Luận án Hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù của một số câu lạc bộ, giáo phường tại Hà Nội

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO Bộ VĂN HóA, THể THAO Và DU LịCH VIệN VĂN HóA NGHệ THUậT QUốC GIA VIệT NAM -------------- Nguyễn Đức Thắng HOạT ĐộNG BIểU DIễN NGHệ THUậT CA TRù CủA MộT Số CÂU LạC Bộ, GIáO PHƯờNG TạI Hà NộI LUậN áN TIếN Sĩ VĂN HóA HọC Hà Nội - 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HểA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HểA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM -------------- Nguyễn Đức Thắng HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CA TRÙ CỦA MỘT SỐ CÂU LẠC BỘ, GIÁO PHƯỜNG

pdf217 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù của một số câu lạc bộ, giáo phường tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠI HÀ NỘI Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 62 31 06 40 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Bùi Hoài Sơn 2. TS. Nguyễn Văn Lưu Hà Nội - 2016 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án Tiến sĩ “Hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù của một số câu lạc bộ, giáo phường tại Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các trích dẫn, số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả luận án Nguyễn Đức Thắng 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. 1 MỤC LỤC ......................................................................................................... 2 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ 3 DANH MỤC BẢNG - BIỂU ............................................................................ 4 MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 5 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................................................................................................ 22 1.1. Một số khái niệm ..................................................................................... 22 1.2. Khái lược về sự hình thành và phát triển ca trù ...................................... 32 1.3. Giá trị di sản ca trù .................................................................................. 51 1.4. Kinh nghiệm bảo tồn, phát huy di sản ..................................................... 60 Chương 2. THỰC TRẠNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CA TRÙ CỦA MỘT SỐ CÂU LẠC BỘ, GIÁO PHƯỜNG TẠI HÀ NỘI ...................... 73 2.1. Thực trạng hoạt động của một số câu lạc bộ, .......................................... 73 2.2. Những khó khăn, thuận lợi .................................................................... 106 Chương 3. BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CA TRÙ, MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN BÀN LUẬN ........................................................................................ 123 3.1. Bàn luận về quan điểm bảo tồn, phát huy di sản ca trù ........................ 123 3.2. Những biến đổi của một số câu lạc bộ, giáo phường ........................... 129 3.3. Bàn luận mô hình phù hợp cho việc biểu diễn nghệ thuật của một ...140 3.4. Bàn luận một số giải pháp .........146 KẾT LUẬN ................................................................................................... 165 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ................................... 169 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 170 PHỤ LỤC ...................................................................................................... 179 3 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Bộ VHTT: Bộ Văn hóa - Thông tin Bộ VHTTDL: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch BQL: Ban Quản lý CLB Câu lạc bộ CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa GP: Giáo phường GS: Giáo sư NCS: Nghiên cứu sinh NNDG: Nghệ nhân dân gian NS Nghệ sĩ NSND: Nghệ sĩ nhân dân NSƯT: Nghệ sĩ ưu tú Nxb: Nhà xuất bản PGS.TS: Phó Giáo sư, Tiến sĩ Sở VHTT: Sở Văn hóa - Thông tin Sở VH,TT: Sở Văn hóa, Thể thao Sở VH,TT&DL: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh TS: Tiến sĩ Ủy ban Giáo dục, Khoa học, Văn hóa UNESCO: của Liên hợp quốc UNWTO: Tổ chức Du lịch thế giới của Liên hợp quốc 4 DANH MỤC BẢNG - BIỂU Danh mục bảng Trang Bảng 1.1. Tổng hợp các CLB, giáo phường, làng thôn ca trù Hà Nội 46 đã và đang hoạt động từ 1991 - 2014 Bảng 2.1. Số lượng nghệ nhân, nghệ sỹ tên tuổi của một số CLB, 79 giáo phường ca trù trên địa bàn Hà Nội Bảng 2.2. Lịch biểu diễn của một số CLB, giáo phường 88 Bảng 2.3. Bố cục một buổi diễn của CLB và Giáo phường 89 Bảng 2.4. Nhân lực phục vụ một buổi diễn 60 phút 92 Bảng 2.5. Số lượng khách quốc tế theo quốc tịch thưởng thức ca trù 94 Bảng 2.6. Loại hình nghệ thuật truyền thống đã từng xem 100 Bảng 2.7. Loại hình nghệ thuật được ưa thích nhất 101 Bảng 2.8. Những không gian hay hình thức xem, nghe nghệ thuật 102 truyền thống mà giới trẻ lựa chọn Bảng 2.9. Mức độ hiểu biết về ca trù 103 Bảng 2.10. Mức độ biết về thông tin ca trù trở thành di sản thế giới 104 của Việt Nam cần được bảo vệ khẩn cấp Bảng 2.11. Đánh giá về mức giá hiện nay của CLB ca trù 105 Bảng 3.1. Phân tích ưu điểm, hạn chế của một số mô hình CLB, 144 giáo phường tiêu biểu ở Thủ đô Hà Nội Bảng 3.2. Các biện pháp để ca trù được các bạn trẻ biết đến nhiều 155 hơn ở Hà Nội Danh mục biểu Biểu số 2.1. Tỷ lệ khán giả trong nước và quốc tế 95 Biểu số 2.2. Mục đích thưởng thức ca trù của các du khách 99 Biểu số 2.3. Kênh thông tin du khách đến xem ca trù 116 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việc nghiên cứu đề tài luận án này xuất phát từ hai lý do chính là lý do thực tiễn và lý do khoa học. - Lý do khoa học Trong tổng thể nội tại sự phát triển khoa học vấn đề nghiên cứu, đến thời điểm này, ca trù hầu như chỉ được nghiên cứu ở khía cạnh di sản, khía cạnh nghệ thuật, trong khi những hệ thống lý thuyết liên quan đến những biến đổi, những xung đột gắn với bảo tồn, phát huy đối với các thiết chế văn hóa cơ bản của nghệ thuật này là các giáo phường (hay các CLB) thì vẫn còn một khoảng trống nhất định. Bên cạnh đó, do đây là luận án tiến sĩ văn hóa học, nên những nghiên cứu, kiến giải của luận án sẽ tiếp cận nhiều nhất có thể theo những nội hàm lý thuyết của văn hóa học, với mong muốn góp phần hoàn thiện, tổng hợp và bổ sung các luận cứ khoa học, cơ sở lý thuyết, lý luận khoa học, khái niệm có tính chuyên sâu về di sản văn hóa phi vật thể ca trù, CLB ca trù, giáo phường ca trù, đặc biệt là mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản với hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù qua một số CLB, giáo phường tại Hà Nội. Mặt khác, quá trình nghiên cứu sẽ giúp NCS có được vốn kiến thức khoa học chuyên sâu về lĩnh vực di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa phi vật thể ca trù nói riêng, trong đó có hệ thống nội hàm lý thuyết văn hóa học gắn với lĩnh vực nghiên cứu. Qua đó dần tích lũy kinh nghiệm và khả năng nghiên cứu ở trình độ luận án TS văn hóa học, có được phương pháp nghiên cứu khoa học hiệu quả và nắm bắt được các cách thức nghiên cứu để rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình nghiên cứu lâu dài sau này. - Lý do thực tiễn 6 Năm 2009, ca trù được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Theo công ước UNESCO năm 2003, các di sản văn hóa phi vật thể của các quốc gia sau khi được đề cử, công nhận sẽ đăng ký vào danh sách Di sản đại diện của nhân loại hoặc Di sản cần được bảo vệ khẩn cấp. Di sản từ danh sách này có thể chuyển sang danh sách khác căn cứ vào hiện trạng, sức sống của di sản. Với lộ trình đó, đến giai đoạn 2014-2015, Việt Nam phải hoàn thành nhiệm vụ đưa loại hình di sản văn hóa phi vật thể này vượt qua ranh giới "cần được bảo vệ khẩn cấp”. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù để đưa loại hình di sản văn hóa phi vật thể này vượt qua ranh giới "cần được bảo vệ khẩn cấp” không hề đơn giản. Trong suốt thời gian qua, với nỗ lực của các nghệ nhân, các làng, thôn ca trù, các CLB, giáo phường, đến nay, ca trù cơ bản đã giải quyết được bài toán nan giải, đó là không bị rút tên khỏi danh mục di sản thế giới, nhưng vẫn là một di sản rất cần được xã hội quan tâm và vun đắp, để vượt qua những kiểm soát gắt gao của UNESCO, để đạt được danh hiệu "Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại” và quan trọng hơn là để ca trù ngày càng ăn sâu trong tiềm thức người Việt. Ngay sau khi ca trù được UNESCO ghi danh, năm 2010, Bộ VHTTDL đã công bố Chương trình hành động Quốc gia bảo vệ ca trù giai đoạn 2010- 2015 với các nội dung chính: 1) Nâng cao nhận thức và năng lực của các cộng đồng, chủ thể văn hóa nhằm giữ gìn và phát huy giá trị độc đáo của ca trù; 2) Tạo điều kiện để cộng đồng giao lưu, trình diễn, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với các cộng đồng khác trong nước và quốc tế nhằm tăng cường sự hiểu biết, góp phần bảo vệ và phát huy đa dạng văn hóa; 3) Triển khai các biện pháp và kế hoạch cụ thể, ưu tiên kiểm kê, nghiên cứu và hệ thống hóa tư liệu với mục đích bảo tồn bền vững di sản; 4) Xây dựng các chương trình văn hóa, giáo dục và truyền thông đa dạng giới thiệu, phổ biến, quảng bá, nhằm 7 nâng cao nhận thức, trách nhiệm của xã hội đối với việc bảo vệ di sản; 5) Ban hành chính sách đãi ngộ, phong tặng nghệ nhân dân gian, nghệ nhân ưu tú cho các cá nhân có tài năng xuất sắc, có công bảo vệ, có đóng góp quan trọng trong việc giữ gìn phát huy giá trị di sản ca trù nhằm tạo điều kiện, khuyến khích bảo tồn, truyền dạy di sản cho thế hệ trẻ; và 6) Tăng cường nguồn đầu tư nhà nước, đi đôi với các nguồn lực xã hội góp phần bảo vệ di sản. Có thể nói, trong 6 nội dung của Chương trình hành động Quốc gia về bảo vệ di sản ca trù thì nội dung số 2 chính là nội dung liên quan trực tiếp đến mục đích nghiên cứu của luận án này. Đó là vấn đề bảo tồn nghệ thuật ca trù dựa trên khía cạnh phát huy đa dạng văn hóa, giao lưu, trình diễn, học hỏi chia sẻ kinh nghiệm với các cộng đồng khác trong nước và quốc tế nhằm tăng cường sự hiểu biết, góp phần bảo vệ và phát huy đa dạng văn hóa. Một trong những yếu tố quan trọng nhất để giải quyết được vấn đề này chính là hoạt động hiệu quả của các CLB, giáo phường ca trù trong việc giữ gìn nền nếp ca trù như truyền thống, đồng thời tổ chức giao lưu, giới thiệu, trình diễn cho du khách xem, nghe và thưởng thức, thấu hiểu giá trị nghệ thuật ca trù dù cho đã có sự biến đổi không nhỏ về hình thức tổ chức hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù tại Hà Nội hiện nay. NCS lựa chọn phạm vi nghiên cứu nội thành Hà Nội mà không phải khu vực khác cũng là để có được cái nhìn thấu đáo hơn những gì đang diễn ra đối với một số CLB, giáo phường, qua đó cũng đánh giá được sau 5 năm làm NCS, trùng khớp với 5 năm của chương trình hành động Quốc gia, Hà Nội đã làm được những gì? Đối với nghệ thuật ca trù ở Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng, ngoài những giá trị nổi bật đã được mọi người biết đến và thế giới tôn vinh, cũng như những vấn đề chung của Chương trình hành động Quốc gia về bảo vệ ca trù, cho thấy một số đặc điểm nổi bật như sau: 8 Thứ nhất, nhờ được UNESCO công nhận, ca trù giờ đây đã có một vị trí nhất định trong kho tàng văn hóa của Việt Nam, đặc