Luận án Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong văn học hiện đại, tiểu thuyết là thể loại đóng vai trò chủ lực. Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, văn học Việt Nam đã có những bước chuyển đổi sâu sắc, đặc biệt là tiểu thuyết. Từ sau 1986, đổi mới đã trở thành nhu cầu bức thiết của nhà văn, của công chúng và của chính bản thân văn học. Công cuộc đổi mới cho phép nhà văn phát huy sáng tạo, vận dụng nhiều bút pháp, thủ pháp nghệ thuật khác nhau, đào sâu hơn vào bản thể tâm hồn con người, m

doc165 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 339 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở rộng hơn biên độ hiện thực được nhận thức, phản ánh. Cuộc sống và con người trong tiểu thuyết được thể hiện đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức nghệ thuật. Để tiếp cận, khám phá hiện thực phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của thời đại, các nhà văn đã vận dụng sáng tạo nhiều thủ pháp nghệ thuật hoặc đã có từ trước, hoặc mới du nhập từ nước ngoài như trào lộng, huyền ảo, kỹ thuật dòng ý thức, phân tâm học, kỹ thuật phân mảnh, lắp ghép, kỹ thuật độc thoại nội tâm, nghệ thuật đồng hiện, liên văn bản... Tiểu thuyết đương đại, trong tình hình đó, đã kết tinh được những giá trị thẩm mỹ mới. 1.2. Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết là một khuynh hướng nghệ thuật đã có từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1930 – 1945, với sự xuất hiện và phát triển vững vàng của chủ nghĩa hiện thực. Các tác gia lớn như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... đã đóng góp cho lịch sử văn học dân tộc nhiều tác phẩm có giá trị. Với bút pháp và giọng điệu chủ đạo là trào lộng – trào phúng – giễu nhại, nhiều tiểu thuyết hiện thực 1930 – 1945 đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo tiểu thuyết Việt Nam hiện đại trước 1945 và đẩy thể loại này bước thêm những bước phát triển mới. Từ sau 1945, khuynh hướng này lắng xuống và đứt gãy trong một thời gian dài do sự chi phối của chiến tranh, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa... Từ sau 1975, nhất là từ sau 1986, khuynh hướng trào lộng trong tiểu thuyết tái sinh và ngày càng phát triển mạnh mẽ với các tác giả như Tô Hoài, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Vũ Bão, Đỗ Minh Tuấn, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Đặng Thân, Thuận, v.v... Tiểu thuyết hiện thực – trào lộng phát triển mạnh trong điều kiện đời sống xã hội dân chủ, mỗi tác phẩm là những giả thuyết hàm chứa ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống. Cùng với các nguồn cảm hứng khác, cảm hứng về cái hài có vai trò tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tiểu thuyết. Sự trở lại của tiếng cười là dấu hiệu lạc quan, nó tạo ra nhiều bè, nhiều giọng điệu nghệ thuật và nhiều giá trị mới trong tiểu thuyết. 1.3. Việc nghiên cứu các khuynh hướng khác nhau của tiểu thuyết đã được không ít các bài báo, công trình, luận văn, luận án tìm hiểu từ nhiều góc độ. Tiến trình đổi mới văn học ở nước ta nói chung, tiểu thuyết nói riêng diễn ra ngót ba thập kỷ với rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được nhìn nhận, lý giải, đánh giá một cách thỏa đáng và có hệ thống. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào thật chuyên sâu nghiên cứu tiểu thuyết hiện thực – trào lộng với chủ đích xem nó là một khuynh hướng, nhất là trong thời gian gần đây, nhiều tiểu thuyết mới ra đời mà chưa có thêm sự khảo sát. Thực hiện đề tài này, chúng tôi xác định đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu nhằm góp một tiếng nói khẳng định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Khuynh hướng này là một biểu hiện cụ thể đời sống dân chủ trong văn học, góp phần tạo nên sự đa dạng của tiểu thuyết trên nhiều phương diện. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu của luận án là Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án bao quát tiểu thuyết Việt Nam đương đại (từ sau 1986) để tìm hiểu khuynh hướng hiện thực – trào lộng (tiểu thuyết trước 1986, đặc biệt là tiểu thuyết trào lộng giai đoạn 1930 – 1945 được xem như là một tiền đề và là một đối tượng để đối sánh). Theo yêu cầu của đề tài, luận án tập trung đi sâu khảo sát các tiểu thuyết đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng (những tiểu thuyết có thể không thuộc khuynh hướng hiện thực – trào lộng nhưng chứa nhiều yếu tố trào lộng cũng được quan tâm) của các tác giả: Tô Hoài, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Phạm Thị Hoài, Ma Văn Kháng, Nguyễn Bắc Sơn, Vũ Bão, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Thuận, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Khắc Trường, Võ Văn Trực, Nguyễn Quang Vinh, Nguyễn Việt Hà, Trịnh Thanh Phong, Nguyễn Đình Tú, Đặng Thân, Lê Minh Quốc, Trần Nhương,... 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận án nhằm xác định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại với những nét riêng trong nhận thức, phản ánh hiện thực và thi pháp thể loại; góp phần vào việc nghiên cứu tiểu thuyết nước nhà trước yêu cầu của xu thế đổi mới và hội nhập. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Trên cơ sở bao quát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tổng quan vấn đề nghiên cứu và xác lập cơ sở lý thuyết của đề tài. 3.2.2. Nhận diện khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong bối cảnh đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 3.2.3. Đi sâu khảo sát, phân tích con người và thế giới hiện thực trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. 3.2.4. Đi sâu khảo sát, phân tích những đặc điểm về thi pháp thể loại của tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. 4. Phương pháp nghiên cứu Chọn đề tài Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả luận án vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó chủ yếu là các phương pháp sau: 4.1. Phương pháp liên ngành: Phương pháp này giúp cho việc huy động tri thức của một số ngành khác như văn hóa học, triết học, tâm lý học, ngôn ngữ học... nhằm tham chiếu, soi tỏ các vấn đề được đề cập trong luận án. 4.2. Phương pháp thống kê – miêu tả: Phương pháp này vận dụng các thao tác thống kê – miêu tả, tìm tần số xuất hiện có ý nghĩa dự báo tính quy luật của các yếu tố thể hiện qua các tác phẩm, giúp các nhận định có cơ sở khoa học. 4.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này đi vào phân tích tác phẩm, các vấn đề, trên cơ sở đó, tổng hợp theo định hướng của luận án. 4.4. Phương pháp lịch sử: Phương pháp này giúp cho việc nhìn nhận, xác định tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tái diễn những nét chính của bối cảnh lịch sử – văn hóa – xã hội có ảnh hưởng đến khuynh hướng tiểu thuyết này. 4.5. Phương pháp so sánh – loại hình: Phương pháp này được dùng để đối chiếu, so sánh các tác phẩm và các vấn đề văn học cùng hoặc khác loại hình nhằm chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt của tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng và tiểu thuyết viết theo khuynh hướng khác. 4.6. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phương pháp này được dùng để xâu chuỗi, hệ thống các vấn đề nghiên cứu trong tính thống nhất chỉnh thể. 5. Đóng góp của luận án Luận án là công trình tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực - trào lộng với một cái nhìn tập trung, hệ thống. Luận án là một sự nỗ lực bao quát và xác định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tổng quan vấn đề nghiên cứu và xác lập cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu vấn đề này. Luận án tạo dựng và phác thảo bức tranh tiểu thuyết Việt Nam đương đại, trên cơ sở đó khu biệt và nhận diện diện mạo, vị thế, đường hướng vận động của tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. Luận án là công trình đi sâu khảo sát con người, thế giới hiện thực và chỉ ra, làm rõ những đặc điểm nổi bật về thi pháp thể loại của tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và vận dụng vào việc dạyhọc ở học đường về thể loại tiểu thuyết, trong đó có khuynh hướng hiện thực – trào lộng. 6. Cấu trúc luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được triển khai thành 4 chương: Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài Chương 2. Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong bối cảnh đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại Chương 3. Con người và thế giới hiện thực trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. Chương 4. Thi pháp thể loại của tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Các khuynh hướng vận động, phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại trên lịch trình nghiên cứu 1.1.1.1. Vấn đề nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại Tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ sau 1986 đến nay phát triển mạnh mẽ, ngày càng phong phú và đa dạng. Thể loại văn học này không ngừng đổi mới, cách tân trên các phương diện như chức năng, nội dung và thi pháp thể loại. Biên độ phản ánh hiện thực của tiểu thuyết được mở rộng do sự vận động, phát triển của cuộc sống và đổi mới tư duy sáng tạo của nhà văn. Việc nghiên cứu, đánh giá tiểu thuyết từ sau đổi mới vì thế mà hấp dẫn đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học. Trong số các công trình đó, chúng tôi chú ý đến những công trình nghiên cứu có tính chất chuyên sâu về thể loại tiểu thuyết. Năm 1995, trong Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (khảo sát trên nét lớn), Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh cảm hứng phê phán ở một số tiểu thuyết do tinh thần dân chủ hóa và ý thức nghệ thuật của nhà văn đã có những thay đổi quan trọng. Trong đó có Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Chuyện làng ngày ấy... Năm 1996, Nxb (Nhà xuất bản) Hội Nhà văn ấn hành Khảo về tiểu thuyết của Vương Trí Nhàn. Tập sách thể hiện sự quan sát tinh tế các hiện tượng trên tiến trình tiểu thuyết Việt Nam và những vấn đề, những khía cạnh có ý nghĩa lý luận về thể loại. Một số tác giả khác với các bài viết, các công trình rất đáng chú ý, như Lê Huy Bắc với “Đồng hiện trong văn xuôi” (Văn học, số 6/1996); Ma Văn Kháng với “Tiểu thuyết, nghệ thuật khám phá cuộc sống” (Văn nghệ quân đội, số 11/1998); Bùi Việt Thắng (2000) với Bàn về tiểu thuyết (Nxb Văn hoá Thông tin); Phan Cự Đệ với “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới” (Văn nghệ quân đội, số 3/2001); Lý