Luận án Kết cấu truyện ngắn của O.henry

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ THANH TÂM KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN CỦA O.HENRY LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ THANH TÂM KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN CỦA O.HENRY Ngành: Văn học nước ngoài Mã số: 9 22 02 45 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn: 1. GS.TS. Lê Huy Bắc 2. TS. Đào Thị Thu Hằng HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi d

pdf172 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Luận án Kết cấu truyện ngắn của O.henry, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Lê Huy Bắc và TS. Đào Thị Thu Hằng cùng với sự góp ý của các nhà khoa học. Những vấn đề được trình bày trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả luận án Lê Thị Thanh Tâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................... 9 1.1. Nghiên cứu chung về cuộc đời, sự nghiệp O.Henry .......................... 9 1.1.1. Trên thế giới ................................................................................ 9 1.1.2. Ở Việt Nam ............................................................................... 12 1.2. Nghiên cứu nghệ thuật truyện ngắn của O.Henry .......................... 14 1.2.1. Trên thế giới .............................................................................. 14 1.2.2. Tại Việt Nam ............................................................................. 18 1.3. Nghiên cứu kết cấu trong truyện ngắn O.Henry ............................ 26 1.4. Về khái niệm “kết cấu” và kết cấu của truyện ngắn ...................... 29 1.4.1. Tình hình nghiên cứu khái niệm kết cấu ................................... 29 1.4.2. Tình hình nghiên cứu kết cấu trong truyện ngắn ...................... 32 Chương 2: NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ GIỌNG KỂ TRONG TRUYỆN NGẮN O.HENRY.................................................................... 36 2.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trong tác phẩm tự sự .................... 36 2.1.1. Vai trò của người kể chuyện trong cấu trúc truyện kể .............. 36 2.1.2. Mối quan hệ giữa người kể chuyện với điểm nhìn trần thuật trong cấu trúc tự sự của văn bản ......................................................... 38 2.2. Người kể chuyện với điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn của O.Henry ............................................................................................... 40 2.2.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong ......... 40 2.2.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba, “biết tuốt” với điểm nhìn toàn tri trong truyện ngắn của O.Henry ...................................................... 45 2.2.3. Đan xen người kể với sự phức hợp điểm nhìn trong truyện ngắn của O.Henry ............................................................................... 50 2.3. Điểm nhìn với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong truyện ngắn của O.Henry ......................................................................... 57 2.3.1. Điểm nhìn với nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ ..... 57 2.3.2. Điểm nhìn với nghệ thuật xây dựng hình tượng những kẻ lừa đảo lương thiện ............................................................................. 61 2.4. Giọng kể trong truyện ngắn của O.Henry ....................................... 65 2.4.1. Giọng điệu triết lý ..................................................................... 65 2.4.2. Giọng điệu hài hước .................................................................. 70 2.4.3. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình ....................................................... 74 Chương 3: KẾT CẤU KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN O.HENRY.................................................................... 80 3.1. Kết cấu không gian nghệ thuật trong cấu trúc truyện kể .............. 80 3.1.1. Vai trò của không gian nghệ thuật trong cấu trúc truyện kể ..... 80 3.1.2. Đặc tính không gian nghệ thuật trong cấu trúc truyện kể ......... 82 3.2. Không gian thành thị trong truyện ngắn của O.Henry .................. 84 3.2.1. Không gian căn phòng chật chội, tăm tối ................................. 84 3.2.2. Không gian thành phố ảo não, buồn lặng ................................. 89 3.3. Không gian nông thôn trong truyện ngắn của O.Henry ................ 97 3.3.1.Thảo nguyên mênh mông ở miền quê nước Mỹ ........................ 97 3.3.2. Cuộc sống sinh hoạt của người dân nông thôn trong truyện ngắn O.Henry .................................................................................... 100 3.4. Dịch chuyển không gian trong truyện ngắn của O.Henry ........... 102 Chương 4: KẾT CẤU CỐT TRUYỆN KẾT THÚC BẤT NGỜ TRONG TRUYỆN NGẮN O.HENRY .................................................. 109 4.1. Vai trò của yếu tố kết thúc trong cấu trúc truyện kể ................... 109 4.2. Cốt truyện kết thúc bất ngờ trong kết cấu truyện ngắn của O.Henry .................................................................................................... 112 4.2.1. Yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ trong kết cấu truyện ngắn ........... 112 4.2.2. O.Henry với cốt truyện kết thúc bất ngờ ................................ 115 4.3. Các dạng thức cốt truyện kết thúc bất ngờ trong truyện ngắn của O.Henry ............................................................................................. 119 4.3.1. Cốt truyện kết thúc bất ngờ với sự lũy tích cái ngẫu nhiên .... 119 4.3.2. Cốt truyện kết thúc bất ngờ với sự vượt qua thử thách của nhân vật . 125 4.3.3. Kết thúc bất ngờ với cốt truyện liên văn bản .......................... 132 KẾT LUẬN .............................................................................................. 142 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KH O ............................................... 147 PHỤ LỤC ................................................................................................. 164 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Mỹ không những là quốc gia có nền kinh tế, kỹ thuật phát triển hiện đại bậc nhất thế giới mà còn là nơi có nền văn học đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nền tảng văn học Mỹ được xây dựng trên những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, những câu chuyện cổ tích và những bài ca trữ tình của người da đỏ. Tuy nhiên, tiếp xúc đầu tiên và liên tục giữa nước Mỹ với phần còn lại của thế giới chỉ được bắt đầu khi nhà thám hiểm tài ba Christopher Columbus tìm ra châu Mỹ dưới sự tài trợ của nữ hoàng Tây Ban Nha – Isabella. Những nỗ lực thực dân hóa đầu tiên của người Anh quả là một thảm họa, nhưng đây chính là bối cảnh để tạo nên giai đoạn văn học hướng đến việc mô tả nước Mỹ với nhiều màu sắc rực rỡ như là miền đất hứa hẹn sự giàu có và nhiều cơ hội. Các tác phẩm miêu tả thời kỳ thuộc địa đã trở thành những áng văn nổi tiếng trên thế giới. Cuộc cách mạng Mỹ chống lại người Anh (1775-1783) là cuộc chiến tranh giải phóng hiện đại đầu tiên chống lại một cường quốc thực dân. Chiến thắng vang dội của cuộc đấu tranh giành độc lập đã cho thấy những tiên đoán về số mệnh làm nên những điều vĩ đại của nước Mỹ và người dân Mỹ. Chiến thắng quân sự đã thắp sáng niềm hy vọng về chủ nghĩa dân tộc và làm nảy sinh một nền văn học mới. Đó là giai đoạn văn học ý thức đến sự giải phóng cho văn học Mỹ đã bị trì hoãn bởi mối liên hệ còn sót lại với nước Anh thể hiện qua sự bắt chước và mô phỏng thái quá những hình mẫu văn học cổ điển hoặc theo kiểu Anh quốc, tạo nên diện mạo mới về sự độc lập của văn học Mỹ. Hành trình lập quốc vô cùng phức tạp có lẽ là lí do tạo nên một nền văn học Mỹ đa dạng. Hầu như ở thời kì nào trong lịch sử, văn học Mỹ đều luôn xuất hiện nhiều khuynh hướng, trào lưu sáng tác. Nhiều nhà văn sáng tác theo lối đa phong cách. Tính chất dung hợp này thể hiện khá rõ trong sáng tác của nhiều nhà văn tên tuổi của Mỹ. 2 Cùng với Edgar Poe, Nathaniel Hawthorne, Bret Harte, O.Henry (bút danh của William Sidney Porter) được xem là một trong bốn cây bút chủ đạo của truyện ngắn Mỹ. Điều đặc biệt, truyện ngắn O.Henry được giới nghiên cứu đánh giá đạt đến những tiêu chí mẫu mực của thể loại mà từ đó nhiều nhà văn sau này đã kế thừa và sáng tạo nên những đặc điểm mới dựa trên tinh hoa truyện ngắn của ông. Những cảm xúc trái chiều trong những năm tháng cuộc đời với tuổi ấu thơ nhiều bất hạnh, tuổi trưởng thành với những trải nghiệm khi phiêu lưu qua nhiều miền đất của Mỹ và cuộc hôn nhân kém may mắn được xem là những xúc tác mạnh mẽ tạo nên những trang truyện ngắn thấm đẫm tinh thần nhân văn. Là nhà văn sáng tác vào cuối thế kỉ XIX sang thập niên đầu thế kỉ XX, truyện ngắn của O.Henry thể hiện tính chất dung hợp giữa tinh thần của chủ nghĩa lãng mạn với chủ nghĩa hiện thực. Với hơn 400 truyện ngắn được sáng tác trong một thời gian không quá dài, O.Henry thực sự tạo nên một cột mốc kì lạ trong văn học Mỹ bởi sự đón chào nồng nhiệt của người đọc tại Mỹ và trên toàn thế giới. Giải thưởng O.Henry ra đời như đã thể hiện niềm tin của người yêu văn chương dành cho truyện ngắn của ông. Truyện ngắn O.Henry kết tinh những giá trị văn chương cổ điển bên cạnh sự hé lộ những kĩ thuật viết hiện đại. Những trang văn tràn đầy sức sống của ông thể hiện tài năng của một bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng tiếng lóng, tiếng địa phương và khẩu ngữ kết hợp với lối trần thuật linh hoạt tạo nên một bức tranh đa diện về cuộc đời. Với truyện ngắn O.Henry, chủ nghĩa lãng mạn của văn học Mỹ đã tồn tại “gối tiếp” chứ không phải “nối tiếp” bên cạnh chủ nghĩa hiện thực. Thông điệp về cuộc sống luôn được nhà văn tinh tế lồng ghép với nghệ thuật kể chuyện tạo kết thúc bất ngờ cùng với thế giới ẩn dụ và biểu tượng văn hóa sinh động. Nước Mỹ qua trang văn của ông hiện lên như một bức tranh hội họa ấn tượng với nhiều gam màu lạ, độc đáo. Hành trình cuộc đời nhiều biến cố và thăng trầm của nhà văn này cũng giống với hành trình giới nghiên cứu nhìn nhận và đánh giá về một hiện tượng 3 văn học phức tạp và gây nhiều tranh cãi. Ở Việt Nam, truyện ngắn O.Henry được giới thiệu khá sớm và công phu qua nhiều công trình nghiên cứu mang tính học thuật cao. Tuy nhiên, sự quan tâm hiện nay giành cho truyện ngắn của O.Henry vẫn chưa thật thỏa đáng khi những bí mật văn chương nằm trong sáng tác của ông vẫn đủ sức gợi lên những tìm tòi và khám phá mới. Lí giải những điều bí ẩn làm nên giá trị truyện ngắn của O.Henry là vấn đề cần được nghiên cứu tiếp trong bối cảnh văn học Việt Nam đang tham gia vào tiến trình hội nhập toàn cầu hóa với văn học thế giới. Khẳng định tính đặc biệt và qua đó nhìn nhận sự kế thừa và cách tân của truyện ngắn O.Henry là việc làm không những giúp nhận diện vị trí của O.Henry trong dòng chảy của văn hóa, văn học Mỹ mà còn có ý nghĩa khoa học trong việc chỉ ra những tiếp biến và ảnh hưởng của các cây bút truyện ngắn khác từ khuôn mẫu thể loại do O.Henry tạo ra. 1.2. Kết cấu thể loại tự sự, đặc biệt là kết cấu truyện ngắn luôn là nền tảng tạo nên thành công của nhà văn, bởi kết cấu được xem là hệ thống kí hiệu đầy hấp dẫn khi hơn bất kì yếu tố nào hết trong chỉnh thể văn bản văn học, kết cấu luôn vẫy gọi từ người đọc những diễn giải mới tùy thuộc vào chính người đọc. Kết cấu không chỉ là nghệ thuật tổ chức, sắp xếp các sự kiện, biến cố, tuyến nhân vật, tuyến người kể chuyện ở bề nổi văn bản mà quan trọng hơn là ở nghệ thuật xây dựng thông điệp và những vấn đề nhân sinh đằng sau văn bản. Kết cấu truyện ngắn là một kí hiệu đầy ắp nghĩa mà sự giao tiếp và giải mã nó luôn cần đến những quan tâm khác của người đọc về bối cảnh văn hóa tạo nên văn bản. Đặc sắc truyện ngắn O.Henry chủ yếu nằm ở nghệ thuật tổ chức kết cấu. Với nghệ thuật xây dựng kết cấu nhân vật, không gian, cốt truyện độc đáo cùng với sự phối kết, đan xen và di chuyển của điểm nhìn trần thuật, sự hòa quyện của những sắc thái giọng điệu khác nhau, kết cấu truyện ngắn O.Henry đã thể hiện tài năng độc đáo của nhà văn. Nhìn từ phương diện này, truyện ngắn của ông đã phần nào thể hiện được sự vận động 4 của truyện ngắn từ cổ điển sang hiện đại, hậu hiện đại của văn học Mỹ. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hiện nay, những nghiên cứu về vấn đề kết cấu trong truyện ngắn của O.Henry chỉ dừng lại những nghiên cứu vấn đề nhỏ như cái kết bất ngờ hoặc là những nghiên cứu trường hợp về một số truyện ngắn cụ thể, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách công phu, hệ thống để có cái nhìn toàn diện về đặc sắc kết cấu trong truyện ngắn O.Henry. Xuất phát từ những lí do trên khiến đề tài mà chúng tôi lựa chọn, Kết cấu truyện ngắn của O.Henry, chứa đựng các tình huống khoa học và mang tính cấp thiết. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm ra nét đặc thù trong nghệ thuật kết cấu truyện ngắn O.Henry. Quá đó, chỉ rõ cội nguồn của sức hấp dẫn từ cây bút bậc thầy và khẳng định vị trí của O.Henry trong tiến trình truyện ngắn của Mỹ và nhân loại. Ứng với mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là tập trung làm nổi bật cách thức nhà văn vận dụng những kinh nghiệm văn chương của mình để xây dựng kết cấu truyện ngắn. Để làm sáng tỏ điều đó, chúng tôi tập trung tìm hiểu trên ba phương diện kết cấu nghệ thuật của O.Henry. Đó là kết cấu người kể; không gian nghệ thuật và cốt truyện. Qua đó, luận án sẽ lí giải nguồn gốc tạo nên thế giới nghệ thuật độc đáo, cũng như nhận diện những nét tương đồng và khác biệt về kết cấu trong truyện ngắn O.Henry so với các tác giả khác và chỉ ra phong cách truyện ngắn O.Henry. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của đề tài là kết cấu trong truyện ngắn O.Henry thể hiện trên các phương diện kết cấu trần thuật qua người kể; kết cấu không gian và kết cấu cốt truyện. 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn của O.Henry. Giới hạn phạm vi tư liệu tác phẩm mà chúng tôi lựa chọn để khảo sát bao gồm các truyện ngắn được tuyển dịch trong tập Truyện ngắn O.Henry (nhiều dịch giả), Nxb Văn học, Hà Nội, 2012 và các tập truyện ngắn sau: - Tập truyện Bốn triệu (Four Million) - Tập truyện Đèn trang trí (The Trimmed Lamp) - Tập truyện Tiếng nói thị thành (The Voice of the City) - Tập truyện Trái tim miền Tây (Heart of the West) - Tập truyện Người ghép cây hiền lành (The Gentle Grafter) - Tập truyện Đường định mệnh (Roads of Destiny) - Tập truyện Lựa chọn (Options) - Tập truyện Công việc nghiệt ngã (Strictly Business) - Tập truyện Con quay (Whirligigs) - Tập truyện Sáu và bảy (Sixes and Sevens) - Tập truyện Đá lăn (Rolling Stones) - Tập truyện Trẻ bơ vơ (Waifs and Strays) - Tập truyện Đọc lại O.Henry (O.Henry Encore) - Tập truyện Thư nhắn Lithophis của O.Henry gởi Mabel Wagnalls (Letters to Lithophis from O’Henry to Mabel Wagnalls - 1922). - Tập truyện Tái bút (Posts criptc - 1923). - Tổng tập O.Henry (The Complete Works of O.Henry - 1953). - Tập truyện Buồng tầng thượng và những truyện ngắn khác (The Skylight Room anđ Other Stories - 1972). Phạm vi các truyện ngắn mà chúng tôi đã khảo sát xin xem chi tiết ở phần Phụ lục. Ngoài ra, để làm nổi bật đặc sắc kết cấu truyện ngắn O.Henry, chúng tôi có mở rộng phạm vi khảo sát truyện ngắn của một số tác giả văn học khác như Edgar Allan Poe, Jack London, Ernest Hemingway 6 4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý thuyết Để triển khai đề tài Kết cấu truyện ngắn của O.Henry, chúng tôi đã vận dụng lý thuyết thi pháp học, tự sự học, lý thuyết liên văn bản, lý thuyết kí hiệu học về cấu trúc truyện kể là chủ đạo. Bên cạnh đó, những vấn đề mà chúng tôi đặt ra trong luận án này còn được diễn giải từ góc nhìn văn hóa học. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu. Trong đó phương pháp cấu trúc - hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp liên ngành, phương pháp phân tích – tổng hợp là những phương pháp chủ đạo. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Với việc xem toàn bộ truyện ngắn của O.Henry như một hệ thống, phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu mối quan hệ giữa các phương diện thể hiện kết cấu truyện ngắn của nhà văn. Trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố trong một chỉnh thể thống nhất luận án rút ra những kết luận, đánh giá cần thiết. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để phân tích các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Từ đó, chúng tôi tiến hành tổng hợp, đánh giá, rút ra những điểm mà luận án có thể kế thừa kết quả của người đi trước, đồng thời xác lập các vấn đề nghiên cứu mà đề tài cần quan tâm giải quyết. Bên cạnh đó, phương pháp phân tích còn giúp chúng tôi luận giải các vấn đề kết cấu trong truyện ngắn O.Henry và tổng hợp, nâng cao thành các luận điểm. Thông qua đó, luận án sẽ nhận diện những điểm độc đáo trong nghệ thuật tổ chức kết cấu của nhà văn. Phương pháp so sánh (đồng đại, lịch đại): Phương pháp này được sử dụng để chỉ ra những kế thừa và cách tân của nghệ thuật kết cấu truyện ngắn O.Henry trong dòng chảy của văn học Mỹ. Phương pháp liên ngành: Phương pháp liên ngành là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng và chủ đạo trong khoa học xã hội và 7 nhân văn hiện nay. Đặc biệt, việc sử dụng phương pháp này là tất yếu trong nghiên cứu kết cấu truyện ngắn O.Henry, bởi vấn đề kết cấu cần được giải mã từ nền tảng của các ngành khoa học khác như ngôn ngữ học, văn hóa học, tâm lý học, lí thuyết diễn ngôn, kí hiệu học về cấu trúc truyện kể Vì vậy, phương pháp liên ngành giúp chúng tôi tiếp cận được bản chất của vấn đề nghiên cứu từ quan điểm của nhiều ngành khoa học, phối hợp lí thuyết của nhau, sử dụng các khái niệm để giải mã những ẩn số văn hóa, qua đó có cái nhìn toàn diện, thấu tỏ đặc trưng kết cấu truyện ngắn O.Henry. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án Kết cấu truyện ngắn của O.Henry từ cách tiếp cận liên ngành đã nhận diện những đặc điểm nổi bật của kết cấu truyện ngắn O.Henry, đồng thời lí giải cội nguồn, nền tảng văn hóa tạo nên phong cách truyện ngắn đặc sắc của nhà văn. Thông qua nghiên cứu kết cấu, chúng tôi tìm hiểu tư tưởng cốt lõi trong tư duy nghệ thuật của O.Henry. Qua đó, người viết khẳng định phong cách tự sự bậc thầy cũng như giá trị nhân văn của cây bút tài hoa này. Với những kết quả nghiên cứu được, luận án sẽ góp phần khẳng định dấu ấn, đóng góp của nhà văn trong tiến trình vận động của truyện ngắn từ cổ điển đến hiện đại, hậu hiện đại. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Ý nghĩa lí luận: luận án đã vận dụng các lí thuyết văn học hiện đại như tự sự học, thi pháp học, văn hóa học, phân tâm học, kí hiệu học, phê bình cổ mẫu, để nghiên cứu kết cấu truyện ngắn O.Henry. Điều đó thể hiện vai trò, ý nghĩa cấp thiết của lí thuyết kết cấu được đặt dưới ánh sáng của phương pháp tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu văn học nói riêng cũng như khoa học xã hội nhân văn nói chung hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ bổ sung những cách tiếp cận khác về truyện ngắn O.Henry ngoài khuynh hướng phê bình tiểu 8 sử, phê bình xã hội học đã thống trị từ trước đến nay ở Việt Nam. Đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về Văn học nước ngoài, Lý luận văn học và Văn học nước ngoài trong nhà trường phổ thông. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan nghiên cứu vấn đề Chương 2: Người kể chuyện và giọng kể trong truyện ngắn của O.Henry Chương 3: Kết cấu không gian trong truyện ngắn của O.Henry Chương 4: Kết cấu cốt truyện kết thúc bất ngờ trong truyện ngắn của O.Henry 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Nghiên cứu chung về cuộc đời, sự nghiệp O.Henry 1.1.1. Trên thế giới Truyện ngắn của O.Henry đã tạo nên tiếng vang lớn đối với nền văn học Mỹ. Sáng tác của ông đã nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trên toàn thế giới. Trong đó, hầu hết các nhà nghiên cứu đã tiếp cận truyện ngắn của ông từ góc nhìn phê bình tiểu sử. Vào năm 1914, trên tạp chí The Sewanee Review, (O.Henry; Author(s): Hyder E. Rollins; Source: The Sewanee Review, Vol. 22, No. 2 (Apr., 1914), pp. 213-232), nhà nghiên cứu Hyder E. Rollins từng nhận định: “Bốn năm sau khi O.Henry qua đời, tác giả truyện ngắn nổi tiếng nhất của Mỹ kể từ thời của Bret Harte, là khoảng thời gian vô cùng đặc biệt khi được đánh dấu bởi sự gia tăng một cách đột ngột số lượng người đọc và những cuộc thảo luận về sáng tác của O.Henry. Phiên bản đầu tiên công bố các tác phẩm hoàn chỉnh của ông được bán với giá đáng kinh ngạc là một trăm hai mươi lăm đô la. Khác với những năm trước đó, các ấn phẩm khác đã được phát hành với mức giá rẻ hơn rất nhiều” [168]. Hyder E. Rollins nói rằng giống nhiều người quan tâm đến O.Henry, thật ngạc nhiên khi có rất ít bài viết về tác giả này, và tên của ông đã bị bỏ qua trong nhiều cuốn sách tham khảo về miền Nam như The South in the Building of the Nation (Miền Nam trong xây dựng quốc gia) và The Library of Southern Literature (Thư viện văn học miền Nam). Do đó, thật thú vị để chúng tôi tìm hiểu một cách sâu hơn về O.Henry cũng như kĩ thuật viết của ông. Lí do mà Hyder E. Rollins đưa ra cũng góp phần lí giải nguyên nhân tại sao các nghiên cứu về tiểu sử của O.Henry xuất hiện nhiều đến vậy. Lúc sinh 10 thời, O.Henry gần như chưa được quan tâm và đặt đúng vị thế, thế nên tiểu sử và cuộc đời đầy biến động như một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu kỳ lạ đã trở thành đối tượng nghiên cứu cơ bản và trước tiên về O.Henry. Các nghiên cứu tiểu sử về O.Henry đều mô tả cuộc sống khó khăn của ông khi sinh ra tại vùng Greensboro, North Carolina, tuổi trưởng thành qua các vùng đất Texas, La Salle County, Houston, đến cuộc đời chạy trốn, lang bạt qua nhiều nơi khác nhau của nước Mỹ. Đặc biệt là quãng đời ngồi sau chấn song ở một nhà tù thuộc bang Ohio vì bị chính quyền kết án tội biển thủ ngân quỹ đến những năm tháng vinh quang khi thành danh ở New York, màu sắc u ám của cuộc hôn nhân thứ hai không hạnh phúc và cái chết đơn côi. Hầu hết các công trình này đều dành tâm sức để nói về cuộc đời như một chuyến hành trình không nơi neo đậu của ông. Với mỗi giai đoạn, các học giả lại tập trung đối chiếu bối cảnh xã hội, văn hóa, biến động thời đại vào trong các câu chuyện được sáng tác về thời kỳ đó. Điều này rõ ràng đã mang lại nhiều hiểu biết về bản thân con người của tác giả cũng như khối lượng tác phẩm lớn của ông. Tiêu biểu như trong các bài viết: O.Henry (Nguồn: Texas Review, Vol. 2, No. 3 (JANUARY, 1917), pp. 248-259), tác giả Doren Carl Van nhận định: “Huyền thoại đã lớn lên cùng với O.Henry