biệt là trong các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống. Sự công nhận của UNESCO đối với ca trù đã tạo ra “thương hiệu” riêng cho nghệ thuật biểu diễn truyền thống này. Như vậy, sau khi có “thương hiệu”, mọi người đều trông đợi những gì đó khởi sắc từ ca trù và trong đó, du khách khi đến với Hà Nội, ngoài biết đến các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể nổi bật khác thì còn biết đến một di sản thế giới về nghệ thuật biểu diễn truyền thống đang tồn tại ngay trong lòng Thủ đô. Thứ hai, được công nhận ở loại hình di sản cần được bảo vệ khẩn cấp, ca trù trở thành một nghệ thuật được thừa nhận là có nguy cơ biến mất cao. Chính vì lý do đó, các biện pháp bảo tồn và phát huy ca trù luôn nhận được sự quan tâm, cộng với tâm lý cần bảo tồn thận trọng di sản này (nếu không sẽ bị biến mất hoàn toàn). Vì vậy, việc sử dụng, khai thác giá trị di sản ca trù không phải là một việc làm đơn giản. Nhưng nếu bảo tồn quá cẩn trọng, không cho ca trù được giao lưu, trình diễn, chia sẻ, học hỏi với cộng đồng (trong và ngoài nước) thì cũng khó lòng mà giữ cho ca trù tồn tại bền vững được. Vì nghệ thuật biểu diễn truyền thống hiện nay muốn phát huy giá trị thì phải có “đất sống”, phải có cộng đồng chứng kiến, chào đón, xem, nghe và tìm hiểu. Thứ ba, trong bối cảnh xã hội hiện nay, kinh tế phát triển, thương mại năng động, đa chiều, văn hóa đa dạng và phức tạp, nhiều CLB ca trù đã tiên phong, mạnh dạn đi đầu trong việc phát huy giá trị di sản thông qua các hoạt động giới thiệu, quảng bá nghệ thuật ca trù tới du khách bằng cách tổ chức các buổi biểu diễn ca trù cho du khách, chủ yếu theo các tour du lịch đã đặt trước. Thực chất, đây là xu thế tất yếu của thực tế đời sống, khi nhu cầu của khách du lịch rất đa dạng, chi phối các sản phẩm du lịch thì việc sử dụng ca trù cho mục đích phát triển du lịch không phải lúc nào cũng được xem là một giải pháp tốt, đặc biệt là khi các CLB, giáo phường ca trù nội thành Hà Nội 9 đã có những biến đổi nhất định về hình thức tổ chức hoạt động, trong đó có hoạt động biểu diễn. Đây cũng là một trong những lý do quan trọng để NCS lựa chọn các CLB, giáo phường khu vực nội thành Hà Nội (mà không lựa chọn địa phương khác) để nghiên cứu luận án. Có thể nói, thực tế đã chứng minh khi chính các nghệ sĩ ca trù tên tuổi là những người tiên phong thành lập các CLB ca trù trong suốt những năm qua (từ năm 1991 đã có CLB ca trù đầu tiên là CLB ca trù Hà Nội, sau này tên giáo phường mới xuất hiện) nhằm mục đích ban đầu là tạo cơ hội để những nghệ nhân, nghệ sĩ, những người yêu ca trù tụ hội về sinh hoạt chung dưới một mái nhà, và từ đó xây dựng, đầu tư, củng cố, bảo tồn thông qua đào tạo, truyền nghề, gìn giữ và sau này, khi đã vững vàng, họ mới thông qua hoạt động của CLB để giới thiệu ca trù với cộng đồng và bạn bè quốc tế. Như vậy, có thể nói, các CLB, các giáo phường khi hình thành đã phần nào giải quyết được cả khía cạnh bảo tồn và khía cạnh phát huy, đúng như tinh thần chung của UNESCO về bảo vệ giá trị di sản. Tất nhiên, trong mối quan hệ bảo tồn và phát huy có những mâu thuẫn có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của nghệ thuật này. Có những tác động tốt, nhưng cũng sẽ có những mặt trái làm ảnh hưởng đến phát triển bền vững di sản. Thực tế cho thấy, trong mối quan hệ với du lịch, ca trù, mặc dù đã được công nhận là di sản thế giới, nhưng vẫn chưa được các cấp, các ngành, các doanh nghiệp du lịch quan tâm đúng mức. Ca trù vẫn là lựa chọn thứ hai, thứ ba sau múa rối nước, quan họ hay biểu diễn âm nhạc dân tộc trong các tour du lịch, trong các hoạt động giải trí, giao lưu văn hóa dân tộc, mà các công ty du lịch xây dựng để quảng bá và đón khách trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, thực tế hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù tại Hà Nội trong phạm vi nội, ngoại thành vẫn còn manh mún, chưa được quan tâm đầu tư bài bản, có định hướng phát triển rõ ràng. 10 Nhìn chung, vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản qua hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù và mối quan hệ của nó với sự biến đổi về văn hóa, nghệ thuật ca trù ở mỗi cộng đồng làng, thôn, CLB, giáo phường tại Hà Nội hiện nay so với các giai đoạn trước đây, và NCS phải nghiên cứu để tìm ra lời giải cho câu hỏi sau đây: Sự biến đổi về hình thức tổ chức hoạt động (trong đó có hoạt động biểu diễn) ở mỗi cộng đồng làng, thôn, CLB, giáo phường tại Hà Nội nói chung và một số CLB, giáo phường nội thành nói riêng hiện nay so với các giai đoạn trước đây là như thế nào, qua đó đưa ra những vấn đề cần bàn luận gì để phù hợp với sự biến đổi đó? Các CLB, giáo phường ca trù trong khu vực nội thành Hà Nội phải làm gì để bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù để phù hợp với những biến đổi của các tổ chức CLB, giáo phường trong bối cảnh xã hội hiện đại giữa lòng Thủ đô? Với những lý do trên, NCS mong muốn nghiên cứu, đưa ra những bàn luận về hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù của một số CLB, giáo phường tại nội thành Hà Nội, nhằm góp phần bảo tồn, phát huy và phát triển bền vững giá trị di sản. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích NCS mong muốn luận án đạt được những mục đích sau: 1) Xây dựng một công trình khoa học có giá trị áp dụng vào thực tiễn, góp phần cùng các cấp, các ngành, các chuyên gia, các nghệ nhân, các CLB, giáo phường nhận diện thực tế biểu diễn nghệ thuật ca trù hiện nay để đưa ra những vấn đề trọng tâm cần bàn luận và hướng phát triển bền vững giá trị di sản ca trù tại Hà Nội; và 2) Đánh giá hiện trạng, đề xuất, bàn luận mô hình hoạt động biểu diễn cụ thể cho các CLB, giáo phường nội thành Hà Nội và một số bàn luận, kiến nghị, giải pháp phù hợp để vừa đáp ứng được yêu cầu về bảo tồn, giữ gìn bản sắc di 11 sản văn hóa, vừa phát huy được giá trị di sản thông qua các hoạt động biểu diễn của chính các CLB, giáo phường đó. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ chính sau đây: - Bám sát và áp dụng xuyên suốt trong các chương, mục của luận án, hệ thống hóa lý thuyết bảo tồn trên cơ sở kế thừa và phát triển dựa trên những biến đổi theo thời gian qua hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù tại Hà Nội, lý thuyết phát triển bền vững. Trả lời câu hỏi nghiên cứu nêu ở trên để cùng tìm ra hướng đi cho việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù qua hoạt động biểu diễn ca trù của các CLB, giáo phường tại Hà Nội; - Tìm ra bản chất của sự biến đổi các hình thức tổ chức hoạt động CLB, giáo phường xưa và nay, để qua đó bàn luận, đề xuất mô hình CLB, giáo phường ca trù phù hợp ở nội thành Hà Nội hiện nay, nhằm bảo tồn, phát huy, phát triển bền vững giá trị di sản, trong đó có hoạt động biểu diễn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù và những biến đổi của các CLB, giáo phường tại Hà Nội thông qua hoạt động biểu diễn. - Đối tượng nghiên cứu cụ thể luận án đề cập chính là các CLB, giáo phường ca trù trong phạm vi nội thành Hà Nội (tập trung chủ yếu vào CLB ca trù Hà Nội, CLB ca trù Thái Hà, Giáo phường ca trù Thăng Long). 3.2. Phạm vi nghiên cứu a) Về nội dung - Nghiên cứu, tổng hợp, hệ thống hoá các khái niệm và vấn đề lý luận, lý thuyết áp dụng liên quan đến ca trù và nghệ thuật biểu diễn truyền thống; di 12 sản và bảo tồn phát huy giá trị di sản ca trù; vấn đề biến đổi của các tổ chức văn hóa CLB, giáo phường; - Nghiên cứu thực trạng bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù và những biến đổi qua hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù của các CLB, giáo phường tại nội thành Hà Nội; - Tìm ra những vấn đề cần bàn luận và kiến nghị cho ca trù Hà Nội để vừa đáp ứng được yêu cầu về bảo tồn, giữ gìn bản sắc di sản văn hóa, vừa phát huy được giá trị di sản. Trong quá trình nghiên cứu hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù thì luận án sẽ nghiên cứu sâu hai khía cạnh: Bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù và sự biến đổi về tổ chức hoạt động, trong đó chủ yếu là hoạt động biểu diễn của chính các CLB, giáo phường đó. - Bên cạnh đó, nghiên cứu, đánh giá những nội dung sau: + Nghiên cứu đánh giá của cộng đồng, khách du lịch về các hoạt động trình diễn, giới thiệu ca trù của các CLB, giáo phường tại nội thành Hà Nội. + Nghiên cứu đánh giá của chính các nghệ nhân dân gian, nghệ sĩ ca trù, các nhà quản lý CLB, giáo phường, một số nhà nghiên cứu về ca trù và nghệ thuật âm nhạc truyền thống. b) Về thời gian - Luận án sẽ được triển khai với các tư liệu trong giai đoạn 2010 đến đầu năm 2015, vì vậy, các công trình nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca trù sẽ được đề cập ở tất cả những công trình không tính mốc thời gian; các số liệu thống kê sẽ được khảo sát từ năm 2009 đến nay (từ thời điểm nhận bằng UNESCO và công bố chương trình hành động Quốc gia về bảo vệ di sản ca trù); trong khi các khảo sát, điền dã, phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhanh, phỏng vấn hồi cố, sử dụng bảng hỏi điều tra sẽ được tiến hành trong năm 2013-2014. 13 - Trong quá trình nghiên cứu, luận án cũng sẽ tìm tòi và tổng hợp tư liệu cũng như dùng phương pháp phỏng vấn hồi cố để có được cái nhìn tổng thể về ca trù giai đoạn trước 2010. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Về ý nghĩa khoa học: Do luận án là một công trình nghiên cứu thuộc chuyên ngành văn hóa học nên nghiên cứu sinh sẽ áp dụng một số quan điểm lý thuyết để phân tích giá trị di sản ca trù dưới 3 góc độ: 1) Di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận; 2) Di sản thế giới cần được bảo vệ khẩn cấp; và 3) “Di sản sống” của cộng đồng được phổ biến ở đô thị hiện đại, thông qua các CLB và các giáo phường. Từ đó, mong muốn kiểm chứng các quan điểm lý thuyết và tìm ra cách tiếp cận phù hợp nhất cho đối tượng cụ thể là các CLB, giáo phường ca trù tại nội thành Hà Nội, những vấn đề về bảo tồn, phát huy và những biến đổi cụ thể. - Ý nghĩa thực tiễn: Từ các kết quả khảo sát thực tiễn, luận án sẽ tổng hợp được cái nhìn nhiều chiều từ các khía cạnh có liên quan về di sản ca trù với vấn đề bảo tồn, phát huy, biến đổi qua các CLB, giáo phường, dưới góc nhìn văn hóa học thông qua hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Đây là những kết quả khoa học có thể được cơ quan quản lý về di sản văn hóa ở Hà Nội sử dụng cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản ca trù. Ngoài ra, qua nghiên cứu sự biến đổi qua hoạt động biểu diễn của CLB, giáo phường ca trù xưa và nay, kết quả nghiên cứu của luận án hướng tới việc thử nghiệm xây dựng mô hình CLB, giáo phường phù hợp trong bối cảnh hiện nay, vừa phát huy, quảng bá, vừa bảo tồn được giá trị. 5. Phương pháp nghiên cứu - NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu tiếp cận liên ngành văn hóa học, xã hội học, nhân học văn hóa, lịch sử văn hóa, văn hóa dân gian, trong đó hạt nhân chủ yếu là tiếp cận chuyên sâu văn hóa dân gian, ở đó xem 14 xét giáo phường ca trù như một hình thức sinh hoạt dân gian đã và đang tồn tại trong cộng đồng. Bên cạnh đó, NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu xã hội học để xem xét các câu lạc bộ - giáo phường dưới góc độ một thiết chế xã hội, có những vai trò và chức năng xã hội nhất định, vì vậy, cần phải được xem xét từ nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của các chủ thể có liên quan đến thiết chế xã hội ấy; - Đối với các phương pháp nghiên cứu cụ thể, NCS sử dụng các phương pháp, cách thức tiếp cận sau: + Phương pháp phân tích và tổng hợp tư liệu: Các tài liệu liên quan tới các nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, các tài liệu nghiên cứu về di sản, giá trị di sản, ca trù, văn hóa - nghệ thuật ca trù, những vấn đề về CLB, giáo phường, quá trình bảo tồn, phát huy giá trị di sản và những biến đổi liên quan + Tiếp cận bằng hình thức quan sát tham dự: NCS trực tiếp đến quan sát tại một số điểm biểu diễn ca trù nhằm phục vụ du khách trong phạm vi khu vực Hà Nội để có cách cảm nhận và đánh giá khách quan về thực trạng tổ chức hoạt động và biểu diễn ca trù ở các địa điểm khảo sát này. + Tiếp cận qua điều tra bằng bảng hỏi: Hướng đến đối tượng là khách du lịch (quốc tế và trong nước 200 phiếu); và nhóm đối tượng để so sánh (chưa đến các câu lạc bộ - giáo phường 300 phiếu); + Phương pháp phỏng vấn cá nhân: Phỏng vấn các nghệ nhân, nghệ sĩ ca trù, nhà quản lý CLB, giáo phường ca trù; nhà nghiên cứu văn hóa và âm nhạc truyền thống, đại diện lãnh đạo quản lý nhà nước về văn hóa, du lịch,... 