đáp ứng các nhu cầu xã hội. Như vậy, theo cách hiểu của Goode, thiết chế gia đình có các chức năng cơ bản của nó và những chức năng này góp phần tạo nên sự ổn định xã hội. Bản thân gia đình cũng có sự vận động nhất định. Khi gia đình thay đổi về cấu trúc thì chức năng của gia đình cũng thay đổi theo nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đồng tình với kết luận của Goode, nhà xã hội học người Anh - Anthony Giddens là tác giả của lý thuyết cấu trúc hóa chức năng cho rằng con người với tư cách là những hình thể tái tạo cấu trúc đồng thời hành động của họ bị chi phối bởi cấu trúc xã hội. Thông qua hành vi, hành động của mình, con người tạo dựng, thay đổi những cấu trúc xã hội mà họ là thành viên. Sự thay đổi cấu trúc diễn ra trong thời gian, không gian và trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Nhờ mặt tích cực của hoạt động cá nhân mà cấu trúc xã hội được tái tạo một cách sinh động, liên tục chứ không phải một cách máy móc [46, tr 233]. Theo đó, khi cấu trúc gia đình bị phá vỡ, cá nhân sẽ tích cực tái một cấu trúc mới với các chức năng phù hợp hơn. Thuyết chức năng tìm đối tượng trong nghiên cứu xã hội thông qua việc phân tích các hành vi để tìm cách giải thích về cơ cấu và chức năng của hành vi này giữa các hệ thống xã hội. Ở đây cơ cấu chức năng, với tư cách là những khái niệm trọng điểm của những thuyết tổng quát mới, phải giúp việc khắc phục các thuyết tiến triển và phân tán cũ. Malinowski với cuốn Một thuyết khoa học về văn hóa (A scientific Theory of culture) đã nghiên cứu các yếu tố của các nền văn hóa dân tộc khác nhau trên đóng góp của chúng để 24 giải thích các vấn đề về con người và xã hội. Qua đó thể hiện yếu tố cơ bản của thuyết cơ cấu chức năng và đưa ra quan điểm về sự biến đổi xã hội. Nhiều nhà khoa học cho rằng, tư tưởng có thể giúp cho xã hội giữ nguyên trạng thái hoặc kích thích sự biến đổi xã hội nếu những niềm tin và chuẩn mực xã hội không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Một trong những khía cạnh nghiên cứu của luận án là sự biến đổi của cơ cấu gia đình người Sán Dìu trong điều kiện xã hội phát triển ngày nay, thông qua nhìn nhận những biến đổi đó cho thấy được cơ cấu về gia đình tộc người thể hiện như thế nào trong mô hình xã hội mới, đồng thời những chức năng vốn có của nó có còn tồn tại hay không, sự biểu hiện của các chức năng đó cho thấy vai trò của mỗi thành viên trong gia đình như thế nào. Lý thuyết chức năng cơ cấu thể hiện diện mạo, bản chất của gia đình và sự phát triển của nó có bền vững hay không trong bối cảnh xã hội biến đổi. Talcott Parsons (1902 - 1979) là người đưa ra những nhận định về lý thuyết biến đổi xã hội, đồng thời có tầm ảnh hưởng lớn nhất với thuyết chức năng cơ cấu, là bước phát triển đáng kể sau những lý thuyết giá trị của A.Racliff Brown về cấu trúc - chức năng. Parsons coi gia đình hạt nhân là một đơn vị thích hợp nhất đáp ứng đòi hỏi của xã hội công nghiệp. Trong gia đình hạt nhân, một người có thể làm việc ngoài xã hội, còn người kia chăm lo gia đình và trẻ em. Người đàn ông có vai trò “công cụ”, là trụ cột gia đình và người vợ có vai trò “biểu cảm”. Đây là những vai trò bổ sung cho nhau. Quan điểm này của Parsons về gia đình cũng như lý thuyết cấu trúc - chức năng về gia đình và ông là một trong những đại diện, về sau phải chịu một sự chỉ trích nặng nề của các nhà nữ quyền vì các nhà nữ quyền cho rằng ông đã biện hộ cho sự phân công lao động trong gia đình giữa đàn ông và đàn bà với tư cách là sự phân công tự nhiên và tự nguyện. Trong cuốn World Revolution and Family Patterns (Cách mạng thế giới và các mẫu hình gia đình) (Free Press: New York, 1963), William Goode đã khảo sát mối quan hệ giữa cấu trúc gia đình và công nghiệp hóa trong những phần khác nhau của thế giới. Cũng giống như Parsons, ông cho rằng, công nghiệp hóa đã dẫn tới sự xói mòn gia đình mở rộng và các nhóm họ hàng thân tộc. Nằm ngay trong thuyết chức năng cơ cấu của Talcott Parsons và William Goode là những nhận định về biến đổi xã hội, bởi ngay trong câu hỏi về tính chức năng của các quá trình xã hội đã phải đặt tiếp câu hỏi cơ bản rằng chúng dẫn tới ổn 25 định hay biến đổi. Chính các khái niệm về nghịch chức năng cũng như chức năng hiện và ẩn mở ra tiền đề để nghiên cứu biến đổi. William Goode cho rằng trên phạm vi toàn thế giới, hình thái gia đình mở rộng truyền thống đã được thay thế bằng gia đình hạt nhân phổ biến. Quá trình này diễn ra không chỉ do tác động của công nghiệp hóa mà còn bởi sự phổ biến của lý tưởng về gia đình hạt nhân từ các xã hội phương Tây [95, tr.15]. Chính vì vậy, hướng tiếp cận này giúp tôi giải thích được vấn đề khi phân tích về cơ cấu, chức năng của gia đình trong trường hợp nghiên cứu, đồng thời mở ra tiền đề nghiên cứu về sự biến đổi của gia đình truyền thống Sán Dìu trong thời đại ngày nay. Việc nhận thức lý thuyết về biến đổi xã hội và thuyết chức năng cơ cấu giúp luận án lý giải sự biến đổi của văn hóa gia đình, cơ cấu, quy mô gia đình, các mối quan hệ của gia đình, các phong tục tập quán trong gia đình Những nhận thức về xã hội mới tiếp xúc vào cơ cấu gia đình truyền thống tạo nên những văn hóa mang sự thích ứng với biến đổi của môi trường tự nhiên - xã hội, sự biến đổi đó xuất phát từ chính trong nội bộ tộc người hay còn gọi là biến đổi nội sinh. Văn hóa không phải là bất biến mà nó luôn vận động và biến đổi để duy trì và phát triển yếu tố truyền thống. Sự biến đổi đó ngày càng rộng lớn về quy mô và mạnh về cường độ, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa; mọi dân tộc, mọi quốc gia muốn tồn tại và phát triển vững bền phải hội nhập trên mọi lĩnh vực văn hóa, kinh tế và chính trị. Qua nghiên cứu lý thuyết, chúng tôi có thể định hướng được các vấn đề cần tập trung khi triển khai đề tài, đặc biệt nhấn mạnh đến các yếu tố mang tính thời đại trong sự đan xen các vấn đề truyền thống, những mối quan hệ của gia đình đối với cấu trúc bên ngoài và với toàn xã hội, nhấn mạnh nhiều hơn đến hoàn cảnh gia đình trong mối tương quan với cơ cấu giai cấp và sự khác biệt của các gia đình đó qua các thông số, chẳng hạn như ngành nghề, phân công lao động, vùng dân cư, đặc điểm địa phương, nông thôn, đô thị hóa, thực hiện nếp sống mới 1.3. Khái quát về người Sán Dìu và địa bàn nghiên cứu 1.3.1. Tên gọi và nguồn gốc tộc người Người Sán Dìu ở Việt Nam trước đây vẫn tự gọi dân tộc mình là San Dáo Nhín, có nghĩa là Sơn Dao Nhân (tức người Dao ở trên núi). Các dân tộc lân cận dựa trên đặc điểm cư trú, phương thức canh tác hoặc y phục truyền thống của người Sán Dìu mà gọi họ bằng các tên khác như: Trại đất (người Trại ở nhà đất) để phân biệt với Trại cao 26 (người Cao Lan ở nhà sàn), Trại ruộng (người Trại làm ruộng), Trại cộc, Mán cộc, Mán quần cộc (trang phục quần cộc), Mán váy xẻ (phụ nữ mặc váy xẻ), Slán Dao Tháng 3 năm 1960, Tổng cục thống kê Trung ương ghi nhận tên gọi của tộc người là Sán Dìu và sử dụng tên gọi này trong các văn bản chính thức của Nhà nước. Căn cứ vào ngôn ngữ và một số phong tục, người Sán Dìu được xếp vào hệ ngôn ngữ Hán - Tạng ở Việt Nam. Người Sán Dìu có một quá trình hình thành và phát triển lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam. Vấn đề nguồn gốc của