Hoài Thu với “Các nhà văn bàn về tiểu thuyết” (Văn nghệ quân đội, số 3/2001); Tôn Phương Lan (2002) với “Một số vấn đề trong văn xuôi thời kỳ đổi mới” (sách Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị quốc gia); Nguyễn Xuân Khánh (2003) với Suy nghĩ về hiện thực trong đổi mới tiểu thuyết (Nxb Hội Nhà văn); v.v... Năm 2005, trong Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 (in trong Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Văn học), Bích Thu đã có những nhận xét xác đáng về sự đổi mới của tiểu thuyết từ sau 1986 qua các yếu tố: nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu. Bùi Việt Thắng với Tiểu thuyết đương đại (2005), Nxb Quân đội nhân dân phát hành, gồm 2 phần: Phần 1 có 12 bài viết mang tính chất nhận diện và chỉ ra những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986; Phần 2 có 27 bài, tác giả đi vào phân tích 29 tác phẩm (viết từ sau 1986) của 27 nhà văn, trong đó có Tô Hoài, Lê Lựu, Đoàn Minh Phượng, Chu Lai, Đào Thắng, v.v Từ 2006 đến 2008, bàn về văn xuôi nói chung và tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói riêng, có thể kể đến Hoàng Ngọc Hiến với Những ngả đường văn học (Nxb Văn học), Bích Thu với “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới” (Nghiên cứu văn học, số 11/2006), Văn Giá với “Thử nhận diện tiểu thuyết ngắn Việt Nam gần đây” (Văn nghệ, số 26/2006), Mai Hương với “Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút văn xuôi” (Nghiên cứu văn học, số 11/2006), Nguyễn Trường Lịch với “Đổi mới tiểu thuyết trong bối cảnh giao lưu văn hóa” (Văn nghệ, số 4/2007), Trần Thị Mai Nhân (2008)với Những đổi mới trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 – 2000 (luận án Tiến sĩ), v.v... Các công trình này đều đề cập đến sự đổi mới, cách tân của tiểu thuyết đương đại trên các phương diện nội dung tư tưởng cũng như thi pháp thể loại. Trong Lời giới thiệu chuyên luận Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (2009) của Mai Hải Oanh, Trần Đình Sử nhận định: “Bắt đầu từ tư duy mới về thể loại tiểu thuyết, quan niệm mới về con người, sự tìm tòi các phương thức biểu hiện và cấu trúc mới, tiểu thuyết Việt Nam đã có những khuynh hướng sáng tác nổi bật...” [137; 6]. Các tác giả khác như Đỗ Hải Ninh với “Quan niệm về lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh” (Nghiên cứu văn học, số 2/2009), Nguyễn Thành với “Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại – một số bình diện tiêu biểu” (Nghiên cứu văn học, số 4/2012), Bích Thu với “Một vài cảm nhận về ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam đương đại” (Nghiên cứu văn học, số 3/2013) và “Bước đầu nhận diện tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI” (trong Văn học Việt Nam hiện đại – Sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Văn học, 2015)...khẳng định tiểu thuyết có những đổi mới về nội dung phản ánh, cái nhìn hiện thực và đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người với tư tưởng nhân văn phương Đông. Trong “Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986–2016) – Những bước thăng trầm” (Văn nghệ, số 24/2016), Bùi Việt Thắng xác định, văn học Việt Nam 1975 – 1986 là giai đoạn tiền đổi mới, chưa vượt thoát ra khỏi phạm trù “sử thi và lãng mạn” của văn học cách mạng. Theo tác giả, tiểu thuyết thật sự bước vào cao trào đổi mới là vào khoảng cuối những năm tám mươi, đầu những năm chín mươi của thế kỷ XX. Tác giả xem Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu là sự đột phá của tiểu thuyết đổi mới, tác phẩm thấm đượm nhiệt hứng nhận thức lại thực tại, về sau trở thành một khuynh hướng quan trọng của văn học đương đại được viết theo tinh thần của “cái bi kịch” và mở ra một dòng tiểu thuyết tự thuật được các nhà văn ưa chuộng sau này; v.v Ngoài những bài báo, công trình đề cập đến các vấn đề mang tính lý luận, khái quát diện mạo hoặc chỉ ra những cách tân nghệ thuật tiểu thuyết như xây dựng nhân vật, cấu trúc tác phẩm, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu còn có không ít những bài báo quan tâm đến các tác phẩm cụ thể như Mùa lá rụng trong vườn, Ba người khác, Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Thượng đế thì cười, Giã biệt bóng tối, các tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh nói riêng và tiểu thuyết lịch sử nói chung Ngoài những bài viết mang tính cập nhật hoặc rải rác sau khi tác phẩm ra đời, nếu cuốn tiểu thuyết nào gây được chú ý trong dư luận, thường Báo Văn nghệ hoặc một số báo, Viện tổ chức tọa đàm, thảo luận: Thảo luận về tiểu thuyết Mưa mùa hạ (Viện Văn học); Thảo luận về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú (Văn nghệ, số 6/1990); Trao đổi về Lời nguyền hai trăm năm – tiểu thuyết của Khôi Vũ (Văn nghệ, số 26/1990); Thảo luận về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma (Báo Văn nghệ, số 11/1991);Thảo luận về tiểu thuyết Thân phận tình yêu (Văn nghệ, số 37/1991); Thảo luận về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai (Văn nghệ, số 29/1992); Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly (Văn nghệ, số 41/2000); Nguyễn Khắc Phê với “Sông Côn mùa lũ” (Nhà văn, số 4/2000); Lê Nguyên Cẩn với “Thế giới kỳ ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma từ điểm nhìn văn hóa” (Nghiên cứu văn học, số 8/2006); “Tọa đàm về tiểu thuyết Luật đời và cha con” (Văn nghệ, số 17 và 18/2006); Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức trao đổi Ba người khác của Tô Hoài (22/12/2006), Viện Văn học tổ chức hội thảo về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh (được tập hợp lại trong cuốn Nguyễn Xuân Khánh – Cái nhìn lịch sử nghệ thuật (2003), Nxb Phụ nữ); Hội Nhà văn (2013) tổ chức hội thảo về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Nam Dao; v.v Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo lẻ khác như Vân Thanh với “Một mảnh đời trong cuộc sống hôm nay qua Mùa lá rụng trong vườn” (Văn học, số 3/1986); Mai Huy Bích với “Trở lại với tiểu thuyết Thời xa vắng: Hôn nhân, gia đình, xã hội qua một tiểu thuyết” (Văn nghệ, số 23/1987); Nguyễn Huy Thông với “Về cuốn tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương” (Văn nghệ, số 51/2006); Nguyễn Thị Minh Thái với “Mười lẻ một đêm, cái nhìn hắt sáng từ phía sau” (Văn nghệ, số 23/2006)... Nhìn chung, các hội thảo, trao đổi, tọa đàm, các bài báo trên đều khẳng định tiểu thuyết Việt Nam đã tạo ra những cao trào từ cuối những năm tám mươi, đầu những năm chín mươi của thế kỷ trước. Tiểu thuyết thời đổi mới đã đi được những bước tự tin và thành tựu của mình với nhiều tác giả thuộc nhiều thế hệ. Khi thể loại tiểu thuyết – “cỗ máy cái văn học” ngự trị văn đàn thì văn học thật sự đổi mới. Có thể thấy, dư luận chung đều khẳng định tiểu thuyết đương đại ngày càng phát triển mạnh mẽ, giàu chất văn xuôi, mang tính hướng nội, có nhiều cách tân, sáng tạo trong nhận thức và thể hiện cuộc sống. 1.1.1.2. Vấn đề nghiên cứu các khuynh hướng vận động, phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại Khuynh hướng, trào lưu là các khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng của quá trình văn học, là “những cộng đồng các hiện tượng văn học được liên kết lại trên cơ sở một sự thống nhất tương đối về các định hướng thẩm mỹ – tư tưởng và về các nguyên tắc thể hiện nghệ thuật” [10; 173]. Trào lưu văn học được đánh dấu bằng sự xuất hiện hàng loạt sáng tác của nhóm nhiều tác giả, biểu hiện thành cương lĩnh riêng, có những đặc điểm cơ bản giống nhau, “có quan điểm tư tưởng – xã hội và quan điểm thẩm mỹ tương đối gần gũi, thống nhất với nhau” [58; 302]. Một số nhà nghiên cứu xem trào lưu là phạm trù rộng, dung chứa nhiều khuynh hướng. Tuy nhiên, “quan niệm được dùng phổ biến hơn thì coi khuynh hướng là phạm trù rộng, dung chứa nhiều trào lưu” [10; 173]. Khuynh hướng “ghi nhận tính cộng đồngvề cơ sở tư tưởng thẩm mỹ của nội dung nghệ thuật; tính cộng đồng này được quy định bởi sự thống nhất về truyền thống nghệ thuật và văn hóa, bởi sự gần gũi trong cách hiểu của các nhà văn đối với các vấn đề của đời sống, bởi sự giống nhau về các tình thế xã hội, thời đại, văn hóa, nghệ thuật” [10; 174]. Khuynh hướng văn học không đòi hỏi phải có “một sự gần gũi trực tiếp về tư tưởng và nghệ thuật, một sự thống nhất mang tính cương lĩnh về thẩm mỹ của các thành viên” [10; 174]. Khuynh hướng là “Sự thiên về một phía nào đó trong hoạt động, trong quá trình phát triển” [135; 498]. Khái niệm khuynh hướng ở đây được hiểu với ý nghĩa chỉ những tiểu thuyết có chung một số đặc điểm nổi trội về vấn đề nhận thức và phản ánh hiện thực – một vấn đề quan trọng của lịch sử văn học. Sự hình thành và phát triển của các khuynh hướng tiểu thuyết giúp chúng ta nhận thức được sự biến đổi và phát triển trong nội dung tư tưởng và thi pháp thể loại của một giai đoạn, một thời kỳ, một nền văn học. Theo D.X. Likhatsev trong Thi pháp của nền văn học Nga cổ (Nxb Khoa học, Leningrad 1967, Phan Ngọc dịch), khuynh hướng văn học cũng là một biểu hiện quan trọng của thi pháp văn học, đánh dấu trình độ phát triển của nghệ thuật ngôn từ trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử văn học. Từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam vận dụng các khái niệm lý luận của G.N. Pospelov (Nga), nhận thấy văn học Việt Nam sau 1975 có khuynh hướng phi sử thi hóa, thế sự hóa và đời tư hóa. Trong bài Các khuynh hướng phê bình văn học Việt Nam hiện nay, Trần Đình Sử nhận xét, cách phân biệt khuynh hướng trên“còn được vận dụng, gắn với quan niệm về sự giải thiêng, giải huyền thoại, khuynh hướng thế tục hóa văn học, khuynh hướng biểu hiện chấn thương tinh thần”. Nhìn chung, sự phân chia các khuynh hướng trên có những đặc điểm giống với khuynh hướng văn học thuộc các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Tính khuynh hướng là “điều kiện cần thiết để có tính tư tưởng và tính nghệ thuật” [58; 294]. Khuynh hướng văn học “không phải là ý đồ chủ quan không có cơ sở của nhà văn mà là một xu thế tư tưởng bắt nguồn từ cuộc sống,bao giờ cũng toát ra một cách tự nhiên từ sự miêu tả sinh động của đời sống chứ không phải qua những lời lý thuyết khô khan, hoặc những tư tưởng trừu tượng” [58; 294]. Trong Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay (2008), Nguyễn Thị Bình chọn trọng tâm nghiên cứu là tư duy thể loại, tiêu chí phân chia là đặc điểm bút pháp. Tác giả cho rằng: “một lối tư duy bao giờ cũng được biểu hiện ra ngoài bằng một bút pháp tương ứng”, và