6. Lịch sử nghiên cứu đề tài luận án - Về mặt lý luận, lý thuyết áp dụng Lý thuyết áp dụng trong đề tài luận án được tiếp cận theo văn hóa học, trong đó sẽ đề cập chuyên sâu đến tiếp cận lý thuyết văn hóa dân gian là trọng tâm, song song là các lý thuyết về nhân học văn hóa, xã hội học văn 15 hóa, triết học văn hóa, lịch sử văn hóa. Có thể nói, xét về khía cạnh lý luận, lý thuyết áp dụng văn hóa học thì nhiều công trình nghiên cứu trước đây ở cấp độ luận án về ca trù cũng đã tiếp cận và nghiên cứu chuyên sâu. Nhưng để tìm ra một công trình nghiên cứu hay một luận án nghiên cứu chuyên sâu về ca trù tiếp cận tổng hợp các yếu tố của văn hóa học, lại chuyên về một đối tượng cụ thể là CLB, giáo phường ca trù ở Hà Nội, thì hầu như chưa có công trình nào, bởi các công trình, luận án trước đây đều chỉ đề cập đến nghệ thuật ca trù, lịch sử ca trù hay văn hóa ca trù. Về lý thuyết áp dụng cụ thể, NCS sẽ áp dụng lý thuyết bảo tồn dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy giá trị di sản, nhằm phát triển bền vững di sản ca trù, qua hoạt động biểu diễn nghệ thuật của một số CLB, giáo phường tại Hà Nội. Với nhiều công trình nghiên cứu về di sản văn hóa phi vật thể thì việc áp dụng lý thuyết này là hết sức bình thường, bởi di sản nào cũng sẽ chịu ảnh hưởng, tác động bởi những xung đột, biến đổi trong xã hội hiện đại. Nhưng nghiên cứu những biến đổi, xung đột để bảo tồn, phát huy qua hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù thì theo tìm hiểu nhiều nguồn tư liệu, chưa có công trình nào đề cập chuyên sâu vấn đề đó. Nếu có chỉ dừng lại ở các bài báo, bài nghiên cứu tạp chí, chưa có công trình cấp độ luận án. - Về mặt thực tiễn Trước hết, đề tài “Hoạt động biễu diễn nghệ thuật ca trù của một số câu lạc bộ, giáo phường tại Hà Nội” chưa trở thành đối tượng nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu của công trình khoa học nào trước đó đã nghiên cứu về các vấn đề liên quan, đặc biệt là ở cấp độ luận án TS. Nói cách khác, đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về di sản ca trù qua hoạt động của các CLB, giáo phường tại Hà Nội. Các vấn đề đang đặt ra trong bối cảnh hiện nay liên quan đến đối tượng và vấn đề nghiên cứu của luận án. Trong thời đại biến đổi toàn cầu, khoa học 16 công nghệ phát triển nhanh, quá trình toàn cầu hoá đang có tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia, dân tộc, khu vực và tất nhiên, tác động mạnh mẽ đến văn hóa. Việc Việt Nam được công nhận hàng chục di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, tư liệu trong thời gian qua đã cho thấy sự quan tâm của đất nước tới việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản. Nhưng trong đó, ca trù (cùng hát Xoan) là di sản đặc biệt cần được bảo vệ khẩn cấp thì hơn lúc nào hết, việc giữ gìn và phát huy giá trị của nó được đặt ra một cách bức thiết. Do đó, xét về mặt thực tiễn, đây cũng chính là vấn đề mới của đề tài luận án khi xét thấy lịch sử nghiên cứu chưa có công trình nào đề cập cụ thể, chi tiết đến khía cạnh phát huy giá trị di sản ca trù qua hoạt động của các CLB, giáo phường tại Hà Nội, khi nghiên cứu hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bản sắc văn hóa có nguy cơ bị biến đổi, mai một, mất đi những giá trị truyền thống, lại dễ bị tác động bởi nhiều yếu tố ngoại lai. - Đối với các công trình đã nghiên cứu trước đây và hiện nay Ca trù là nghệ thuật lâu đời, độc đáo và có một vị trí đặc biệt trong kho tàng âm nhạc của người Việt. Ca trù gắn liền với văn chương, âm nhạc, lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Nghiên cứu về ca trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam. Ca trù nhận được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản lý, đặc biệt là sau khi ca trù được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp. Ca trù là nghệ thuật mang tính bác học, nhưng lại được nuôi dưỡng và gìn giữ trong dân gian. Không gian sinh hoạt văn hóa của ca trù rất đa dạng, trong một vùng rộng lớn và chủ yếu ở vùng nông thôn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, được bảo lưu một cách trọn vẹn nhất. Sự bảo lưu của ca trù trong dân gian từ lâu đã được một số học giả để tâm nghiên cứu, sưu tầm. Một số làng như 17 Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội), Thượng Mỗ (Đan Phượng, Hà Nội), Phú Đô (Nam Từ Liêm), Đồng Trữ (Hà Nội), Đào Đặng (Trung Nghĩa, Hưng Yên), Ngọc Bộ (Châu Giang, Hưng Yên), Ngọc Trung (Thọ Xuân, Thanh Hóa), Cổ Đạm (Nghi Xuân, Hà Tĩnh),.. là nơi có đền thờ và lưu truyền nhiều câu chuyện về sự tích các ca nữ, ca công. Tư liệu để nghiên cứu ca trù bao gồm nhiều nguồn khác nhau, hiện đang tồn tại trong dân gian như: tượng thờ, tự khí, câu đối, hoành phi, sắc phong, văn bia, ca phả trong các di tích, cùng những tín ngưỡng, tập tục, kiêng kị; các bài ca lưu truyền trong các giáo phường... Mỗi nguồn tư liệu này đều có giá trị nhất định trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về ca trù. Tư liệu Hán Nôm về ca trù bao gồm sách, thần tích, văn bia và khánh... đang mang một trữ lượng thông tin lớn xung quanh nghệ thuật ca trù. Đây là mảng tài liệu rất quý và đáng tin cậy để nghiên cứu về lịch sử ca trù, lịch sử nghiên cứu ca trù, nghệ thuật biểu diễn và các văn bản thơ - ca trù. Những tuyển tập như Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề; Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Hát ả đào của Trần Văn Khê, Tuyển tập thơ ca trù của Ngô Linh Ngọc, Ngô Văn Phú, Ca trù nhìn từ nhiều phía của Nguyễn Đức Mậu,phải nói là những tư liệu đặc biệt về nghệ thuật ca trù, lịch sử ca trù; Những bài khảo cứu của thời kì trước đây trên Tạp chí Nam Phong hay sau này là những nghiên cứu của Nguyễn Xuân Diện với Góp phần tìm hiểu lịch sử ca trù; Nguyễn Đức Mậu với Hát nói Nguyễn Công Trứ cũng là những công trình nghiên cứu quan trọng. Những tư liệu này sẽ giúp cho các nhà nghiên cứu và biểu diễn ca trù hình dung và hiểu được về một bộ môn nghệ thuật bác học hiện đang mai một dần. Đây cũng là nguồn tư liệu quan trọng để chứng minh nghệ thuật ca trù là một bộ môn mang tính bác học mà lề lối và cách thức đã nâng lên thành những chuẩn mực với tính khái quát cao. Sử dụng nguồn tư liệu này đối với NCS là không dễ vì nhiều tư liệu 18 bằng Hán Nôm, nhiều tư liệu chỉ đề cập chuyên biệt về thể cách, nghệ thuật ca trù, trong khi mục đích nghiên cứu của NCS không đi sâu vào nghiên cứu ca trù ở góc độ nghệ thuật mà là nghiên cứu vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù. Ngoài những phần thuộc về biểu diễn, một số tư liệu cũng có trình bày những hiểu biết về âm nhạc ca trù theo lối hiểu cổ truyền. Những kiến thức như vậy là cứ liệu cho nhà nghiên cứu về âm nhạc đời sau tìm hiểu âm nhạc trong quá khứ. Phong phú nhất trong mảng sách về ca trù trong ...ng lớp xã hội mà đặc biệt là sự tham gia của các bậc túc nho. Thể hát nói đã trở thành điệu hát thống trị trong các cuộc trình diễn và tao ngộ ca trù. Hát nói ra đời đã đưa ca trù tới đỉnh cao của nghệ thuật thơ - nhạc; hát nói đã tạo điều kiện cần và đủ để các cô đào lớn tuổi, giỏi nghề ở các vùng quê ra phố thị mở nhà hát cô đầu [57,tr133]. Từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX nhu cầu nghe hát cô đầu phát triển rầm rộ khắp nước. Nhiều đào nương ở nông thôn đua nhau ra Hà 35 Nội và các tỉnh thành, phố thị mưu sinh. Người nhiều tiền thì thuê địa điểm mở nhà hát, người ít tiền thì đi hát thuê. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phát triển quá nóng nhà hát cô đầu ở các đô thị Việt Nam thời bấy giờ. Riêng Hà Nội, chỉ trong ít năm đầu thế kỷ XX, vài chục nhà hát, quán hát đã mọc ra ở các phố Khâm Thiên, Ngã Tư Sở, Long Biên, Cầu Giấy, Gia Lâm, Gia Quất, Hà Đông. Để thu hút khách, các chủ nhà hát đã chiêu mộ thêm những cô gái trẻ không biết hát làm công việc chiêu đãi khách gọi là cô đầu rượu. Thế là cô đầu rượu đã tự nguyện hóa thân thành con mồi câu khách. Chiêu thức này đã phát huy hiệu quả mạnh mẽ, nó lôi kéo nhiều khách đến nhà hát không để nghe hát, chỉ để nhâm nhi chén rượu, tẩu thuốc, có cô đầu đấm bóp, chuyện trò. Lối chơi tha hóa này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng người đứng đắn, yêu thích nghệ thuật ca trù từ bỏ nhà hát, người thích thói dung tục kéo đến nhà hát ngày một đông. Thế là cô đầu và nhà hát cô đầu bị dư luận xã hội lên tiếng công kích rất mạnh mẽ. Có lúc, có nơi người ta gọi nhà hát cô đầu là “cô đầu nhà thổ”, cô đầu bị xã hội khinh rẻ [57,tr172]. Từ biến thái tệ hại này, quần chúng coi cô đầu là nghệ thuật trụy lạc làm băng hoại đạo đức xã hội. Vì vậy, ngay sau cách mạng tháng Tám (1945) thành công, họ đã từ bỏ nhà hát và nghề hát cô đầu. Tất cả các địa điểm sinh hoạt cô đầu dần đóng cửa. Các tổ chức giáo phường ở làng quê, tổ chức quản ca ở đô thị tan rã. Đào kép tản mát khắp nơi, làm những nghề khác để mưu sinh. Nghệ thuật ca trù dần từng bước suy thoái [57,tr195]. 