huyền thoại ấy cho thấy hình dáng của một nhà triết học đi theo những cuộc phiêu lưu thông qua hàng trăm nghề nghiệp ở hầu hết các khu vực của nước Mỹ, và cuối cùng đã trôi dạt về New York, khám phá ra một vùng đất mới đầy lãng mạn và đi qua những năm tháng còn lại của cuộc đời trong những khám phá kỳ lạ ấy” [160,250]. Đối tượng tầm nhìn của ông không phải là lịch sử hay đạo đức, như với Hawthorne, hay thế giới của những giấc mơ, như với Poe, mà chính là cái được ông gọi là những cuộc phiêu lưu. “Người phiêu lưu thực sự” là cách ông nói về mình trong tác phẩm Cánh cửa màu xanh (The Green Door), “ra đi không mục đích và không tính toán để gặp gỡ và chào đón số phận còn chưa biết đến” và “Một người không nhất thiết phải là một anh hùng hay một 11 triết gia để phiêu lưu như vậy. Điều đó là cần thiết để giữ cho tâm trí cởi mở, hy vọng, với một đôi mắt cẩn trọng, và một niềm đam mê không hối tiếc cho những tưởng thưởng mà một người đi săn tìm kiếm. Giống như một nhà khoa học, kẻ phiêu lưu muốn tìm ra sự thật về chính bản thân mình trong thực tế, nhưng anh ta muốn tất cả gặp nhau vào thời điểm mà sự giao thoa ấy dường như có ý nghĩa nghệ thuật. O.Henry đúng nghĩa là một kẻ phiêu lưu của loại hình này và là một người sành về phiêu lưu pha trộn đôi chút nhút nhát, đồng thời không ngừng trong khám phá địa hạt của lãng mạn trong sự phong phú đáng kinh ngạc ở những sáng tác của ông”. Việc nghiên cứu tiểu sử của O.Henry rõ ràng là việc làm cần thiết do chỗ bản thân bối cảnh xã hội lẫn đời sống riêng tư của ông đều chứa đựng màu sắc bất thường. Về phương diện nền tảng xã hội: Mỹ đầu thế kỷ XX là thế giới của sự bùng phát dữ dội các ngành công nghiệp và sự thịnh vượng dư thừa vật chất của giới thượng lưu. Sự hào nhoáng này hoàn toàn trái ngược với những cảm giác lo lắng bồn chồn và bất an được lèn chặt bên dưới về sự suy giảm đạo đức, sự đói nghèo về thế giới tinh thần. Tất cả những điều đó rõ ràng là hệ quả của chiến tranh đi kèm với nỗi sợ hãi, mất mát, lạc hướng và vỡ mộng. Có lẽ nhờ cuộc đời phong phú của tác giả nên các truyện ngắn của O.Henry (tổng cộng gần 400 truyện) cũng thể hiện các nét đa dạng của xã hội Mỹ đương thời. Người ta có thể tìm thấy những nhân vật làm các nghề mà chính tác giả đã trải qua, và vô vàn những mẫu hình nhân vật khác nữa: Từ chủ cửa hiệu, nhân viên bán hàng, ký giả, họa sĩ, bác sĩ, diễn viên sân khấu, thợ cắt tóc, cảnh sát, thanh tra, phu vàng, những người thất nghiệp vô gia cư, và kể cả kẻ tội phạm và tù nhân sau song sắt. Bối cảnh trong các truyện ngắn của O.Henry cũng phong phú như chính không gian cuộc đời mà ông đã kinh qua trên từng chặng đường phiêu bạt khắp nước Mỹ rộng lớn, trải dài qua ba khu vực Trung – Tây-Nam nước Mỹ. 12 Phần nổi bật trong số đó là nhiều câu chuyện lấy phông nền từ thành phố New York - nơi O.Henry sống tám năm cuối đời làm bối cảnh. Tất cả đều biểu hiện khung cảnh xã hội kinh tế nước Mỹ vào thời khoảng cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, lúc đường Thành phố New York còn được thắp sáng bằng đèn ga, xe ngựa là phương tiện để di chuyển chủ yếu, nhiều dân chăn bò vẫn còn sống bờ sống bụi và xem pháp luật bằng nửa con mắt, dân đi tìm vàng tự lập nên những thị trấn mới rồi “tự cai tự quản” Do đó, một trong những câu nói nổi tiếng của O.Henry khi trả lời sự thắc mắc của một người bạn về sự phong phú đáng kinh ngạc trong các sáng tác của ông, ông nói: “Những câu chuyện tồn tại trong mọi thứ. Tôi đã có những câu chuyện huyên thuyên tốt nhất của mình từ băng ghế công viên, những cột đèn đường và từ giá để tạp chí”. Ngoài ra, còn rất nhiều những bài báo khác tập trung nghiên cứu về những chi tiết, sự kiện hoặc những quãng đời nhất định trong cuộc đời kỳ lạ của O.Henry như: “O.Henry's Case Reconsidered (Tái xem xét trường hợp của O.Henry)” của tác giả Luther W. Courtney [American Literature, Vol. 14, No. 4 (Jan., 1943), pp. 361-371]. Trong đó, tác giả tái cân nhắc và bàn luận về thời điểm bị kết tội, tội trạng thực sự của O.Henry cũng như những ám ảnh về quá khứ tù tội của ông trong các sáng tác về sau. O.Henry's Life and Position (O.Henry: cuộc đời và vị thế) trên The Sewanee Review, Vol. 25, No. 2 (Apr., 1917), pp. 237-243), tác giả John Beaty xem xét địa vị vĩ đại của O.Henry trong dòng chảy văn học và văn hóa Mỹ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Nhà nghiên cứu khẳng định những đóng góp không thể chối cãi của O.Henry cho thể loại truyện ngắn. 1.1.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, Lê Huy Bắc là người nghiên cứu khá sớm và công phu về tiểu sử O.Henry và vai trò của tiểu sử đó đối với sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Trong chuyên luận Lịch sử văn học Mỹ, ông đã dành riêng một chương 13 nghiên cứu tác giả này về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác. Tiểu sử O.Henry với những năm tháng tuổi thơ nhiều tổn thương tình cảm, những thăng trầm của gia đình và những biến cố cuộc đời được nhà nghiên cứu tìm hiểu công phu, tỉ mỉ và trình bày theo trình tự thời gian trong mục Cuộc đời sáng tạo nghệ thuật của O.Henry. Tác giả công trình cho rằng tuổi thơ của cây bút truyện ngắn Mỹ trải qua thời kì cay đắng của Nội chiến và tái thiết đất nước nên về sau, mặc dù những trải nghiệm khi ông trưởng thành ở những miền đất khác nhau luôn hiện diện trong tác phẩm, nhưng sự phân tích và đánh giá được xem là sâu sắc nhất bao giờ cũng chạm đến giai đoạn gian khó thuở thiếu thời. Nhiều nhà nghiên cứu lấy cuộc đời, gia đình, bạn bè, công việc để cắt nghĩa các truyện ngắn của O.Henry. Tuy nhiên, Lê Huy Bắc lại cho rằng không thể dùng những yếu tố trên như một nhân tố cốt lõi để giải thích việc thành công trong nghề nghiệp với tư cách là một nhà văn hoặc sự thất bại đau đớn với tư cách là một con người mà sâu xa hơn nó góp phần hình thành nên “nhân tố ngược” trong tố chất nghệ sĩ của O.Henry. Tác giả xem “nhân tố ngược” đã giúp O.Henry “xử lý thành công những vấn đề tinh tế, phức tạp trong đời sống xã hội cũng như đời sống tâm hồn của con người. Những nhân tố ngược ấy giống như toàn bộ giá trị nghệ thuật mà ông đã mê hoặc hàng triệu trái tim độc giả nhưng vẫn chịu không ít lời chỉ trích của các phê bình gia” [19,386]. Những năm tháng sau cuộc Nội chiến kết thúc thực sự là khoảng thời gian khó khăn với nhà văn khi người mẹ qua đời. Cuộc sống bên cạnh người nuôi dạy O.Henry – Evalina Marya Porter (cô Lina) đã mang đến cho ông không những hơi ấm tình yêu của một người mẹ mà còn mở ra cho nhà văn thế giới của niềm đam mê sách vở mà từ đó, O.Henry được tiếp xúc với những nguyên tắc sáng tạo nghệ thuật. Những năm tháng trưởng thành là những năm tháng O.Henry tự học, miệt mài nghiền ngẫm các kiệt tác của Homer, Shakespeare mà sau này dựa trên những kinh nghiệm trong việc tái hiện hiện thực xã hội và tâm lý con người của các bậc thầy, O.Henry đã mở cho 14 mình một lối đi riêng giữa khu rừng văn chương. Đánh giá điều này, tác giả chuyên luận viết: “Cuộc đời phiêu bạt của Will (tức O.Henry), óc quan sát và khả năng tiêu hóa tri thức nhân loại trong sách vở đã mang đến cho Will một kĩ năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy. Mãi đến cuối thế kỉ XX, giới nghiên cứu vẫn khẳng định tính hiện đại trong ngôn từ nghệ thuật O.Henry” [19,388]. Tính chất mới mẻ, sinh động trong cách sử dụng ngôn từ của O.Henry được kết hợp bởi tính bác học từ sách vở với sự trải nghiệm trong cuộc đời xê dịch của ông. Lê Huy Bắc cho rằng thế kỉ XX chào đón con người tự do – nhà văn O.Henry nhưng cuộc đời nhà văn này chỉ kéo dài thêm chín năm và đó là “chín năm của một cuộc sống khác, với những cảm...yện của O.Henry trong kỹ thuật chuyển hướng truyện và giá trị giải trí mà các tác phẩm của ông mang lại. Một số nhà phê bình ở độ tuổi hai mươi đã thẳng thắn chỉ ra ý nghĩa “giải thoát” trong các sáng tác của O.Henry. Họ nói, “thật dễ chịu khi sau một ngày với cuộc sống nhàm chán và không hạnh phúc được thưởng thức niềm vui lạ lùng trong những câu chuyện ấy”. Còn nhà nghiên cứu Eikhenbaum lại nhấn mạnh sự quyến rũ trí tuệ trong những câu chuyện của O.Henry và cho rằng người Nga đọc chúng chủ yếu để thưởng thức. 1.4. Về khái niệm “kết cấu” và kết cấu của truyện ngắn 1.4.1. Tình hình nghiên cứu khái niệm kết cấu Mỗi văn bản văn học là một chuỗi kí hiệu đầy ắp nghĩa, là một “kí hiệu quyển”. Ở đó, kết cấu là hệ thống kí hiệu vô cùng quan trọng để biểu đạt thế giới nghệ thuật của văn bản. Kết cấu còn là sự mã hóa nghệ thuật độc đáo của nhà văn, để thông qua đó, tác giả thể hiện nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Đồng thời, kết cấu còn là mảnh đất để nhà văn thể hiện tài năng tổ chức, sắp xếp, bố trí các chi tiết, sự kiện tạo thành chỉnh thể nghệ thuật. Với vai trò đó, kết cấu đã tham gia vào sự vận động và phát triển của các trào lưu và phương pháp sáng tác. Nếu thể loại được xem là xương sống của lịch sử văn học thì kết cấu cũng có thể xem là xương sống trong sự vận động và phát triển của các thể loại. Bởi vậy, nói đến sự vận động và phát triển của các 30 trào lưu trong các giai đoạn văn học khác nhau, không thể không nhắc đến vấn đề kết cấu. Nội hàm của khái niệm kết cấu đã sớm nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới và ở Việt Nam. Hầu hết các công trình bàn về khái niệm kết cấu đều đi đến thống nhất rằng kết cấu là sự tổ chức, sắp xếp, bố trí và kết nối các hình thức văn bản để tạo thành văn bản nghệ thuật hoàn chỉnh. Nếu bố cục thiên về sự phân chia chương mục, đoạn văn thì kết cấu văn bản gồm có kết cấu bề nổi và kết cấu chiều sâu. Lê Thời Tân trong bài viết Nhận thức lại vấn đề kết cấu tác phẩm văn học dưới ánh sáng Cấu trúc luận đã cho rằng khái niệm kết cấu vừa có tính chất danh từ vừa có tính chất động từ: “Trước hết đối với nhà văn mà nói, kết cấu là có tính động từ. Nhà văn lựa chọn đề tài, tiến hành cấu trúc lại tài liệu hiện thực đời sống. Kế đó, trên phương diện văn bản tác phẩm mà nói, kết cấu chính là chỉ sự tổ chức các nhân tố nghệ thuật đã được xác định vào bố cục văn bản cụ thể. Lúc này, kết cấu chính là có tính cách của một danh từ. Cuối cùng, quá trình đọc hiểu tác phẩm yêu cầu độc giả tiến hành một sự tìm hiểu song song đồng thời với quá trình đọc rồi tiếp liền đó là một sự bao quát tổng thể tác phẩm sau khi đọc có tính chất cấu trúc hoá, để rồi có thể có được một hình dung trong ký ức về một nội dung hoàn chỉnh (the achieved content). Kết cấu ở đây tương đương với việc độc giả trên cơ sở văn bản tác phẩm cụ thể cấu trúc lại một hình tượng trong ký ức của sự đọc. Đây là quá trình động, trong quá trình này mà nói, kết cấu cũng có ý nghĩa như là một động từ” [127]. Theo tinh thần của Cấu trúc luận, khái niệm kết cấu gắn chặt chẽ với cấu trúc văn bản. Kết cấu vừa là sự mã hóa văn bản của nhà văn, vừa là sự giải mã kí hiệu của người đọc. Kết cấu được định hình bởi người sáng tạo ra nó, đồng thời lại được thiết lập thông qua người đọc. Góc nhìn biện chứng này cho thấy vai trò và sự hấp dẫn của kết cấu trong cấu trúc văn bản văn học. Giải mã kết cấu trở thành khuynh hướng nghiên cứu mời gọi những cách đọc 31 hiểu văn bản đa dạng, từ đó, ý nghĩa của văn bản văn học được phát lộ theo chiều tầng bậc khác nhau. Phạm Thị Thật trong bài viết Các kiểu kết cấu của truyện ngắn Pháp đương đại cũng bàn về kết cấu truyện ngắn. Tác giả cho rằng: “kết cấu là một yếu tố của hình thức tham gia thể hiện chủ đề nội dung và tư tưởng tác phẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc biến tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật. Kết cấu tác phẩm không chỉ tuân theo quy định thể loại trực thuộc, mà còn chịu sự chi phối của một số yếu tố khác như quan điểm Mỹ học của các nhà văn qua các giai đoạn lịch sử khác nhau” [129,230]. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả định nghĩa kết cấu là sự “tổ chức hệ thống tính cách, cách tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện, sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật” [109,157]. Liên quan đến khái niệm kết cấu, còn có khái niệm cấu trúc. M. H. Abrams trong cuốn Chú giải thuật ngữ văn học, ở mục Hình thức và cấu trúc (structure) có nhận định: “Nhiều nhà Phê bình Mới sử dụng thuật ngữ “cấu trúc” không phân biệt với thuật ngữ “hình thức”, và chủ yếu coi nó là một trạng thái cân bằng, hoặc tương tác, hoặc căng thẳng mỉa mai và nghịch lý, của các từ và hình ảnh đa dạng trong tổng thể “nghĩa” được tổ chức. Nhiều nhà diễn giải nghĩa của lý thuyết cổ mẫu coi hình thức của một tác phẩm văn học là một trong số các dạng cốt truyện ít ỏi có mối quan hệ với thần thoại, nghi lễ, giấc mơ và với các mô hình cốt lõi và tái sinh trong kinh nghiệm của con người. Các nhà phê bình cấu trúc hình dung một cấu trúc văn học dựa trên mô hình của một cách thức hệ thống mà một ngôn ngữ được cấu trúc. Trong cách phê bình táo bạo và có ảnh hưởng, R. S. Crane, một thủ lĩnh của trường phái Phê bình Chicago, đã hồi sinh và phát triển khái niệm hình thức trong cuốn Thi pháp học của Aristotle, và đã đưa ra sự phân biệt giữa 32 “hình thức” và “cấu trúc”. Hình thức của một tác phẩm văn học là (theo thuật ngữ Hy Lạp) “động lực học”, “hoạt động” một cách đặc biệt hoặc là “nguồn lực cảm xúc”, mà sự tạo tác được thiết kế để tạo hiệu quả, có chức năng như là “nguyên tắc tạo hình” của nó. Nguyên tắc hình thức này kiểm soát và tổng hợp “cấu trúc” của một tác phẩm – đấy là trật tự, điểm nhấn và thể hiện tất cả các chủ đề và bộ phận cấu thành của nó - thành “một tổng thể hấp dẫn và hiệu quả của một kiểu loại được xác định” [149,126]. Trong sách của mình, Abrams không đề cập đến khái niệm “kết cấu” (composition) mà chỉ viết về “cấu trúc”, các ý kiến của ông về “cấu trúc” lại khá giống với nội hàm khái niệm “kết cấu” đang được sử dụng ở Việt Nam. Theo định nghĩa của Abrams thì quan niệm về “hình thức” của tác phẩm sẽ quy định “cấu trúc” và cấu trúc chính là cách khiến hình thức của một tác phẩm hiện hình. Như thế cấu trúc chính là cách sắp xếp chủ quan của nhà văn về các sự việc, các hình thức thể hiện sự việc, nội dung và nghĩa của tác phẩm. Chúng tôi xem định nghĩa này là điểm tựa để triển khai đề tài. Như vậy, có thể thấy rằng kết cấu là phạm trù vô cùng quan trọng của văn bản văn học. Kết cấu là sự sắp xếp, tổ chức, kết nối các sự kiện chi tiết, hình tượng của văn bản văn học để tạo thành chỉnh thể. Kết cấu không chỉ là yếu tố được tạo ra từ tài năng nghệ thuật của nhà văn mà còn được thiết lập thông qua hoạt động diễn giải kí hiệu kết cấu trong quá trình giải mã văn bản của người đọc. Với ý nghĩa vô cùng quan trọng này, kết cấu là yếu tố vận động và phát triển cùng với sự vận động và phát triển của lịch sử văn học, đặc biệt là sự vận động và phát triển của các trào lưu, khuynh hướng và phương pháp sáng tác. 1.4.2. Tình hình nghiên cứu kết cấu trong truyện ngắn Kết cấu có vai trò vô cùng quan trọng trong cấu trúc văn bản, đặc biệt đối với truyện ngắn. Truyện ngắn là thể loại có dung lượng nhỏ, thể hiện một lát cắt đời sống. Nếu tiểu thuyết thường nhìn cuộc đời, sự vận động và phát 33 triển tính cách nhân vật với cái nhìn đời tư sâu rộng với nhiều đột biến, thì truyện ngắn chuyển tải cái nhìn ấy trong một lát cắt cuộc đời nhân vật. Đối với truyện ngắn, nhà văn luôn chịu áp lực và thách thức xây dựng kết cấu độc đáo để trong một dung lượng nhỏ nhất lại chuyển tải được nhiều nhất ý nghĩa của đời sống. Trong công trình Lí luận văn học, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Cốt truyện của truyện ngắn có thể là nổi bật, hấp dẫn, nhưng chức năng của nó nói chung là để nhận ra một điều gì. Cái chính của truyện ngắn là gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người”, còn kết cấu của truyện ngắn thường là “sự tương phản, liên tưởng” [99,398]. Sự vận động của truyện ngắn cổ điển đến hiện đại và hậu hiện đại đã cho thấy sự đổi mới, phát triển phong phú và đa dạng về các kiểu kết cấu. Có thể nói rằng, truyện ngắn cổ điển chú trọng vào kiểu kết cấu nhân quả (ở hiền gặp lành). Vì vậy, cuộc đời nhân vật thường được người đọc đoán trước được. Nó gắn liền với quy luật kết thúc có hậu. Kết cấu nhân vật, kết cấu không gian và thời gian thường được tổ chức theo kiểu đối lập. Đặc biệt kết cấu người kể chuyện thường đơn tuyến. Truyện ngắn hiện đại lại phức tạp và đa dạng hóa về kết cấu. Kiểu kết cấu cốt truyện kết thúc có hậu thường ít gặp, cuộc đời nhân vật cũng trở nên khó đoán hơn. Có truyện ngắn, người đọc gần như phải “tự viết” phần kết thúc cho câu chuyện. Với kết cấu mở, truyện ngắn hiện đại buộc người đọc phải can dự vào tiến trình câu chuyện, có quyền bày tỏ quan điểm và ý kiến của mình đối với số phận nhân vật. Vì thế người đọc trở thành đồng tác giả. Kết cấu tuyến tính trong truyện ngắn tiền hiện đại được thay thế bằng kết cấu phi tuyến tính, kết cấu trùng phức đa tầng bậc về người kể chuyện, kết cấu lắp ghép về cốt truyện Điểm nhìn của người kể chuyện không còn là điểm nhìn đơn tuyến mà phát triển phức tạp, di động, đan xen và lồng ghép vào nhau. 34 Có thể nói kết cấu truyện ngắn hậu hiện đại lại rất đặc biệt. Kết cấu của chúng thường lỏng đến mức mà người đọc có thể tháo dở các chi tiết, sự kiện, nhân vật rồi sắp xếp và cấu trúc nên những văn bản mới trong mạng lưới liên văn bản. Nhân vật không những không dự đoán được mà còn có sự xuất hiện của vô số các yếu tố tình cờ, ngẫu nhiên. Tất cả tạo thành kết cấu hỗn độn mà ở đó “tác giả đã chết” (Roland Barthes) và người đọc có thể giải cấu trúc, giải kết cấu truyện ngắn. Bởi vậy, nhờ kết cấu lỏng này, văn bản hậu hiện đại đề cao những giá trị ngoại biên được thiết lập thông qua tiến trình đọc hiểu của người đọc. Như vậy, có thể thấy rằng, kết cấu trong truyện ngắn hiện đại và hậu hiện đại đã vận động và phát triển không ngừng. Sự vận động này gắn liền với sự vận động của tư duy nghệ thuật, của giá trị văn hóa thời đại cùng những dự cảm nghệ thuật tinh tế của người nghệ sĩ. Kết cấu truyện ngắn qua các hệ hình văn học khác nhau đã thể hiện tư duy về hiện thực đời sống, tư duy mĩ học rất riêng biệt của chúng. Với ý nghĩa này, kết cấu đã tham dự vào hành trình đổi mới thể loại nói riêng và đổi mới văn học nói chung. 35 Tiểu kết Qua những công trình nghiên cứu về truyện ngắn của O.Henry bằng tiếng Anh và tiếng Việt trong giới hạn tiếp cận được, chúng tôi tạm phân loại những tài liệu nghiên cứu này theo ba nhóm: nhóm các công trình nghiên cứu truyện ngắn O.Henry nói chung; nhóm các công trình nghiên cứu kết cấu truyện ngắn O.Henry; và nhóm các công trình nghiên cứu về sự tiếp nhận của độc giả về nghiên cứu kết cấu trong truyện ngắn của O.Henry. Qua khảo sát và phân tích, chúng tôi thấy sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình văn học trên thế giới và ở Việt Nam đối với nhà văn này rất sôi nổi. Nhiều công trình nghiên cứu đã gợi mở cho tác giả luận án những ý tưởng nghiên cứu mới mẻ. Đối với nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến kết cấu truyện ngắn, chúng tôi tạm chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất là những công trình bàn về khái niệm và vai trò của kết cấu; nhóm thứ hai là những công trình nghiên cứu liên quan đến kết cấu trong truyện ngắn. Dựa trên tình hình nghiên cứu đã tiếp cận, chúng tôi xác định những vấn đề cần giải quyết trong luận án: Kết cấu truyện ngắn của O.Henry như sau: Thứ nhất, luận án cần nhận diện truyện ngắn O.Henry trong dòng chảy văn hóa, văn học Phương Tây nói chung và văn học Mỹ nói riêng từ bối cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội. Thứ hai là chỉ ra những đặc sắc trong nghệ thuật tổ chức kết cấu trần thuật, kết cấu cốt truyện và chỉ ra những dạng thức kết cấu của truyện ngắn O.Henry. Thứ ba là từ việc tìm hiểu vai trò, hiệu ứng của độc giả trong tiếp nhận kết cấu truyện ngắn của O.Henry đi đến giải thích vai trò, khả năng và giới hạn của cộng đồng diễn giải đối với truyện ngắn của nhà văn này. 36 Chương 2 NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ GIỌNG KỂ TRONG TRUYỆN NGẮN O.HENRY Chương này có mục đích tìm hiểu những vấn đề liên quan đến người kể, giọng kể, vai trò của người kể và giọng điệu đó đối với cấu trúc truyện kể, để từ đó nhận diện đặc điểm người kể trong truyện ngắn của O.Henry. Dựa trên cơ sở lý thuyết về người kể chuyện và thực tiễn sáng tác truyện ngắn của O.Henry, chúng tôi chỉ ra sự vênh lệch giữa lý thuyết về người kể và đặc điểm người kể trong truyện ngắn của nhà văn được xem là cây bút truyện ngắn mẫu mực của văn học Mỹ. Đó cũng là cách thức tiếp cận kết cấu tự sự độc đáo của tác giả, thông qua đó làm nổi bật những đóng góp của ông đối với sự vận động và phát triển của thể loại truyện ngắn trong tiến trình văn học. 2.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trong tác phẩm tự sự 2.1.1. Vai trò của người kể chuyện trong cấu trúc truyện kể Người kể chuyện là một phạm trù quan trọng trong cấu trúc văn bản tự sự. Nó được xem là thuật ngữ công cụ dẫn dắt người đọc bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Trước đây, trong hệ hình lý luận văn học tiền hiện đại, người ta chỉ quan tâm đến nhân vật, cốt truyện, các biện pháp tu từ, không gian và thời gian nghệ thuật của văn bản mà ít quan tâm đến người kể chuyện. Người kể chuyện lúc đó nếu được chú ý đến thì chỉ dừng lại sự nghiên cứu người kể chuyện ngoài văn bản (tác giả). Trong đó, hoàn cảnh xuất thân, tiểu sử của nhà văn, một thời gian dài được xem là những thông tin nền tảng để cắt nghĩa và lý giải tác phẩm. Tuy nhiên, sự chuyển đổi từ hệ hình tư duy lý luận văn học tiền hiện đại sang hiện đại được đánh dấu bởi sự chuyển đổi từ phạm trù tác giả sang phạm trù văn bản làm yếu tố trung tâm của quá trình văn học. 37 Khi chú ý đến văn bản, các nhà nghiên cứu hướng sự quan tâm của họ đến các yếu tố tạo nên cấu trúc nội tại của văn bản, trong đó, người kể chuyện là phạm trù quan trọng, bởi từ đó thế giới nghệ thuật được mở ra. Một văn bản tự sự, trước hết cần được làm rõ: Ai là người kể chuyện, người kể chuyện đó mang điểm nhìn nào? N.D. Tamarchenko trong bài viết Người kể chuyện đã phân biệt người kể chuyện với người trần thuật. Người kể chuyện giống với người trần thuật ở chỗ đều là chủ thể lời nói và là người đại diện cho điểm nhìn trong tác phẩm văn học, nhưng: “khác với người trần thuật, - được khách quan hóa và được tách biệt rõ rệt với tác giả cả về mặt không gian, lẫn bình diện tu từ; mà cụ thể là, nó được gắn với một hoàn cảnh văn hóa xã hội và ngôn ngữ cụ thể để từ vị thế ấy, nó mô tả các nhân vật khác. Khác hẳn với người trần thuật, người kể chuyện không đứng ở đường biên giữa thế giới hư cấu với thực tại của tác giả và độc giả, mà hoàn toàn đứng bên trong hiện thực được mô tả: câu chuyện của nó được nhắm một cách ước lệ tới người nghe hiện diện trong hiện thực ấy, bên cạnh người kể chuyện: cái vị thế nằm phía bên