phân chia tiểu thuyết Việt Nam đương đại thành các khuynh hướng: tiểu thuyết theo phong cách “lịch sử hóa”, tiểu thuyết theo phong cách “tự thuật”, tiểu thuyết tư liệu – báo chí, tiểu thuyết hiện thực kiểu truyền thống và tiểu thuyết theo phong cách hậu hiện đại. Trong Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới cơ bản, Nguyễn Thị Bình đã nghiên cứu bước ngoặt trong hệ hình ý thức của nhà văn, đánh giá tính đối thoại trong tác phẩm đồng thời chỉ ra căn bệnh xã hội đã trở thành đối tượng phê phán của nhà văn trong tiểu thuyết Ly thân và Chuyện làng Cuội [18; 99]. Theo tác giả, với cảm hứng đó, những căn bệnh xã hội đã trở thành lố bịch, phi lý khi nó được thể hiện với giọng giễu nhại và trào lộng. Mai Hải Oanh với Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại giai đoạn 1986 – 2006 (2008) đã luận giải sự đa dạng về cách thức thể hiện của tiểu thuyết trên cơ sở đề cập đến một số bút pháp nghệ thuật. Theo tác giả, tiểu thuyết thực sự đã trở thành “nhân vật chính” trên văn đàn và thâm nhập mạnh mẽ vào các thể loại, đồng thời thu hút vào nó các thể loại khác để tạo nên cấu trúc nghệ thuật đa tầng. Một thay đổi quan trọng trong nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết là sự đa dạng và linh hoạt về bút pháp nghệ thuật. Căn cứ vào các nguyên tắc và bút pháp nghệ thuật, tác giả chia tiểu thuyết đương đại thành các khuynh hướng như: tiểu thuyết tả thực mới; tiểu thuyết phúng dụ, huyền thoại; tiểu thuyết trào lộng giễu nhại; tiểu thuyết tượng trưng Bùi Việt Thắng với Tiểu thuyết đương đại muốn khái quát diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 qua những giai đoạn ngắn và đề cập đến một số khuynh hướng vận động, phát triển của tiểu thuyết đương đại. Ông nhận định, “sẽ là không đầy đủ trong công việc nhận diện văn học nếu không nói đến tiểu thuyết”. Theo ông, tiểu thuyết đương đại Việt Nam đã tiếp thu được nhiều kinh nghiệm nghệ thuật tiểu thuyết thế giới, ít mô tả thế giới hơn là tạo ra một thế giới theo cách của nó và ở đó, “con người có thể chiêm ngưỡng mình từ nhiều chiều hơn là chỉ thấy cái bóng của mình đổ dài xuống lịch sử” [161; 202]. Luận án Kết cấu tiểu thuyết Việt Nam đương đại (2012) của Nguyễn Thị Ninh đi vào nghiên cứu những đổi mới kết cấu của xu hướng tiểu thuyết cách tân theo thi pháp hiện đại trong việc đối sánh với tiểu thuyết truyền thống. Tác giả nhận diện sự xuất hiện của xu hướng tiểu thuyết mới từ cuối thập niên 1980, hình thành rõ nét từ giữa thập niên 1990 đến nay – xu hướng tiểu thuyết có nhiều đổi mới cách tân, đặc biệt là kỹ thuật viết. Luận án khám phá một số phương diện kết cấu đặc sắc của xu hướng tiểu thuyết mới như: đổi mới kết cấu văn bản trần thuật và kết cấu hình tượng trong quan hệ với cốt truyện và hiện thực được phản ánh; kết cấu nhịp điệu và ngôn ngữ như là phương tiện để biến kết cấu trong hình dung tưởng tượng của nhà văn thành một thực thể sinh động. Luận án Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (2012) của Nguyễn Thị Kim Tiến tập trung tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người và khái quát các dạng thái con người trong tiểu thuyết từ sau 1986: con người dưới góc nhìn nhân bản xã hội (người lính, người nông dân, người trí thức), con người dưới góc nhìn loại hình văn học (con người lịch sử – văn hóa, con người “huyền thoại”, con người “dị biệt”). Tác giả luận án cũng chỉ ra một số phương diện của nghệ thuật biểu hiện con người trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, trong đó có giọng điệu giễu nhại. Luận án Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1975 – những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật (2012) của Nguyễn Thị Thanh căn cứ các quan niệm: “Văn học là nhân học” (M. Gorki), Tiểu thuyết giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực (M. Bakhtin) và sự thay đổi quan niệm về hiện thực và con người, chia tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 thành các khuynh hướng như: khuynh hướng khám phá người anh hùng lưỡng diện, khuynh hướng thể hiện con người bị chấn thương và những số phận bi kịch, khuynh hướng thể hiện con người đời thường và những vấn đề thế sự. Thái Phan Vàng Anh với Các khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI (2013) xem tiểu thuyết là “cỗ máy cái của văn học”, là trụ cột của một nền văn học và luôn thích nghi với những chuyển động phong phú của đời sống. Từ góc nhìn thể loại, tác giả nhận thấy tiểu thuyết ngày càng xuất hiện nhiều khuynh hướng, thể hiện sự cách tân triệt để trong xu thế hội nhập. Căn cứ vào mỹ học hậu hiện đại, tác giả chia tiểu thuyết thành các khuynh hướng: tiểu thuyết tân lịch sử – sự phản tư lịch sử, tiểu thuyết hiện sinh – sự phân rã những mảnh hiện tồn, tiểu thuyết tính dục – sự phì đại của dòng văn chương thân xác, tiểu thuyết nữ quyền – phụ nữ không phải là “cái khác vắng mặt”. Ngô Thị Quỳnh Nga với luận án Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 viết về chiến tranh (2015), trên một số nét chính đã phác họa lại diện mạo của tiểu thuyết với những đường hướng vận động và phát triển của nó. Các công trình trên tuy chưa trực tiếp tìm hiểu các khuynh hướng vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại một cách hệ thống, nhưng đã tạo dựng, phác thảo được những đường nét quan trọng, có cơ sở. Theo tác giả luận án, khuynh hướng văn học nói chung và khuynh hướng tiểu thuyết nói riêng được phân loại theo nhiều cách khác nhau, trong đó có hai cách thường được chú ý là phân loại theo nội dung, tư tưởng và phân loại theo thi pháp thể loại hoặc bút pháp. Cùng chiếm lĩnh một hiện thực đời sống, nhưng từng nhà văn có cách thức nhận thức và xử lý chất liệu khác nhau, có quyền tự do lựa chọn cho mình một khuynh hướng nghệ thuật nhất định bên cạnh các khuynh hướng nghệ thuật khác. Có thể thấy, tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 thể hiện sự đa dạng, phong phú về các khuynh hướng nội dung tư tưởng và khuynh hướng thẩm mỹ. Sự hình thành, phát triển các khuynh hướng trong tiểu thuyết thể hiện sự đổi mới về tư tưởng nghệ thuật, bút pháp nghệ thuật, là sự thể hiện những lập trường nghệ thuật không giống nhau trong văn học. Sự xuất hiện các khuynh hướng tiểu thuyết cũng chính là biểu hiện của quá trình dân chủ hoá trong văn học Việt Nam đương đại. Khảo sát tiến trình vận động, phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, có thể thấy mối quan hệ cộng hưởng của các khuynh hướng trong hệ thống thể loại. Mỗi hệ thống thể loại tạo thành một hệ thống nghệ thuật và các yếu tố hợp thành hệ thống có sự tác động qua lại lẫn nhau. Từ sau 1986, tiểu thuyết Việt Nam có những đặc điểm và quy luật vận động riêng, có sự phân định và cũng có sự cộng sinh giữa các khuynh hướng. Những “đổi mới, cách tân của tiểu thuyết thời gian qua, đặc biệt trên phương diện thi pháp thể loại nhờ vận dụng, pha trộn nhiều thủ pháp, kỹ thuật của lối viết mới với muôn kiểu “trò chơi” (chơi ngôn ngữ, chơi lịch sử, chơi cấu trúc, chơi kết cấu, chơi nhân vật), lắm những thủ pháp (“cắt dán”, “lồng ghép” – “phân mảnh” – modular, phỏng nhại, liên văn bản, ký hiệu hóa, số hóa, vật hóa, v.v) quả thực có làm cho diện mạo và đặc điểm của tiểu thuyết Việt Nam đương đại khác trước” [44; 7], không ngừng đổi mới về nội dung tư tưởng và thi pháp thể loại. Về nội dung tư tưởng, bức tranh hiện thực trong tiểu thuyết mang đậm hơi thở cuộc sống, nhiều mảng màu đan xen hỗn tạp. Về thi pháp thể loại, tiểu thuyết đã có những đổi mới về bút pháp, phương thức trần thuật và khắc họa nhân vật. Việc nhận diện các khuynh hướng tiểu thuyết dù dựa vào tiêu chí nào cũng đều mang tính tương đối, bởi chúng có những điểm giao thoa với nhau. Căn cứ chủ yếu vào bút pháp, tác giả luận án có thể nhận diện tiểu thuyết Việt Nam đương đại vận động và phát triển theo các khuynh hướng nổi trội như: khuynh hướng hiện thực – trào lộng, khuynh hướng hiện thực – huyền ảo, khuynh hướng hiện thực – tâm lý, khuynh hướng hiện thực – hiện sinh, khuynh hướng hiện thực – lịch sử... (“Một số khuynh hướng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 1(66)/ 2015, tr. 156 – 163). Cách nhận diện trên phần nào cho thấy được diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tuy nhiên, nó chỉ có tính chất tương đối, vì thường trong một tác phẩm có thể tìm thấy sự giao thoa, chuyển hóa giữa các khuynh hướng khác nhau. Sự phân chia các khuynh hướng nhằm nhận diện toàn bộ diện mạo tiểu thuyết Việt Nam đương đại thực ra là vấn đề phức tạp và không thể dừng lại, vì tiểu thuyết là thể loại chưa hoàn thành, đang tiếp diễn. Nhà văn không những nhận thức mà còn thể hiện bản chất của đời sống và hiện thực, bởi như ý của Nguyễn Minh Châu nói trong Di cảo: đó mới là hiện thực cuộc sống đích thực. Bằng tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của mình, mỗi nhà văn luôn tìm tòi sáng tạo, gắn thể loại với đời sống và có cái nhìn mới về hiện thực, nhằm tạo nên một diện mạo mới cho nền tiểu thuyết nước nhà. 1.1.2. Vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại 1.1.2.1. Về tìm hiểu, nghiên cứu tiếng cười trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại Nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới cho rằng, tiếng cười là một trong những yếu tố ghi nhận trình độ trưởng thành của nhà văn cũng như của một nền văn học. Sự xuất hiện tiếng cười là một biểu hiện của sự vận động đa dạng hóa hình thức thẩm mỹ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Tiếng cười xuất hiện trong tiểu thuyết với tần số ngày càng cao sau một thời gian dài “ngủ đông” đã cho thấy vai trò quan trọng của vấn đề dân chủ trong đời sống xã hội, là điều kiện để tiếng cười hồi sinh và phát triển. Hầu hết, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy sự xuất hiện trở lại của tiếng cười trong hàng loạt tiểu thuyết xuất hiện từ sau 1986 như là một khuynh hướng chủ đ...i nghiên cứu, lý luận cũng như giới sáng tác đặc biệt quan tâm và đặt ra sớm nhất từ những ngày đầu đổi mới. Trong bài “Vấn đề phản ánh hiện thực” (Văn nghệ, số 20/1988), Lê Ngọc Trà đặt ra ba vấn đề là văn học và nhiệm vụ phản ánh hiện thực, vai trò của chủ thể trong sáng tạo văn học, các tác giả kinh điển với vấn đề văn học phản ánh hiện thực. Trong Hội thảo “Phản ánh hiện thực là chức năng hay là thuộc tính của văn học?” (Văn học, số 1/1989), Lê Xuân Vũ cho rằng: “Hiện thực trong mệnh đề “văn học phản ánh hiện thực” được hiểu là cuộc sống của con người với tất cả sự phong phú, đa dạng của nó, bản chất và quy luật phát triển của nó, chứ không phải chỉ là các sự kiện, hiện tượng, chi tiết ngẫu nhiên hoạt động bên ngoài của con người”; và, “phản ánh không phải là sao chụp, phản chiếu lại như trong một tấm gương mà là phản ánh theo lý luận phản ánh của V. Lenin, phản ánh có sáng tạo, phản ánh bằng nghệ thuật”. Lê Ngọc Trà quan niệm: “Phản ánh hiện thực đã bao hàm trong đó có sự “nghiền ngẫm” về hiện thực, cho nên không thể tách “phản ánh” với “nghiền ngẫm” như là hai quá trình độc lập”. Nghĩa là, không nên đối lập hai nhiệm vụ của văn học để khẳng định nhiệm vụ này mà phủ định nhiệm vụ kia. Có những ý kiến phản đối quan điểm của Lê Ngọc Trà (Lê Xuân Vũ, Phương Lựu, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Phong Lê); có những ý kiến đồng tình (Nguyễn Văn Hạnh, Trương Đăng Dung, Nguyễn Nghĩa Trọng, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Huệ Chi). Theo Hoàng Ngọc Hiến, bài viết của Lê Ngọc Trà là những nỗ lực đáng chú ý để xác lập chân lý khoa học, loại chân lý làm việc giúp ích cho sự suy nghĩ, tìm tòi. Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Nghĩa Trọng đều khẳng định những nhận xét, đánh giá của Lê Ngọc Trà là khá xác đáng, khoa học. Nguyễn Huệ Chi, Trương Đăng Dung đều cho rằng: “Phản ánh hiện thực là thuộc tính của văn học”. Trong bài “Văn học phản ánh hiện thực” (Văn nghệ quân đội, số 6/1988), Lê Thành Nghị quan niệm: “Phản ánh hiện thực, đó là một thuộc tính của văn học, nhưng mục đích tối thượng của văn học có lẽ không chỉ dừng lại ở đó. Dùng hiện thực làm phương tiện, văn học còn đi xa hơn nữa, đó là nó nhằm hoàn thiện con người”. Trong Văn học và hiện thực (Nxb Khoa học Xã hội, 1990), ở trang 192, nhân bàn về đặc trưng phản ánh nghệ thuật của hai nhà lý luận Lucate và Cottoen, Trương Đăng Dung viết: “Tất nhiên, hiện thực không tự dưng mà vào tác phẩm, nhưng khi chúng ta thừa nhận lý thuyết phản ánh thì rõ ràng phản ánh hiện thực là một thuộc tính mà bất kỳ nghệ sĩ nào cũng có”. Những ý kiến không đồng tình với Lê Ngọc Trà ở hai điểm là không thể đồng nhất phản ánh hiện thực với ghi chép, mô tả về hiện thực; không thể đối lập giữa phản ánh hiện thực với nghiền ngẫm về hiện thực để từ đó phủ nhận nhiệm vụ hàng đầu của văn học là phản ánh hiện thực. Dẫu sao, ý kiến của Lê Ngọc Trà cũng là một sự khuyến cáo về sự nệ thực của văn học. Theo Biện Minh Điền, hệ lụy của “cách hiểu thụ động từ “phản ánh” và “việc đề cao quá mức đặc tính phản ánh và nhiệm vụ mô tả hiện thực của văn học” ấy đã dần dần được khắc phục trong văn học ta, nhất là ở tiểu thuyết thời gian qua (từ sau 1986). Tuy nhiên cũng không vì thế mà cực đoan phủ định chức năng phản ánh hiện thực” của văn học mà tiểu thuyết là thể loại có khả năng lớn lao nhất” [44; 2]. Chúng tôi cho rằng, nghệ thuật không chỉ đơn thuần là sự phản ánh hiện thực, mà còn là vấn đề nhận thức và cách thức xử lý chất liệu hiện thực của nhà văn. Về phương diện lý luận phản ánh, hiện thực được thể hiện trong tác phẩm cũng như tư tưởng và tình cảm của nhà văn đều là thuộc tính của văn học. Về phương diện lý luận nghệ thuật, hiện thực được phản ánh trong tác phẩm là quá trình nhận thức và sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Bản chất và chức năng của văn học là nhận thức hiện thực, quan trọng hơn là vấn đề xử lý chất liệu hiện thực của nhà văn. Văn học chân chính dù ở đâu và bao giờ cũng là nơi nhà văn gởi gắm những suy tư, tư tưởng, quan điểm và khát vọng chân – thiện – mỹ của mình. Vấn đề ở đây không chỉ là sự phản ánh hiện thực mà còn là sự đối thoại, là niềm tin và hy vọng về con người và cuộc sống của nhà văn. 1.2.2. Lý thuyết về trào lộng, trào phúng và các loại hình, thể loại của văn học trào lộng, trào phúng Theo Từ điển thuật ngữ văn học, trào phúng là “một loại đặc biệt của sáng tác văn học”, “đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước... được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng... những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội” [58; 306]. Theo nghĩa từ nguyên, trào phúng là “dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn học, trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học và cái hài với các cung bậc hài hước, umua, châm biếm” [58; 306]. Trào phúng là tiếng cười châm biếm, phê phán, đả kích những hiện tượng đáng lên án trong xã hội. Văn học trào phúng “bao hàm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc cái hài khác nhau từ những truyện cười, truyện tiếu lâm đến tiểu thuyết (như Số đỏ), từ các vở hài kịch đến những bài thơ trào phúng, châm biếm” [58; 306]. Trong Hán – Việt từ điển, Đào Duy Anh giải thích: trào là cười, cười nhạo; lộng là ngắm nghía, chơi. Trào lộng là đùa cợt, giễu nhại, chế giễu, hài hước nhằm vào thói hư tật xấu hoặc những cái lố bịch trong đời sống xã hội nhằm đem lại tiếng cười. Trong văn học, trào lộng hay trào phúng đều là nghệ thuật tạo ra cái hài với những cung bậc khác nhau, nhằm tạo ra tiếng cười đa âm sắc. Cái hài là “một hiện tượng thẩm mỹ khách quan, mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là những cái xấu đội lốt cái đẹp, bị phát hiện bất ngờ và gây ra tiếng cười tích cực, phê phán cái xấu dưới ánh sáng của một lý tưởng thẩm mỹ tiến bộ” [61; 177]. Từ cơ sở của những quan niệm trên, tác giả luận án xác định trào phúng và trào lộng về cơ bản là tương đồng, cùng một “hệ hình” của tiếng cười, tuy nhiên có khác nhau chút ít ở đối tượng của tiếng cười và mức độ của tiếng cười. Trào phúng thường là tiếng cười phê phán, châm biếm, đả kích những hiện tượng chứa dựng sự mâu thuẫn đấu tranh giai cấp, chống tiêu cực, chống cái xấu, cái ác. Tiếng cười trào phúng được tạo ra từ những mâu thuẫn mang tính chất đối kháng được bắt nguồn từ bản chất xấu xa của đối tượng đối lập với lý tưởng thẩm mỹ tiến bộ. Tiếng cười trong văn học trước đây nghiêng về đả kích, châm biếm, phê phán cái xấu xa, độc ác, kẻ thù của dân tộc nhằm tiêu diệt chúng nên thường được gọi là văn học trào phúng, như thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, văn xuôi trào phúng của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng Trào lộng là tiếng cười chứa dựng sự mâu thuẫn mang tính toàn dân, cười vào mọi đối tượng, mang màu sắc khôi hài, hài hước, giễu nhại. Tiếng cười trào lộng được tạo ra từ sự mâu thuẫn do sự không hài hòa, không cân đối, không tương xứng giữa những mặt nào đó của con người hay một số hiện tượng xã hội so với những hiện tượng bình thường của cuộc sống, là những biểu hiện lệch lạc nhất thời so với chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thẩm mỹ của xã hội. Tiếng cười trào lộng giúp con người nhận thức sâu sắc về cuộc sống, hướng đến mọi đối tượng chưa hoàn chỉnh, dám nhìn thẳng vào sự thật, thoát khỏi tính giáo điều, một chiều, cuồng tín, ảo tưởng... Tiếng cười trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, nhất là từ sau 1986 đến nay nghiêng về sự hài hước, giễu cợt, giễu nhại gắn với những phẩm chất thẩm mỹ mới trong bối cảnh lịch sử – văn hóa – xã hội mới nên thường được gọi là tiếng cười trào lộng. Về mức độ, trào phúng là tiếng cười có tính chất mạnh mẽ hơn trào lộng. Về bản chất, trào phúng là tiếng cười nghiêng về phê phán, châm biếm, đả kích còn trào lộng là tiếng cười nghiêng về chia sẻ, giải tỏa. Trong luận án, chúng tôi đề cập đến tiếng cười trào lộng mang tư tưởng xã hội, có ý nghĩa phổ quát, thể hiện sự nhận thức nhất định về đời sống và con người với những ý nghĩa xã hội – thẩm mỹ mới. Chúng tôi quan niệm, cảm hứng trào lộng, bút pháp trào lộng là những phương diện chủ đạo tạo nên nên khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Thể loại văn học là các dạng thức của tác phẩm, thể hiện sự giống nhau về cách thức tổ chức, về đặc điểm của các hiện tượng đời sống được miêu tả, quy tụ những hình thức nhìn nhận và phản ánh đời sống. M. Bakhtin xem thể loại là nhân vật chính của văn học: “Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trước hết là thể loại” [14; 28]. Về bản chất, ông khái quát đặc trưng thể loại và chỉ ra tính dân chủ trong tư duy tiểu thuyết: “Người viết tiểu thuyết thiên về những cái gì chưa xong xuôi. Anh ta có thể xuất hiện trong trường miêu tả những sự việc có thật trong đời mình hoặc nói ám chỉ đến chúng, có thể can thiệp vào cuộc trò chuyện giữa các nhân vật, có thể bút chiến công khai với các địch thủ văn học của mình” [14; 57]. M. Kundera suy nghiệm về những vấn đề gốc rễ của nghệ thuật tiểu thuyết. Ông xem tiểu thuyết như một loại triết học nghiên cứu con người tồn tại trong thế giới, sứ mệnh của nó là lên tiếng khẳng định vị trí con người, bởi: “Tiểu thuyết sinh ra không phải vì tinh thần lý thuyết mà từ tinh thần hài hước” [85; 127]. Trong văn học trung đại, trào phúng chủ yếu nằm ở thể loại thơ, nhiều nhà nghiên cứu đánh giá thơ trào phúng Việt Nam trong nhiều thế kỷ đã tạo nên sự đa dạng, phong phú về cung bậc của tiếng cười. Trong Thơ văn trào phúng Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh cho rằng, mười thế kỷ văn học nước nhà là mười thế kỷ của một kho tàng trào phúng dồi dào. Các nhà thơ trào phúng được biết đến trong văn học trung đại như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Nguyến, Trần Tế Xương, v.v... Thơ văn của họ là tiếng nói phê phán những thói hư tật xấu, đả kích sự thoái hóa, quan liêu của giới quý tộc phong kiến, lên án gian thần và mọi thế lực của cái xấu. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về họ, như: Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực (Đỗ Lai Thúy), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm (Nhiều tác giả), Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm (Nhiều tác giả), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến (Biện Minh Điền) Và, có nhiều nhận xét xác đáng thơ trào phúng, như: Trần Đình Hượu: “Trong văn học cận – hiện đại của ta, thơ trào phúng chuẩn bị trực tiếp cho văn học hiện thực phê phán” [76; 164], Trần Nho Thìn xem thơ trào phúng “là một biểu hiện quan trọng của sự giải thể nhà nho, mở đường cho nền văn học mới, một nền văn học hướng vào hiện thực” [165; 861], v.v Từ 1930 đến 1945, văn học hiện thực phát triển mạnh mẽ, tiếng cười trào phúng xuất hiện ở hầu khắp các thể loại như thơ, phóng sự, kịch, truyện, tiểu thuyết. Trong đó, nổi trội và thành công nhất là ở các thể loại phóng sự, truyện ngắn và đặc biệt tiểu thuyết. Nhiều cây bút trào phúng được đánh giá xuất sắc như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Đồ Phồn, Tam Lang, Tú Mỡ Có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về họ như Nguyễn Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc (Vũ Thanh Việt); Vũ Trong Phụng một tài năng độc đáo, Thơ Tú Mỡ – những lời bình (Mai Hương tuyển chọn); Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (Trần Đăng Suyền); Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nhà văn Việt Nam hiện đại – chân dung và phong cách (Nguyễn Đăng Mạnh) Trong Vũ Trọng Phụng trong rừng cười nhiệt đới, Văn Tâm đã khu biệt và định vị cho các cây bút trào phúng: “Nguyễn Công Hoan, người kể chuyện tiếu lâm thời Tây cười rộ thống khoái, Tô Hoài cười nửa miệng ngán ngẩm, Ngô Tất Tố cười nụ thâm nho, Tam Lang cười khẩy nhọn hoắt, Nam Cao cười nhếch mép lạnh lùng, Tú Mỡ cười nhấm nháy hóm hỉnh, Đồ Phồn cười nửa miệng cay độc và vươn cao ngọn trên rừng cười tứ thiết ấy là cây cười loại chò cổ thụ Vũ Trọng Phụng với các giai điệu cười có thanh điệu, tiết tấu, âm sắc, trường độ và cường độ đa dạng” [151; 229]. Trần Đăng Suyền cho rằng: “Mỗi thời đại văn học, mỗi trào lưu văn học thường có một hệ thống thể loại với tư cách là những mô hình nghệ thuật tương ứng, phù hợp với trình độ, kiểu tư duy nghệ thuật của nhà văn, phản ánh đặc điểm xã hội, văn hóa, trình độ nhận thức cũng như nhu cầu thẩm mỹ của con người thời đại ấy” [150; 99]. Theo ông, thể loại văn học “được hình thành, tồn tại khá ổn định và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của lịch sử văn học. Một mặt nó lưu giữ những yếu tố nòng cốt, những mã di truyền để duy trì hình thức tương đối ổn định; mặt khác, nó luôn tự làm mới mình, tạo nên những biến thể phong phú” [150; 99]. Nghiên cứu sự vận động và phát triển các thể loại tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam (1930 – 1945), ông đề cập đến ba thể loại là phóng sự, truyện ngắn và đặc biệt là tiểu thuyết. Sau hơn ba mươi năm chiến tranh vệ quốc (1945 – 1975), con người Việt Nam trở về trạng thái đời thường với cuộc sống hòa bình, tiếng cười “phục sinh” trở lại. Cùng với tiểu thuyết, các loại hình, thể loại khác như truyện ngắn, báo chí, điện ảnh, sân khấu, dịch thuật cũng xuất hiện tiếng cười trào lộng. Đầu những năm 1980 của thế kỷ trước, sân khấu là loại hình nghệ thuật cất lên tiếng cười phản ánh sự thật khá mạnh mẽ. Tiêu biểu là Lưu Quang Vũ với các vở kịch: Ông không phải là bố tôi, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Lời thề thứ 9 Năm 1982, bản dịch Những người thích đùa (Aziz Nesin) xuất hiện ở Việt Nam, chỉ trong vài tháng đã bán hết hơn hai nghìn cuốn. Năm 1984, Tuổi trẻ Cười ra đời, đến nay vẫn giữ được vị thế vững chãitrong làng báo bởi tiếng cười đặc sắc của mình. Tiếng cười đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của công chúng. Trong bối cảnh đời sống dân chủ, tiếng cười lan tỏa và thăng hoa, mở đường cho văn học có những hướng đi mới và tiếp tục phát triển. Từ nửa sau thập niên 1980 đến nay, tiểu thuyết đã bắp nhịp kịp thời với những nhu cầu thẩm mỹ của công chúng bạn đọc, sự hồi sinh của tiếng cười là một trong những dấu hiệu phát triển, mang đậm tính dân chủ của thể loại văn học này. Các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến cảm hứng và bút pháp trào lộng trong tiểu thuyết với những cấp độ khác nhau. Lê Huy Bắc phát hiện ra kiểu tự nhại độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp là “ít khi gắn với tiếng cười. Mà nếu có thì tiếng cười đó thực sự bi đát” [101; 319]. La Khắc Hòa nhận xét Thời xa vắng (Lê Lựu) là “một tiểu thuyết giễu nhại độc đáo. Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hóa quen thuộc như phóng đại, hay vật hóa hình ảnh con người. Nó chỉ đơn giản thuật lại những chuyện “thật như đùa” mà đã có thể tạo ra được hình tượng giễu nhại. Nhờ thế, lời văn của Thời xa vắng khi thì bông đùa, lúc lại xót xa, chì chiết, nhưng giễu nhại bao giờ cũng là giọng điệu chủ đạo” [101; 67]. Hoàng Ngọc Hiến phát hiện Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường): “Những chuyện bi hài ở xóm Giếng Chùa được Nguyễn Khắc Trường kể lại bằng giọng kể sự đời cứ diễn ra như thế. Nhiều nhếch nhác, tệ lậu ở chi bộ và những đảng viên thoái hóa đã được phơi bày. Nhưng đồng thời với cách nhìn tỉnh táo và nghiêm khắc này là một nụ cười humour, một giọng văn hóm hỉnh ngay khi nói về những sự việc nhếch nhác nhất” [132; 8]. Lê Dục Tú nhận thấy Utopi một miếng để đời (Vũ Bão) đã mang lại tiếng cười góp phần làm tươi tỉnh cho một nền văn chương quá thừa sự nghiêm nghị, đó là tiếng cười nhân bản, hồn hậu, có duyên. Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét thi pháp của Hồ Anh Thái là “giễu nhại – thông tấn” [216; 368]. Ma Văn Kháng viết: “Tôi thích giọng văn của Hồ Anh Thái. Nó có cái thông minh, hóm hỉnh vừa sâu sắc vừa có tính truyền thống. Hơn nữa, cái này mới là cái thật thích đây: chất trào phúng, giễu nhại, cay chua mà tâm thiện” [215; 314]. Hoàng Ngọc Hiến giới thiệu cuốn Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà): “Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại” [184; 18]. Trong Sự đa dạng các sắc thái thẩm mỹ của văn xuôi Việt Nam sau 1975, Phạm Tuấn Anh cho rằng, tiếng cười trào lộng chiếm “vị trí chủ âm trong hệ thống thẩm mỹ mới” [5; 147]. Trong Yếu tố trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Trần Thị Hạnh quan niệm: “trào lộng chính là tiếng cười, đồng nghĩa với cái hài” [60; 16] Có thể thấy, không phải ngẫu nhiên mà tiếng cười trào lộng xuất hiện phổ biến, nổi bật trong các tiểu thuyết của Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Vũ Bão, Phạm Thị Hoài, Đỗ Minh Tuấn, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Thuận, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Khắc Trường Truyền thống hài hước của văn học dân tộc đến nay được kế thừa, phát triển với những giá trị xã hội – thẩm mỹ mới. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy tiếng cười trào lộng có sự kế thừa và cách tân từ tiếng cười trào phúng của văn học truyền thống, như là một phương thức sáng tác phổ biến trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Tiểu kết Từ sau 1975, đặc biệt là từ 1986, trong xu thế chung của văn học Việt Nam đương đại, tiểu thuyết là thể loại phát triển mạnh mẽ và phát triển theo nhiều khuynh hướng tư tưởng, nghệ thuật khác nhau. Vấn đề nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại và các khuynh hướng vận động, phát triển của nó được giới nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Việc phân loại các khuynh hướng tiểu thuyết là một vấn đề phức tạp. Có nhiều cách phân loại khác nhau tùy thuộc góc nhìn, tiêu chí và dụng ý của người nghiên cứu. Vấn đề là phải bám sát thực tiễn phong phú, bề bộn của tiểu thuyết đương đại. Từ góc nhìn và tiêu chí bút pháp nghệ thuật, có thể thấy, hiện thực – trào lộng là một khuynh hướng nổi trội. Các khuynh hướng vận động, phát triển của tiểu thuyết trên tiến trình nghiên cứu đã có một bề dày đáng ghi nhận. Riêng vấn đề cảm hứng trào lộng, bút pháp trào lộng, yếu tố trào lộng trong tiểu thuyết cũng đã có một số công trình và bài viết bàn đến. Đấy là những tiền tố quan trọng giúp tác giả luận án trên cơ sở quan sát, bao quát của mình khẳng định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay. Vấn đề là cần phải làm sáng tỏ nó bằng những khảo sát, phân tích, luận giải có cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn. Về lý thuyết về mối liên hệ giữa văn học và hiện thực, văn học là sự nhận thức, phản ánh hiện thực, cũng như lý thuyết về trào lộng, trào phúng và các loại hình, thể loại của văn học trào lộng, trào phúng cũng đã có nhiều công trình, bài viết chuyên sâu luận bàn. Những ý kiến xác đáng, tin cậy mang tính “lập thuyết” trên là cơ sở giúp tác giả luận án hệ thống hóa, xác lập cơ sở lý thuyết cho mình nhằm triển khai thực thi đề tài này. Chương 2 KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC - TRÀO LỘNG TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 2.1. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong bối cảnh đổi mới văn học 2.1.1. Cơ sở xã hội – thẩm mỹ của sự đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại Có thể giới hạn, tiểu thuyết Việt Nam đương đại là tiểu thuyết được viết từ 1975 đến nay. Tuy nhiên, với đề tài này, luận án đi sâu khảo sát tiểu thuyết viết từ mốc 1986 (khi có Nghị quyết 05 về văn hóa văn nghệ và đất nước bước vào thời kỳ đổi mới). Từ sau 1975, đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới. Công cuộc đổi mới do Đảng phát động tại Đại hội VI (1986) đánh dấu một bước ngoặt lớn lao của đất nước đã tác động mạnh mẽ, sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đường lối đổi mới nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật,đánh giá đúng sự thật đã đáp ứng thích đáng nhu cầu của xã hội cũng như nhu cầu bức thiết của sự nghiệp đổi mới văn học nghệ thuật. Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Coi trọng đúng mức giáo dục thẩm mỹ, đẩy mạnh phát triển văn hóa, nghệ thuật quần chúng, nâng cao không ngừng trình độ thưởng thức và năng lực sáng tạo nghệ thuật của quần chúng, thỏa mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu thưởng thức và hoạt động văn hóa của nhân dân” [31; 126]. Bên cạnh đó, vấn đề toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc, tác động vào tất cả các lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức to lớn đối với vấn đề giữ gìn, kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay, toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, là hệ quả và sản phẩm tất yếu của nền văn minh hiện đại. Mỗi dân tộc phải đối diện với mâu thuẫn giữa xu hướng tạo ra các giá trị phổ quát chung với bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Đây là một đặc điểm cơ bản trong mối quan hệ giữa toàn cầu hóa và văn hóa của các dân tộc, mở cửa, hội nhập, giao lưu và hợp tác nhằm tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa của nhân loại. Bản chất của giao lưu văn học là ở sự đối thoại bình đẳng và rộng mở, là nguồn lực tạo ra sự phong phú và tính độc đáo của mỗi nền văn học. Đó là “những nhân tố quan trọng bậc nhất tạo ra những ảnh hưởng qua lại giữa các khu vực, các nền văn học của nhiều dân tộc khác nhau trong tiến trình chung của văn học nhân loại” [58; 10]. Trong quá trình giao lưu và hợp tác, chúng ta chủ trương loại bỏ những yếu tố ngoại lai không phù hợp, trái với đạo lý và phát triển vì sự tiến bộ của con người. Hồ Chí Minh quan niệm: “Phương Đông hay phương Tây có cái