1.2.2. Danh xưng trong nghệ thuật biểu diễn ca trù Trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền và nghệ thuật biểu diễn truyền thống Việt Nam, có lẽ ít có thể loại âm nhạc và loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống nào lại có tính đa diện như nghệ thuật ca trù. Trải theo dòng chảy của thời gian, tùy theo từng không gian văn hóa, không gian địa lý, hoàn cảnh lịch sử hay chức năng xã hội đan xen mà loại hình nghệ thuật này mang 36 những tên gọi khác nhau. Căn cứ vào các nguồn sử liệu, tư liệu Hán Nôm, tư liệu cổ, có thể thống kê một số tên gọi như sau: - Hát ả đào: Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên: Đời vua Lý Thái Tổ (1010-1028) có người ca nương tên là Đào Thị giỏi nghề ca hát, thường được nhà vua ban thưởng. Người thời bấy giờ ngưỡng mộ danh tiếng của Đào Thị nên phàm con hát đều gọi là Đào nương. Về sau những người làm nghề ca hát như nàng đều gọi là ả đào. Trên sử liệu, những sự kiện về một ca nương nổi tiếng chứng tỏ nghề nghiệp của bà vào thời điểm lịch sử đó đã được phổ biến như thế nào trong xã hội. Theo đó, Ả đào được coi là tên gọi cổ xưa nhất của thể loại âm nhạc ca trù [57,tr163]. - Hát ca trù: Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù biên khảo: ở cửa đền ngày xưa có lệ hát thẻ. Thẻ gọi là Trù, làm bằng mảnh tre ghi mức tiền ứng với giá trị mỗi thẻ, dùng để thưởng ả đào thay cho tiền mặt. Khi hát, quan viên thị lễ chia ngồi hai bên, một bên đánh chiêng (cồng) và một bên đánh trống. Chỗ nào ả đào hát hay, bên trống thưởng một tiếng chát, bên chiêng đánh một tiếng chiêng rồi thưởng cho một cái trù (thẻ). Đến sáng đào kép cứ theo trù thưởng mà tính tiền, ví dụ được 50 trù, mà trị giá mỗi trù ấn định là 2 tiền kẽm thì làng phải trả cho 10 quan tiền. Vì thế hát ả đào còn được gọi là ca trù, nghĩa là hát thẻ. Có thể nói, tên gọi ca trù thể hiện rõ tính thương mại của một loại hình nghệ thuật - tức loại hình này đã đạt tầm nghệ thuật cao để trở thành một giá trị hàng hóa trong đời sống xã hội. Các nghệ nhân cho biết, việc thưởng thẻ không chỉ dành riêng cho đào nương mà còn để thưởng cả cho kép đàn. Tuy nhiên, thường thì người ta vẫn coi đào nương là nhân vật chính. Có lẽ đây là đặc điểm xuất phát từ thói quen trọng nhạc hát hơn nhạc đàn của người Việt. Lệ tính tiền thù lao bằng thẻ chủ yếu sử dụng trong hình thức sinh hoạt hát cửa đình. Còn trong các hình thức sinh hoạt khác, thường tính tiền công cho 37 đào kép dưới dạng trọn gói theo sự thỏa thuận trước - gọi là hát khoán. Theo đó, có thể coi ca trù là tên gọi bắt nguồn từ sinh hoạt hát cửa đình. - Hát cửa quyền: Đây là hình thức sinh hoạt nghệ thuật ca trù trong nghi thức cung đình thời phong kiến. Theo Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ: Hát ca trù đời nhà Lê ở trong cung gọi là Hát cửa quyền. Triều đình cắt cử hẳn một chức quan để phụ trách phần lễ nhạc trong cung, gọi là quan Thái thường. Hát cửa quyền được dùng vào các dịp khánh tiết của hoàng cung. - Hát cửa đình: Đây là hình thức sinh hoạt ca trù phục vụ cho nghi thức tế lễ thần thánh ở các đình hay đền làng. Trên thực tế, người ta còn mượn không gian đình đền để tổ chức hát ca trù với mục đích giải trí đơn thuần. Song, hát tế lễ vẫn là hình thức được coi trọng hơn với cả một trình thức diễn xướng tổng hợp kéo dài. Bởi vậy, thuật ngữ Hát cửa đình vẫn được sử dụng với hàm ý chỉ loại âm nhạc ca trù mang chức năng nghi lễ tín ngưỡng nơi đình làng [57,tr194]. - Hát nhà trò: Trong hình thức Hát cửa đình, bên cạnh âm nhạc bao giờ cũng có sự kết hợp của nghệ thuật múa và một số trò diễn mang tính sân khấu. Người ta gọi đó là "bỏ bộ". Ả đào miệng hát tay múa uốn éo lên xuống, làm bộ điệu người điên, người say rượu, người đi săn... Vì vừa hát vừa làm trò nên gọi là hát nhà trò. Cách gọi này phổ biến ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Như vậy, hát nhà trò cũng là thuật ngữ xuất phát từ hình thức phục vụ nghi lễ, tín ngưỡng. - Hát nhà tơ: So với các tên gọi khác của nghệ thuật ca trù, Hát nhà tơ là một thuật ngữ ít phổ biến. Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù biên khảo, thời xưa "dân chúng ít khi tìm ả đào về nhà hát chơi, chỉ các quan khi yến tiệc trong dinh hay trong ty (tơ - ngày xưa dinh Tuần phủ gọi là Phiên ty, dinh án sát gọi là Niết ty) mới tìm ả đào tới hát. Vì thế hát ả đào còn được gọi là Hát nhà tơ, nghĩa là hát ở trong ty quan". Như vậy, cách 38 gọi này xác định hình thức sinh hoạt phục vụ nhu cầu giải trí của nghệ thuật ca trù trong môi trường các nhà quan lại. Tuy nhiên, cũng trên ý nghĩa ty là tơ thì Hát nhà tơ còn có thể được hiểu theo nghĩa khác. Theo Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, đời Hồng Đức (1470-1497) nhà Lê, Ty giáo phường là một thiết chế do triều đình sắp đặt để trông coi âm nhạc chốn dân gian. Về sau, khái niệm này còn được dùng phổ biến ở thế kỷ 17, thế kỷ 18 trong các văn bia, khế ước. Như thế, khái niệm Hát nhà tơ - Hát nhà ty rất có thể chỉ là cách "diễn nôm" phiếm chỉ loại âm nhạc của Ty giáo phường mà thôi. - Hát cô đầu: Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù biên khảo, chữ ả nghĩa là cô, ả đào nghĩa là cô đào: "Những ả đào danh ca dạy con em thành nghề, mỗi khi đi hát đình đám bọn con em phải trích ra một món tiền để cung dương thầy gọi là tiền Đầu. Sau người ta dùng tiếng cô thay tiếng ả cho rõ ràng và tiếng đầu thay tiếng đào để tỏ ý tán tụng là bậc danh ca lão luyện đã dạy nhiều con em thành tài và được tặng nhiều món tiền đầu nên gọi là Cô đầu" [21,tr46]. Tên gọi này của nghệ thuật ca trù chính là sự phản ánh phần nào nhu cầu "Nôm hóa" ngôn ngữ, đồng thời phản ánh một luật tục của giới nghề, đó là việc trọng thầy và phụng dưỡng thầy. Trong lịch sử của nghệ thuật ca trù, có lẽ đây là tên gọi xuất hiện muộn hơn cả và được giới thị thành biết đến nhiều hơn (có giai đoạn được gọi là cô đầu rượu) - trước khi thể loại này biến mất khỏi đời sống xã hội vào cuối thập niên 50 thế kỷ XX. - Hát ca công: Theo Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút: Cho đến cuối thời Lê, ca công là danh từ được dùng để chỉ các nghệ sĩ chốn giáo phường. Theo đó, Hát ca công hàm ý là âm nhạc giáo phường. Như thế tên gọi này chính là sự chuyển hóa của một danh từ chỉ nghề nghiệp thành một danh từ chỉ thể loại. Điều đó đã đủ để chứng minh vai trò quan trọng của thể loại âm nhạc này trong đời sống xã hội của cả một giai đoạn lịch sử. Nói cách khác, Hát ca công thời xưa là một thể loại rất phổ biến, bao trùm khắp nơi 39 chốn, phường hội của những nhạc sĩ dân gian chuyên nghiệp. Sự phổ biến đạt đến mức người ta gọi luôn loại âm nhạc mà các nghệ sĩ thực hành bằng chính danh người nghệ sĩ. Cũng qua Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, có thể thấy rằng danh từ Ca công thời xưa rất thông dụng ở khắp các vùng miền Bắc. Thế nhưng về sau, tên gọi Ca công lại chỉ được dùng phổ biến ở Thanh Hóa. Điều đó có nghĩa trải theo năm tháng, thuật ngữ cổ xưa này đã "biến mất" khỏi đồng bằng Bắc Bộ - trung tâm văn hóa của Đại Việt và được lưu giữ tại vùng ngoại biên. Điều đặc biệt, vùng ngoại biên này lại vốn là một trong những cái nôi của nghệ thuật ca trù. Hơn thế nữa, đây cũng là quê hương của 9 đời vua chúa Việt Nam. Những dữ kiện đó cho thấy nghệ thuật ca trù đã từng chiếm giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong lịch sử âm nhạc dân tộc. Như vậy, các tên gọi khác nhau của nghệ thuật ca trù được hình thành theo mấy nguyên tắc sau: + Danh từ chỉ người nghệ sĩ thực hành âm nhạc được dùng như danh từ chỉ thể loại: Hát ả đào, Hát ca công. + Tên gọi thể loại xuất phát từ địa điểm, không gian văn hóa sinh hoạt: Hát cửa quyền, Hát cửa đình và Hát nhà tơ. + Tên gọi thể loại gắn với danh từ phiếm chỉ chế độ "tiền bảo hiểm" cho đào nương lão thành: Hát cô đầu. Đồng thời, cô đầu cũng là danh từ chỉ người ca nương giống như chữ ả đào. + Tên gọi thể loại xuất phát từ hành động diễn xướng sân khấu: Hát nhà trò. + Tên gọi thể loại hình thành từ danh từ chỉ phương thức chi trả thù lao nghệ thuật cho đào kép: Hát ca trù. - Quản giáp: Theo Việt Nam ca trù biên khảo thì người đứng đầu trong giáo phường gọi là ông trùm, đứng đầu các trùm là các quản giáp hoặc nếu quản giáp là người đứng đầu giáo phường thì là kép hát, không nên hiểu quản giáp như một chức trách. Đại Việt sử kí toàn thư viết: “lại đổi chức 40 hỏa đầu làm chính thủ, chỉ con hát mới gọi là quản giáp”. Như vậy tên gọi quản giáp cũng có sự biến đổi vì có ý kiến xem quản giáp có vai trò chứ trách quan trọng nào đấy trong giáo phường. - Giáo phường là một tổ chức của hát ca trù gồm nhiều họ. Cô đầu và kép từng vùng đều có một tên họ riêng, đào, kép ở họ nào mang tên họ ấy kèm theo tên của mình. Việt Nam ca trù biên khảo viết rằng giáo phường trước kia có hệ thống quy ước mà các thành viên phải thực hiện. Hằng năm tế tổ vào ngày 11 tháng Chạp, sau ngày lễ tế tổ thì ông trùm giải quyết những công việc nảy sinh trong giáo phường. Nơi lễ tế tổ không cố định, có thể làm ở nhà thờ, hoặc mượn đình của xã để làm lễ. Khi làm lễ có đủ mặt các đào nương, kép hát, hát đủ các điệu và đặt tiệc mời khách quí chứng giám, thường gọi là đám thánh sự Giáo phường còn được hiểu là nơi dạy những người đi hát. Các tỉnh đều có giáo phường. Thăng Long ngày xưa có thôn giáo phường thuộc tổng Tả Nghiêm (sau đổi là Kim Liên). Cũng có thể cho rằng giáo phường là một tổ chức nghề nghiệp vừa có tính chất phường hội. - Ty giáo phường là một sự liên kết, tập hợp của các giáo phường các địa phương các xã, các giáp, các họ. Ty giáo phường mang hình thức phường hội. - Câu lạc bộ: Theo Từ điển tiếng Việt thì CLB là tổ chức được lập ra cho nhóm người hoặc nhiều người cùng sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí. Với ca trù thì khái niệm CLB là khái niệm mới được áp dụng cho thời đại ngày nay. Thời xưa, cha ông ta chỉ gọi là giáo phường, làng thôn, nhóm ca trù. Với ý nghĩa đó, CLB ca trù cũng là nơi để những người yêu thích ca trù tham gia sinh hoạt, tập luyện và biểu diễn giới thiệu di sản nghệ thuật ca trù cho các đối tượng khách thể khác. 41 Có thể nói, bản thân các tên gọi khác nhau của nghệ thuật ca trù đã cho thấy đây là một thể loại âm nhạc rất đặc biệt. Trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam, không có một thể loại nào lại mang nhiều tên gọi như vậy. Mỗi tên gọi lại hàm ý gồm những không gian văn hóa, những chức năng xã hội và những hình thức biểu hiện khác nhau của nghệ thuật ca trù. Chỉ mới thông qua những tên gọi đó, đã có thể tìm thấy biết bao hình ảnh chân thực và sống động của lịch sử. Không những thế, ca trù còn được thể hiện rất đa dạng ở các làn điệu hát múa, trong đó hát múa bỏ bộ rất được coi trọng. Bên cạnh đó, không thể không kể đến những đặc trưng của loại hình âm nhạc được coi là bác học này: - Ca nương - Ả đào: Ca nương - Ả đào là thành viên quan trọng của tiệc ca trù, vai trò của ả đào là làm ca sĩ cho tiệc hát nhưng khác với ca sĩ ở chỗ ả đào vừa hát vừa gõ phách. Ả đào là nữ giới, kép là nam giới. Hiện nay giới nghiên cứu vẫn chưa nghiên cứu tên gọi này cũng như thời điểm lịch sử và điều kiện lịch sử sản sinh ra nó. Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sỹ cũng nói rằng thời Lý Thái Tổ (1010 - 1028) có người ca nhi tên là Đào thị tài giỏi, hát hay được vua ban thưởng, từ đó về sau những người đi hát được gọi là đào nương (tức ả đào). Về sau, quãng cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là nửa đầu thế kỷ XX, ả đào thường được gọi là cô đầu. Theo Nguyễn Đôn Phục trong Nam Phong tạp chí, khác với các đào nương chốn đô thị, giới đào nương ở các miền đồng quê bên cạnh việc hành nghề ca xướng, họ vẫn chăn tằm dệt vải hay lao động đồng áng như những người dân thường. Sử sách không có nhiều cứ liệu bàn về vấn đề này, song chúng tôi cho rằng đây chắc hẳn phải là hiện tượng muộn hoặc chỉ khu biệt trong một vùng nào đó. Bởi trong bộ luật Hồng Đức, những người hành nghề ca xướng vốn bị liệt cùng hạng với trộm cướp, nghịch đảng, không được xếp vào hạng dân thường. 