tộc người Sán Dìu được đề cập đến với các ý kiến đa chiều thể hiện mối quan tâm của các nhà nghiên cứu dân tộc học từ nhiều thế kỉ. Người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo, khi nói về nguồn gốc của dân tộc mình vẫn truyền khẩu các câu truyện thần thoại, theo lời kể của bà Lý Thị Mói, 78 tuổi ở thôn Hoàng Tân, xã Ninh Lai cho biết: Trong truyện Vua Cóc có nói đến địa danh Mãn Khê Quốc là quê gốc của mình, khi đang sinh sống yên ổn thì họ bị triều đình phong kiến tìm cách đàn áp, khiến phải lưu tán nhiều phương, trong đó có đến Việt Nam, nhờ vậy dòng tộc mới được bảo tồn và phát triển thêm lên. Bên cạnh đó còn có câu chuyện kể về lý do sự li tán của tộc người ra các nơi khác nhau: đó là trên đường di cư sang Việt Nam, người Sán Dìu chia nhau thành từng đoàn dài, các cụ già đi trước đã chặt các cành cây làm hướng chỉ đường và dặn lại con cháu hễ cành cây chỉ về hướng nào thì đi theo hướng ấy tất sẽ gặp lại nhau. Sau khi đã vượt qua những chặng đường dài thì không may bị một đàn lợn rừng chạy qua, làm cho cành cây chuyển sang hướng khác. Vì vậy, các đoàn người theo sau không đi đúng đường. Một bộ phận người Sán Dìu đi đúng đường lên sinh sống ở miền núi, một số đến sau đi sai đường xuống cư trú ở đồng bằng. Phỏng vấn những người cao tuổi tại địa bàn nghiên cứu và tham khảo gia phả của gia đình cụ Đỗ Văn Truyền và cụ Lưu Kim Thanh ở thôn Hội Kế, xã Ninh Lai còn lưu giữ, có ghi lại rằng: “Trong thời buổi loạn lạc và đói kém, người Sán Dìu tìm sang Việt Nam theo đường biển tới vùng Móng Cái, Mạo Khê, Đông Triều của tỉnh Quảng Ninh. Khi dừng chân, một nhóm người quyết định ở lại sinh sống ở đây, phần còn lại tiếp tục tiến sâu vào đất liền đến huyện Chí Linh của tỉnh Hải Dương (hiện nay vẫn còn những vết tích của tộc người này đã từng sinh sống), sau đó theo dãy núi Yên Tử vào tỉnh Bắc Giang. Từ địa bàn này, người Sán Dìu chia thành các nhóm nhỏ: có nhóm đi đến các huyện Yên Thế, Lạng Giang, Lục Ngạn của Bắc Giang, có nhóm đi tới vùng trung du của tỉnh Vĩnh Phúc như các huyện Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên, Vĩnh Yên, nhóm khác lưu tán tới Thái Nguyên và 27 cư trú tại các huyện Phú Bình, Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Lương. Một số theo hướng đông bắc đến sinh sống tại tỉnh Tuyên Quang và Vĩnh Phúc ngày nay, cư trú chủ yếu ở khu vực gò đồi thấp của huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang và huyện Tam Đảo của tỉnh Vĩnh Phúc”. Trong quá trình thiên di sang Việt Nam, có những bộ phận người duy trì được nguồn gốc Sán Dìu của mình, nhưng không ít người đã bị hoà lẫn với những dân tộc khác. Trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn từ thế kỷ XVIII, có mô tả các tộc người ở Tuyên Quang như người Nùng, người Xá, người La Quả, người Thổ, người Man [28, tr. 19], trong đó người Man ở đây là Sơn Man, chính là người Sán Dìu. Tuy nhiên, cũng cần nói rằng, dưới chế độ phong kiến Việt Nam, không riêng gì người Dao mà nhiều dân tộc khác như Hmông, Pà Thẻn, Sán Chay (nhóm Cao Lan) đều được gọi là Man; ta có thể nghĩ Man ở đây là người Dao, Sơn Man tức là Sơn Dao hay cũng chính là Sán Dìu, vì vậy rất có thể người Sán Dìu có nguồn gốc chính là người Dao [28, tr. 4]. Từ xa xưa, cộng đồng người Dao chịu sự thống trị, đàn áp của nhà nước phong kiến Trung Quốc đã bị chia cắt thành nhiều nhóm nhỏ, đẩy các nhóm người này phiêu bạt các nơi để mưu sinh và phát triển. Người Sán Dìu là một trong số những nhóm nhỏ đó. Nhưng sống lâu đời bên cạnh người Hán phương Nam nên dần dần đã mất tiếng mẹ đẻ (tiếng Dao) và tiếp thu thổ ngữ Hán Quảng Đông [9, tr. 5]. Tuy vậy, một số nét văn hoá lại cho thấy người Sán Dìu khác với người Dao, chẳng hạn như người Sán Dìu hoàn toàn không thờ Bàn Vương, và họ Bàn cũng không lưu trong các gia phả của tộc người. Mặt khác, mọi thứ đồ dùng hay trang phục của người Sán Dìu không có hoa văn đặc trưng như người Dao là thêu hình cây thông và con chó. Điều đó cho thấy, nếu ghép nguồn gốc người Sán Dìu bắt nguồn từ người Dao thì cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa mới đủ cứ liệu thuyết phục. Đầu thế kỉ XX, nhà nghiên cứu người Pháp A.C. Bonifacy cho rằng, người Sán Dìu dưới sự đàn áp của triều đại Mãn Thanh, đã từ tỉnh Quảng Đông di cư vào Việt Nam theo đường biển và dừng chân tại Hải Dương, sau đó họ tiếp tục chuyển cư đến một số tỉnh thuộc miền núi phía Bắc như Tuyên Quang, Phú Thọ (địa phận ngày nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), Thái Nguyên, Bắc Giang [9, tr. 3]. Ở vùng chân núi Tam Đảo, người Sán Dìu sống liền kề cùng người Kinh và Dao, họ luôn đoàn kết và giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và sinh hoạt đời sống hàng ngày. Người Sán Dìu không sống đan xen với các tộc người khác mà 28 quần tụ lại thành những khu vực riêng biệt. Trong hôn nhân lựa chọn kết hôn với những người đồng tộc luôn được ưu tiên. Họ rất chừng mực trong giao tiếp với các dân tộc khác và đặc biệt tránh xảy ra xô sát. Lịch sử tộc người Sán Dìu cho thấy một trang đấu tranh hào hùng, bất khuất để sinh tồn và bảo vệ giống nòi, sự phát triển lâu dài của họ gắn bó với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của Việt Nam, họ là một bộ phận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 1.3.2. Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa 1.3.2.1. Đặc điểm kinh tế Người Sán Dìu chủ yếu canh tác ruộng bậc thang và làm ruộng nước trong các thung lũng. Từ tháng 12 Âm lịch, đồng bào bắt đầu làm nương: xới cỏ, chặt gốc và sau một tháng thì đốt dọn nương. Tháng hai trồng ngô, chàm, gieo vừng, tháng bốn, tháng năm tra lúa, đến tháng tám, tháng chín thu hoạch, canh tác nương đồi của đồng bào có nhiều sáng tạo. Những năm đầu trồng xen canh gối vụ nhiều loại cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày, sau 10 đến 15 năm đất bạc màu thì bón nhiều phân và trồng luân canh khoai lang, sắn, từ, mỡ đến khi đất trở nên bạc màu hơn nữa thì trồng cây lâu năm. Người Sán Dìu còn có truyền thống làm ruộng nước. Các dải đất trũng được nhặt đá sỏi, san lấp, đắp bờ, cải tạo thành đồng ruộng trù phú. Qua nhiều thế hệ khai khẩn, đã tạo nên những cánh đồng lúa rộng lớn và phì nhiêu (xem ảnh 9 và 10, trang 169). Từ lâu, đồng bào đã biết khai thác và vận dụng nhiều nguồn phân như phân chuồng, phân tươi, bùn ao, phân bắc, tro bếp; biết làm thuỷ lợi như đắp đập, phai, đào mương, khơi máng, tận dụng nguồn nước thiên nhiên phục vụ sản xuất. Phương tiện vận chuyển độc đáo của người Sán Dìu là chiếc xe quyệt 1 để vận chuyển lương thực, rau mầu từ nương ruộng về nhà và chở phân bón từ nhà ra ruộng. Sản xuất nông nghiệp trồng trọt của đồng bào Sán Dìu đã tạo nhiều thuận lợi cho chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển. Đồng bào nuôi nhiều trâu bò để lấy sức kéo, nuôi nhiều lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng để phục sinh hoạt trong gia đình và lấy phân bón ruộng. Trước đây người Sán Dìu kiêng không đào ao, đào giếng sợ động vào long mạch, sau Cách mạng tháng Tám đồng bào thay đổi nhận thức, nhiều nhà đào ao, vừa để nuôi cá, vừa để lấy bùn ao làm nguồn phân bón. Những gia đình sinh sống ở gần rừng còn phát triển nuôi ong lấy