gì hay, có cái gì tốt là phải học lấy để tạo ra nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam” [31; 72]. Từ sau 1986, tiểu thuyết là thể loại nhận thức một cách đầy đủ nhất diện mạo đời sống, những biến đổi xã hội và thế giới tâm hồn của con người. Nhà văn phản ánh bản chất những trạng thái đời sống tinh thần xã hội và không né tránh khi thể hiện những mặt trái, những góc khuất của nó. Do tác động của công cuộc đổi mới, tiểu thuyết thể hiện sự đấu tranh gay gắt của những mâu thuẫn mới trên nhiều phương diện của đời sống xã hội. Với thế mạnh của nghệ thuật tự sự, tiểu thuyết thể hiện đầy đủ nhất những vấn đề bức thiết của xã hội, những số phận bi hài trong hành trình đi tìm ý nghĩa đích thực cuộc sống. Trên hành trình đó, có khi con người phải dành cả cuộc đời để đi tìm lý tưởng, hướng đến những mục tiêu lớn trong khoa học, tìm chỗ đứng trong xã hội, hoặc đi tìm hạnh phúc cá nhân. Nhà tiểu thuyết đương đại “không thờ ơ, né tránh sự thật đó”, giá trị nhân bản của văn học là “vì con người, vì tất cả những nỗi niềm của nó dù nhỏ nhoi nhất” [160; 7]. Từ sau đổi mới, tiểu thuyết đã có những bước tiến đột phá về tư duy nghệ thuật thể loại, quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ thuật trần thuật, gia tăng chất văn xuôi và chuyên chở nhiều thông điệp cảnh tỉnh con người. Những tác phẩm viết về nông thôn không còn là những cảnh vui thú điền viên, chân chất và mộc mạc nữa, thay vào đó là những cuộc tranh giành “long trời lở đất” giữa các họ tộc với những “mảnh đất lắm người nhiều ma”, những “ma làng” quấy nhiễu đời sống vốn dĩ yên bình của người nông dân. Thể loại văn học này có cái nhìn tinh nhạy về thực trạng tinh thần con người thời đại như cảm giác cô đơn, hư vô, đi tìm thời gian đã mất; nhận thức sâu sắc về con người đang bị tha hóa diễn ra dưới nhiều dạng thức khác nhau như cuồng tín, vô cảm, mất dần nhân tính bởi đồng tiền và quyền lực. Hướng đến chân – thiện – mỹ, nhìn chân – thiện – mỹ trong một mối liên hệ gắn bó, thống nhất (thậm chí nhiều khi là đồng nhất) là một nét nổi bật, quán xuyến trong truyền thống thẩm mỹ của người Việt và văn học Việt. Bộ phận (hay khuynh hướng) văn học trào phúng, trào lộng trong lịch sử văn học dân tộc ta đã có một bề dày truyền thống. Bộ phận/ khuynh hướng văn học này dùng tiếng cười để nhạo báng, phê phán, hạ bệ mọi biểu hiện của cái xấu, cái tiêu cực, lỗi thời cũng là để khẳng định, đề cao, tìm kiếm cái đẹp của tâm hồn, nhân cách, ứng xử, lối sống Từ 1945 đến 1975, tiểu thuyết Việt Nam phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt, đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài suốt 30 năm. Vấn đề giao lưu với thế giới của văn học thu hẹp trong vùng ảnh hưởng của các nước xã hội chủ nghĩa. Đây là giai đoạn mà nền văn học bước đầu xây dựng theo mô hình mới nên khó tránh khỏi những lệch lạc, ấu trĩ. Tất cả đều đặt lợi ích Tổ quốc lên trên hết, mọi lợi ích khác đều phải xếp lại, phải hi sinh. Đường lối văn nghệ do Đảng lãnh đạo, thống nhất về quan điểm thẩm mỹ, đề tài, phương pháp sáng tác, lập trường tư tưởng, nội dung phản ánh. Văn nghệ sĩ phải đứng trên lập trường kháng chiến, cổ vũ chiến đấu, xem nghĩa vụ công dân là cao cả và thiêng liêng nhất. Con người ngoài đời cũng như trong tiểu thuyết đều được nhìn nhận và đánh giá ở phẩm chất chính trị, rạch ròi giữa ta và địch, bạn và thù. Nghiên cứu, lý luận phê bình lấy chính trị làm tiêu chuẩn mỹ học cao nhất, coi đó là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá văn học. Quá trình vận động, phát triển của văn học gắn liền với từng bước đi và theo sát từng nhiệm vụ chính trị của cách mạng. Tiểu thuyết chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng, đặt lên hàng đầu những vấn đề lớn liên quan đến số phận của cộng đồng và dân tộc. Nhà văn tập trung làm nổi bật những xung đột lớn, cố gắng thể hiện những xu hướng phát triển của lịch sử và hiện thực lịch sử hoành tráng. Góc nhìn đời tư bị thu hẹp, nhường chỗ cho những vấn đề tập thể, cộng đồng. Vẻ đẹp của tiểu thuyết sử thi là sự hùng vĩ, phạm trù mỹ học cơ bản nhất là cái cao cả, biên độ nhìn ngắm con người được đặt trong một không gian và thời gian rộng lớn, cách nhìn về lịch sử trùng khít với cái nhìn cộng đồng, dân tộc. Âm hưởng anh hùng ca là giọng điệu chủ đạo, ngôn ngữ ít góc cạnh, thường trang trọng. Cảm hứng lãng mạn của tiểu thuyết là khẳng định “cái ta”mang tính thời đại, lý tưởng và vẻ đẹp con người cách mạng, con người mới. Sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong tiểu thuyết là sự thấm nhuần tinh thần lạc quan, phản ánh hiện thực cuộc sống trong xu thế vận động và phát triển của cách mạng. Sự tác động lớn nhất đến tiến trình tiểu thuyết nước ta trong thời gian qua là xu hướng đổi mới trong toàn xã hội. Từ sau 1986, tinh thần dân chủ đã “thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra một thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật” [101; 11]. Tiểu thuyết đương đại vừa kế thừa những giá trị thẩm mỹ của tiểu thuyết truyền thống vừa tìm tòi, sáng tạo, mở rộng phạm vi phản ánh; thể hiện những vấn đề bức thiết của xã hội; đa dạng về nội dung và phong phú về phương thức phản ánh. Trong bối cảnh đổi mới, nhà văn có điều kiện thể hiện cá tính sáng tạo, ý thức trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút. Tính chất mở của thể loại là xuất phát từ một yếu tố ám ảnh, gợi lên những cảm giác hiện tại gần gũi với con người và gắn với đặc trưng của tiểu thuyết là tính đa thanh, phức điệu. Nhà tiểu thuyết đương đại nhận thức, thể hiện mọi tầng vỉa của đời sốngvà “miêu tả một hiện tại đang bước đi” (H. Balzac). Do đó, tiểu thuyết có khả năng thu hút những thể loại khác vào mình nó và sử dụng thủ pháp của các ngành nghệ thuật khác để thể hiện. Nhà tiểu thuyết miêu tả quá trình phát triển tâm lý, số phận nhân vật và lựa chọn sự phát triển của cốt truyện thông qua sự phát triển tính cách nhận vật. Tác phẩm được thiết kế bằng cách tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố, tạo dựng kết cấu nhiều tuyến, nhiều bình diện, các tuyến nhân vật đan xen nhau. Ngôn ngữ tiểu thuyết đan xen giữa ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật, tạo nên sự đa thanh, phức điệu trong tác phẩm. Tinh thần dân chủ là điều kiện để tiếng cười trào lộng hồi sinh, phát triển và trở thành cảm hứng chủ đạo trong nhiều tiểu thuyết đương đại. Đối tượng phản ánh, cách thức nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực là những yếu tố quan trọng tạo nên cơ sở xã hội – thẩm mỹ của sự đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Từ sau 1986, đối tượng của văn học là toàn bộ hiện thực khách quan trong mối liên hệ sinh động với cuộc sống con người, “được quy định bởi khả năng chiếm lĩnh thẩm mỹ hình thành trong quá trình thực tiễn cuộc sống và nghệ thuật, là thế giới các giá trị thẩm mỹ của hiện thực” [58; 106]. Văn học miêu tả cái thế giới mang giá trị, cái có ý nghĩa đối với đời sống tinh thần của con người, lấy con người làm điểm tựa nhìn ra thế giới. Đối tượng của tiểu thuyết không phải là những cái bất biến mà luôn thay đổi theo sự phát triển lịch sử và khả năng chiếm lĩnh của con người. Việc nhận thức đối tượng trong tính toàn vẹn, sống động đã giúp tiểu thuyết đương đại khái quát được bản chất cuộc sống và nắm bắt được trạng thái thẩm mỹ của đời sống xã hội. Có thể thấy, truyền thống thẩm mỹ của văn học trào phúng, trào lộng dân tộc là khát vọng hướng về cái đẹp mang tinh thần của con người thời đại, đối tượng của văn học trong tiến trình đổi mới và tinh thần dân chủ là những cơ sở thẩm mỹ để văn học Việt Nam đương đại nói chung phát triển mạnh mẽ, thể loại tiểu thuyết nói riêng, đặc biệt là tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. 2.1.2. Bức tranh chung tiểu thuyết Việt Nam đương đại 2.1.2.1. Tiểu thuyết Việt Nam chặng đường hậu chiến (1975 – 1985) Từ 1975 đến 1985 là chặng đường khép lại một giai đoạn văn học và phôi thai một giai đoạn văn học mới. Trong mười năm này, tiểu thuyết còn vận động theo quán tính tư duy sử thi, đề tài chiến tranh giữ vai trò chủ yếu. Các tác phẩm xuất hiện ngay sau 1975 như Nắng đồng bằng (Chu Lai), Mở rừng (Lê Lựu), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy), Năm 75 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân)... vẫn còn đậm âm hưởng ngợi ca. Từ 1978, Nguyễn Minh Châu nhận thấy đã đến lúc phải lật mở những góc khuất trong quá khứ, lí giải sâu sắc và sát thực hơn những vấn đề còn đau đáu, trăn trở. Mặc dù vẫn viết về đề tài chiến tranh, song người đọc đã nhận thấy cảm hứng bi tráng trong cái nhìn về chiến tranh từ cuối những năm 1970 trong Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Hai người trở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi)... Từ đầu những năm 1980, tiểu thuyết viết về chiến tranh... tiểu thuyết không chết; công chúng độc giả Việt Nam vẫn không quay lưng với nó. Giữ được công chúng độc giả như thời gian vừa qua là một thành công đáng mừng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Những nỗ lực đổi mới, cách tân về tiểu thuyết (trên cả ba phương diện: chức năng, nội dung và thi pháp thể loại) của các “tiểu thuyết gia” nước nhà là rất đáng trân trọng. 