42 - Kép, kép đàn: Kép cùng với đào là những thành viên quan trọng trong tổ chức hát ca trù, thông thường cũng được gọi chung là đào kép, hay thời nay gọi là ca nương - kép đàn, trong đó vai trò chính của kép là gẩy đàn (nhạc công), đào là người hát. Một số sách nói rằng ngày xưa kép cũng có tham gia hát, điệu hát nói do kép hát thì gọi là điệu hà nam, điệu hát trai; đào hát thì gọi là hát gái hay nữ xướng, kép hát trước rồi đào hát lại đúng bài, đúng điệu thì gọi là hà liễu. Có sách nói rằng khái niệm kép là do khái niệm quản giáp phiên âm chệch mà thành. Phạm Đình Hổ trong sách Vũ trung tùy bút gọi quản giáp là kép. Các tác giả của Việt Nam ca trù biên khảo nói rằng sổ sách ở giáo phường ngày xưa cử đào kép đi hát các đình đám đều viết là giáp thành kép. Hiện chưa có cách giải thích khác và cũng chưa có sự biện luận hay xác nhận cho cách giải thích này. - Quan viên, cầm chầu: Khái niệm quan viên trong ca trù dùng để gọi những người tham gia nghe hát. Trong một cuộc hát ca trù, quan viên cũng có thể tham gia cầm chầu. Họ có thể vừa là công chúng thưởng thức và cũng có thể là thành viên của ban nhạc. Hiện nay, quan viên chính là người cầm chầu, gõ trống chầu để vừa phối hợp diễn xướng ca trù, vừa thể hiện khen, chê đối với đào nương. Để tạo nên giá trị nghệ thuật âm nhạc trong ca trù, cần có sự hòa quyện của nghệ thuật diễn xướng, các nhạc cụ và lời ca tiếng hát của đào nương, trong đó, cỗ phách, đàn đáy, trống chầu là linh hồn của nghệ thuật ca trù: - Cỗ phách: gồm ba phần: một thanh tre hay một mảnh gỗ gọi là bàn phách, hai chiếc dùi gỗ là phách cái và phách con. Trên thế giới không đâu dùng hai chiếc dùi mà trong đó có một chiếc tròn đầu hơi nhọn, chiếc kia tròn và chẻ hai như ở ca trù. Gõ hai dùi vào cỗ phách tạo nên tiếng mạnh tiếng nhẹ, tiếng cao tiếng thấp, tiếng trong tiếng đục, tiếng dương tiếng âm. Tay cầm phách cái, phách con, tay nào đưa lên cao tay nào để dưới thấp, động tác 43 nhịp nhàng, uyển chuyển như múa, gõ phách theo 5 khổ qui định, đoạn “lưu không” (chỉ có tiếng đàn đáy và tiếng phách không có lời ca) cũng có lề lối, tất cả cho thấy đây là một nghệ thuật không tìm thấy trong các bộ gõ khác. Tiếng phách phải rõ ràng phân minh, tiếng gõ riêng từng dùi, khi gõ hai dùi một lượt là “chát”, hai phách âm dương chen nhau, xen kẽ, pha trộn, có nhịp mà nghe như không có nhịp, có mà như không, thực mà như hư [57,tr237]. - Đàn đáy: Chỉ dùng duy nhất trong ca trù. Thùng đàn hình chữ nhật hay hình thang, mặt đàn bằng chất liệu từ cây ngô đồng, sau này có thể có nhiều chất liệu khác. Đàn đặc biệt ở chỗ, gọi là đàn đáy mà không có đáy, cần rất dài, gắn 10 hay 11 phím bằng tre rất cao, phím đầu ở ngay giữa bề dài của dây đàn. Đàn mắc ba dây tơ, cách nhau một quãng bốn, đánh dây không nhấn cho tiếng trầm, bấm phím thành tiếng cao. Không có cầu đàn ở đầu đàn trước khi quấn dây vào trục, nên trên đàn đáy có cách nhấn khác thường: “nhấn chùn” lẽ ra phải có độ cao hơn một quãng 2 thì lại phát ra một âm đồng độ cao mà màu âm khác. Phím đàn gắn theo thang âm chia quãng 8 thành 7 quãng đồng đều, thể hiện dễ dàng quãng ba trung bình giữa thứ và trưởng, một quãng đặc thù của lưu vực sông Hồng thường gặp trong hát ru, hát nói và sa mạc. Nhạc công phải đánh rõ tiếng vê, tiếng vẩy, tiếng lia, tay trái phải biết cách nhấn, rung, nhấn chùn, bấm 3 dây khi đàn chữ “dinh dinh dinh”. Khi chân phương khi dìu dặt, khi mạnh khi nhẹ, tiếng đàn phụ họa theo lời ca chẳng những có nét nhạc, mà còn tạo nên “hồn nhạc” [57,tr30]. - Trống chầu: Trống chầu ca trù khác trống chầu trong Tuồng, từ kích thước đến cách đánh. Kích thước và hình thức rất gần trống đế của Chèo nhưng cách đánh và chức năng hoàn toàn khác. Dùi trống không gọi là “dùi” mà là “roi chầu”. Roi chầu bằng gỗ, dài hơn dùi trống khác. Người đánh trống cầm roi trong tay mặt, gõ vào tang trống - gọi là “chát”, đánh roi sát trên mặt trống - gọi là “tom”. Người cầm chầu gọi là “quan viên”, phải sành ca trù, biết 44 rõ các khổ đàn, khổ phách, biết đàn thế nào là hay, hát thế nào là “khuôn”, là “hàng hoa” và không đánh trống “bịt” miệng ả đào, lại phải nắm rõ các công thức xuyên tâm, song châu, liên châu, hạ mã, lạc nhạc để khen chê, thưởng phạt đúng nơi đúng cách, dáng ngồi, tay cầm roi, tay vịn mặt trống phải phong lưu đài các. Nghe tiếng chầu, thính giả biết giá trị và phong cách của người cầm chầu. Không có loại trống nào giữ ba chức năng như trống chầu trong ca trù: 1) Tham gia vào cuộc diễn bằng những tiếng trống mở đầu, chấm câu, kết thích; 2) Khích lệ nghệ sĩ, phê phán, khen thưởng để ca nương kép đàn thêm hào hứng; và 3) Hướng dẫn thính giả vì không phải ai cũng biết giọng ca tiếng đàn hay ở chỗ nào và hay đến đâu. Tiếng trống chầu của người sành điệu giúp cho thính giả biết thưởng thức và trở nên sành điệu hơn [57,tr30;31]. 1.2.3. Các CLB, giáo phường ca trù ở Việt Nam Hiện nay, cả nước có 16 tỉnh, thành phố có hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù. Đại đa số nằm ở các tỉnh, thành Bắc Bộ đến Hà Tĩnh, Quảng Bình và TP.HCM. Tổng cộng có hơn 60 CLB, giáo phường, nhóm ca trù đang hoạt động. Như vậy, so với trước khi được công nhận là di sản thế giới thì số lượng CLB ca trù đã tăng lên đáng kể, nhưng số lượng nghệ nhân ca trù lão làng đã tiếp tục giảm xuống do nhiều cụ đã mất. Năm 2014, số lượng nghệ nhân ca trù trên 80 tuổi ở Việt Nam hiện chỉ còn 4 - 5 nghệ nhân so với 21 nghệ nhân tại thời điểm trước khi ca trù được UNESCO công nhận. Tại Hà Nội, có gần 20 CLB, giáo phường ca trù đã và đang hoạt động ở cả nội và ngoại thành. Ở một số địa phương lân cận Hà Nội, có thể kể đến các CLB như: Làng ca trù Đào Đặng ở xã Trung Nghĩa, TP. Hưng Yên; Ninh Bình có CLB ca trù đền thờ Nguyễn Công Trứ, CLB ca trù Cố Viên Lầu; Bắc Ninh có CLB ca trù Thanh Tương, làng Thanh Khương (Thuận Thành), CLB 45 ca trù Tiểu Than (Gia Bình) và CLB ca trù Đông Tiến (Yên Phong) ); Hà Tĩnh có CLB ca trù Nguyễn Công Trứ, CLB ca trù Cổ Đạm; Ngoài ra, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Bắc Giang, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình, TP.HCM cũng có một số CLB ca trù hoạt động thường xuyên dưới dạng bảo tồn, phát huy vốn cổ cha ông để lại tại các làng, thôn, tổ dân phố của các địa phương. Ở TP.HCM, ca trù xuất hiện dưới hình thức CLB chủ yếu là do các nghệ nhân phía Bắc do đặc thù cuộc sống đã tập hợp lại và truyền lại cho con cháu, giới trẻ qua CLB ca trù TP.HCM, với khoảng 60 nghệ sĩ sinh hoạt đều đặn hàng tuần. Quá trình hình thành các CLB, giáo phường cơ bản như sau: - Trước năm 1991, hoạt động ca trù ở Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở hoạt động theo làng xã, giáo phường, theo họ tộc và gia đình hay theo nhóm người. - Ngày 28/4/1991, CLB ca trù Hà Nội đã được thành lập và trở thành Câu lạc bộ ca trù đầu tiên trên cả nước. - Tháng 11/1993, Bộ VHTT đã ra quyết định số 15638/QĐ-BVHTT về việc thành lập CLB ca trù Việt Nam. Tuy nhiên, do điều kiện về kinh phí và địa điểm nên ngay sau đó, CLB đã bị giải thể. - Năm 1995 trở đi, nhiều CLB ca trù ở Hà Nội và nhiều địa phương trên cả nước đã được thành lập như ở Hà Tây cũ, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, TP.HCM. - Từ 2005 trở lại đây, một số CLB, giáo phường được thành lập hoặc tổ chức thêm hoạt động biểu diễn cho khách du lịch. Đến nay, cả nước có trên 60 CLB, giáo phường ca trù ở 16 tỉnh, thành phố. 1.2.4. Các CLB, giáo phường ca trù ở Hà Nội Có thể nói, sau một thời gian dài ở trong khoảng lặng, vắng bóng và bị mai một cũng như bị biến thể, với nỗ lực phục dựng nền nghệ thuật bác học cổ truyền dân tộc, với chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với vấn 46 đề bảo tồn và phục hưng nghệ thuật dân tộc, từ khoảng những năm 70, 80 của thế kỷ XX, nghệ thuật ca trù bắt đầu được quan tâm trở lại. Một số ca nương Hà Nội xưa như Nguyễn Thị Phúc, Phạm Thị Mùi, Đinh Thị Bản, Phạm Thị Chúc, Quách Thị Hồ, Phó Thị Kim Đức, lại được giới âm nhạc Thủ đô chú ý đến, trong đó nổi bật nhất là hai giọng ả đào lừng danh của nghệ nhân Phạm Thị Mùi và NSND Quách Thị Hồ. Bên cạnh đó là những nghệ nhân kép đàn, trống chầu nổi tiếng như nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi, nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ (người Hưng Yên nhưng tham gia hoạt động ca trù Hà Nội từ rất lâu). Kể từ đó, ca trù có dấu hiệu hồi sinh. Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI, một số CLB do các cá nhân, gia đình, làng xã tổ chức xuất hiện. Nghệ thuật ca trù tại Hà Nội chủ yếu vẫn được hoạt động trong các CLB, giáo phường, các nhóm, trung tâm như: CLB ca trù Hà Nội, Giáo phường ca trù Thái Hà, Giáo phường ca trù Lỗ Khê, nhóm ca trù Tràng An, Giáo phường ca trù Thăng Long, CLB ca trù Chanh Thôn, CLB ca trù Ngãi Cầu, Trung tâm văn hóa ca trù Thăng Long Với sự chỉ dạy của các lão làng thế hệ trước, thế hệ ngày nay đã có những ca nương, kép đàn là niềm tự hào của ca trù Hà Nội như nghệ sĩ Lê Thị Bạch Vân, Phạm Thị Huệ, Nguyễn Thúy Hòa, Bảng 1.1. Tổng hợp các CLB, giáo phường ca trù Hà Nội Thời gian CLB/GP ca trù Địa chỉ Chủ nhiệm thành lập Giáo phường ca trù Thái Phố Thái Hà, Hà TK XIX Nghệ nhân Nguyễn Văn Hà (năm 1993 ra mắt CLB Nội và số 27 Mùi đời thứ 7 của cụ tổ Thái Hà) Thụy Khuê ca trù Thái Hà đầu thế kỷ XIX, có nhà thờ tổ ca công Giáo phường ca trù Làng Lỗ Khê, TK XV Tổ nghề ca trù từ thế kỷ Lỗ Khê Đông Anh XV, có đình thờ ca công Giáo phường ca trù Phượng Xã Phượng TK XVIII Tổ nghề ca trù từ thế kỷ 47 Thời gian CLB/GP ca trù Địa chỉ Chủ nhiệm thành lập Cách, CLB ca trù Phượng Cách, huyện XVIII, có đình thờ ca Cách ngày nay. Quốc Oai công Giáo phường ca trù Phú Đô Từ Liêm TK XVII Tổ nghề ca trù từ thế kỷ xưa và CLB ca trù Phú Đô XVII, có đình thờ ca ngày nay công Giáo phường ca trù Đồng Xã Phú Nghĩa, 2005 Truyền đời từ những Trữ xưa, CLB Ca trù thôn Chương Mỹ năm 1880, có Quán Đồng Trữ nay Đồng Trữ thờ Tổ mẫu ca trù Giáo phường Thượng Mỗ Thượng Mỗ, TK XVIII Truyền đời xưa, CLB ca trù Thượng Đan Phượng 2005 Mỗ ngày nay CLB Bích Câu đạo quán 14 Cát Linh 1991 Nghệ sĩ Bạch Vân (đã dừng hoạt động) CLB ca trù Hà Tây (đã Hà Đông 1995 Sở VH-TT Hà Tây cũ dừng hoạt động) CLB ca trù UNESCO (hoạt Bảo tàng dân tộc 14/07/2000 Nhóm nghệ nhân động không thường xuyên) học Việt Nam CLB Ngãi Cầu Xã An Khánh, 2004 Truyền đời Hoài Đức CLB ca trù Yên Nghĩa Xã Yên Nghĩa, 2005 Truyền đời, có miếu thờ Hà Đông tổ ca trù CLB ca trù Ðông Duyên Đông Duyên, 2005 Truyền đời Thường Tín Trung tâm văn hóa ca trù 25 Tông Đản 2006 Nhóm nghệ nhân Thăng Long (đã dừng hoạt động) CLB ca trù Chanh Thôn Phú Xuyên 2007 Nghệ nhân Nguyễn Thị Ngoan Giáo phường ca trù Thăng 87 Mã Mây (đầu 2010 Nghệ sĩ Phạm Thị Huệ Long năm 2015 chuyển về đền Quan Đế 28 48 Thời gian CLB/GP ca trù Địa chỉ Chủ nhiệm thành lập Hàng Buồm) CLB ca trù Hà Nội Đình Kim Ngân, 2010 Nghệ sĩ Bạch Vân 42-44 Hàng Bạc Nhóm Ca trù Tràng An Khâm Thiên 2010 Nghệ sĩ Kim Đức (hoạt động không thường xuyên) “Bạch Vân Ca trù và những Không gian Âm 2011 Nghệ sĩ Bạch Vân người bạn” (đã dừng hoạt nhạc truyền động) thống V6 - 34 Hoàng Cầu Không gian nghệ thuật Ngõ 310 Nghi 2012 Hướng dẫn giới thiệu: Ngọc Châu (Hoạt động Tàm, Tây Hồ Nghệ nhân Nguyễn Văn không thường xuyên) Mậu Trung tâm Phát triển nghệ Viện Âm nhạc 2013 Viện Âm nhạc thuật Âm nhạc Việt Nam thuộc Viện Âm nhạc CLB ca trù Phú Thị Phú Thị, Gia 2013 Truyền đời Lâm Nguồn: Tổng hợp của NCS, năm 2014 Để làm rõ hơn quá trình hình thành và phát triển của các CLB, giáo phường trong nội thành Hà Nội, xin giới thiệu một số CLB, giáo phường là CLB ca trù Hà Nội, giáo phường Thăng Long, giáo phường Thái Hà và một không gian ca trù đã một thời vang bóng, để lại nhiều ấn tượng là trung tâm văn hóa ca trù Thăng Long. - CLB ca trù Hà Nội: Ngày 