mật. Vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển cỏ nên hiện nay có những gia đình chăn nuôi dê với những đàn lớn từ vài chục đến cả trăm con. 29 Ngoài nghề nông là nghề chính, người Sán Dìu còn có một số nghề phụ gia đình làm vào lúc nông nhàn như cót, bồ, nong, nia, dần, sàng, rổ, rá, thúng, các loại nơm, giỏ Kéo sợi dệt vải và chế biến chàm để nhuộm vải trước đây khá phổ biến. Hiện nay, các nghề phụ thủ công truyền thống không còn được người Sán Dìu làm nữa. Sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm vị trí chủ đạo, song bên cạnh đó kinh doanh, dịch vụ và lao động làm thuê phát triển. Sự biến đổi về kinh tế đó phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay. 1.3.2.2.Thiết chế thôn/làng Người Sán Dìu gọi nơi cư trú của mình là thôn/làng. Họ chủ yếu sống tập hợp lại với nhau chứ không sống xen lẫn với các tộc người khác. Trong tổ chức xã hội truyền thống của người Sán Dìu, sự phân chia tầng lớp giai cấp không quá sâu sắc. Người đứng đầu thôn là Khán trại, bên cạnh đó còn có hội đồng kì mục hoặc hội đồng hương thôn, tiên chỉ là một già làng do nhân dân bầu lên. Khán trại và hội đồng hương thôn chủ yếu có vai trò là người quản lý các hoạt động sản xuất liên quan đến lợi ích chung của thôn như thủy lợi, phân định ranh giới về đất rừng và đất sản xuất với thôn khác, giải quyết các tranh chấp trong và ngoài thôn/làng... Dưới chế độ phong kiến, xã hội Sán Dìu không diễn ra sự bóc lột gay gắt của giai cấp thống trị với giai cấp bị trị. Các sản phẩm phải cống nộp cho triều đình phong kiến được những người đứng đầu thôn/làng phân bổ hợp lý, thậm chí dành một khoảnh ruộng riêng làm nơi các hộ gia đình thay nhau canh tác để cống nộp cho triều đình. Sự tổ chức hợp lý trong cơ cấu sản xuất và quản lý mọi thành viên trong cộng đồng dưới những nguyên tắc cơ bản được nêu rõ trong các hương ước khiến mô hình thôn người Sán Dìu luôn ổn định và bền vững dù đất nước có trải qua nhiều biến cố. Trong truyền thống, người Sán Dìu không có chế độ sở hữu ruộng công đối với tư liệu sản xuất mà nhà nào khai phá được bao nhiêu thì đó là thuộc quyền sở hữu của nhà ấy. Nhưng dưới chế độ phong kiến thực dân, tất cả ruộng đất của đồng bào đều bị chiếm đoạt hết, nhân dân trở thành những người làm thuê cho địa chủ. Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng (1954), tổ chức xã hội theo cơ cấu làng, xã, huyện và tỉnh được hình thành, xã hội được quản lý bởi hệ thống hành chính thống nhất trong toàn quốc, Hội đồng nhân dân là đại diện cho quyền lực của nhân dân, điều hành các công việc hành chính, kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, có tổ chức Đảng và các đoàn thể khác như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân những tổ chức chính trị xã hội này 30 ngày càng phát huy vai trò thúc đẩy xã hội Sán Dìu không ngừng phát triển, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, dân chủ và văn minh. 1.3.2.3. Đặc điểm văn hóa vật chất Ẩm thực: Thức ăn của người Sán Dìu đơn giản gồm cơm và rau là chủ yếu. Trong những ngày hội hè, có đám, lễ tết hoặc đãi khách thì có thêm thịt, cá. Cháo ỉm là món ăn chủ yếu trong các bữa phụ, hoặc húp cháo để giải khát thay vì uống nước. Các món ăn: thịt thính (nhôộc trụ chao), thịt mỡ muối (diép chuy nhuộc), thịt bò khô, thịt trâu khô, cheo leo, bánh chưng gù, bánh trôi vẫn là đặc trưng văn hoá ẩm thực độc đáo của người Sán Dìu nơi đây. Trang phục: Phụ nữ Sán Dìu truyền thống thường vấn tóc, chít khăn vuông màu đen; mặc áo dài tứ thân ở ngoài, cổ cao, nẹp trơn, không đính khuy, may dài quá gối, chia làm 2 nửa, nửa trên màu nâu, nửa dưới màu đen. Áo ngắn mặc ở trong, màu nâu, cài khuy có may thêm hai túi nhỏ ở hai bên thân áo. Váy màu đen, dài đến dưới đầu gối (xem phụ lục ảnh 3 và ảnh 4 trang 168). Trong lao động, phụ nữ quấn xà cạp bằng vải màu trắng hoặc màu chàm. Phụ nữ có nhiều đồ trang sức như: vòng tay, vòng cổ, khuyên tai, nhẫn, xà tích Đặc biệt họ có chiếc túi đựng trầu (loi thoi) đeo ngang hông hình múi bưởi được may và thêu trang trí hoa văn công phu (xem ảnh 6, trang 168). Đối với đàn ông, trong ngày lễ hội thường mặc một cặp áo phần thân dài quá đầu gối, áo trong màu xanh, áo ngoài màu đen. Đó là kiểu áo năm thân, cổ cao, khuy cài bên phải, ống tay hẹp. Ngày thường họ mặc áo ngắn, thân cụt. Quần thường là màu nâu, cắt theo kiểu chân què, cạp lá toạ. Thắt lưng màu chàm, xanh hoặc để nguyên màu sồi, đũi. Ngày nay, trang phục truyền thống dân tộc Sán Dìu ít được sử dụng. Đa số đàn ông đã mặc theo kiểu của người Kinh, trẻ em và phụ nữ chưa có gia đình cũng không mặc bộ y phục này nữa. Chỉ còn một số ít người già và phụ nữ có chồng còn giữ thói quen mặc y phục truyền thống của dân tộc. Nhà cửa: Nhà truyền thống của người Sán Dìu thường làm theo qui mô nhỏ, kết cấu đơn giản, hầu hết được làm từ các vật liệu tự nhiên. Ngôi nhà thường gồm ba gian, hai chái. Tường nhà trát bằng đất (rơm trộn bùn). Mái nhà lợp bằng tranh hoặc rơm rạ. Ngôi nhà của đồng bào hiện nay đã thay đổi, ban đầu là những căn nhà tường đất, lợp mái ngói (xem phụ lục ảnh 1 và ảnh 2, trang 167), sau này ngày 31 càng phổ biến nhà cốt thép bê tông và nhà tầng. Cách bố trí không gian bên trong cũng như kiến trúc bên ngoài có xu hướng giống với nhà người Kinh hiện đại. 1.3.2.4. Đặc điểm văn hóa tinh thần Ngôn ngữ: Ngôn ngữ của người Sán Dìu cơ bản là khá thống nhất mặc dù họ sống phân bố ở nhiều địa phương trên khắp cả nước. Từ những cuốn sách cổ còn lưu giữ trong các gia đình người Sán Dìu hiện nay, có thể thấy ngôn ngữ người Sán Dìu có trên 95% là tiếng Hán, được đọc theo ngữ âm riêng của người Sán Dìu nhưng thay đổi nghĩa hoặc chữ mới, âm mới do đó trở thành Nôm Sán Dìu. Các sách vở, thư tịch của người Sán Dìu chủ yếu gồm hai loại: sách dành cho thầy cúng (sách về cách xem địa lý, xem ngày tháng để dựng nhà cửa, cưới gả, ma chay, về các loại đạo bùa) và sách ghi chép các tích truyện cổ, các bài hát soọng cô, kinh nghiệm sống... Tuy nhiên, hiện nay bộ phận thư tịch còn lưu giữ được chủ yếu là sách của thầy cúng, do chúng còn có giá trị sử dụng trực tiếp và thường xuyên tới mọi mặt của đời sống tâm linh, đời sống tinh thần của người Sán Dìu (xem ảnh 13, 14, 15 trang 172 và ảnh 16 trang 173). Còn bộ phận sách ghi chép văn hóa dân gian (nhiều nhất là ghi chép các bài hát soọng cô) hầu như đã mất mát. Nguyên nhân là do sự mai một của loại hình nghệ thuật dân gian hát soọng cô trong mấy chục năm trở lại đây. Hiện nay, người Sán Dìu sử dụng song ngữ: tiếng Sán Dìu giao tiếp trong gia đình hay cộng đồng mình, trong các lễ cúng và nói tiếng phổ thông khi giao tiếp với các tộc người khác. Văn nghệ dân gian: Dân tộc Sán Dìu đã để lại kho tàng văn học nghệ thuật rất giá trị với nhiều thể loại như: thơ ca, ca dao, tục ngữ, truyện kể, câu đố, dân ca, dân vũ, hội hoạ trong đó nổi bật là hát soọng cô. Lời hát là thơ 7 chữ, tình tứ, êm ái, ví von, tức cảnh ngụ tình. Soọng cô thường được diễn xướng trong các ngày hội hè, lễ tế, làm nhà, đám cưới hết đêm này đến đêm khác hay lúc chợ phiên và cả những buổi làm đồng Vốn văn nghệ dân gian này được đồng bào diễn xướng trong các sự kiện quan trọng của gia đình, tuy nhiên lớp trẻ hiện nay do nhiều lý do hầu như không còn học hát