các ranh giới của tác phẩm này người đọc đứng ngoài tác phẩm phải chiếm lĩnh” [124]. Như vậy, người kể chuyện là một phạm trù nằm trong cấu trúc truyện kể, có mối quan hệ chặt chẽ với những bình diện khác như cốt truyện, không thời gian, điểm nhìn, giọng điệu, là phương tiện để nhận thức thế giới nghệ thuật. Người kể chuyện thực chất là một hình tượng do tác giả hư cấu, một sinh thể tồn tại trong không gian tưởng tượng. Từ đó, nhà văn cấp cho người kể chuyện quyền năng tổ chức, điều hành, xây dựng kết cấu nhằm dẫn dắt người đọc bước theo câu chuyện. Người kể chuyện trong văn bản tự sự được các nhà nghiên cứu phân thành nhiều loại, dựa trên những tiêu chí khác nhau. Nếu chia theo ngôi kể, người kể chuyện bao gồm người kể chuyện ngôi thứ nhất, người kể chuyện ngôi thứ ba và người kể chuyện ngôi thứ hai. Nếu xét từ mối quan hệ giữa người kể với điểm nhìn thì có người kể chuyện toàn tri và người kể chuyện 38 hạn tri. Còn xét theo tiêu cự của điểm nhìn thì chúng ta có người kể chuyện mang điểm nhìn bên ngoài và người kể chuyện mang điểm nhìn bên trong. Vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học bàn luận, ở đây chúng tôi không trình bày lại mà chỉ khái quát nêu ra một số cách thức phân loại người kể chuyện chủ yếu và phổ biến hiện nay. Cao Kim Lan trong bài viết Người kể chuyện và mối quan hệ giữa người kể chuyện với tác giả đã nhận định: “Trong cấu trúc nội tại tác phẩm, hành vi kể tương đương hoặc bằng diễn ngôn của người kể cộng với diễn ngôn của các vai. Một truyện kể sẽ không thể tồn tại nếu chỉ có diễn ngôn của các vai. Khi truyện được kể ra nghĩa là chúng ta sẽ nhìn hoặc nghe thấy ở đó thế giới được kể ra và “thế giới được trích dẫn”. Tồn tại với tư cách một công cụ do nhà văn hư cấu nhằm chuyển tải một thông điệp nào đó, việc lựa chọn kiểu người kể chuyện không phải ngẫu nhiên mà hoàn toàn mang tính quan niệm của nhà văn. Điều này lý giải vì sao mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử văn học xuất hiện những kiểu người kể chuyện đặc thù mang tâm lý của một nhóm người hoặc một thời đại...” [93]. Trong bất kì một truyện kể nào, người kể chuyện đều đảm nhận vai trò then chốt, quan trọng, gắn liền với việc giới thiệu, dẫn dắt câu chuyện. Đồng thời, họ điều khiển, kiểm soát các tình huống truyện cũng như cách mở đầu và kết thúc truyện kể. Tùy thuộc vào đặc thù của từng thể loại truyện kể, vai trò của người kể chuyện có những điểm khác biệt. Là phạm trù tồn tại trong thế giới tưởng tượng và hư cấu, người kể chuyện luôn có mối quan hệ chặt chẽ với tác giả (người kể chuyện ngoài văn bản). 2.1.2. Mối quan hệ giữa người kể chuyện với điểm nhìn trần thuật trong cấu trúc tự sự của văn bản Đối với một tác phẩm văn học thuộc loại hình tự sự, phương thức tự sự đặc biệt quan trọng. Cùng một câu chuyện nhưng nếu sử dụng những phương thức tự sự khác nhau thì sẽ kiến tạo nên những giá trị nghệ thuật và tạo ra 39 những hiệu ứng thẩm mĩ không giống nhau. Lựa chọn phương thức tự sự là quan trọng, đặc biệt là việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật. Trần Đình Sử cho rằng điểm nhìn là vị trí và trạng thái của người kể chuyện dùng để quan sát và kể chuyện. Nó liên kết tác giả, người kể chuyện, người nghe chuyện, người đọc thực tế thành một hệ thống. Theo Lotman: “hiếm có một yếu tố nào lại liên quan trực tiếp đến việc xây dựng bức tranh thế giới như điểm nhìn nghệ thuật” và như vậy “cái nhìn sẽ trở thành yếu tố nhận thấy được của cấu trúc nghệ thuật khi xuất hiện khả năng thay đổi của nó trong phạm vi sự trần thuật” [97,451]. Còn G.Genette nói rõ rằng khái niệm điểm nhìn cho phép chúng ta làm rõ từ đâu và như thế nào mà trong một tác phẩm văn học, các sự kiện, nhân vật, các đối tượng lại được nhìn thấy. Điểm nhìn trần thuật là vị trí từ đó người kể chuyện nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Sự thay đổi nghệ thuật bắt đầu từ sự thay đổi điểm nhìn. Như vậy, điểm nhìn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Manfred Jahn nhấn mạnh: “Về mặt chức năng, điểm nhìn mang ý nghĩa của sự lựa chọn và giới hạn thông tin trần thuật, của việc nhìn các sự kiện và cấu trúc của các sự kiện từ điểm nhìn của một người nào đó và của việc tạo ra cái nhìn đồng cảm hoặc mỉa mai ở người quan sát” [100,41]. Điểm nhìn không chỉ gắn với thị giác mà còn mà còn gắn với năm giác quan, gắn với không gian và thời gian. Điểm nhìn nghệ thuật có thể được phân chia thành điểm nhìn không gian và thời gian. Nhìn xa, gần, trên, dưới, lệch, thẳng... là điểm nhìn không gian. Nhìn từ hiện tại, quá khứ, hay tương lai là điểm nhìn thời gian. Có điểm nhìn tâm lí khi người trần thuật nhìn theo tầm mắt của nhân vật có đặc điểm giới tính, lứa tuổi hoặc quan hệ thân sơ, bên trong hay bên ngoài. Có điểm nhìn quang học hoàn toàn khách quan. Có điểm nhìn theo một mô hình văn hoá nào đó Nhưng điểm nhìn không chỉ là toạ độ không gian, thời gian được lựa chọn cho hành động kể chuyện, sắp xếp bố cục, hư cấu thành truyện mà còn liên quan đến vấn đề quan điểm, lập 40 trường của nhà văn. Nó thể hiện quan niệm, sự đánh giá của tác giả trước cuộc sống. Điểm nhìn mang tính tư tưởng. Nguyễn Thái Hòa cho rằng: “Tuy điểm nhìn nghệ thuật là độc lập, nhưng ít nhiều có liên quan đến vấn đề quan điểm, lập trường xã hội chính trị của nhà văn ngay từ điểm xuất phát của hiện thực được lựa chọn” [76,123]. Nghiên cứu về điểm nhìn văn bản một cách hệ thống, Lotman không những chỉ ra: “Điểm nhìn cấp cho văn bản sự định hướng nhất định về chủ thể của nó” [96,454] mà còn xem xét nó trong mối quan hệ “quan hệ điểm nhìn – văn bản luôn luôn là quan hệ người sáng tạo và sản phẩm sáng tạo” [96,454]. Tìm hiểu mối quan hệ giữa “điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và điểm nhìn trong truyện”, Nguyễn Thái Hoà cho rằng khái niệm này còn cần được xác lập trong mối quan hệ với người tiếp nhận: “Điểm nhìn nghệ thuật là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật, hơn thế nữa là một cấu trúc tiềm ẩn được người đọc tiếp nhận bằng thao tác suy ý từ các mối quan hệ phức hợp giữa người kể và văn bản, giữa văn bản và người đọc văn bản, giữa người kể và người đọc hàm ẩn” [76,96]. Như vậy, điểm nhìn là tâm điểm của tự sự học. Nó là một trong những vấn đề then chốt của kết cấu, mang tư tưởng, quan niệm và lập trường của nhà văn. Nghệ thuật kể chuyện thực chất là nghệ thuật tổ chức điểm nhìn. 2.2. Người kể chuyện với điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn của O.Henry 2.2.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong Kể chuyện cũng là một hoạt động giao tiếp giữa người kể chuyện và người nghe chuyện. Người kể chuyện có thể kể về mình (kể ở ngôi thứ nhất), hoặc kể về người khác (kể ở ngôi thứ ba), cũng có khi kể về ngôi thứ hai (kể từ vai người nghe) nhưng trường hợp này là rất hiếm gặp. Theo Manfred Jahn, đây là sự trần thuật trong đó vai chính được hướng tới ở ngôi thứ hai: “bạn” (you). Về mặt chức năng, “you” có thể là “bản thân trải nghiệm của 41 người kể chuyện”, có thể là “một vài nhân vật khác trong thế giới trần thuật ở ngôi thứ nhất” hoặc là “một nhân vật trong thế giới trần thuật từ ngôi thứ ba” [100,48]. Ngôi thứ hai “you” “cũng mang cái tôi của người kể” song “nó tạo ra một không gian gián cách: một cái tôi khác, một cái tôi được kể ra chứ không phải tự kể như ngôi thứ nhất” [100,61]. Nguyễn Thị Tịnh Thy cho rằng: “Đứng ở vị trí của người kể chuyện ngôi thứ nhất (có khi là số ít: tôi, có khi là số nhiều: chúng tôi), dùng điểm nhìn toàn tri để kể về người được gọi là “em” hoặc “anh”. Thoạt nhìn: “người kể chuyện và người được kể như hai chủ thể tách biệt nhưng trên thực tế, cả hai đối tượng là một thực thể. “Em” hay “anh” là những bản ngã khác của “tôi”, là sự phân thân của chính “tôi”. “Tôi” đang kể về tôi nhưng lại tách mình ra, xem mình là người khác để đối thoại gay gắt, phán xét nghiệt ngã và cảm thông sâu sắc với chính mình bằng một giọng điệu vừa rất lạnh lùng, vừa rất thân thiết. Sự hiểu biết của người kể chuyện về người được kể rất tường tận, khoảng cách giữa họ là zero. Vì vậy, tuy kể về ngôi thứ hai nhưng màu sắc tự bạch của truyện rất đậm nét, thậm chí còn đậm hơn cái tôi tự bạch của truyện kể ngôi thứ nhất thông thường bởi vì nó vừa mang sắc thái chủ quan vừa mang sắc thái khách quan” [137,49]. Điểm nhìn bên trong xuất hiện khi người kể chuyện thâm nhập vào đời sống nội tâm nhân vật, phân tích, mổ xẻ hoặc để nhân vật tự bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của mình. Vì thế điểm nhìn bên trong thường mang tính chủ quan hoặc dễ gây cho người đọc cảm giác về tính chủ quan của người kể. Cả người kể ở ngôi thứ nhất (tôi) và người kể ở ngôi thứ ba (giấu mặt) đều có thể thực hiện điểm nhìn này. Nếu điểm nhìn bên ngoài là trường hợp người kể chuyện đứng từ ngoài để quan sát câu chuyện thì điểm nhìn bên trong là sự quan sát từ cảm nhận nội tâm của mình. Điểm nhìn bên trong cho phép kể chuyện qua lăng kính của một tâm trạng cụ thể, tái hiện đời sống nội tâm nhân vật một cách sâu sắc. Với điểm nhìn bên trong, người kể chuyện chạm đến được những vi mạch sâu lắng nhất, những ám ảnh sâu xa nhất trong tâm hồn con người. 42 Truyện ngắn của O.Henry thường ít xuất hiện người kể chuyện ngôi thứ nhất so với số lượng tác phẩm có người kể chuyện ngôi thứ ba. Người kể chuyện ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong xuất hiện trong các truyện Một sự giúp đỡ của tình yêu, “Khi người ta yêu nghệ thuật thì không có việc gì khó. Đó là tiền đề của chúng tôi. Câu chuyện này sẽ rút từ đó ra một kết luận và đồng thời sẽ chứng minh rằng tiền đề ấy không đúng” [105,119]; Ái tình theo khẩu phần: “Tớ không ưa khai quật tận lòng sâu các cảm xúc cá nhân. Tớ vẫn theo cái thuyết cho rằng những mâu thuẫn và những mối tơ vò của của cái bệnh tương tư là những thứ cũng riêng tư giống như bàn chải đánh răng. Theo tớ, các bản tiểu sử những trái tim chỉ nên tìm vị trí cho mình bên cạnh các tiểu thuyết lịch sử về đời sống buồng gan trên các tạp chí dành cho việc rao tin. Vì thế, xin các cậu thứ lỗi, nếu tớ không liệt kê ra đây danh sách đầy đủ của những tình cảm của tớ đối với Maymi” [107,131]; Buồng tầng thượng: “Tôi đề nghị các bạn hãy để cho vở kịch dừng lại trong khi dàn hợp xướng tiến ra phía dãy đèn ở rìa sân khấu và nhỏ một giọt nước mắt cay đắng lên sự phì nộn của ông Huvo” [107,201]; Bánh rán miền Pimienta:“Cho nên vớ được tôi, anh ta như nắng hạn gặp mưa rào. Vả lại, tôi cũng bị những sự thèm thuồng của người phải nằm một chỗ thôi thúc, muốn được ăn một cái gì không thuộc vào mục lương thực, tôi mơ tưởng đến cái buồng để thức ăn của mẹ tôi, những giấc mơ sâu sắc như mối tình đầu và mãnh liệt vì nhớ tiếc” [107,219]; Một câu chuyện dở dang: “Tôi chịu không thể kể tiếp được. Tôi có nghe nói đến những món vải rất lời và những câu chuyện thần kì được thực hiện bằng kim chỉ, nhưng tôi không tin. Quản bút tôi cầm cứ ngập ngừng mãi khi tôi muốn ghi thêm vào cuộc đời của Dansy vài niềm vui do những sắc lệnh không thành văn, thiêng liêng tự nhiên, nhưng vô hiệu của tạo hóa chí công vẫn dành cho phụ nữ” [107,279]; Gương mặt trông nghiêng kì diệu: “Nhưng tôi cũng đã được nghe chuyện một phu nhân California. Đúng ra đây không phải là chuyện của những đêm Ai Cập vì chuyện này đưa ra một cô Lọ 43 Lem vung khăn lau bát vào một thời đại khác và ở một nước khác”; Một cơn gió dịu: “Được một lát, gã tóc rơm lao