28/04/1991, tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, CLB ca trù Hà Nội được ra mắt do sáng kiến của NSƯT Lê Thị Bạch Vân. Đây là tổ chức CLB đầu tiên có giấy phép của cơ quan nhà nước, được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội (trước đây) ký quyết định thành lập. Với những nỗ lực của NSƯT Bạch Vân và các thành viên, CLB ca trù Hà Nội đã 49 giúp hình thành những bước đi ban đầu cho việc phục hồi nghệ thuật ca trù bằng việc tập hợp được những nghệ nhân tiêu biểu của nhiều giáo phường trong cả nước, tổ chức các đêm diễn giới thiệu, quảng bá nghệ thuật ca trù, sưu tầm các bài bản cũ, vận động các địa phương khôi phục lại nghệ thuật ca trù, mở lớp dạy đàn hát trống chầu và làm thơ hát, nói cho thế hệ trẻ, vận động các nghệ nhân giỏi nghề truyền dạy nghề cho con cháu trong dòng họ. CLB tổ chức biểu diễn định kỳ vào tối thứ Tư, thứ Sáu và Chủ nhật tại Đình Kim Ngân số 42 - 44 Hàng Bạc. Theo NSƯT Lê Thị Bạch Vân, chủ nhiệm CLB, hiện số hội viên trong và ngoài nước là hơn 300 người, gồm cả những cộng tác viên và những người yêu thích được học môn nghệ thuật đặc biệt này. CLB đào tạo được nhiều ca nương trẻ. CLB ca trù Hà Nội có vai trò quan trọng trong việc kết nối các nghệ nhân tên tuổi từ các vùng quê Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương và Hà Nội được nhiều người biết đến, được nhiều giải thưởng của các cấp, các ngành. - Giáo phường ca trù Thái Hà: Giáo phường này hoạt động như một giáo phường ca trù của thời xưa và ca trù Hà Nội may mắn còn một gia tộc ca trù (không phải là cả làng ca trù như Lỗ Khê, Chanh Thôn, không phải chỉ là CLB đơn lẻ) như thế. Với 7 đời nối nghiệp cầm ca, từ đầu thế kỉ XIX ở làng Thụy Khuê (nay là phố Thụy Khuê) đã có gia đình ca công ra đời, với chức năng như một giáo phường xưa. Đời thứ nhất, cụ Nguyễn Đức Ý sinh năm 1820; đời thứ hai, Nguyễn Đức Bồi; đời thứ ba, Nguyễn Thị Tuyết. Là một ca nương nổi tiếng trong cung đình, cụ Nguyễn Thị Tuyết đã được triều đình ban thưởng đất tại Thái Hà để xây dựng đình Ca công làm nơi ca hát của cả dòng tộc. Đời thứ tư, Nguyễn Văn Xuân tay đàn đáy nổi tiếng Bắc Hà. Đời thứ năm Nguyễn Văn Mùi sinh năm 1931, một tay trống chầu đĩnh đạc. Giữa thời buổi nhạc giải trí, nhạc thời trang chiếm lĩnh sân chơi, thu hút lớp trẻ, cụ đã hướng con cháu đi theo nghiệp tổ. Đời thứ sáu Nguyễn Văn Khuê sinh năm 1962, 50 Nguyễn Mạnh Tiến sinh năm 1970, hai kép đàn danh tiếng và ca nương Nguyễn Thúy Hòa sinh năm 1973. Theo sự xác nhận của Vũ Nhật Trung và Nguyễn Xuân Diện thì ca nương Nguyễn Thúy Hòa được NSND Quách Thị Hồ trực tiếp dạy hát. Đời thứ bảy của CLB ca trù Thái Hà là Nguyễn Thu Thảo và Nguyễn Kiều Anh sinh năm 1994, hai “ca nương nhí” có nhiều triển vọng trở thành đào nương xuất sắc. Theo NSƯT Nguyễn Văn Khuê, năm 1989 nhóm ca trù Trẻ thành lập và tháng 5 năm 1993 đặt thêm tên ngoài giáo phường còn có tên CLB ca trù Thái Hà, do nghệ nhân trống chầu Nguyễn Văn Mùi làm chủ nhiệm. Trước năm 1993, giáo phường này chỉ phổ biến trong phạm vi gia đình và những người thân thiết. Giáo phường đã được các nước như Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, Triều Tiên, Nhật Bản mời sang biểu diễn. Các điệu ca trù thường hát là tỳ bà, thét nhạc, cung bắc, thiên thai, hát mưỡu, hát nói, chừ khi, bắc phản, chúc hỗ, kể chuyện, ngâm thơ, hát giai, hát ru, thổng Giáo phường cũng được nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế. Tại “Liên hoan dân ca truyền hình toàn quốc - Khu vực I năm 2009” tổ chức tại thành phố Bắc Ninh, với điệu “Hát nói gửi thư”, Nguyễn Kiều Anh đã giành một trong hai giải cao nhất của liên hoan. Gia tộc của họ đang cùng nhiều đào kép trẻ của Hà Nội và cả nước là lớp người tiếp bước của các bậc tiền nhân để duy trì và phục hưng ca trù. - Giáo phường ca trù Thăng Long: Tiền thân là CLB ca trù Thăng Long được thành lập tháng 8 năm 2006 tại Hà Nội do ca nương Phạm Thị Huệ cùng hai người thầy của mình là nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc và nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ đồng sáng ... was fantastic, if I had been in Hanoi longer I would have gone back for a second time. Ở giữa khu phố cổ nhộn nhịp, bạn sẽ được vận chuyển đến quá khứ. Nếu bạn muốn trải nghiệm một cái gì đó xác thực và nhận được từ các "du lịch" kinh nghiệm, tôi khuyên bạn nên xem việc thực hiện tại các Câu lạc bộ ca trù. Bạn có thể hoặc có thể không thích nhạc cụ truyền thống và ca hát, nhưng bạn sẽ phải trải qua một sự kiện thực sự văn hóa. Tôi đã thất vọng ở khán giả nhỏ (có thể hai chục người), đặc biệt là so với một số lượng lớn những người tôi đã nhìn thấy ở biểu diễn múa rối nước. Sau đó, một lần nữa, tính chất thân mật của buổi trình diễn là một tiền thưởng thêm. Càng âm nhạc bộ ba "hiện đại" là tuyệt vời, nếu tôi đã có mặt tại Hà Nội còn tôi đã có thể đi lại trong một thời gian thứ hai. 32. Christina: very interesting” I feel like this is the moment i am discovering another culture but also myself. this is so special kind of art music. amazing! Tôi cảm thấy như đây là thời điểm tôi đang khám phá nền văn hóa khác mà còn bản thân mình. đây là loại rất đặc biệt của âm nhạc nghệ thuật. tuyệt vời! 33. Groovek: “Educational” Fun and educational. I am happy to have spent my money there to support this group. They're very talented and it was a fun show to attend. Vui vẻ và giáo dục. Tôi vui mừng đã tiêu tiền của tôi ở đó để hỗ trợ nhóm này. Họ rất tài năng và đó là một chương trình thú vị để tham dự. 34. Peter Sampras: “Fine experience - go see it!” Bought ticket at the door on night of the performance, more or less on an impulse, and can say it was a night that will long stick in memory. For me the best part was a long interaction with the performers after the show. They patiently answered questions and were happy to pose for photographs with guests. Lovely, lovely people. 190 For me the music itself, uniquely Vietnamese, is of a type that might for some people (like me) taken in small doses. Rather like American Blue Grass! A number of Vietnameseme people told me that the music is boring and they see plenty of it as "filler" on local television. Too bad. They should see it live at least once in their life. Though the young lady who introduced each song/poem did an excellent job, I suggest that one visit the Ca Tru Club web site before attending. At the bottom of their page is an outstanding short video that gives a solid understanding of what Ca Tru is, its history, the roles of each player and significance of each instrument. Mua vé tại cửa đêm về hiệu suất, nhiều hơn hoặc ít hơn trên một xung, và có thể nói đó là một đêm dài mà sẽ dính vào trong bộ nhớ. Đối với tôi phần tốt nhất là một sự tương tác lâu dài với những người biểu diễn sau khi chương trình. Họ kiên nhẫn trả lời câu hỏi và đều vui vẻ chụp ảnh với khách. Đáng yêu, những người đáng yêu. Đối với tôi, âm nhạc riêng của mình, duy nhất Việt Nam, là một loại mà có thể cho một số người (như tôi) thực hiện với liều lượng nhỏ. Chứ không phải như Mỹ Blue Grass! Một số người Vietnameseme nói với tôi rằng âm nhạc là nhàm chán và họ nhìn thấy rất nhiều của nó là "phụ" trên truyền hình địa phương. Quá xấu. Họ nên xem nó sống ít nhất một lần trong cuộc sống của họ. Mặc dù người phụ nữ trẻ, những người giới thiệu mỗi bài hát / bài thơ đã làm một công việc tuyệt vời, tôi đề nghị một truy cập vào trang web Câu lạc bộ ca trù trước khi tham dự. Ở dưới cùng của trang của họ là một video nổi bật ngắn cung cấp cho một sự hiểu biết vững chắc về những gì ca trù là, lịch sử của nó, vai trò của mỗi người chơi và ý nghĩa của từng nhạc cụ. 35. Steammilk: “10 USD to preserve this place” I admitted that I didn't enjoy Ca Tru that much. But overall experience was okay and the fees are acceptable. The day I visited this show was Sunday, and there are only few visitors. (3 foreign couples + 1 Vietnamese gal). You will sit in front of the stage and can enjoy closely with the show. Recommend and need help to support this Ca Tru .. Actually I did enjoy it for the first 15 minutes. But the show looked similar for other parts. Still it is worth a visit. 191 Give it a try and help this place. (search Google to find why it need to be preserved). Tôi thừa nhận rằng tôi không thích ca trù nhiều. Nhưng kinh nghiệm tổng thể là bình thường và lệ phí được chấp nhận. Ngày tôi đến thăm chương trình này là Chủ nhật, và chỉ có vài du khách. (3 cặp vợ chồng nước ngoài + 1 cô gái Việt Nam) Bạn sẽ ngồi trước sân khấu và có thể thưởng thức chặt chẽ với chương trình. Giới thiệu và cần sự giúp đỡ để hỗ trợ này ca trù .. Trên thực tế tôi đã thưởng thức nó trong 15 phút đầu tiên. Nhưng chương trình trông tương tự như cho các bộ phận khác. Vẫn còn đó là giá trị một chuyến viếng thăm. Cung cấp cho nó một thử và giúp nơi này. (Tìm kiếm Google để tìm lý do tại sao nó cần phải được bảo quản) 36. Tuabui: “A kind of Art” It is a kind of a very famous traditional culture of Vietnamese people. Just listening, and you will be driven to the very unique atmosphere! Nó là một loại của một nền văn hóa truyền thống rất nổi tiếng của người Việt Nam. Chỉ cần nghe, và bạn sẽ được đưa tới bầu không khí rất độc đáo! Nguồn: Tổng hợp điều tra của tác giả 192 Phụ lục 4 GIỚI THIỆU MỘT SỐ TƯ LIỆU CA TRÙ CỔ 1. Thần tích đền Lỗ Khê (xã Liên Hà, Đông Anh, Hà Nội) Xưa, thời vua Thái Tổ triều Lê, lúc đất Long Biên vẫn còn là của nước ta, có người ở động Hoa Lư huyện An Khang, phủ Trường Yên, đạo Thanh Hóa, họ Đinh, tên húy là Lễ, tổ tiên được phong tước vị, đời này qua đời khác được hưởng phúc ấm, lấy người ở bản quận, theo vua Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn, cầm cự với quân giặc Vương Thông đến mười năm ở ven biển. Vợ họ Trần, tên gọi Minh Châu, con nhà nhiều đời thi lễ, nối dõi trâm anh, kể cũng thật môn đăng hộ đối. Ngày ấy, Đinh công tới huyện Nga Sơn phủ Hà Trung, đạo Thanh Hóa, thấy một cái động ở gần biển, gọi là động Bích Đào, người thời bấy giờ gọi động đó là động Thần Tiên. Ông vào xem, lúc mặt trời chưa đứng bóng, bèn nằm phía dưới trước cửa động, hồn phách tựa mơ, thấy hai ông già ngồi dưới gốc cây đào, chơi cờ nói cười vui vẻ. Một người trong đó tự xưng: “Ta vốn ở trên điện Thừa Hoa, tên là Đông Phương Sóc, ngày ngày thường xuống chơi ở cung tiên trên biển.” Người đó nói: “Nhà người phúc đức to lắm, được đất tốt, sinh con ắt là quý tử. Trời đã định rồi, sẽ gặp và sánh duyên cùng nàng tiên biển.” Nói xong cưỡi mây bay lên giời. Đinh công chợt tỉnh, biết là mơ, liền ứng khẩu đọc bài thơ: Hải thượng quần tiên sự diểu mang, Bích Đào động lý thái hoang lương. Càn khôn nhất ngộ cùng Đông Sóc, Vân thủy song nga lão bắc phương. Thạch cổ hữu thanh xao hiểu nguyệt, Sa diêm vô vị viết thu sương. 