2. Từ sau 1975, đặc biệt từ 1986 đến nay, nằm trong xu thế chung của văn học nước nhà (phát triển trong bối cảnh đổi mới và hội nhập: có sự ảnh hưởng, tác động sâu rộng của văn học hiện đại thế giới; văn học tiếp tục quá trình hiện đại hóa ở cấp độ mới, chặng đường mới), tiểu thuyết Việt Nam đã có những thay đổi, phát triển mang tính chất bước ngoặt, nhất là so với tiểu thuyết của chặng đường trước đó (1945 – 1975). Từ góc nhìn nào cũng có thể thấy tiểu thuyết hình thành, phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Từ góc nhìn thi pháp thể loại với hạt nhân là bút pháp/ lối viết, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Sự hiện diện của khuynh hướng này càng ngày càng rõ và vai trò, vị thế của nó cũng càng ngày càng được khẳng định. Hiện thực đời sống đương đại đầy “chất văn xuôi” với biết bao nhiêu hỗn tạp, xô bồ, mâu thuẫn dường như không còn những chỉ giới, những góc khuất, những vùng cấm đối với khả năng chiếm lĩnh của tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng. 3. Có thể thấy gì từ sự hiện diện của khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại? Trước hết là về khối lượng tác giả, tác phẩm, với sự sắc nét của diện mạo và đường hướng vận động của nó là điều không thể không thấy. Thứ hai, nội dung nhận thức/ phản ánh của tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng thật sự phong phú và đa dạng. Hiện thực và con người trong tiểu thuyết không chỉ là loại hiện thực, con người khách thể ngoài đời sống xã hội được khúc xạ vào trang sách mà còn là hiện thực “tiềm năng”, tiềm ẩn được dự báo trước. Thứ ba, lấy trào lộng/ trào phúng làm phương thức chủ đạo trong nhận thức và phản ánh hiện thực, tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng đã tạo được những thành công lớn, thu hút được đông đảo công chúng bạn đọc. Văn học, đặc biệt là tiểu thuyết có nhiều con đường, nhiều cách thức để chiếm lĩnh hiện thực đời sống. Con đường mà khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã đi cũng chỉ là một trong những con đường ấy, nhưng đây là con đường, một mặt, có nhiều ưu thế, triển vọng, mặt khác cũng đầy thách thức. Trên tinh thần đổi mới và dân chủ, nhà văn có quyền thể hiện quan niệm riêng của mình, đề xuất những giá trị mới và giải phóng tiểu thuyết khỏi tư duy sử thi. Trong tiểu thuyết hiện thực – trào lộng, hiện thực có khi chỉ là hiện thực được khuyến cáo, dự báo nhưng hoàn toàn có cơ sở. Cơ chế thị trường dễ làm con người có lối sống thực dụng, tha hóa. Tiểu thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực – trào lộng hướng người đọc về sự thật mặt trái của cuộc sống, hoài nghi những chuẩn mực vốn được coi là bất khả xâm phạm, hướng tiếng cười vào bất cứ đối tượng nào của cái hài. 4. Khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại có khả năng thu nạp nhiều thể loại, loại hình nghệ thuật khác nhau nhằm gia tăng tiếng nói đối thoại và cách thức tiếp cận cuộc sống, sử dụng trào lộng, giễu nhại làm phương tiện chủ đạo trong chiếm lĩnh các hiện tượng đời sống. Tính phức tạp trong nghệ thuật tự sự, đa dạng hoá giọng điệu trần thuật, gia tăng chất văn xuôi, vận dụng các thủ pháp nghệ thuật mới là biểu hiện sự phong phú trong cách thức xử lý chất liệu hiện thực của tiểu thuyết hiện thực – trào lộng. Nhà tiểu thuyết ngày càng xa lánh vai trò thuyết giảng lý tưởng, họ hiện diện như một chủ thể tự do và sáng tạo ra một thế giới vận hành theo quy luật tự thân của nó. Do đó, tiểu thuyết có sức hấp dẫn, kích thích sự khám phá, trải nghiệm và trí tưởng tượng của con người, đòi hỏi người đọc phải tỉnh táo để nhận thức và cùng sáng tạo với nhà văn. Tiếng cười trong tiểu thuyết hiện thực – trào lộng vừa có tác dụng lật tẩy những vênh lệch, nhố nhăng, dị hợm vừa khơi gợi ra những tồn tại, hạn chế mà không phải lúc nào con người cũng đủ tỉnh táo và bản lĩnh để thấu suốt.Tiểu thuyết hiện thực – trào lộng luôn có sự cảnh tỉnh mạnh mẽ và có niềm tin không vơi cạn vào con người. Điều này giúp nhà văn có sự tự tin cần thiết khi cầm bút, vì thế, khuynh hướng này đã có những đóng góp nổi trội vào tiến trình phát triển tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi mới. 5. Thực tiễn cho thấy, tiểu thuyết hiện thực – trào lộng từ sau 1986 đã chiếm ưu thế nổi trội và thu hút được đông đảo công chúng bạn đọc. Thực hiện đề tài này, chúng tôi xác định góp thêm một tiếng nói khẳng định là có một khuynh hướng hiện thực – trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Thích cười, cần cười, biết cười, đấy không chỉ là nét trội về tâm lý, về thẩm mỹ mà còn là nét trội về cách nhận thức, đánh giá, thẩm định hiện thực của người Việt vốn đã có một bề dày truyền thống. Thiết nghĩ, đây là một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng. Kết quả nghiên cứu trên đây chỉ là một cách nhìn, một hướng đi, một cách tiếp cận. Tác giả luận án rất mong muốn có thêm nhiều nghiên cứu mới, thiết thực về khuynh hướng tiểu thuyết này trên cơ sở đối sánh với các khuynh hướng khác trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại... CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Mai Trương Huy (2015), “Một số khuynh hướng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 1(66)/ 2015, tr. 156 – 163. 2. Mai Trương Huy (2015), “Vấn đề xử lý chất liệu hiện thực trong tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh, Tập 44/ số 2B/ 2015, tr. 27 – 35. 3. Mai Trương Huy (2015), “Nhân vật tha hóa của Nguyễn Bắc Sơn qua tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh, Tập 44/ số 4B/ 2015, tr. 11 – 18. 4. Mai Trương Huy (2016), “Tiếng cười trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, số 8 (105)/ 2016, tr. 102 – 106. 5. Mai Trương Huy (2016), “Nghệ thuật trào tiếu trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái”, Tạp chí Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam vùng Nam Bộ, số 3 [211] – 2016, tr. 51 – 60. 6. Mai Trương Huy (2016), “Tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng của Nguyễn Bắc Sơn dưới góc nhìn thi pháp học”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa – Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, số 16 – tháng 6 – 2016, tr. 57 – 62. 7. Mai Trương Huy (2016), “Tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 8 (86)/ 2016, tr. 152 – 161. 8. Mai Trương Huy (2017), “Nghệ thuật trào lộng trong tiểu thuyết Những đứa con rải rác trên đường của Hồ Anh Thái”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc Gia Hà Nội, Tập 3, Số 3 (2017), tr. 292 – 301. 9. Mai Trương Huy (2017), “Nhại và giễu nhại trong tiểu thuyết SBC là săn bắt chuột của Hồ Anh Thái”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Tập 14, Số 11 (2017), tr. 104 – 115. 10. Mai Trương Huy (2017), “Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đọc hiểu tác phẩm văn xuôi tự sự Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn THPT” (Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia Nghiên cứu và dạy học Ngữ văn trong nhà trường từ truyền thống đến hiện đại – Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28/4/2017). TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tiếng Việt 1. Trần Thị An (2007), “Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn”, Nghiên cứu văn học, (6), tr. 27 - 47. 2. Duyên Anh (1972), Tuổi trẻ mộng và thực (chuyên luận), Nxb Vàng Son, Sài Gòn. 3. Phạm Lan Anh (2005), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội, Hà Nội. 4. Phạm Tuấn Anh (2009), Sự đa dạng các sắc thái thẩm mỹ trong văn xuôi Việt Nam sau 1975, Luận án Tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội, Hà Nội. 5. Vũ Tuấn Anh (1996), “Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại”, Văn học, (9), tr. 28 - 36. 6. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 7. Lại Nguyên Ân (1986), “Thử nhìn lại văn xuôi mười năm qua”, Văn học, (1), tr. 14 - 25. 8. Lại Nguyên Ân (2000), “Hồ Quý Ly”, Nhà văn, (6), tr. 17. 9. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 10. Lại Nguyên Ân, (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 11. Lê Huy Bắc (1996), “Đồng hiện trong văn xuôi”, Văn học, (6), tr, 42 - 45. 12. Lê Huy Bắc (1998) “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Văn học, (9), tr. 63 - 73. 13. Lê Huy Bắc (2006), “Cái kỳ ảo và văn học huyền ảo”, Văn học,(8), tr. 33 - 44. 14. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 15. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Dotxtoiepxki (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 16. M. Bakhtin (2006), Sáng tác của François Rabelais và văn hóa dân gian thời Trung cổ và Phục hưng (Từ Thị Loan dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 17. Nguyễn Thị Bình (2005), “Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam gần đây”, Nghiên cứu văn học, (11), tr. 3 - 5. 18. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới cơ bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 19. Nguyễn Thị Bình (2007), “Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 – một cái nhìn khái quát”, Nghiên cứu văn học, (2), tr.49 - 54. 20. Nguyễn Thị Bình (2008), “Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975”, Văn học, (3), tr. 27 - 39. 21. Lê Nguyên Cẩn (2006), “Thế giới kỳ ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma từ điểm nhìn văn hóa”, Nghiên cứu văn học, (8), tr.24 - 32. 22. Nguyễn Dương Côn (2002), “Hình dung đề tài tiểu thuyết là gì?”, Sông Hương, (1), tr. 84 - 86. 23. Diễm Cơ (2004): “Hậu hiện đại”, Văn học nước ngoài, (8),tr. 9 - 11. 24. Phạm Vĩnh Cư (2007), Sáng tạo và giao lưu, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 25. Trần Cương (1995), “Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau những năm 80”, Văn học, (4), tr. 34 - 36. 26. Trần Cương (1995), “Nhìn lại văn xuôi viết về nông thôn trước thời kỳ đổi mới”, Văn học, (12), tr. 37 - 41. 27. Nguyễn Đức Dân (1993), Tiếng cười thế giới, Nxb Văn học, Hà Nội. 28. Trương Đăng Dung (1994), “Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm của Lucas”, Văn học, (5), tr. 21 - 23. 29. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 30. Trần Ngọc Dung (2006), “Đời sống thể loại văn học sau 1975”, Văn học, (2), tr. 91 - 97. 31. Đinh Xuân Dũng (1990), “Đổi mới văn xuôi chiến tranh”, Văn nghệ, (51), tr. 7 - 10. 32. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn học – Văn hóa tiếp nhận và suy nghĩ, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 33. Đinh Trí Dũng (1996), “Sự thể hiện con người “tha hóa” trong các tiểu thuyết hiện thực của Vũ Trong Phụng”, Văn học, (5), tr. 39 - 42. 34. Đặng Anh Đào (1992), “Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết”, Văn học, (6), tr. 17 -20. 35. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 36. Trần Thiện Đạo (2001), Chủ nghĩa hiện sinh và thuyết cấu trúc, Nxb Văn học, Hà Nội. 37. Trần Thanh Đạm (1989), “Bàn thêm về vấn đề con người trong văn học”, Văn nghệ, (35), tr. 2 - 3. 38. Phan Cự Đệ (chủ biên) (1989), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 29A, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 39. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Phan Cự Đệ (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới”, Văn nghệ quân đội, (3), tr. 99 - 107. 41. Phan Cự Đệ (2003), “Tiểu thuyết lịch sử”, Văn học, (1), tr. 33. 42. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.Quảng Nam 43. Biện Minh Điền (2015), Loại hình văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Vinh, Nghệ An. 44. Biện Minh Điền (2014), “Vấn đề nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam – Vănhọc Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 204 - 215. 