xuống và tôi đi ngang qua phố sang gặp anh ta vì tôi đã có chủ định của tôi” [107,313]; Câu chuyện tỉnh lẻ: “Lúc tôi xuống tàu ở thị trấn Nashville thuộc bang Tennessee thì trời đang mưa, một màn mưa màu xám kéo dài lê thê” [107,356]. Ở các truyện ngắn trên, nhà văn đều sử dụng người kể chuyện ngôi thứ nhất, người kể lộ diện trực tiếp trong văn bản. Người kể chuyện này mang điểm nhìn bên trong, điểm nhìn hạn tri. Tuy nhiên, điều đặc biệt là những người kể chuyện ngôi thứ nhất này hầu như không kể về sự trải nghiệm của chính mình, mà kể về sự trải nghiệm của người khác. Vì thế, các truyện ngắn trên đều mang giọng điệu chủ quan nhưng có pha lẫn giọng điệu khách quan. Nếu người kể chuyện ngôi thứ nhất kể về mình thường gợi cho người đọc cảm giác tin cậy thì những người kể chuyện ngôi thứ nhất trong truyện của O.Henry lại gieo vào lòng người đọc một chút nghi ngờ, phân vân, do dự. Bởi những gì phơi bày ra trong thế giới câu chuyện đều là sự trải nghiệm của người khác được nhìn từ điểm nhìn hạn chế của người kể chuyện xưng tôi. Điều đó khiến cho truyện ngắn của cây bút này vẫn mang đặc trưng truyện ngắn cổ điển khi nhà văn phần lớn tập trung về kể các sự kiện, biến cố qua các lát cắt hoàn cảnh, lai lịch chứ không thiên về miêu tả thế giới nội tâm nhân vật, mảnh đất mà các nhà văn hiện đại thường vun trồng và cày xới. Nhận xét về điều này, Lê Huy Bắc cho rằng: “Truyện của O.Henry đầy ắp các sự kiện, những sự kiện hấp dẫn được chọn lọc kĩ càng và được dày công sắp xếp, nhằm gây nên hiệu quả thẩm mĩ cao nhất. O.Henry không có độc thoại nội tâm. Con người của ông thiên về kiểu con người hành động. Ông chú tâm miêu tả tên tuổi, ngoại diện. Đây là nét không thể thiếu đối với nhà hiện thực cổ điển nào” [19,417]. Những người kể chuyện ở ngôi thứ nhất của O.Henry thường chú tâm đến miêu tả nhân vật bằng sự quan sát tinh tế, kĩ lưỡng. Chính ngôn ngữ miêu 44 tả này đã làm được chức năng hạn chế sự bành trướng của ngôn ngữ kể, khiến cho dấu ấn, quyền uy của người kể chuyện ngôi thứ nhất trong văn bản có phần mờ nhạt đi: “Chỉ nhìn vào cái quần chẽn ống màu xanh và đôi ủng bằng da bò sống của anh ta thì đúng anh ta là một gã nông dân thô kệch, nhưng bàn tay anh ta lại là bàn tay của một diễn viên diễn những buổi ban chiều và cái mũ rơm đội lệch một bên tai lại có vẻ là của tay trông coi đồ lề sân khấu của gánh hát On Hometex. Tôi đã không cưỡng lại được sự tò mò muốn biết hắn đang xoay sở ngón gì” [107,327]. Đây là ngôn ngữ mà người kể chuyện miêu tả về nhân vật chính trong truyện Một cơn gió dịu. Một số truyện ngắn sử dụng người kể chuyện ngôi thứ nhất thường có sự xuất hiện của người nghe chuyện trực tiếp trong văn bản. Trong truyện Ái tình theo khẩu phần, người kể chuyện xưng tôi đối thoại với các cậu, nhưng đọc hết toàn bộ tác phẩm, không thấy một cậu nào thay vai kể chuyện tiếp, vì vậy “cậu” trong truyện mang dáng dấp của độc giả, hay nói cách khác, người nghe chuyện trực tiếp lộ diện trên văn bản. “Độc giả có thể thoải mái bước vào vị trí các cậu để nghe tôi kể Toàn bộ câu chuyện luôn để trống một vai thoại. Chuyện do tôi kể nhưng do đặc tính thoại đó, ta có cảm tưởng như có người kể chuyện ở ngôi thứ ba. Thêm nữa, tôi lại luôn có tỏ ra bình thản, khách quan...vật “thảo nguyên” thường gắn liền với không gian mở, rộng lớn, ở đó nhân vật thường gặp biến cố, xử lý biến cố và thay đổi tính cách, hành động. 145 Kiểu nhân vật “đường đi” thường tồn tại trong không gian con đường vốn mang tính định hướng và di chuyển theo một quỹ đạo khép kín, thời gian tuyến tính và hàm ý ngăn cấm sự vận động ra ngoài rìa. Nhân vật “thảo nguyên” lại tồn tại trong không gian không mang tính tuyến tính, loại không gian hàm ý diễn ra những vận động hoàn toàn không thể tiên đoán được, đầy bất ngờ. 3. Có thể nói, truyện ngắn của O.Henry độc đáo với kết cấu cốt truyện kết thúc bất ngờ. Tác giả đã sử dụng linh hoạt các yếu tố ngẫu nhiên để xử lý khéo léo cốt truyện trong mô hình thể loại tự sự cỡ nhỏ. Với dung lượng ngắn gọn, súc tích, cốt truyện kết thúc bất ngờ của ông đã thể hiện trọn vẹn công thức truyện ngắn cổ điển với năm phần: trình bày, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm và mở nút. Đặc biệt, yếu tố ngẫu nhiên đã góp phần dồn nén cảm xúc người đọc, tạo nên những cái kết độc đáo, hấp dẫn. Cốt truyện kết thúc bất ngờ trong truyện ngắn của O.Henry gồm có ba loại tiêu biểu: cốt truyện kết thúc bất ngờ với sự lũy tích cái ngẫu nhiên, cốt truyện kết thúc bất ngờ với sự vượt qua thử thách của nhân vật, và cốt truyện kết thúc bất ngờ trong sự kết hợp liên văn bản. Trong đó, mô hình truyện kể lũy tích có nguồn gốc từ huyền thoại đến O.Henry vẫn giữ được bộ khung của sự lũy tích yếu tố ngẫu nhiên. Cố nhiên, nếu truyện kể lũy tích của foklore nhuốm màu siêu nhiên, hoang đường thì truyện ngắn của O.Henry lại hư cấu một cách rất hiện thực. Cốt truyện kết thúc bất ngờ với sự vượt qua thử thách của nhân vật không phải được thực hiện bởi sự giúp đỡ của những yếu tố hoang đường mang màu cổ tích mà bằng chính tình yêu của con người. Kết thúc bất ngờ với cốt truyện liên văn bản là sự xếp chồng của nhiều văn bản trong truyện ngắn của O.Henry. Ở đó, chiều sâu ý nghĩa của câu chuyện được khai mở ở vỉa tầng của các biểu tượng, cổ mẫu, motif, điều khiến cho truyện ngắn của ông chứa đựng vẻ đẹp văn hóa đặc sắc. Cái ngẫu nhiên của O.Henry không phải là cái ngẫu nhiên phi lý, mà là 146 cái ngẫu nhiên có lý, ngẫu nhiên nhưng được thể hiện một cách tất nhiên trong ý đồ xây dựng cốt truyện. Truyện ngắn của ông đề xuất một ý niệm về hiện thực, hiện thực ấy tiềm ẩn những ngẫu nhiên, bất ngờ có thể xảy ra. Vậy là hiện thực không chỉ bao gồm những gì đã xảy ra, đang xảy ra mà còn bao gồm những gì có khả năng xảy ra. Hay nói cách khác, chúng chứa đựng những khả năng của con người, những gì con người có thể trở thành, tức cuộc sống luôn bao gồm những khả năng. Chính điều này đã đưa truyện ngắn của O.Henry hướng sang bút pháp hiện đại. 4. Trong phạm vi một luận án, chúng tôi vẫn chưa có điều kiện để nghiên cứu và so sánh sự ảnh hưởng của truyện ngắn O.Henry đối với một số cây bút truyện ngắn khác trước và sau O.Henry. Hướng nghiên cứu liên văn bản này sẽ là mảnh đất màu mỡ vẫy gọi các nhà nghiên cứu về sau. 147 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KH O A. TIẾNG VIỆT 1. Nguyên An (1990), Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài (Dùng trong nhà trường), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 2. Trần Thị An (2008), “Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif - Những khả thủ và bất cập”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số 7. 3. Thái Thị Hoài An (2006), Vấn đề tiếp nhận sáng tác của Franz Kafka tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 4. Đặng Thị Lan Anh (2016), Nhân vật anh hùng văn hóa trong truyện kể dân gian về thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, chuyên ngành Văn học dân gian, Đại học Sư phạm Hà Nội. 5. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 6. Bakhtin M. (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 7. Bakhtin M (2007), Tiểu dẫn tác giả (Phạm Vĩnh Cư), in trong Lý luận- phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, (Lộc Phương Thủy chủ biên), tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8. Barthes R. (2012), Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể (Tôn Quang Cường dịch), https://phebinhvanhoc.com.vn/nhap-mon-phan-tich-cau- truc-truyen-ke/, ngày cập nhật 4/5/2012. 9. Lê Huy Bắc (2002), “Truyện ngắn Mỹ thế kỉ XIX”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 4. 10. Lê Huy Bắc (2002), “Thiết kế bài giảng Chiếc lá cuối cùng của O.Henry”, Tạp chí Khoa học, ĐHSP Hà Nội, số 6. 148 11. Lê Huy Bắc (2003), Văn học Mỹ, Nxb ĐHSP, Hà Nội. 12. Lê Huy Bắc (2004), “Truyện ngắn: Nguồn gốc, khái niệm”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5. 13. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí Văn học, số 9. Tr. 66 – 73. 14. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn: Lí luận, tác gia và tác phẩm (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 15. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn: Lí luận, tác gia và tác phẩm (tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 16. Lê Huy Bắc (2012), Văn học hậu hiện đại – Lý thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 17. Lê Huy Bắc (2007), “Cổ tích hiện đại: Cô bé bán diêm của Andersen”, Tạp chí Văn học, số 7. 18. Lê Huy Bắc (2008), “Cốt truyện trong tự sự”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7. 19. Lê Huy Bắc (2010), Lịch sử văn học Mỹ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 20. Lê Huy Bắc (2015),“Truyện ngắn Mỹ từ hiện đại đến hậu hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8. 21. Lê Huy Bắc (2015), “Chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại trong văn học Âu – Mỹ”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 4. 22. Lê Huy Bắc (2015), “Chí Phèo nhìn từ kí hiệu cổ mẫu”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 6. 23. Lê Huy Bắc (2018), Kí hiệu và liên kí hiệu, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh. 24. Ben. D – Amos, “Tiến tới một định nghĩa về Folklore trong ngữ cảnh”, in trong Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (cb) (2005), Folklore thế giới: Một số công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb KHXH, Hà Nội. 149 25. Benac H. (2005), Dẫn giải ý tưởng văn chương (Nguyễn Thế Công dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 26. Lưu Văn Bổng (2001), “Đôi nét về văn học so sánh Mỹ”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 6. 27. Bloom. H (1994), “Kafka – Lòng nhẫn nại và “sự bất diệt” kinh điển” (Hồ Vân Anh dịch), in trong Điển phạm phương Tây: Tác phẩm và trường phái qua các thời đại, https://phebinhvanhoc.com.vn/kafka- long-nhan-nai-va-su-bat-diet-kinh-dien-12/, ngày cập nhật 9/3/2016. 28. Burns Edward McNall (2008), Văn minh phương Tây – Lịch sử và văn hóa (Trung tâm dịch thuật TP Hồ Chí Minh), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 29. Catherine Nichols (2018), Huyễn tưởng về người tốt, kẻ xấu (Nguyễn Hoàng Dương dịch), https://www.ipick.vn/bai-viet/su-hoang-tuong- ve-nguoi-tot-ke-xau, ngày cập nhật 18/9/2018. 30. Lê Nguyên Cẩn (2001), Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học nước ngoài (ở trường phổ thông cơ sở), NXB ĐH Quốc gia, Hà Nội. 31. Lê Nguyên Cẩn (2006), “Tính văn hóa của tác phẩm văn học”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 2. 32. Lê Nguyên Cẩn (2010), “Cấu trúc tự sự Kafka bên bờ biển theo cách nhìn phân tâm học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9. 33. Nguyễn Thị Mai Chanh (2008), “Tự sự ngôi thứ nhất theo điểm nhìn đa tuyến trong truyện ngắn Trong quán rượu và Con người cô độc của Lỗ Tấn”, Tạp chí Văn học, số 3. 34. Đinh Lệ Châu (2000), “Các giá trị và giả định của người Mỹ”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1. 35. Chevalier J - Gheerbrant A. (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng. 150 36. Đào Ngọc Chương (2008), Phê bình huyền thoại, Nxb Đại học Quốc gia, Thành Phố Hồ Chí Minh. 37. Đào Ngọc Chương (2011), “Motif/ cổ mẫu ông lão trong ba truyện ngắn của Anton Chekhov, Ernest Hemingway và Nam Cao, Tạp chí Phát triển khoa học và công nghệ, ĐHQG HCM, tập 14, số X2- 2011. 