193 Thế nhân nhước tác Thiên Thai mộng, Thùy thức Thiên Thai triệu báo trương Dịch: Chuyện các nàng tiên trên biển thật mơ màng, Trong động Bích Đào quá hoang vu lạnh lẽo. Giữa cảnh trời đất một lần gặp gỡ Đông Phương Sóc, Đôi mắt xanh trong mãi nhìn về phương Bắc Trống đá rền vang lay động bắc tranh ban mai, Hạt muối như nhạt bở bở đậu hạt sương thu Người đời ví thử là giấc mộng Thiên Thai. Ai biết đâu đây là điềm báo Ngay ngày hôm đó, Đinh công cùng với các binh sĩ trở về đồn sở. Lúc này vua Thái Tổ bèn sai Đinh công đem quân lên tuần phòng các đạo ở phía Bắc để ứng phó quân Minh. Khi đi đến địa đầu trang Lỗ Khê, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Đinh công thấy một cuộc đất sơn thủy hữu tình, tiếng đàn phương loan hòa quyện, nghĩ bụng đây là nơi phong cảnh đẹp. Ngay ngày hôm đó truyền nhân dân và binh sĩ xây dựng đồn sở để đóng quân. Mấy tháng sau, một đêm vợ Đinh công là Trần thị đêm nằm ngủ bỗng mở thấy một con rắn xanh từ dưới đất chui lên, leo vào lòng, quấn quanh thân mình. Bà giật mình sợ hãi tỉnh dậy, từ đó Minh Châu có mang. Ngày mùng sáu tháng tư năm Quý Tỵ, bà sinh ra một người con trai, thân hình dài rộng, mặt mũi khôi ngô. Đinh công biết sinh ra được người con như thế này là nhờ đắc địa, bèn đặt tên là Dự, chăm bẵm hài nhi, lòng ông không còn khắc khoải. Bấy giờ đương là mùa xuân, vào thượng tuần tháng giêng, vua Thái Tổ sai sứ mang thư đến lệnh cho ông đi đánh giặc Minh ở Lạng Sơn. Ông bèn tập trung quân lính cùng kéo tới đánh một trận lớn nhưng chưa phân thắng bại. Thế rồi ông trở về đạo Kinh Bắc, ở lại trang Lỗ Khê. Ngày tháng trôi qua, chàng Dự lên 194 mươi hai tuổi, thiên tư đĩnh ngộ, học vấn tinh thông, cầm kỳ thi họa, đàn hát ngón nghề đều tinh khéo, chưa anh tài nào địch nổi. Những ngày xuân đẹp trời, chàng dạo chơi đó đây, tìm hoa thơm cỏ lạ đến những nơi giáo phường sành tay đàn giọng hát. Khi tới huyện Gia Bình phủ Thuận An, nghe nói ở trang Đông Cứu có rặng núi sừng sững soi bóng xống dòng sông, trên đó có chùa Thiên Thai. Chàng bèn đến vãng cảnh, tình cờ gặp một người con gái, giọng nói và dung nhan đều tuyệt hải, có thể nói “chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường.” Chàng Đinh Dự ướm hỏi: “Nàng ở đâu tới mà hai ta gặp gỡ nơi đây?”. Người con gái ấy đáp: “Thưa, Đường Hoa Tiên Hải là thiếp, người ở động Nga Sơn, Thanh Hóa, nhân lúc nhàn rỗi giở nghề đàn ca hát xướng khắp giáo phường.” Nghe xong chàng Dự cười: “Thật là kỳ ngộ, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Nay bậc đế vương đức hòa hợp ở trên, dạy dân ta hòa hợp ở dưới, vậy nên ta để lòng ở xứ Bắc này nơi giáo phường lễ yêu nghĩa trọng. Cầm ca là nghiệp hai ta cùng theo đuổi đó.” Thế rồi Đường Hoa và chàng Dự kết duyên vợ chồng. Sau ngày đó họ đưa nhau trở lại trang Lỗ Khê lập giáo phường, cha mẹ đều rất vừa ý. Khoảng một năm sau, họ dạy cho dân biết nghề đàn hát. Bấy giờ vua Lê Thái Tổ sai sứ giả mang thư đến, nói rằng giặc minh rất đông, chia thành nhiều ngả kéo vào nước ta. Vua kế cùng lực kiêt, chả lẽ bó tay chịu thua. Nhà vua vì lo quá mà đổ bệnh, bèn triệu vời Đinh Lễ cấp tốc trở về Thanh Hóa để vua tôi bàn định kế sách tiến công. Ngay ngày hôm đó hai vợ chồng ông cùng con trai và nhân dân đem quân về Thanh Hóa. Không ngờ hai cha mẹ Đinh Lễ, Minh Châu giữa đường lâm bệnh rồi chết. Đinh Dự cùng binh sĩ rước thi hài về quê cũ, chọn đất tốt mai táng. Thế rồi vợ chồng Đinh Dự cùng đến nơi đồn sở của Thái Tổ, tâu: “Cha mẹ thần do số trời định đoạt, đã mất cả rồi. Thần xin tự nguyện đàn hát làm vui, giải bệnh cho bệ hạ”. Nhờ thế bệnh của nhà vua qua 195 khỏi. Thái Tổ quyết chiến một trận, giặc bị bắt sống rất nhiều, quân Minh bị dẹp tan. Khi lên ngôi Hoàng đế, Thái Tổ nhớ đến các bậc công thần nghĩa sĩ, bèn cho vời vợ chồng Đinh Dự về kinh đô dự tiệc yến ẩm ban tước thưởng công. Bấy giờ bỗng Đường Hoa nói với chồng mình là Đinh Dự rằng: “Thiếp vốn do tinh anh vượng khí của trời đất chung đúc nên, biến hóa vô thường, tính linh sáng suốt, thiếp cùng các bậc diệu nữ và đám quân tiên dắt dẫn thao lược, biến hóa duyên lành, chu du thiên hạ. Thiếp từng đi khắp Nam Bắc Đông Tây, truyền dạy cho các phường bằng sức lực suốt cả cõi đời, những muốn lưu truyền tiếng thơm muôn thuở. Năm tháng ngày giờ đã mãn hạn ở trần thế, thiếp xin từ tạ phu quân để trở về thượng giới”. Nói rồi đọc luôn câu thơ: Trần phong tiêu tấu cửu trùng thiên Tịch kích thành môn tuyệt khả liên Nghĩa chủ báo sinh thần trượng tiết Thời nhân hốt vị giáo phường hiền Dịch nghĩa: Buổi sáng dâng tấu tâu với triều đình Buổi chiều đánh giặc ngoài cửa thành, thật đáng kính nể Bề tôi tiết nghĩa đã đền ơn vua chúa Người đời bỗng đều khen người của giáo phường tài giỏi. Dịch thơ: Sáng ra dâng tấu triều đình Chiều về khiến giặc ngoại thành thất kinh Bề tôi nguyện hiến dâng mình Giáo phường tài giỏi dân tình ngợi khen. 196 Nàng đọc xong, liền bay vào cõi không, biến mất. Thế rồi chồng nàng là Đinh Dự tưởng nhớ tình nghĩa vợ chồng bị trời đoạt đi, bèn bái tạ nhà vua và đọc một bài thơ: Lũy thế quân ân hốt khiết nhiên Hiếu trung nhất tiết lưỡng kiêm tuyền Hạc quy hoa biểu thiên niên tại Vạn nhất tri tấm thác lão thiền Dịch nghĩa: Đã bao đòi ơn vua đâu dám thờ ơ Đức hiếu và trung vẹn toàn cả hai Hạc đã bay về trời, nhưng dấu tích còn muôn đời Lỡ có điều gì thì lòng này chỉ biết gửi gắm ông trời. Dịch thơ: Ơn vua đâu dám thờ ơ Hiếu trung con nguyện phụng thờ cả hai Hạc đi, dấu vết nào phai Ông trời gửi gắm nay mai tấc lòng Đọc xong chàng ngửa mặt lên trời than rằng: “Biết làm sao được nữa. Cũng cùng một lẽ.” Đinh Dự liền đập đầu vào cột điện nhà vua, biến thành con rắn xanh vừa to vừa dài, bò quanh cột rồi biến mất. Nhà vua nghĩ rằng hai vợ chồng nhà này là bề tôi trung nghĩa. Đinh Dự cùng Đường Hoa hóa một ngày. Ngày hôm đó là ngày 13 tháng 11. Vua Thái Tổ có thơ rằng: Lộ kinh cổ miếu đảo liên thiên Hạ tưởng trung thần báo quốc niên Thùy vị đắc trung hoàn thất hiếu Đắc trung tiện thị hiếu kiêm tuyền. 197 Dịch: Đi qua miếu cổ vào cầu cúng, Bèn nhớ đến bậc trung thần đền nợ nước năm xưa. Ai bảo được trung thì mất hiếu, Có trung thì mớ có hiếu vẹn tròn. Dịch thơ: Đường qua miếu cổ, tiện dừng chân Bèn nhớ trung thần đền nợ nước Ai bảo được trung thì mất hiếu Có trung, hiếu mới vẹn muôn phần. Ngay ngày hôm đó, nhà vua truyền lệnh ra toàn cõi nước Nam, lệnh cho thần dân các giáo phường lên kinh đô rước mỹ tự về dựng từ đường để thờ tự. Nhà vua chuẩn ban lệ của đình nước Nam, như sau: Mùa xuân khai hạ cầu phúc được 300 mạch tiền, giáo phường được nhận để sắm sửa đèn nhang. Việc thờ cúng của giáo phường cũng y theo lệ đó. Đến thời Hoàng đế Lê Thánh Tông, nhà vua ghi chép công tích của các công thần, phổ hiệp vần thành lời ca nhằm tôn vinh những điều tốt đẹp ấy, gồm các tác phẩm: - Quân đạo thần tiết (Đạo của nhà vua, tiết tháo của bề tôi) - Quân minh thần lương (Vua sáng tôi hiền) - Dao tưởng anh hiền (Tưởng nhớ các bậc anh tài) - Kỳ thí (Hiền tài xuất sắc) Nhà vua còn phong tặng Đinh Dự là “Thanh Xà Đại Vương”, Đường Hoa là “Mãn Đường Hoa Công Chúa” và ban cho đền thờ giáo phường ở Lỗ Khê, đạo Kinh Bắc một bản điển chương chế độ thờ cúng: “Ôi, vẻ vang thay!” 198 Lệ tục ngày sinh ngày hóa và chữ húy cấm kỵ như sau: - Cấm dùng bốn chữ Lê, Châu, Dự, Hóa. - Lệ tục ngày sinh: Ngày sinh mùng 6 tháng 4. Lễ cúng, trên đặt mâm cỗ chay, dưới đặt mâm cỗ thịt bê bò, xôi, rượu, xướng ca mười ngày. - Lễ tục ngày hóa: Ngày 13 tháng 11. Lễ cúng, trên đặt mâm cỗ chay, dưới đặt mâm cỗ thịt lợn đen, xôi, rượu. Ngày lành tháng giữa xuân năm thứ 7 niên hiệu Hồng Đức (năm 1476), Đông các đại học sĩ, bề tôi Đào Cử soạn bản chính. Ngày lành tháng giữa thu năm thứ 4 niên hiệu Vĩnh Hựu (năm 1740), Quản giám bách binh [thần] tri điện hùng lĩnh thiếu khanh, bề tôi Nguyễn Hiền sao lại bản chính. Tháng 4 năm thứ 11 niên hiệu Bảo Đại (1936), Ngọc Liên Khai sao lại. 2. Giọng hát đào nương Người đóng vai trò quan trọng đưa nghệ thuật thơ – nhạc tới công chúng là đào nương. Muốn thể hiện hết cái hay của thơ, đào nương phải am tường tho phú. Chẳng thế mà các cuộc thi Ca trù hàng năm ở đình làng, môn khảo thi đầu tiên dành cho các đào nương là phải làm 1, 2 câu thơ, phú. Muốn thể hiện hết cái thần của nhạc người đào nương phải có giọng cao, trong sáng, tiếng hát phải tròn trĩnh, mượt mà, không để lép tiếng, không được ngắt khúc; tay phách phải uyển chuyển khi nhanh khi chậm, khi mau khi thưa hợp với câu chữ câu thơ, hợp với từng khổ của đàn. Phách được coi là giọng hát này thứ hai của đào nương. Tất thảy những yêu cầu này đã được ghi lại trong các tài liệu Hán Nôm, đại lược: Giọng hát đào nương phải là giọng con kiến, tức giọng cao, vang, trong trẻo. Kỹ thuật hát phải hội đủ 5 yêu cầu: - Vói: hát cao, trong sáng 199 - Xuyến: tiếng phải tròn trĩnh, mượt mà - Dằn: tiếng hát phải đều đặn không có tiếng to, nhỏ, tiếng lép - Thét: hát như bay cao lên - Rẫy: tiếng hát rền không ngắt khúc. Khi phối hợp với đàn phải đạt 3 yêu cầu: - Quán: giọng hát, nhịp phách, tiếng đàn phải khớp nhau - Khuôn: hát và đàn phải khớp điệu, đúng cung bậc. - Diệu: bắt vào câu phải tự nhiên, thể hiện lời ca phải linh hoạt. Những người đào nương tài hoa, hội đủ yêu cầu nghệ thuật ấy ở Hà Nội xưa nay không được người đời ghi lại, ta chỉ còn gặp họ trong các bài hát nói của Dương Khuê như cô đầu Hai, cô đầu Phẩm, cô đầu Cúc, cô đầu Oanh, cô đầu Cần và cô đào ở Hàng Cót được Phạm Quỳnh nhắc tới trong bài diễn thuyết của ông ở Hội Khai Tiến Đức năm 1923. Nếu may mắn, họ có được lưu danh trong sử sách thì chúng ta cũng không thể nhận biết được cái tài hoa của họ đến đâu, bởi giọng hát, tiếng đàn của họ nào có lưu lại được. Âm thanh không lưu lại được thì giới làm nhạc chẳng biết dựa vào đâu để đưa ra những lời khen chê thỏa đáng. 3. Các tác gia hát nói Hà Nội Hát nói là thể thơ và cũng là thể cách âm nhạc được giới sành điệu và những người sành nghề Ca trù sáng tạo vào những năm cuối thế kỷ XVIII. Hát nói ra đời là bước ngoặt có tính đột biến làm cho Ca trù trở thành một ngành nghệ thuật hấp dẫn, lôi cuốn mọi tầng lớp xã hội mà đặc biệt là sự tham gia của các bậc túc nho. Hát nói đã trở thành điệu hát thống trị trong các cuộc trình diễn và tao ngộ Ca trù. Cho đến nay giới nghiên cứu thi ca đánh giá cao Hát nói, coi nó là tiền đề, là cơ sở để thơ mới Việt Nam ra đời vào thế kỷ XX; coi nó là nơi để các nhà thơ được thỏa mã chí ngang tàng, tính hào hoa vương 200 chút phóng đãng trước cuộc đời. Một số tác gia Hát nói nổi tiếng sinh ra ở Hà Nội, sống ở Hà Nội và viết những bài thơ Hát nói về Hà Nội, phải kể đến: Nguyễn Công Trứ, sinh ngày mùng 1 tháng 12 năm Mậu Tuất (1778), tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là vị quan song toàn cả văn lẫn võ. Trong triều đình nhà Nguyễn ông đã giữ các chức: Hình bộ Thị lang, Hình bộ Tả thị lang, Hình bộ Viên ngoại lang và các chức Tri huyện Mỹ Hào, Tham hiệp tỉnh Thanh Hóa, Doanh điền xứ tỉnh Nam Định, Tổng đốc An Giang, quyền Án sát tỉnh Quảng Ngãi. Xét như vậy, ông không phải người Hà Nội. Nhưng, với gần một trăm bài Hát nói, ông đã làm cho nghệ thuật Hát ả đào trở thành nghệ thuật thi ca. Các bài: Chí nam nhi, Chơi là lãi, Thú say, Ngao du thỏa chí, Thú tổ tôm, Mượn rượu làm vui, Ngất ngưởng... đã tạo được những dấu ấn không phai mờ trong ký ức người nghe cũng như trong cuộc đời ca hát của các đào nương Hà Nội. Có hai bài ông viết riêng cho Thăng Long là Tràng An hoài cổ và Tây Hồ hoài cổ. Tây Hồ hoài cổ là bài Hát nói với bút pháp thư họa để vẽ lòng mình trước cảnh cô tịch của Tây Hồ một đêm trăng. Nội dung bài hát: Mưỡu: Dập dìu trăng mạn gió lèo, Lỏng ngâm vân thủy (a) lơi chèo yên ba (b) Hát nói: Cảnh Tây Hồ khen ai khéo vẽ, Chốn thị thành riêng một vẻ lâm tuyền (c) Bóng kỳ đài (d) trăng mặt nước như in, Làn thảo thụ (e) che bên tòa cổ sát. (f) Chiếc cô vụ, mảnh lạc hà (g) bát ngát, Hỏi năm nào