nữa, những người biết hát là người già và trung niên. Tri thức dân gian: Tri thức của người Sán Dìu rất đa dạng, phong phú, phản ánh sự thích nghi với môi trường tự nhiên, trình độ sản xuất và điều kiện kinh tế - xã hội của đồng bào. Đó là những gì mà tộc người đã đúc rút qua quá trình sinh sống, lao động lâu dài và lưu truyền qua các thế hệ. Nguồn tri thức được tích lũy ở nhiều lĩnh từ khâu làm đất, chăm bón, xây dựng hệ thống mương, phai, sử dụng hợp lý các nguồn nước phục vụ sinh hoạt, gieo trồng và chăn nuôi. 32 Ngoài những tri thức trong sản xuất nông nghiệp, người Sán Dìu còn có kinh nghiệm phong phú trong việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng thông qua khai thác hợp lý lâm thổ sản. Riêng về săn bắn, đồng bào rất am hiểu chu kỳ sinh trưởng của các loài thú để tránh khai thác bừa bãi. Không chỉ khai thác, người Sán Dìu còn biết trồng thêm các loại cây trồng mới để thực hiện chủ trương xanh hoá đồi núi trọc và phát triển kinh tế hộ gia đình. Những hình thức ứng xử với đất, nước và rừng, trước kia cũng như hiện nay, có thể xem là những tri thức hữu hiệu để đảm bảo cuộc sống của con người, đồng thời duy trì nguồn tài nguyên nhằm khai thác lâu dài và hiệu quả. Hầu hết người Sán Dìu đều biết cách chữa trị những bệnh thông thường bằng cây thuốc Nam, họ thu hái trong vườn nhà hoặc trên rừng gần nơi cư trú. Chỉ khi gặp những bệnh nặng, họ mới phải nhờ đến thầy lang. Các thầy lang có rất nhiều kinh nghiệm trong việc tìm kiếm, thu hái và bốc thuốc chữa bệnh, không chỉ chữa bệnh trong cộng đồng người Sán Dìu và còn chữa cho những tộc người khác đến khám chữa. 1.3.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu Địa bàn nghiên cứu của đề tài luận án là vùng chân núi Tam Đảo, với hai địa điểm nghiên cứu là xã Ninh Lai, thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và xã Đạo Trù thuộc huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây hai xã có người Sán Dìu cư trú tập trung nhất và là một trong những tộc người đầu tiên khai hoang đất đai, trồng trọt, thu hái các sản phẩm từ tự nhiên rồi định cư ở đây từ lâu đời. Đồng thời cũng là nơi còn lưu giữ nhiều yếu tố truyền thống trong gia đình người Sán Dìu một cách rõ rệt nhất (xem Phụ lục 1, Bản đồ địa bàn nghiên cứu của luận án, trang 164, 165 và 166). 1.3.3.1. Điều kiện tự nhiên Xã Ninh Lai nằm ở phía nam huyện Sơn Dương, cách trung tâm thành phố Tuyên Quang 30km về phía đông nam, phía tây bắc giáp xã Thiện Kế; phía tây nam giáp xã Đại Phú huyện Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang; phía đông bắc giáp huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, phía đông nam giáp xã Đạo trù của huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc. Xã Đạo Trù nằm ở phía đông bắc tỉnh Vĩnh Phúc, phía đông nam và nam của huyện Tam Đảo giáp huyện Bình Xuyên, tây nam giáp huyện Tam Dương, phía tây giáp huyện Lập Thạch của tỉnh Vĩnh Phúc, phía tây bắc giáp huyện Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang; phía bắc và đông bắc giáp huyện Đại Từ của tỉnh Thái Nguyên. Đạo Trù cách thành phố Vĩnh Yên 10 km và cách Thành phố Hà Nội 70 km. 33 Xã Ninh Lai và xã Đạo Trù đều nằm gần ngã ba ranh giới của ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên, nằm gần quốc lộ 2B, nên nơi đây giữ vị trí quan trọng trong huyết mạch giao thông của từ các tỉnh miền núi phía bắc xuống Hà Nội và các tỉnh đồng bằng khác. Hai xã Đạo Trù và Ninh Lai thuộc địa phận hai tỉnh khác nhau nhưng tiếp giáp, nối liền về mặt địa lý và nằm ở khu vực vành đai của hệ thống chân núi Tam Đảo và cùng mang những nét đặc trưng về điều kiện tự nhiên. Nơi đây mang đặc thù của vùng chuyển tiếp giữa trung du và miền núi, trong đó yếu tố của địa hình trung du mang những đặc điểm nổi trội. Địa hình đồi núi bát úp, có độ dốc thấp, thoai thoải dần. Ninh Lai và Đạo Trù đều nằm ở vùng thấp và bằng phẳng nhất trong vùng nên thuận lợi cho canh tác ruộng nước và nhiều loại cây công nghiệp ngắn ngày. Cả hai xã cùng nằm trong hệ thống vườn Quốc gia Tam Đảo2 và ở trong khối núi chạy theo hướng đông bắc - tây nam.. Khu vực chân núi Tam Đảo có khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa trung bình hàng năm đạt đến 2.800 mm; mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 với khoảng 90% tổng lượng mưa của năm. Mùa khô, lượng mưa và độ ẩm rất thấp dễ gây cháy rừng. Mặc dù tiếp giáp về địa lý, song hai xã Ninh Lai và Đạo Trù thuộc hai tỉnh khác nhau nên trong chính sách phát triển kinh tế xã hội có phần khác nhau, đặc biệt là chính sách phát triển kinh tế phải dựa trên đặc điểm nguồn lực của địa phương, chính vì vậy tạo nên một số nét khác nhau trong phát triển kinh tế hộ gia đình của người Sán Dìu ở Ninh Lai và Đạo Trù, vấn đề này sẽ được luận án phân tích rõ hơn trong chương 4: Những biến đổi của gia đình Sán Dìu hiện nay. 1.3.3.2. Tình hình dân số Xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương có 1.506 hộ với 7.262 người thì có đến 1.118 hộ với 5.422 người là người Sán Dìu, chiếm 73,4 % dân số toàn xã. Bảng 1.1: Dân số, dân tộc xã Ninh Lai Stt Tên dân tộc Số hộ Số người 1 Kinh 364 1.726 2 Dao (Dao Quần Chẹt) 24 114 3 Sán Dìu 1.118 5.422 Tổng số 1.506 7.262 Nguồn: Uỷ ban Nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang năm 2011 34 Tại xã Đạo Trù trong 13 thôn duy nhất thôn Tân Tiến không có người Sán Dìu. Các thôn khác có người Kinh cùng cư trú, nhưng tỷ lệ người Sán Dìu gần 90%, thậm chí một số thôn như Phân Lân Thượng, Xóm Gò, Tân Phú, Đạo Trù Thượng và Tiên Long có 100% người Sán Dìu. Bảng 1.2. Số hộ - số người ở xã Đạo Trù Stt Tên thôn Số hộ Trong đó Trong đó Số hộ Số hộ Người Người người Kinh người Kinh Sán Dìu Sán Dìu 1 Đồng Quạ 365 30 335 125 1.114 2 Vĩnh Ninh 465 75 390 315 1.536 3 Tân Tiến 222 222 0 942 0 4 Phân Lân Thượng 255 0 255 0 1.144 5 Phân Lân Hạ 230 1 229 4 1.037 6 Xóm Gò 327 0 300 0 1.272 7 Tân Phú 245 0 245 0 1.031 8 Đạo Trù Thượng 190 0 190 0 846 9 Đạo Trù Hạ 240 2 238 9 1.105 10 Tiên Long 157 0 157 0 706 11 Tân Lập 213 9 204 37 984 12 Lục Liễu 258 ... hành kèm theo Quyết định số 3648 QĐ-UB ngày 4 tháng 3 năm 2009. 10. Nghị định của Chính phủ Quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số (Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2002). 11. https://www.facebook.com/dantocsandiu?fref=ts 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Hoàng Phương Mai (2012), Các chức năng cơ bản của gia đình người Sán Dìu ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Tạp chí Dân tộc học, Số 5&6. 2. Hoàng Phương Mai (2013), Truyền thống và những biến đổi trong nghi lễ cưới xin của người Sán Dìu ở tỉnh Tuyên Quang, Tạp chí Văn hóa học, số 2. 3. Hoàng Phương Mai (2015), Phân loại cấu trúc, quy mô của gia đình người Sán Dìu (Nghiên cứu tại xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang), Tạp chí Dân tộc học, Số 1&2. 152 TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Trần Mai An (2013), Tổ chức xã hội truyền thống của người Cơ tu huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội. 2. Vi Văn An (1996), Hôn nhân và tục lệ cưới xin của người Thái ở miền núi Nghệ An, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2. 