38. Đào Ngọc Chương (2013), “Huyền thoại – Northrop Frye và Roland Barthes”, Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên san 2013. 39. Compagnon A. (2006), Bản mệnh của lý thuyết (Đặng Anh Đào và Đặng Thị Sâm dịch), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 40. Cournot Antoine. A (1979), Nguyên nhân – Lí do – Ngẫu nhiên (Nguyễn Văn Khoa dịch), duc/ChiTietTin/128/nguyen-nhan-ly-do-ngau-nhien. 41. Lê Đình Cúc (2004), Tác giả văn học Mỹ (Thế kỉ XVIII - XX), Nxb KHXH, Hà Nội. 42. Lê Đình Cúc (2001), Văn học Mỹ mấy vấn đề về tác giả, Nxb KHXH, Hà Nội. 43. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb KHXH, Hà Nội. 44. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb KHXH, Hà Nội. 45. Nguyễn Hồng Dũng (2009), “Truyện ngắn O.Henry”, Tạp chí Sông Hương, số 183 (5/2009). 46. Đoàn Ánh Dương (2007), “Cánh đồng bất tận, nhìn từ mô hình tự sự và ngôn ngữ trần thuật”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2, tr.96 - 109. 47. Nguyễn Đức Đàn (1998), Hành trình văn học Mỹ, Nxb Giáo dục, H. 48. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 151 49. Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và Phương Tây, tiếp nhận và giao thoa trong văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 50. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 51. Trịnh Bá Đĩnh (2018), Từ kí hiệu đến biểu tượng, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 52. Freidenberg O.M., Nguồn gốc trần thuật (Lã Nguyên dịch), goc-nhin-van-hoa/nguon-goc-tran-thuat, ngày cập nhật 31/8/2016. 53. Freud S. (2001), Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo (Vật tổ và cấm kị), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 54. Freud S. (2004), Phân tâm học và văn học nghệ thuật, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 55. Freud S. (2018), Phân tâm học nhập môn, Nguyễn Xuân Hiếu dịch, Nxb Văn học, Hà Nội. 56. La Mai Thi Gia (2014), “Nghi lễ trưởng thành và nguồn gốc của motif tái sinh trong truyện cổ tích Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội TP Hồ Chí Minh, Viện KHXH vùng Nam Bộ, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, số 8. 57. La Mai Thi Gia (2015), Motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian - lý thuyết và ứng dụng, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. 58. Goldberg A. (2009), “Chấn thương, tự sự và hai hình thức của cái chết” (Hải Ngọc dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, số 4. 59. Grojnowski Daniel (2017), Đọc truyện ngắn, Trần Hinh, Phùng Kiên dịch, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 60. Đặng Thái Hà (2015), Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp từ điểm nhìn phê bình sinh 152 thái, ngày cập nhật 26/7/2015. 61. Hamburger K. (2008), “Hư cấu tự sự” (Phùng Kiên dịch), Tạp chíVăn học nước ngoài, số 6. 62. Nguyễn Văn Hậu (2009), Biểu tượng như là “đơn vị cơ bản” của văn hóa, 63. Đỗ Thị Hằng (2005), Kĩ thuật truyện ngắn O.Henry và Jack Londontừ cái nhìn so sánh, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn. 64. Lê Thị Thúy Hằng (2016), Nguyên lý đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010, Luận án tiến sĩ Văn học, chuyên ngành Văn học Việt Nam, Đại học Khoa học – Đại học Huế. 65. Nguyễn Thị Hiền (1996), “Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo bảng mục lục tra cứu típ và mô típ truyện cổ dân gian của Antti Aarne và Stith Thompson”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 2. 66. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Năm bài giảng về thể loại, NXB Giáo dục. 67. Đào Duy Hiệp (1999), “Những quan niệm của nước ngoài về truyện ngắn và đọc truyện ngắn hiện đại”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5. 68. Đào Duy Hiệp (2005), “Các cấp độ thời gian trong truyện ngắn Chí Phèo”, Tạp chí Văn học, số 7. 69. Đào Duy Hiệp (2005), “Tiểu thuyết: Độ dài và cấu trúc”, Văn nghệ, số 34 (ngày 20 tháng 8). 70. Đào Duy Hiệp (2006), “Phối cảnh và điểm nhìn trong truyện kể”, in trong Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học, ĐHKHXH&NV, Hà Nội. 71. Đào Duy Hiệp (2006), “Cấu trúc cái kì ảo trong truyện ngắn Maupassant”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9. 72. Đào Duy Hiệp (2009), Nghiên cứu truyện cổ Grimm từ lý thuyết hiện đại (trường hợp Chim ưng thần), Kỷ yếu Hội thảo KH Tự sự học dân 153 gian, ĐHKHXH và NV, Hà Nội. 73. Nguyễn Thị Thanh Hiếu (2014), Đặc trưng bút pháp hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Paul Auster, Luận án tiến sĩ Văn học, chuyên ngành Văn học nước ngoài, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. 74. La Khắc Hòa, Lộc Phương Thủy, Huỳnh Như Phương (đồng cb) (2015), Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài – Kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại, Nxb ĐHQG, Hà Nội. 75. Nguyễn Thái Hoà (2006), Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 76. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 77. Hà Thị Hòa (2006), “Motif “gã lưu manh” trong truyện ngắn của M.Gorky và Nam Cao”, Tạp chí Khoa học, Trường ĐHSP Hà Nội, số 4. 78. Hà Thị Hòa (2008), “Dạy học truyện ngắn theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học sinh THPT”, Hội thảo Dạy và học trong các trường phổ thông, Kỷ yếu trung tâm Công nghệ giáo dục. 79. Nguyễn Thị Năm Hoàng (2017), Vài nét về kết cấu truyện ngắn, ngày cập nhật 20/1/2017. 80. Nguyễn Thị Huế (2013), Giáo sư Đinh Gia Khánh và những nhận định về đặc trưng các thể loại tự sự dân gian, https://phebinhvanhoc.com.vn, ngày cập nhật 18/10/2013. 81. Nguyễn Thanh Hùng (2006), “Tri thức đọc hiểu truyện ngắn hiện đại”, in trong Phương pháp dạy Ngữ văn THPT – Những vấn đề cập nhật, Nxb ĐHSP. 82. Nguyễn Văn Hùng (2014), “Điểm nhìn tự sự của hình thức kể chuyện ngôi thứ nhất trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm TP HCM, số 55. 154 83. Ilin và Tzurganova E.A (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học của Tây Âu và Mỹ thế kỉ XX (Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 84. Jung Gustav Carl (2007), Thăm dò tiềm thức, Nxb Tri thức, Hà Nội. 85. Jullien François (2010), Tính khả tri của văn hóa, Nxb Lao động, Hà Nội. 86. Trần Thiện Khanh (2008), Yếu tố ngẫu nhiên và “thế giới người lừa” trong Truyện Kiều, ngày cập nhật 10/4/2008. 87. Nguyễn Phương Khánh (2012), “Truyện ngắn - Những đường biên thể loại”,Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 8. 88. Nguyễn Thành Khánh (2016), Truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX – Từ đặc trưng thể loại, Luận án tiến sĩ Văn học, chuyên ngành Văn học Việt Nam, Đại học Khoa học - Đại học Huế. 89. Nguyễn Thành Khánh (2016), “Mẫu hình “Căn phòng khóa kín” của Edgar Poe trong truyện trinh thám “Vết tay trên trần” của Phạm Cao Củng”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Đại học Sư phạm Huế, số 4 (40). 90. Thụy Khuê (2018), Phê bình văn học thế kỉ XX, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 91. Kosinov G.K. (2003), Văn bản, liên văn bản, lý thuyết liên văn bản (Lã Nguyên dịch), nguồn https://languyensp.wordpress.com, ngày cập nhật 30/3/2013. 92. Cao Kim Lan (2008), “Lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg”, Tạp chíNghiên cứu văn học, số 10. 93. Cao Kim Lan (2009), “Người kể chuyện và mối quan hệ giữa người kể 155 chuyện với tác giả”, Tạp chíNghiên cứu văn học, số 8. 94. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2016), “Hiện tượng diễn hóa motif trong truyện cổ tích Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1. 95. Lê Nguyên Long (2006), “Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên cứu văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9. 96. Lotman M. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 97. Lotman M. (2015), Kí hiệu học văn hóa (Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử dịch), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 98. Phương Lựu (1999), Mười trường phái lí luận phê bình văn học Phương Tây đương đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 99. Phương Lựu (Chủ biên, 1997), Lí Luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 100. Manfred J. (2005), Nhập môn lý thuyết trần thuật, (Nguyễn Thị Như Trang dịch), lưu hành nội bộ, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội. 101. Morin E. (2009), Nhập môn tư duy phức hợp, (Chu Tiến Ánh, Chu Trung Can dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. 102. Đoàn Thị Việt Nga (2012), “Cốt truyện truyện ngắn Kafka”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 6. 103. Nguyễn Thị Kim Ngân (2009), “Sự dịch chuyển không gian trong truyện cổ tích thần kỳ”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 54. 104. Lã Nguyên (tuyển dịch) (2012), Lý luận văn học – Những vấn đề hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 105. Lã Nguyên (2017), Lý thuyết truyện kể của Lotman, ngày cập nhật 2/10/2017. 106. Lã Thị Minh Nguyệt (2015), Yếu tố giả trinh thám trong tiểu thuyết “Tên của đóa hồng” (Umberto Eco), Luận văn thạc sĩ Văn học, chuyên ngành Văn học nước ngoài, ĐHKHXH và NV, Hà Nội. 156 107. Nhiều dịch giả (2012), Truyện ngắn O.Henry (nhiều dịch giả), Nxb Văn học, Hà Nội. 108. Nhiều tác giả (2005), Văn học phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 109. Nhiều tác giả (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 110. Mai Hải Oanh (2007), “Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số10. 111. Đỗ Hải Phong (2007), Phức điệu trong kết cấu “Hải âu”của Chekhov, Hội thảo 40 năm Đại học Sư phạm Hà Nội II. 112. Đỗ Hải Phong (2010), “Tử tưởng tự sự học Nga: lịch sử và triển vọng”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9. 113. Lê Hồng Phong (2016), “Truyện cổ Tây Nguyên và truyện cổ Đông Nam Á – Một số motif chung”, Tạp chí Khoa học, Đại học Đà Lạt, chuyên san KHXH và NV, số 1. 114. Nguyễn Thị Phương (2002), Kết thúc bất ngờ trong thi pháp truyện ngắn O.Henry, Luận văn thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh. 115. Đỗ Thị Mỹ Phương (2016), Người kể chuyện trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam, 15/12/2016. 116. Raymond F. (2012), Khám phá những biểu tượng trong văn học (Đinh Hồng Hải dịch), 117. Rjanskaya L.P. (2007), “Liên văn bản – Sự xuất hiện của khái niệm và lịch sử của lý thuyết” (Ngân Xuyên dịch), Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7. 118. Trần Thị Sâm (2008), “Kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật trong tiểu thuyết hậu hiện đại”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, số 2. 157 119. Lê Thanh Sơn – Lê Thị Hường (2015), “Kết cấu mở và vấn đề liên văn bản: Nhìn từ trường hợp tiểu thuyết Thái Bá Lợi”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Đại học Sư phạm Huế, số 2. 120. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (tuyển chọn) (2005), Văn học so sánh - Nghiên cứu và triển vọng, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 121. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử (phần 1), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 122. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử (phần 2), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội. 123. Tamarchenko N.D. (2015), Người kể chuyện (Lã Nguyên dịch),https://languyensp.wordpress.com/2015/01/30/nguoi-ke-chuyen- 2/, ngày cập nhật 30/1/2015. 