vũ quán điếu đài. (h) 201 Mà cỏ hoa man mác dấu thương đài, (i) Để khách rượu làng chơi ngơ ngẩn. Hương tiêu Nam quốc mỹ nhân tận, Oán nhập đông phong phương thảo đa (k) Tranh thiên nhiên một áng yên ba, Để khiển hứng câu ca chén rượu. Buồm nửa lá trăng thanh gió dịu, Chùa nơi đâu một tiếng chuông rơi, Tây Hồ cảnh biết mấy mươi1 Phan Huy Vịnh (1799 - 1870) tự là Hàm Phủ, quê ở làng Thụy Khê, huyện Yên Sơn, Sơn Tây, Hà Nội. Ông đã từng giữ chức án sát tỉnh Quảng Bình, Lại bộ Tả thị lang và Lễ bộ thượng thư. Ông đã để lại cho giới Ca trù bản dịch Tỳ Bà Hành từ nguyên tác cùng tên của nhà thơ Trung Quốc đời Đường Bạch Cư Dị. So với 2 bản dịch chép trong Ca trù tạp lục, Bản dịch của Phan Huy Vịnh đạt đến sự hoàn thiện một thể cách. Bản Diễn âm Tỳ Bà Hành (khuyết danh) được cổ nhân chú thích: “đọc thì dùng bậc năm cung, sau dùng Bắc phản, trước đó nên dùng lối hát thổng để mở đầu”2 Cụ Phan không theo cung cách này. Cụ đã chia toàn bài thành chín khổ, mỗi khổ 8 câu thơ, cộng một khổ dồn và một khổ kiệt. Cứ hát hết mỗi khổ, tiếp vào khổ sau thì đầu khổ thường là điệu ngâm Sa mạc rồi vào phách hát. Lối phân chia đã tạo ra sự cân đối cần thiết để người nghe không những 1 a) Thủy vân: mây nước, b) Yên ba: khói sóng, c) Lâm tuyền: rừng và suối, d) Kỳ đài: đài dựng cột cờ, e) Thảo thụ: cỏ cây, f) Cổ sát: chùa cổ, g) Cô vụ lạc hà: Bài Đằng vương các tự của Vương Bột đời nhà Đường: Lạc hà dữ cô lộ tề phi/ Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc. Nghĩa là: Ráng buổi chiều với con cò lẻ cùng bay/ Nước mùa thu với trời thẳm cùng một mày, h) Vũ quán Điếu đài: Quán múa hát và đài câu cá của chúa Trịnh, i) Thương đài: Rêu xanh, k) Hương tàn người đẹp phương Nam hết/ Buồn thấy gió đông thỏi vào cỏ thơm nhiều (chú thích theo Đỗ Bằng Đoàn – Đỗ Trọng Huề, sđd 2 Ca trù tạp lục. Kho sách Viện nghiên cứu Hán Nôm – VHv. 2940. Đinh Văn Minh dịch. 202 không chán mà còn kịp nhận ra sự tiến triển của câu chuyện giữa quan Tư mã Giang Châu với cô đào trên bến Tầm Dương. Tỳ Bà Hành được coi là thể cách độc bản không chỉ ở văn thơ mà còn ở tính hoàn thiện cấu trúc, một cấu trúc không có tiền lệ. Có thể gọi là cấu trúc Phan Huy Vịnh. Cao Bá Quát (1809 - 1854) tự là Mẫn Hiên, biệt hiệu Chu Thần, quê ở làng Phú Thị huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông từng giữ chức Hành tẩu bộ Lễ, Chủ sự bộ Lễ. Ông nổi tiếng văn chương tài hoa, chẳng vậy mà người đời phong ông là “thánh Quát”. Thánh Quát đã để lại cho giới Ca trù những bài Hát nói: Chén rượu tiêu sầu, Nghĩ đời mà chán, Hơn nhau một chữ thì, Phận hồng nhan có mong manh, Nhân sinh thấm thoắt, Núi cao trăng sáng, Nghĩ tiếc cho ai, Nhớ giai nhân, Tự tình, Mấy khi gặp gỡ, Tài hoa là nợ, Trải khắp đường đời, Thanh nhàn là lãi, May rủi, Bà Nguyễn Thị Kim, Hà Tín, Chữ nhàn là chính. Đặc biệt các bài Nghĩ đời mà chán, Người đẹp không thấy hai lần và Thế sự thăng trầm của ông đã được NSNN Quách Thị Hồ thu thanh, Nxb Âm nhạc phát hành trong hai album Ca trù: NSND Quách Thị Hồ và NSND Quách Thị Hồ - Đào nương bậc nhất thế kỷ XX. Nguyễn Khuyến (1835 - 1910), biệt hiệu Quế Sơn, quê ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông làm quan Đốc học tỉnh Thanh Hóa, Bố chánh tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam và giữ chức Bắc Thành Thượng biện. Ngoài các bài hát nói Mẹ mốc, Cô sen mơ bóng đè, Duyên nợ, Đùa ông đồ Cự lộc, Anh giả điếc... thì bài Hỏi phỗng đá của ông được coi là bài Hát nói mẫu mực. Toàn bài là sự liên kết hai thể cách âm nhạc: Mưỡu và Hát nói. Mưỡu là thể cách âm nhạc độc lập, ra đời từ rất sớm trong tục hát thờ thần nơi tông miếu, đền, đình. Phần lớn lời nhưng bài hát Mưỡu thường không có tác giả và được hát trên thơ lục bát. Hát nói có tác giả ra đời muộn hơn và thường do các bậc túc nho sáng tác. Trong bài Hỏi phỗng đá, Mưỡu là 203 thể cách âm nhạc thứ nhất, gồm 4 câu lục bát chia thành hai khổ nhạc (người trong giới gọi là mưỡu kép): Khổ đầu, 2 câu đầu: Người đâu tên họ là gì? Khéo thay chích chích chi chi nực cười. Khổ hai, 2 câu tiếp: Giang tay ngửa mặt lên trời, Hay là còn nghĩa sự đời chi đây. Sau Mưỡu là thể cách Hát nói, gồm 11 câu, chia 5 khổ và khổ kiệt (câu kết) Khổ một, 2 câu: Trông phỗng đá lạ lùng muốn hỏi, Cớ làm sao len lỏi đến chi đây. Khổ hai, 2 câu tiếp: Hay tưởng trông cây cỏ nước non này, Chi cũng rắp chen chân vào hội lạc. Khổ ba, 2 câu tiếp: Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc, Thương hải thùy tri ngã diệc âu3 Khổ bốn, 2 câu tiếp: Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu, Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác 3 Núi xanh tự cười đầu sắp trắng như chim hạc (già rồi)/ Biển xanh ai biết ta cũng như chim âu (chim âu ví người ẩn dật) (Chú thích theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, sđd). 204 Khổ năm, 2 câu tiếp (khổ năm tốc độ hát nhanh hơn, tục gọi là hát phách dồn) Duyên kỳ ngộ là duyên tuổi tác, chén chú, chén anh, chén tôi chén bác, Cuộc tỉnh say say tỉnh cùng nhau. Khổ kiệt (câu kết) Nên chăng đá cũng gật đầu. Năm khổ Hát nói Hỏi phỗng đá khớp với 5 khổ đà (khổ sòng, khổ đơn, khổ giữa, khổ rải, khổ dồn (còn gọi là lá đầu) và câu kết bài khớp với khổ kiệt là sự sáng tạo tài tình của tác giả. Có thể coi Hỏi phỗng đá là bài hát nói có cấu trúc hoàn chỉnh nhất trong các bài hát nói của cụ Tam nguyên. Dương Khuê (1836 – 1898) hiệu Vân Trì, quê làng Vân Đình, phủ Ứng Hòa tỉnh Hà Đông (Hà Nội). Ông làm quan Tri phủ huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, Án sát tỉnh Hải Phòng (thành phố Hải Phòng). Gặp đào Hồng đào Tuyết là bài Hát nói nổi tiếng của ông, bài hát gây nhiều tranh cãi thú vị trong giới Ca trù: rằng thanh sơn là núi xanh hay Thanh Sơn là quê hương của hai cô đào Hồng, đào Tuyết; đào Hồng đào Tuyết là hai cô đào hay mà một, ông gặp họ lúc họ bao nhiêu tuổi, để mười lăm năm sau họ thành thiếu nữ?... Còn đối với giới Ca trù, Gặp đào Hồng đào Tuyết là bài hát vào nghệ, bài hát không thể thiếu trong biểu mục Ca trù của hầu hết các cô đào quê, đào tỉnh từ cuối thế kỷ XIX đến nửa cuối thế kỷ XX. Ngoài ra ông còn có các bài Gặp cô đầu cũ, Tặng Cô đầu Hai, Tặng cô đầu Phẩm, Tặng cô đầu Cú, Tặng cô đầu Cần, Thăm cô đầu ốm, Vợ ghen với cô đầu Oanh, nói hớt, Cái dại, Ở nhà hát ngẫu hứng, Thăm chùa gặp tiểu. Đặc biệt bài Hương Sơn phong cảnh là bài hát nói phá thể, gồm 25 câu, miêu tả chi biết toàn cảnh Hương Sơn từ khói, ráng gió, trăng, núi, bậc đá đến người cắt cỏ, nươi đi săn, người đánh chài, người kiếm củi nơi Hương Cảnh một thời yên ả. Nhưng số 205 phận bài Hát nói này đã bị bài hát nói cùng tên của Chu Mạnh Trinh làm mất dần chỗ đứng trong giới đào nương Hà thành. Chu Mạnh Trinh (1862 – 1905) tự là Cán Thần, biệt hiệu Trúc Vân, quê ở làng Phú Thị, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ông làm quan tri phủ Lý Nhân, quan Án sát Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh. Ông đã để lại cho giới Ca trù Hà Nội bài Hương Sơn phong cảnh. Nội dung bài hát: Bầu trời cảnh Bụt, Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay. Kìa non non nước nước mây mây, Đệ nhất động hỏi là đây có phải. Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái, Lững lờ khe Yến cá nghe kinh. Thoảng bên tai một tiếng chày kình, Khách tang hải giật mình trong giấc mọng. Này suốt Giải Oan này chùa Cửa Võng, Này hang Phật Tích, này động Tuyết Kinh. Nhác trông lên ai khéo họa hình, Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt. Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt, Gập ghềnh mấy khúc uốn thang mây. Hẳn giang sơn còn đợi ta đây, Mà tạo hóa đã rắp tay sắp đặt. Lần trường hạt niệm nam mô Phật, Cửa từ bi công đức xiết bao. Càng trông phong cảnh càng yêu. Bài hát đã trở thành bài ca “phải thuộc” của không biết bao nhiêu thế hệ đào nương Hà Nội từ trước tới nay. “Ông tài hoa phong nhã, chữ tốt, đàn 206 và hát đều giỏi, trống cô đầu rất hay”. Có lẽ vì vậy mà giới Ca trù Hà Nội coi ông là thi nhân Ca trù của đất Hà Thành. Nguyễn Khắc Hiếu (1888 - 1939), hiệu Tản Đà, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (Hà Nội). Ông hợp tác với Phạm Quỳnh viết nhiều bài cho Tạp chí Nam Phong, làm chủ bút Tạp chí Hữu Thanh, chủ bút An Nam tạp chí. Ngoài những tác phẩm văn học, thơ, ông cũng là tác giả của rất nhiều bài Hát nói lừng danh: Chưa say, Say, Lại say, Trời mắng, Nhớ Gia Cát sáu lần ra Kỳ Sơn, Gặp xuân, Xuân tình, Hơn nhau một chén rượu mời, Cánh bèo, Đời đáng chán và Hỏi gió. Cùng với các tác giả Hát nói lừng danh trên đây, Hà Nội còn có: - Dương Lâm (1849 - 1920) hiệu Vân Hồ, là em Dương Khuê. - Nguyễn Thượng Hiền (1867 - 1926) hiệu Mai Sơn, quê ở làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. - Trần Lê Kỷ (1864 - 1920) ở làng Bát Tràng, huyện Văn Giang, Hà Nội. - Dương Tự Nhu (1876 - 1930) con của Dương Khuê. - Trần Tán Bình (1869 - 1953) quê ở làng Do Lễ, huyện Thường Tín, Hà Nội. - Hoàng Cảnh Tuân (1872 - 1959) quê ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Cùng rất nhiều tác giả khác nữa, họ là những bậc túc nho, giỏi giang quốc ngữ, say đắm Ca trù và cũng đã viết nên nhiều tác phẩm Hát nói để đời. 207 Phụ lục 5 MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA Hình 1. Một văn bia xác nhận quyền lợi của giáo phường hát ca trù thời xưa Hình 2. Hát ả đào ngày xưa 208 Hình 3. Những cô gái hát cửa đình (hát ca trù, ả đảo) một lối hát vào dịp lễ hội ở đình làng Hà Nội ngày xưa Hình 4. Ca trù một thời đã bị đánh đồng với các loại hình sinh hoạt thiếu lành mạnh (giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX) 209 Hình 5. Lễ đón nhận bằng UNESCO ghi danh ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp Hình 6. Ca trù là một loại hình nghệ thuật độc đáo, có giá trị đặc biệt trong kho tàng âm nhạc truyền thống Việt Nam, gắn liền với lễ hội, tín ngưỡng, phong tục, văn chương, âm nhạc và tư tưởng của dân tộc 210 Hình 7. Một số nhạc cụ trong ca trù Hình 8. Động tác cúi đầu chào khách của một cô đào trước khi được biểu diễn 211 Hình 9. Giáo phường Thăng Long đẩy mạnh hoạt động đưa ca trù đến với công chúng (Trong ảnh là cố nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc, ca nương Phạm Thị Huệ và nghệ nhân đàn đáy Nguyễn Phú Đẹ) Hình 10. Một buổi biểu diễn của CLB ca trù Hà Nội 212 Hình 11. CLB ca trù Thái Hà với bảy đời nối nghiệp cầm ca (trong ảnh là ca nương Kiều Anh trong một chầu hát cùng ông nội - nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi và bác ruột - NSƯT Nguyễn Văn Khuê) Hình 12. Tiết mục múa Bỏ bộ của CLB Ca trù Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội) trong Liên hoan Ca trù toàn quốc năm 2014 213 Hình 13. Những buổi biểu diễn ca trù cũng thu hút hàng trăm du khách trong và ngoài nước Hình 14. Du khách thích thú với việc sử dụng các loại nhạc cụ ca trù 214 Hình 15. Du khách thích thú ghi lại những cảm xúc sau buổi biểu diễn Hình 16. Những dòng cảm nghĩ của du khách sau khi nghe hát ca trù 215 Hình 17. Thế hệ kế cận hát ca trù Hình 18. Lớp ca nương trẻ sẽ là lực lượng kết tục và phát huy di sản ca trù (Nguồn: Ảnh do tác giả chụp và ảnh trên một số trang mạng internet: vnexpress.net; dantri.com.vn; catruthanglong.vn; hanoicatru.vn,)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_hoat_dong_bieu_dien_nghe_thuat_ca_tru_cua_mot_so_cau.pdf
Tài liệu liên quan