3. Phùng Thị Tú Anh (2005), Hôn nhân gia đình người Mông trắng huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ, Đại học Văn hóa Hà Nội. 4. Vũ Tuấn Anh - Trần Thị Vân Anh (1997), Kinh tế hộ - lịch sử và triển vọng phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Ăng ghen (1984), Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và nhà nước, trong Tuyển tập Mác -Ăng ghen, tập VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 6. Ma Khánh Bằng (1972), Nương đồi, soi, bãi của người Sán Dìu; Tạp chí Dân tộc học số 3. 7. Ma Khánh Bằng (1973), Vài nét về dân tộc Sán Dìu; Thông báo Dân tộc học - số đặc biệt Xác định thành phần các dân tộc miền Bắc. 8. Ma Khánh Bằng (1975), Về ý thức tự giác của dân tộc Sán Dìu (trong Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam); Nxb Khoa học xã hội; Hà Nội. 9. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 10. Mai Huy Bích (1999), Nâng cao tính khoa học của nghiên cứu gia đình, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 3/1999, tr. 48 - 55. 11. Mai Huy Bích (2011), Xã hội học gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 12. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán Dìu ở Việt Nam; Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam; Thái Nguyên. 153 13. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 14. Nguyễn Duy Bính (1996), Các loại hình gia đình người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, Trong Tập san Khoa học A; Khoa học xã hội, Đại học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Chuyên đề khoa học lịch sử, số 1/1996. 15. Nguyễn Duy Bính (2005), Hôn nhân và gia đình của người Hoa ở Nam Bộ, Nxb Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh. 16. Bonifacy A.C (1966), Chuyên khảo về người Mán Quần Cộc, trong Revue Indochinoise 1904 - 1905, số 4, Đỗ Trọng Quang dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 17. Trần Mạnh Cát - Đỗ Thúy Bình (1994), Gia đình với các chức năng kinh tế, Tạp chí Dân tộc học, số 4. 18. Condominas, Georges (1997), Không gian xã hội vùng Đông Nam Á, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 19. Đinh Thu Cúc, 1985, Cách mạng Tháng Tám và những thay đổi của người phụ nữ nông dân đồng bằng Bắc Bộ, báo Phụ nữ Việt Nam, số 35, 36, 1985. 20. Sần Cháng (1998), Gia đình người Giáy ở Lào Cai, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr 17 -22. 21. Chương trình phát triển con người của Liên Hợp Quốc (2000), Báo cáo phát triển con người 2009, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 22. Cục thống kê Tuyên Quang (2010), Niên giám thống kê tỉnh Tuyên Quang, Nxb Thống kê, Hà Nội. 23. Phan Hữu Dật (1998), Một số vấn đề về Dân tộc học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia. 24. Phan Đại Doãn (1994), Tìm hiểu chức năng và đặc điểm gia đình người Việt - dưới giác độ xã hội học lịch sử, Tạp chí Xã hội học - số 2, Hà Nội. 25. Khổng Diễn (chủ biên), (1998), Dân số - Kế hoạch hoá gia đình người Hmông ở Hoà Bình. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 26. Dự án quỹ Ford Foundation, Từ điển Xã hội học Oxford (2010), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 154 27. Nịnh Văn Độ (2003), Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang, Nxb văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 28. Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, Nxb Sử học, Hà Nội. 29. Emily A. Schultz và Robert H.Lavanda, 2001, Nhân học - một quan điểm về tình trạng nhân sinh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 30. Evans.Grant (1993), Asia’s Cultural Mosaic - An Anthropological Introduction (Bức khảm văn hóa Châu Á - Tiếp cận Nhân học), by Prentice Hall, Simon & Schuster (Asia) Pte Ltd, Singapore. 31. G.Endrweit và G.Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội. 32. Phạm Quang Hoan - Nguyễn Ngọc Thanh (1992), Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 33. Phạm Quang Hoan (1985), Vài suy nghĩ về phương pháp phân loại gia đình, Tạp chí Dân tộc học, số 2. tr 40 - 45. 34. Phạm Quang Hoan (1988), Gia đình, bản chất, cấu trúc, loại hình. Tạp chí Dân tộc học số 1-2, tr 10-16. 35. Phạm Quang Hoan (1990), Gia đình các dân tộc thiểu số ở nước ta, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 56-65. 36. Phạm Quang Hoan (1993), Vài suy nghĩ về hôn nhân và gia đình của các dân tộc ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 2. 37. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật của chính phủ, Sổ tay báo cáo viên pháp luật số 2/2000, Giới thiệu luật hôn nhân và gia đình năm 2000. 38. Khuất Thu Hồng (1996), Gia đình truyền thống - Một số tư liệu nghiên cứu xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 39. Lâm Quang Hùng (2011), Người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc, Hội sử học Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc. 40. Trần Quốc Hùng (2015), Phong tục và nghi lễ vòng đời người Sán Dìu ở Quảng Ninh, Nxb Thế giới, Hà Nội. 41. Vũ Tuấn Huy (2003), Mâu thuẫn vợ chồng trong gia đình và những yếu tố ảnh hưởng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 155 42. Trần Đình Hượu (1990), Hiểu gia đình truyền thống - đổi mới chứ không phải phục cổ, Tạp chí Xã hội học, số 3. 43. Trần Đình Hượu (1991), “Về gia đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng của Nho giáo”, trong: Lilijestrom, R & Tương Lai (chủ biên), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 44. Thanh Hương (1997), “Gia đình văn hóa” trong Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 45. Âu Văn Hợp (2000), Hôn nhân và gia đình của người Cao Lan ở huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang, Luận văn thạc sĩ, Đại học Văn hoá. 46. Jhon J.Macionis, tái bản (2004), Xã hội học (In lần 1 năm 1987), Nxb Thống kê. 47. Vũ Ngọc Khánh (1998), Văn hóa gia đình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 48. Nguyễn Linh Khiếu (chủ biên), 2003, Gia đình trong giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.. 49. Korimoto Kazuo (1989), Từ Ie (Gia tộc) chuyển biến thành gia đình hạt nhân, Tạp chí Người đưa tin UNESCO, số 7/1989, tr 31, bản tiếng Việt. 50. Nguyễn Hùng Khu (2008), Hôn nhân và gia đình của người Khmer Nam Bộ, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội 51. Tương Lai (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 52. Tương Lai (1998), Vấn đề gia đình trong sự biến đổi và phát triển của xã hội. Tạp chí Xã hội học số 3. 53. Bùi Thị Bích Lan (2005), Hôn nhân và gia đình của người Rơ Ngao ở làng Kon Hngo Klăh, xã Ngọc Bay, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum, Luận văn tập sự, Viện Dân tộc học 54. Vũ Tuyết Lan (2007), Hôn nhân và gia đình của người Dao Quần Chẹt - truyền thống và biến đổi (Nghiên cứu trường hợp ở xóm Mạ, xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, Luận văn tập sự, Viện Dân tộc học. 55. Nguyễn Thị Quế Loan (2006), Tập quán chăm sóc sản phụ trẻ sơ sinh trong ăn uống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, Tạp chí Dân tộc học, số 2. 156 56. Nguyễn Thế Long (2006), Truyền thống gia đình và bản sắc dân tộc Việt Nam - Truyền thống đạo đức, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 57. Vũ Đình Lợi (1996), Gia đình và hôn nhân các dân tộc Malayo - Polynexia Trường Sơn - Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ. 