124. Tamarchenko D. N. Krivonos Sch.V. (2018), Sơ đồ truyện kể: Truyện kể tích lũy, Truyện kể chu kỳ, Truyện kể thử thách, Truyện kể trưởng thành (Lã Nguyên dịch), https://languyensp.wordpress.com/cập nhật 4/2/2018. 125. Tamarchenko D. N (2014), Tiểu thuyết (Lã Nguyên dịch), https://languyensp.wordpress.com/2014/12/31/tieu-thuyet/, ngày cập nhật 31/12/2014. 126. Chu Thị Thanh Tâm, Nguyễn Thị Minh Hậu (2017), Sử dụng yếu tố bất ngờ, ngẫu nhiên theo hướng đảo ngược tình huống trong truyện ngắn O.Henry, 127. Lê Thời Tân (2012), “Nhận thức lại vấn đề kết cấu tác phẩm văn học dưới ánh sáng Cấu trúc luận”, https://phebinhvanhoc.com.vn, cập nhật 21/10/2012. 128. Taylor A. (2007), “Cốt truyện - cửa ải gian khó của nhà văn”, https://giaitri.vnexpress.net, cập nhật ngày 2/10/2007. 158 129. Phạm Thị Thật (2009), “Các kiểu kết cấu của truyện ngắn Pháp đương đại”, Tạp chíKhoa học, ĐHQGHN, Ngoại ngữ (25), 230 – 239. 130. Trần Hùng Thắng (2010), Tính cổ tích trong truyện ngắn “Hoàng tử đồng xanh” của O.Henry, ngày cập nhật 22.7.2010. 131. Đường Tiểu Thi (2008), So sánh kiểu truyện Cô Lọ Lem của một số dân tộc miền Nam Trung Quốc và kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam, Luận án tiến sĩ Văn học, Đại học KHXH và NV, Hà Nội. 132. Nguyễn Văn Thuấn (2013), Liên văn bản trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp, Luận án tiến sĩ Văn học, chuyên ngành Lý luận văn học, Học viên KHXH-Viện hàn lâm KHXH Việt Nam. 133. Nguyễn Thị Ngọc Thúy (2018), Cái ngẫu nhiên trong tiểu thuyết của Paul Auster, Luận án tiến sĩ Văn học, chuyên ngành Văn học nước ngoài, ĐHSP Hà Nội. 134. Lộc Phương Thủy (cb) (2007), Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỉ XX (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 135. Lộc Phương Thủy (cb) (2007), Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỉ XX (tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 136. Nguyễn Thị Thương, Giá trị hiện thực trong truyện ngắn O.Henry, 137. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013), Tự sự kiểu Mạc Ngôn, Nxb Văn học – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 138. Trần Ngọc Thủy Tiên (2010), Màu sắc huyền thoại trong truyện ngắn của Rabindnarath Tagore, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 139. Todorov T. (2004), Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 140. Nguyễn Ngọc Bảo Trâm (2009), Sự di chuyển của kết cấu truyện lồng 159 truyện và kiểu truyện khung trong văn học từ Ấn Độ sang Đông Nam Á, Hội thảo khoa học Quốc tế “Mối quan hệ giữa Ấn Độ và Đông Nam Á – Sự cam kết chiến lược hay sự hội nhập khu vực”, 5/2009, Trường ĐHKHXH&NV TPHCM. 141. Nguyễn Thanh Tú (2008), “Bi kịch hoá trần thuật - một phương thức tự sự”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5. 142. Dương Thị Ánh Tuyết (2018), Nghệ thuật mở đầu và kết thúc trong truyện ngắn của Maupassant, Chekhov, O.Henry, 143. Umberto E. (2004), Đi tìm sự thật biết cười (Vũ Ngọc Thăng dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 144. Đức Uy (lược thuật) (2002), “Những trào lưu chủ yếu của tư tưởng nghiên cứu văn học Mỹ thế kỉ XX”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 12. 145. Đức Uy (lược dịch) (2002), “Trào lưu tư tưởng của chủ nghĩa đa văn hóa ở Mỹ cuối thế kỉ XX”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 3. 146. Lưu Thị Hồng Việt (2010), “Các kiểu nhân vật trong truyện cổ tích Việt – Hàn”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 8. 147. Wellek R. & Warren A. (2009), Lý luận văn học (Nguyễn Mạnh Cường dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 148. Nguyễn Thị Thu Xanh (2014), Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn O.Henry, TIẾNG ANH 149. Abrams M. H., Geoffrey Galt Harpham (2009), A Glossary of Literary Terms, Ninth Edition, Wadsworth Cengage Learning, Boston, USA. p.126 150. Abhik Maiti (2016), “Pandora is fooled: one again a critical evaluation 160 of O.Henry‟s short story the last leaf,”Journal of Arts, Science & Commerce,Vol.– VII, Issue – 4(3), Oct. 2016, pp 50-53. 151. Adcock A. St. John (1917), “O.Henry: An English View.” Waifs and Strays: Twelve Stories, pp. 196-204. Reprinted in Twentieth-Century Literary Criticism. 152. Alemu Aklile (2015), Stylistic Analysis of Selected Short Stories By O Henry. Department of Foreign Languagesand Literature. Addis Ababa University School of Graduate Studies. May, 2015. 153. Banerjee (2015), “Jayanta O.Henry: The Master Behind the Master- Piece „The Last Leaf‟ and „The Gift of the Magi‟ as Model Short Story,” International Journal of English and Education Volume: 4, Issue:1, January 2015. 154. Beaty J. (1917), O.Henry's Life and Position, The Sewanee Review, Vol. 25, No. 2 (Apr., 1917), pp. 237-243. 155. Barker, C. (2004), The Sage dictionary of cultural studies, Sage, London. 156. Barker, C. (2000), Cultural studies: Theory and Practice, Sage, London. 157. Bowers, M.A (2004), Magic(al) realism, Routledge, New York & London. 158. Claude Lévi-Strauss (1955), “The Structural Study of Myth,”The Journal of American Folklore 68: 428-444. 159. Deming Brown (1953),“O.Henry in Russia,” The Russian Review, Vol. 12, No. 4 (Oct., 1953), pp. 253-258. 160. Doren Carl Van (1917), “O.Henry,” The Texas Review, Vol. II, No. 3, January, 1917, pp. 248-59. Reprinted in Twentieth-Century Literary Criticism, Vol. 19. 161 161. Ejxenbaum B.N. (1968), O.Henry and the Theory of the Short Story, Michigan Slavic Publications; 1st edition (April 21, 1968). 162. Encyclopedia of American Literature: 1607–to the Present (2002), Marshall Boswell and Carl Rollyson. 163. Eugene Current-Garcia (1993), O.Henry: A Study of the Short Fiction,Twayne Pub (July 1, 1993). 164. Fred Lewis Pattee (1997), “The Journalization of American Literature,” The Unpopular Review, Vol. VII, No. 14, April-June, 1917, pp. 374-94. 165. Fred Lewis (2009), History of American Literature since 1870, BiblioBazaar Publisher. 166. Heaberlin, D. (1988), “Review of the book O.Henry’s Texas Short Stories, by O.Henry,” Western American Literature 23(2), 164. doi:10.1353/wal.1988.0005. 167. Henderson Archibald (2018), O.Henry: A Memorial Essay, Forgotten Books, London. 168. Henry James Forman (1908), “Review: O.Henry's Short Stories,”The North American Review, Vol. 187, No. 630 (May, 1908), pp. 781-783. 169. Hyder E. Rollins (1914), “O.Henry”, The Sewanee Review, Vol. 22, No. 2 (Apr., 1914), pp. 213-232. 170. Klimovich N. V. (2014), “Phenomenon of Intertextuality in Translation Studies”, Journal of Siberian Federal University. Humanities & Social Sciences 2 (2014 7) 255-264. 171. Knight Jesse F. (1987), “O.Henry: Some thoughts on the urban romanticist”, Web. 172. Luther W. Courtney (1943), “O.Henry's Case Reconsidered,” American Literature, Vol. 14, No. 4 (Jan., 1943), pp. 361-371. 162 173. Mais S.P.B. (1917), From Shakespeare to O.Henry–Studies in Literature, Dodd, Mead and Company, Printed in Great Britain by The Riverside Press Limited Edinburgh. 174. Mark E. Workman (1981), “The Role of Mythology in Modern Literature”, Journal of the Folklore Institute 18(1981): 35-48. 175. Mattye B. Ross W. (1970), “A comparative analysis of selected short stories of Guy De Maupassant and of O.Henry (William Sydney Porter)”, Atlanta University Center Digital Commons W. Woodruff Library, Atlanta University Center. 176. Ms. Sharifa Akter (2014),“Behind the surprised endings of O Henry‟s short fiction: Fantasy (Psychology) and O.Henry‟s material reality,”IJELLH. Volume II, Issue V, September 2014. 177. O.Henry (1919), Rolling Stones, Toronto, McClelland and Goodchild Publishers, Printed in Garden City, N.Y., U.S.A. 178. Rena Korb (1997), “An Overview of 'The Gift of the Magi‟”, Short Stories for Students, Gale Research, 1997. 179. Payne L.W. (1918), The Humor of O.Henry, Texas Review, Vol. 4, No. 1 (OCTOBER), pp. 18-37. 180. Prince Gerald (2003). A Dictionary of Narratology, University of Nebraska Press, Lincoln&London. 181. Pritchett. V. S. (1957), “O.Henry,” New Statesman, Vol. LIV, No. 1393, November 23, 1957, pp. 697-698. 182. Seth Moyle (1914), My Friend O.Henry, The H.K. Fly Company Publishers, New York. 183. Stanhope Searles (1905), “O.Henry's „Cabbages and Kings‟”, The Bookman, New York, Vol. XX, No. 6, February, 1905, pp. 561-562. 184. Stephen Leacock (1916), “The Amazing Genius of O.Henry,” Essays and 163 Literary Studies. Reprinted in Twentieth-Century Literary Criticism. 185. Tanweer Jehan (2010), “Mirror-Writing: Social-realism in the short stories of O.Henry,”IRWLE VOL. 6,No. II July 2010. 186. Warde, Jr. William B. (1976), “The Short Story: Structure of a New Genre”, The South Central Bulletin, Vol. 36, No. 4, pp. 155-157. 187. Wilton Eckley (1994), “„The Gift of the Magi‟: Overview.”, Reference Guide to Short Fiction, 1st ed., edited by Noelle Watson, St. James Press, 1994. 164 PHỤ LỤC TRUYỆN NGẮN ĐÃ KH O SÁT - Ẩn sĩ chờ thời (To him who waits) - Bạn hữu ở San Rosario (Friend in San Rosario) - Đêm Ả Rập ở quãng trường Madison - Khách ở sa mạc lên - Mật bánh cay đắng - Thợ cắt tóc kể chuyện - Thái tử, tình yêu, thời gian - Trả giá cho sự phô trương - Cánh cửa màu lục (The green door) - Căn phòng có sẵn đồ cho thuê (The furnished room) - Cây xương rồng (The cactus) - Chị em bạn vàng (Sisters of the Golden Circle) - Chiếc lá cuối cùng (The last leaf) - Câu chuyện tỉnh lẻ - Chuyện một tờ báo - Con người hai mặt - Chuyến phà nhỡ nhàng - Cú sốc trưởng giả - Xuân trên thực đơn - Quà tặng của các thầy pháp - Bắp cải và nhà vua - Tên cớm và bản thánh ca - Một câu chuyện dở dang - Hoàng tử đồng xanh - Bản tin thành phố 165 - Hai mươi năm sau - Pxysê và nhà chọc trời - Dấu vết của Bill Đen - Mối tình của ngài khoán dịch viên - Ái tình theo khẩu phần - Những mẫu bánh mỳ kiến hiệu - Buồng tầng thượng - Một sự giúp đỡ của tình yêu - Chuyện một tờ báo - Một sự cải tạo được cứu vãn - Bánh rán miền Paimienta - Những con đường chúng ta lựa chọn - Quả lắc - Một cơn gió dịu - Đồng bệnh tương thân - Ngôi giáo đường và cối xay nước - Câu chuyện người đánh xe ngựa - Lạc giữa đám diễu hành - Tay súng tay đàn - Chuyện người đánh xe ngựa - Một nghìn đô la - Những giả định phá sản - Phán quyết của Georgia - Con người phóng đãng - Tiền chuộc của thủ lĩnh da đỏ - Tập truyện Bốn triệu (Four Million) - Tập truyện Đèn trang trí (The Trimmed Lamp) - Tập truyện Tiếng nói thị thành (The Voice of the City) 166 - Tập truyện Trái tim miền Tây (Heart of the West) - Tập truyện Người ghép cây hiền lành (The Gentle Grafter) - Tập truyện Đường định mệnh (Roads of Destiny) - Tập truyện Lựa chọn (Options) - Tập truyện Công việc nghiệt ngã (Strictly Business) - Tập truyện Con quay (Whirligigs) - Tập truyện Sáu và bảy (Sixes and Sevens) - Tập truyện Đá lăn (Rolling Stones) - Tập truyện Trẻ bơ vơ (Waifs and Strays) - Tập truyện Đọc lại O.Henry (O.Henry Encore) - Tập truyện Thư nhắn Lithophis của O.Henry gởi Mabel Wagnalls (Letters to Lithophis from O’Henry to Mabel Wagnalls - 1922). - Tập truyện Tái bút (Posts criptc - 1923). - Tổng tập O.Henry (The Complete Works of O.Henry - 1953). - Tập truyện Buồng tầng thượng và những truyện ngắn khác (The Skylight Room anđ Other Stories - 1972).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_ket_cau_truyen_ngan_cua_o_henry.pdf
  • pdfTrichyeu_LeThiThanhTam.pdf
Tài liệu liên quan