58. Vũ Mạnh Lợi (2000), Một số quan điểm lý thuyết về giới trong nghiên cứu gia đình, tạp chí Xã hội học, số 4/ 2000, tr. 12. 59. Vũ Mạnh Lợi (2007), Quan niệm về gia đình của người Việt Nam - Nghiên cứu trường hợp tại Yên Bái, Tiền Giang và Thừa Thiên Huế, Tạp chí Xã hội học, số 3/2007. 60. Trịnh Duy Luân (chủ biên), (2011), Gia đình nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong chuyển đổi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 61. Hoàng Phương Mai (2011), Gia đình người Sán Dìu ở xã Ninh Lai huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang truyền thống và biến đổi, Luận văn thạc sỹ Nhân học - ĐH KHXH &NV, ĐH Quốc gia Hà Nội. 62. Hoàng Phương Mai (2012), Các chức năng cơ bản của gia đình người Sán Dìu ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Tạp chí Dân tộc học, Số 5&6, tr. 85 - 95. 63. Hoàng Phương Mai (2013), Truyền thống và những biến đổi trong nghi lễ cưới xin của người Sán Dìu ở Tuyên Quang, Tạp chí Văn hóa học, Số 2 (6), tr. 71 - 75. 64. Hoàng Phương Mai (2015), Phân loại cấu trúc, quy mô của gia đình người Sán Dìu xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang , Tạp chí Dân tộc học, Số 1&2. 65. Lê Minh (1997), Phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội. 66. Đỗ Hoài Nam (chủ biên), (2003), Một số vấn đề công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 67. Phạm Thị Kim Oanh (2009), Hôn nhân và gia đình của người Thái ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, Luận án Tiến sĩ. 157 68. Nguyễn Hồng Phong; Vũ Khiêu (chủ biên) (2003), Địa chí Quảng Ninh, Nxb Thế Giới, Hà Nội. 69. Nguyễn Thị Minh Phương (2011), Áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật, Đại học Luật Hà Nội. 70. Nguyễn Hồng Quang (2002), Gia đình dân tộc thiểu số và lao động trẻ em, Tạp chí Xã hội học, số 2, tr.41-50. 71. Lâm Quý (2005), Văn hóa các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc, Sở Văn hóa thông tin Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc. 72. Hùng Đình Quý - Phạm Quang Hoan (1999), Văn hoá truyền thống người Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 73. Đặng Thị Tầm (2008), Hôn nhân và gia đình của người Hoa ở thành phố Cần Thơ, Nxb Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh. 74. Nguyễn Đình Tấn, Lê Tiêu La (chủ biên) (1999), Vai trò nam chủ hộ ngư dân trong bước chuyển đổi nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 75. Đào Trang Thái (1997), Gia đình người Hmông tại xã Bản Phố, Bắc Hà, Lào Cai, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Văn hóa Hà Nội. 76. Nguyễn Ngọc Thanh (2005), Gia đình và hôn nhân của dân tộc Mường ở tỉnh Phú Thọ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 77. Nguyễn Ngọc Thanh (2011), Văn hóa truyền thống dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 78. Nguyễn Ngọc Thanh - Nguyễn Thế Trường (chủ biên) (2012), Địa chí Vĩnh Phúc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 79. Tạ Văn Thành (1997), “Văn hóa gia đình và gia đình văn hóa”, Trong: Bộ văn hóa thông tin, Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 80. Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hoá các dân tộc Việt Nam; Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc. 158 81. Nguyễn Văn Thắng (2014), Nghi lễ gia đình của người mảng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Nhân học, Học viện Khoa học xã hội 82. Tổng cục Thống kê (1961), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1960, Nxb Thống kê, Hà Nội. 83. Tổng cục thống kê (2001), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội. 84. Đỗ Văn Toàn (2000), Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang, Sở Văn hoá Thông tin Thái Nguyên xuất bản. 85. Ngô Văn Trụ - Nguyễn Xuân Cần (chủ biên), (2003), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang; Nxb văn hoá dân tộc; Hà Nội. 86. Từ điển Nhân học (2006), bản dịch tiếng Việt lưu tại Viện Dân tộc học, ký hiệu TĐ 88. 87. Từ điển Văn hóa, Tín ngưỡng, Phong tục (2009), Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 88. Từ điển Tiếng Việt (2007), Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội. 89. Đặng Nghiêm Vạn (1991), Dòng họ, gia đình các dân tộc ít người trước sự phát triển hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 2. 90. Lê Ngọc Văn (1991), Cơ cấu chức năng, quan hệ thân tộc của gia đình ở một xã nông thôn Bắc Bộ, Tạp chí Xã hội học, số 4. 91. Lê Ngọc Văn (1996), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 92. Lê Ngọc Văn (2000), Cưới và dư luận xã hội về cưới hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 93. Lê Ngọc Văn và cộng sự (2002), Số liệu điều tra cơ bản về gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 94. Lê Ngọc Văn (2006), Nghiên cứu gia đình - Lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 95. Lê Ngọc Văn (2011), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội. 159 96. Hà Văn Viễn - Hà Văn Phụng (1971); Các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, Nxb Dân tộc, Hà Nội. 97. Viện Dân tộc học (1983), Sổ tay các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 98. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 99. Đào Quang Vinh (2004), Hôn nhân và gia đình của người Dao ở xã Yên Lạc, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Luận văn đại học, Viện Dân tộc học. 100. Nguyễn Như Ý (1998) (Chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, NXb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. TIẾNG ANH 101. Alan Barnard, Jonathan Spencer (Ed.)(1996), Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology. London &New York: Routledge. 102. Cheal, D (1993), Unity and Diffrence Postmodern Famies, Journail of Family Issures, vol.14 (March). 103. Cooper, D. (1972), The Death of the Family, Harmondsworth: Penguin. 104. Dickinson, G.E. - Leming, M.R (1990) Understanding Family. 105. Dittmer, L. (1999), Globalization on the Asian Financial Crisis. Assian Perspective, Vol 23 No 4, p.45. 106. Domestic Violence (1996), Magazine Violence in the family, Australia. 107. Gittns, D. (1993), The Family in Question; changing households and familiar. 108.Goode. W (1982), The family, Second Edition, Englewood Cliffs: Prentice Hall. 109. Jack Goody (1983) The Development of the Family and Marriage in Europe, Cambridge University Press. 110. Janet Finch (1989), Family Obligations and Social Change, Polity Press. 160 111. Leeder, E (2004), The Family State and Global, Perspective – A Gendered Journey, Sege Publications. 112. William Goode (1963), World Revolution and Family Patterns, Free Press: New York. 113. Margaret Mead (1928), Coming of Age in Samoa, William Morrow and Company, New York 114. Martine Segalen (2002), Historical anthropology of the family, Cambridge Cambridge University Press. 115. M. Edelman, A. Haugerud (Ed.)(2005), The Antropology of Development and Globalization: From Classical Political Economy to Contemporary Neoliberalism. P.1. 116. T. N. Madan (2002), Family and Kinship: A study of the Pandits of rural Kashmir, New Delhi Oxford University Press. 117. Robert Pakin (1997), Kinship: An introduction to basic concepts , Malcen Blackwell Publishers. 118. Okin, S.M (1997), Families and Faminist Theory: Some past and Present Issues// Feminism and Families. Routledge 119. Shorter, E (1975), The Making of the Mordern Family. London: Fontana. 120. Steven, L. N (1992), Sociology of The Family. Second Edition. Prentice Hall. 161 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------------- HOÀNG PHƯƠNG MAI PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI SÁN DÌU VÙNG CHÂN NÚI TAM ĐẢO HÀ NỘI - 2016 162 MỤC LỤC PHỤ LỤC Phụ lục 1: Bản đồ......... 164 Phụ lục 2: Một số hình ảnh về người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo................... 168 Phụ lục 3: Phiếu hỏi hộ gia đình......... 183 163 PHỤ LỤC 1: BẢN ĐỒ I. BẢN ĐỒ HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG Nguồn: Văn phòng UBND tỉnh Tuyên Quang, năm 2014 164 II. BẢN ĐỒ HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC Nguồn: Văn phòng Ủy ban Nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2014 165 III. BẢN ĐỒ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN VỊ TRÍ NGHIÊN CỨU: XÃ NINH LAI, HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG XÃ ĐẠO TRÙ, HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC 166 PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NGƯỜI SÁN DÌU VÙNG CHÂN NÚI TAM ĐẢO Ảnh 1: Nhà ở của người Sán Dìu xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 5 năm 2009 Ảnh 2: Nhà ở của người Sán Dìu xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc Ảnh do tác giả chụp tại xã Đạo Trù, tháng 9 năm 2013 167 Ảnh 3: Trang phục truyền thống của phụ Ảnh 4: Trang phục truyền thống của nữ Sán Dìu, nhìn từ phía trước phụ nữ Sán Dìu nhìn từ phía sau Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 5 năm 2009 Ảnh 5: Vòng đeo tay của phụ nữ Sán Dìu Ảnh 6: Túi đựng trầu của phụ nữ Sán Dìu Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 5 năm 2009 168 Ảnh 7: Dòng suối dẫn nước về thôn Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 7 năm 2011 Ảnh 8: Vườn rau của gia đình Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 7 năm 2011 169 Ảnh 9: Cánh đồng lúa của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 7 năm 2014 Ảnh 10: Cánh đồng lúa của người Sán Dìu ở xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc Ảnh do tác giả chụp tại xã Đạo Trù, tháng 7 năm 2014 170 Ảnh 11: Bàn thờ của gia đình người Sán Dìu ở xã Ninh Lai. huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang . Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 7 năm 2011 Ảnh 12: Bàn thờ của gia đình người Sán Dìu ở xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Ảnh do tác giả chụp tại xã Đạo Trù, tháng 7 năm 2014 171 Ảnh 13 và 14: Sách xem ngày lành tháng tốt của thầy cúng Sán Dìu ở thôn Đạo Trù Thượng, xã Đạo Trù. Ảnh do tác giả chụp tại xã Đạo Trù, tháng 7 năm 2014 Ảnh 15: Sách xem Can, Chi, số mệnh của Sán Dìu ở thôn Đạo Trù Thượng, xã Đạo Trù . Ảnh do tác giả chụp tại xã Đạo Trù, tháng 7 năm 2014 172 Ảnh 16: Sách xem tướng và số mệnh của thầy cúng Sán Dìu ở thôn Ninh Bình, xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương. Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 7 năm 2011 Ảnh 17: Một số đồ dùng của thầy cúng thôn Đạo Trù Thượng, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo. Ảnh do tác giả chụp tại xã Đạo Trù, tháng 7 năm 2014 173 Ảnh 18: Phỏng vấn thầy cúng, người có uy tín trọng cộng đồng người Sán Dìu ở thôn Ninh Bình, xã Ninh Lai. Ảnh do tác giả chụp tại Ninh Lai, tháng 5 năm 2009 Ảnh 19: Phỏng vấn thầy cúng, già làng có uy tín tại thôn Đạo Trù Thượng Ảnh do tác giả chụp tại xã Đạo Trù, tháng 7 năm 2014 174 Ảnh 20: Thầy cúng giới thiệu về bộ sưu Ảnh 21: Thầy cúng giới thiệu về tranh tầm sách cổ chữ Nôm Sán Dìu Ảnh do tác thờ Phật, sử dụng trong đám tang của giả chụp tại xã Đạo Trù, tháng 7 năm 2014 người Sán Dìu. Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 7 năm 2011 Ảnh 22: Tranh thờ, dùng trong nghi lễ Ảnh 23: Tranh Cầu, dùng trong nghi lễ làm ma của người Sán Dìu. Tranh mô làm ma. Tranh từ 10 - 15m, là sự ghép nối tả cảnh phán xét dưới âm phủ của nhiều bức tranh. với ý nghĩa linh hồn người chết phải trải qua nhiều cửa mới đến được cõi vĩnh hằng Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 7 năm 2011 175 Ảnh 24 và 25 và 26: Lễ làm ma khô cho người phụ nữ Sán Dìu Ảnh sưu tập của Cộng đồng dân tộc Sán Dìu, đăng trên https://www.facebook.com/dantocsandiu?fref=ts 176 Ảnh 27 và 28: Trang phục của thầy cúng Sán Dìu nhìn từ phía trước và nhìn từ phía sau. Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 7 năm 2011 Ảnh 29 và 30: Lớp học chữ Sán Dìu tại xã Đạo Trù Ảnh sưu tập của Cộng đồng dân tộc Sán Dìu, đăng trên https://www.facebook.com/dantocsandiu?fref=ts 177 Ảnh 31: Thầy bói xem ngày lành tháng Ảnh 32: Đồ lễ cưới nhà trai mang sang tốt cho gia đình có người chuẩn bị làm nhà gái đám cưới Ảnh chụp lại từ phim tài liệu “Đám cưới của người Sán Dìu xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang”, do Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Tuyên Quang thực hiện năm 2013. Ảnh 33: Cô dâu được cõng qua giọt gianh Ảnh 34: Chú rể tháo khăn che mặt của trước khi về nhà chồng cô dâu Ảnh chụp lại từ phim tài liệu “Đám cưới của người Sán Dìu xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang”, do Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Tuyên Quang thực hiện năm 2013. 178 Ảnh 35: Hai vợ chồng người dân tộc Sán Dìu Ảnh 36: Gia đình anh Ôn Thái Trần ở xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc Ảnh Ôn Trần Thái đăng trên Cộng đồng dân tộc Sán Dìu, https://www.facebook.com/dantocsandiu?fref=ts Ảnh 37: Bà ở nhà trông cháu trong thời gian cha mẹ đứa trẻ đi làm. Ảnh do tác giả chụp tại Ninh Lai, tháng 5 năm 2009 179 Ảnh 38 và 39: Phụ nữ Sán Dìu trong công việc nội trợ hàng ngày Ảnh do tác giả chụp tại Ninh Lai, tháng 5 năm 2009 180 Ảnh 40: Đàn ông Sán Dìu đang bừa đất Ảnh do tác giả chụp tại xã Đạo Trù, tháng 11 năm 2013 Ảnh 41: Phụ nữ Sán Dìu đang buôn bán tại chợ Đạo Trù. Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 11 năm 2013 181 Ảnh 42 và 43: Buổi giao lưu văn hóa văn nghệ giữa xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang với xã Bắc Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang Ảnh do tác giả chụp tại xã Ninh Lai, tháng 7 năm 2011 Ảnh 44: Người Sán Dìu tham dự Ảnh 45: Thi gói bánh chưng gù lễ hội Tây Thiên, Tam Đảo trong lễ hội Tây Thiên Tam Đảo Ảnh sưu tập, đăng trên Cộng đồng dân tộc Sán Dìu, https://www.facebook.com/dantocsandiu?fref=ts 182 PHỤ LỤC 3: PHIẾU HỎI HỘ GIA ĐÌNH §Ò tµi: Gia ®×nh CỦA NGƯỜI SÁN DÌU VÙNG CHÂN NÚI TAM ĐẢO Thôn: ........................ Xã:.. Huyện:.................................................................................... Tỉnh:....................................................................................... Người trả lời:.. Câu 1: .Gia đình có tổng số ............ người và thông tin chung về từng thành viên trong hộ (Ghi từng người sống trong một nhà, có kinh tế chung). Họ tên những người Quan hệ với Giới Tuổi Tình trạng Trình độ học vấn: Nghề nghiệp: trong hộ: chủ hộ: tính: hôn nhân: 0 = Mù chữ 1 = Làm ruộng 1 = Chưa đi học 2 = Ngư dân 1 = Chồng/vợ 2 = Nhà trẻ, mẫu giáo 3 = Công nhân Nêu theo thứ tự: 2 = Con 1 = Nam 1 = Độc thân 3 = Tiểu học (cấp 1) 4 = Cán bộ STT - Chủ hộ 3 = Cháu 2 = Nữ 2 = Có 4 = Trung học CS (cấp II) 5 = Buôn bán, dịch - Vợ/chồng của chủ 4 = Chắt vợ/chồng 5 = THPT (cấp III) vụ hộ (nếu có) 5 = Bố mẹ 3 = Ly hôn 6 = Cao đẳng trở lên 6 = Đi làm thuê - Con của chủ hộ (nếu 6 = Anh em trai 4 = Ly thân 7 = Bỏ học 7 = Hoc sinh có) 7 = Chị em gái 5 = Goá 8 = Khác 8 = Khác (ghi rõ) - Người khác (nếu có) 8 = Ông, bà 9 = Người khác 1 CH 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 183 Câu 2: Ông bà hãy đánh giá mức độ quan trọng trong việc sinh con trai/ con gái của gia đình mình? Mức độ đánh giá sinh con trai / con gái Sinh con trai Sinh con gái Rất quan trọng Quan trọng Bình thường Không quan trọng Câu 3: 3.1. Gia đình ông bà có mấy con? . 3.2. Cha mẹ ông bà sinh được bao nhiêu người con?..................................................... Câu 4: Trong gia đình ông/bà ai là người mang lại thu nhập nhiều nhất cho gia đình? 4.1. Người mang lại thu nhập nhiều nhất 4.2. Số tiền thu nhập mỗi tháng Chồng Vợ Con cái Câu 5: Thu nhập hiện tại của hộ gia đình trung bình một tháng là bao nhiêu tiền? . Câu 6: Cây trồng, vật nuôi và thu nhập của hộ gia đình như thế nào? 6.1. Cây trồng 6.2. Diện tích trồng (hoặc 6.3. Vật nuôi (gia súc, 6.4. Số lượng vật nuôi (ghi rõ loại cây) số lượng cây trồng) gia cầm) ............... .................... .................... ....... ....... ....... ... 6.5. Số tiền thu nhập từ cây trồng trong 1 năm 6.6. Số tiền thu nhập từ vật nuôi trong 1 năm .. 184 Câu 7: Ai là người quyết định hôn nhân của ông/bà trước đây ? Người quyết định hôn nhân Bố mẹ quyết định hoàn toàn Bố mẹ quyết định nhưng có hỏi ý kiến ông,bà Ông bà quyết định hoàn toàn Ông bà quyết định nhưng có sự bàn bạc với bố mẹ Câu 8: Người quyết định hôn nhân của lớp thanh niên hiện nay? Người quyết định hôn nhân Bố mẹ quyết định hoàn toàn Bố mẹ quyết định nhưng có hỏi ý kiến con cái Con cái quyết định hoàn toàn Con cái quyết định nhưng có sự bàn bạc với bố mẹ Những người khác quyết định (ông cậu, bà dì,) Câu 9: Mong muốn của ông /bà là con cái mình lấy người cùng dân tộc hay khác dân tộc ? 1. Cùng dân tộc 2. Khác dân tộc Câu 10: Xin cho biết về tuổi khi ông/bà khi kết hôn ? 10.1. Của ông (bà) 10.2. Của vợ/chồng ông (bà) Các cuộc hôn nhân Tuổi Các cuộc hôn nhân Tuổi Hôn nhân lần đầu Hôn nhân lần đầu Hôn nhân lần 2 Hôn nhân lần 2 Hôn nhân lần 3 Hôn nhân lần 3 Câu 11: Theo ông/ bà, tiêu chuẩn để chọn bạn đời hiện nay là: 11.1. Bạn gái 11.2. Bạn trai 1. Chung thủy 1. Chung thủy 2. Xinh đẹp 2. Đẹp trai 3. Khỏe mạnh 3. Khỏe mạnh 4. Đức hạnh 4. Có đạo đức 185 5. Có kinh tế 6. Chăm chỉ làm việc kiếm tiền 6. Văn hóa cao 6. Văn hóa cao 7. Đảm đang 7. Có nhà cửa 8. Có nghề nghiệp ổn định 8. Có nghề nghiệp ổn định Câu 12: Ông/ bà lựa chọn nơi ở như thế nào sau khi kết hôn? 1. Nhà chồng 2. Nhà vợ 3. Luân cư 4. Ra ở riêng Câu 13: Hình thức thu xếp cuộc sống của ông/bà khi về già như thế nào? Hình thức thu xếp cuộc sống Sống chung và ăn chung với con Sống chung với con nhưng ăn riêng Sống riêng hai ông bà Sống riêng một mình Hình thức khác Câu 14: Xin ông/ bà cho biết số cuộc hôn nhân không đăng ký kết hôn trên tổng số các cuộc hôn nhân của gia đình trong 5 năm qua: ../.. Câu 15: Trong gia đình, ai là người quyết định chính những công việc sau đây: Người quyết định chính Chủ Chủ yếu Hai vợ Bố (Ông) Mẹ (Bà) Người Stt Công việc yếu là là vợ chồng khác chồng như nhau 1 Chi tiêu lớn (làm nhà, mua bán đất đai, tiện nghi đắt tiền) 2 Chi tiêu hàng ngày 3 Nội trợ (mua thức ăn, nấu cơm) 4 Kế hoạch làm ăn 5 Vay vốn tín dụng 186 6 Trồng trọt 7 Chăn nuôi 8 Làm thủ công 9 Buôn bán 10 Dạy con học 11 Cưới gả cho con Câu 16: Xin ông bà cho biết việc phân công lao động trong gia đình hiện nay như thế nào? Chồng Vợ Hai vợ Con Con Bố Bà Người Công việc là là chồng trai gái (ông) (mẹ) khác chính chính như nhau I. Làm ruộng, nương Cày, làm đất Bừa Chọn mua giống Gieo, ủ mạ Cấy, trồng Làm cỏ Phun thuốc trừ sâu Lo thuỷ lợi Gặt, thu hoạch Đập Phơi Vận chuyển Đổi, bán II. Chăn nuôi Trâu, bò, lợn Gia cầm Cá III. Nghề thủ công .. 187 Đổi, bán IV. Công việc nội trợ và nuôi dạy con Đi chợ Nấu cơm, rửa bát Lấy củi Chăm sóc con Truyền nghề cho con trai Truyền nghề cho con gái Câu 15: Trong 5 năm trở lại đây, gia đình ông bà có còn tổ chức cưới xin theo đúng các bước nghi lễ truyền thống nào sau đây hay không? STT Còn thực Không còn Chỉ là một bước mang Nghi lễ trong cưới xin hiện thực hiện tính hình thức, diễn ra nhanh gọn 1 Nghi lễ xin lá số 2 Nghi lễ xin cưới 3 Nghi lễ xem mặt 4 Nghi lễ ăn hỏi 5 Nghi lễ sang bạc 6 Nghi lễ chọn và báo ngày cưới 7 Nghi lễ gánh gà 8 Nghi lễ trong đám cưới (diễn ra trong 5 ngày) 9 Nghi lễ nộp cheo 10 Nghi lễ lại mặt 11 Nghi lễ khác 188 Câu 16: Trong 5 năm trở lại đây, gia đình ông bà có còn tổ chức tang ma theo đúng các bước nghi lễ truyền thống nào sau đây hay không? STT Còn thực Không còn Chỉ là một bước mang Nghi lễ trong tang , ma hiện thực hiện tính hình thức, diễn ra nhanh gọn 1 Nghi lễ tắm rửa cho người chết 2 Nghi lễ cho tiền vào mồm người chết 3 Lễ báo tang và phát tang 4 Nghi lễ đón thầy cúng 5 Nghi lễ cúng áo quan 6 Nghi lễ dâng cơm cho người chết 7 Nghi lễ chọn đất làm huyệt mộ 8 Nghi lễ khâm liệm trước khi an táng 9 Nghi lễ bắc cầu 10 Nghi lễ làm ma (làm chay) 11 Nghi lễ khác Câu 17: Trong gia đình ông/bà hiện nay còn giữ những điều kiêng kị đối với con dâu như truyền thống của dân tộc Sán Dìu trước đây không? 1. Có 2. Không Câu 18: Trong gia đình ông/bà hiện nay, mối quan hệ vợ chồng diễn ra như thế nào? 1. Người vợ phải nghe theo mọi sự sắp đặt của người chồng, không có quyền phản kháng trong mọi công việc. 2. Người vợ có quyền sắp đặt mọi công việc, người chồng không quyết định điều gì. 3. Hai vợ chồng bình đẳng trong cuộc sống gia đình. Câu 19: Theo ông/bà mối quan hệ vợ chồng trong một gia đình có sự thay đổi khác biệt bắt đầu từ thời gian nào sau đây? 1. Từ 1 năm trở lại đây 3. Từ 5 năm trở lại đây 2. Từ 10 năm trở lại đây 4. Từ 15 năm trở lại đây 189 Câu 20: Theo ông/bà, trong gia đình mình, mối quan hệ nào có sự thay đổi rõ nét nhất so với truyền thống xa xưa của dân tộc Sán Dìu? (chọn 3 mối quan hệ) 1. Bố chồng và con dâu 6. Mẹ vợ và con rể 2. Mẹ chồng và con dâu 7. Bố vợ và con rể 3. Vợ và chồng 8. Anh/em chồng và chị/em dâu 4. Anh/chị em ruột 9. Anh/em vợ và chị/em vợ 5. Quan hệ với họ hàng 10. Ông bà và các cháu Câu 21: Việc hương ước của làng quy định việc ma chay, cưới xin trong điều kiện hiện nay cùng một số quy định mới, gia đình ta thấy có phù hợp với điều kiện kinh tế cũng như văn hoá truyền thống của dân tộc mình hay không? 1. Rất phù hợp 2. Tương đối phù hợp 3. Không phù hợp Câu 22: Ông/bà hãy đưa ra những đề xuất và kiến nghị nhằm phát huy tối đa các giá trị văn hóa quý báu của gia đình truyền thống người Sán Dìu. Xin chân thành cảm ơn! 190

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_gia_dinh_cua_nguoi_san_diu_vung_chan_nui_tam_dao.pdf
Tài liệu liên quan