45. Hà Minh Đức (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội. 46. Hà Minh Đức (chủ biên) (2001), Lý luận văn học,Nxb Giáo dục, Hà Nội. 47. Phạm Văn Đồng (1995), Văn hóa và Đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Trung Trung Đỉnh (2001), “Hồ Quý Ly và những giải pháp mới cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà”, Văn nghệ quân đội, (10), tr. 13 - 15. 49. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn hoá Thông tin, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội. 50. Umberto Eco (2004), Đi tìm sự thật biết cười (Vũ Ngọc Thăng dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 51. Văn Giá (2006), “Thử nhận diện tiểu thuyết ngắn Việt Nam gần đây”, Văn nghệ, (26), tr. 19 - 22. 52. Văn Giá (2006), Đời sống và đời viết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 53. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ Nam Kỳ 1865-1930, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 54. Nguyễn Hương Giang (2001) “Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ đổi mới”, Văn nghệ quân đội, (4), tr. 108 - 113. 55. Alain Robbe Grillet (1997), Vì một tiểu thuyết mới (Lê Phong Tuyết dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 56. Nguyễn Hà (2000), “Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa sau thập niên 80”, Văn học, (3), tr. 51 - 58. 57. Lê Bá Hán (chủ biên) (1994), Một số vấn đề lý luận văn nghệ cơ bản đang được tranh luận qua công cuộc đổi mới (1987-1992), Đại học Sư phạm Vinh. 58. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 59. Nguyễn Văn Hạnh (2007), “Văn hóa như là nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn chương”, Văn học, (1), tr. 42 - 46. 60. Trần Thị Hạnh (2012), Yếu tố trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội. 61. Nguyễn Văn Huyên, Đỗ Huy (2004), Giáo trình Mỹ học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62. Hoàng Ngọc Hiến (1989), “Cách kể trong tiểu thuyết”, Văn nghệ, (33), tr. 25 - 30. 63. Hoàng Ngọc Hiến, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Đức Can (đồng chủ biên) (2000), Vũ Trọng Phụng – tác phẩm và lời bình, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 64. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Những ngả đường văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 65. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 66. Phạm Thị Hoài (1989), “Viết như một phép ứng xử”, Văn nghệ, (4), tr. 22 - 25. 67. Phạm Thị Hoài (1990), “Một trò chơi vô tăm tích”, Văn nghệ, (2), tr. 14 - 18. 68. Nguyễn Chí Hoan (2005), “Tiểu thuyết Chinatown và những chiều kích hiện tại của thời gian quá khứ”, evan.com.vn. 69. Nguyễn Chí Hoan (2005) “Thuận và Phố Tàu – Dùng nghịch lí để kể những nghịch lí”, evan.com.vn. 70. Nguyễn Thị Huệ (1997), “Tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh Tuấn trong bước chuyển mình của văn học đầu những năm 80”, Văn học, (11), tr. 70 - 74. 71. Nguyễn Thị Huệ (2000), Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi Việt Nam từ 1980 – 1986 qua bốn tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học, Hà Nội. 72. Đoàn Thị Hương (1974), “Đọc Tổ quốc kêu gọi, suy nghĩ về vấn đề khám phá và sáng tạo trong tiểu thuyết lịch sử”, Văn học,(4), tr. 25 - 29. 73. Mai Hương (2001), Nguyễn Minh Châu tài năng và sáng tạo nghệ thuật, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 74. Mai Hương (2006), “Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút văn xuôi”, Nghiên cứu văn học, (11), tr. 3 - 14. 75. Mai Hương (chủ biên) (2010), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 76. Trần Đình Hượu (1988), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 77. Nguyễn Văn Kha (2007), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975-2000, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 78. Ma Văn Kháng (1998), “Tiểu thuyết, nghệ thuật khám phá cuộc sống”, Văn nghệ quân đội, (11), tr. 82-85. 79. Ma Văn Kháng (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 80. Nguyễn Xuân Khánh (2001), “Về nghệ thuật tiểu thuyết”, Văn nghệ, (38), tr. 3 - 7. 81. Nguyễn Hoành Khung (1984), “Nguyễn Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc”, in trong Từ điển văn học, Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 82. Nguyễn Hoành Khung (1998), “Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939)”, in trong Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 83. Kate Hamburger (2004), Logic học và các thể loại văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 84. Khrapchenko. M. B (1984), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, (Nguyễn Hải Hà, Lại Nguyên Ân, Duy Lập dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 85. M. Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn hoá – Thông tin, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội. 86. Tôn Phương Lan (1999), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 87. Tôn Phương Lan (2001), “Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi thời kỳ đổi mới”, Văn học, (9), tr. 43-48. 88. Lã Duy Lan (2001), Văn xuôi viết về nông thôn tiến trình và đổi mới, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 89. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Quyển hạ (1862 – 1945), Nxb Trình Bày, Sài Gòn. 90. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 91. Mã Giang Lân (2004), Văn học Việt Nam 1945 – 1954, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 92. Phong Lê (1983), “Văn học Việt Nam những năm 80”, Văn học, (3), tr. 66 -72. 93. Phong Lê (1986), “Con người mới và nhân vật tích cực – mục tiêu theo đuổi và nhận diện văn học chúng ta”, Văn học, (1), tr. 66-71. 94. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 95. Phong Lê (2005), “Văn học Việt Nam sau 1945 – nhìn từ các mục tiêu của công việc “Viết””, Nghiên cứu văn học, (3), tr. 68 - 90. 96. Phong Lê (2005), “Từ cuộc thi tiểu thuyết 2002 – 2004 của Hội Nhà văn Việt Nam”, Văn nghệ, (38), tr. 6-7. 97. Nguyễn Trường Lịch (2007), “Đổi mới tiểu thuyết trong bối cảnh giao lưu văn hóa”, Văn nghệ, (4), tr. 8. 98. Nhất Linh (1961), Viết và đọc tiểu thuyết, Nxb Đời Nay, Sài Gòn. 99. Mai Quốc Liên (1998), “Lời giới thiệu tác phẩm Sông Côn mùa lũ”, Nxb Hội Nhà văn, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội. 100. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 101. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 102. IU.M.Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Lã Nguyên dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 103. Phương Lựu (2004), Lý luận, phê bình văn học, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 104. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), Văn học Việt Nam 1945-1975, 2 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 105. Nguyễn Đăng Mạnh, (2000),Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong cách, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 106. Trần Văn Nam (1974), “Đi tìm một lối viết tiểu thuyết qua cuốn Đò dọc”, Thời tập, (10/10/1974), tr. 13 - 17. 107. Đỗ Hải Ninh (2009), “Quan niệm về lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh”, Nghiên cứu văn học, (2), tr. 48-57. 108. Phan Ngọc (1994), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa –Thông tin, Hà Nội. 109. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 110. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, ba tập, tập III, Nxb Quốc học tùng thư, Sài Gòn. 111. Phạm Xuân Nguyên (1991), “Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết”, Văn học, (2), tr. 69-73. 112. Vương Trí Nhàn (1986), “Số phận của tiểu thuyết”, Văn học,(2), tr. 119-123. 113. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 114.Vương Trí Nhàn (2007), “Cười – chất lượng cao”, Văn nghệ Trẻ, (9). 115. Trần Thị Mai Nhân (2008), Những đổi mới trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 – 2000, Nxb Khoa học Xã hội, TP. Hồ Chí Minh. 116. Nhiều tác giả (1983), Từ điển văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 117. Nhiều tác giả (1988), Một số vấn đề tiểu thuyết hiện đại, Nxb Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội. 118. Nhiều tác giả (1990), “Thảo luận về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú ”, Văn nghệ, (6), tr. 2, 6-7 119. Nhiều tác giả (1990), “Trao đổi về Lời nguyền hai trăm năm – tiểu thuyết của Khôi Vũ”, Văn nghệ, (26), tr. 6. 120. Nhiều tác giả (1991), “Thảo luận về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma”, Văn nghệ, (11), tr. 6-7, 14. 121. Nhiều tác giả (1991), “Thảo luận về tiểu thuyết Thân phận tình yêu”,Văn nghệ, (37), tr. 6-7. 122. Nhiều tác giả (1992), “Thảo luận về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai”, Văn nghệ, (29), tr. 6. 123. Nhiều tác giả (1995),“Văn học Việt Nam sau 50 năm và trước 5 năm”, Văn học, (4), tr. 5 - 13. 124. Nhiều tác giả (1996), Trần Đăng, Kim Lân, Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 125. Nhiều tác giả (1997), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 126. Nhiều tác giả (1999), “Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly ”, Văn nghệ, (41), tr. 6-7. 127. Nhiều tác giả (2000), Bình văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 128. Nhiều tác giả (2001), “Các nhà văn bàn về tiểu thuyết”, Văn nghệ quân đội, (2), tr. 108-113. 129. Nhiều tác giả (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 130. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội. 131. Nhiều tác giả (2004), “Tọa đàm về tiểu thuyết Thượng đế thì cười”, Văn nghệ Quân đội, (3), tr. 97 – 103. 132. Nhiều tác giả (2006), “Tọa đàm về tiểu thuyết Luật đời và cha con”, Văn nghệ, (17), tr. 16-17. 133. Nhiều tác giả (1999), Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 134. Nhiều tác giả (1983), Số phận của tiểu thuyết, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 135. Nhiều tác giả (1997), Từ điểng Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 136. Nhiều tác giả (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 137. Mai Hải Oanh (2008), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2006, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội. 138. Võ Phiến (1988), Tạp bút, Nxb Thời mới, Sài Gòn. 139. Nguyễn Khắc Phê (2000), “Sông Côn mùa lũ – bộ tiểu thuyết công phu”, Nhà văn, (4), tr. 24 - 27. 140. Huỳnh Như Phương (1983), “Đứng trước biển”,Văn nghệ, (21), tr. 4,5. 141. Huỳnh Như Phương (1988), “Cảm hứng phê phán trong văn chương hiện nay”, Văn nghệ, (24), tr. 2, 3. 142. Huỳnh Như Phương (1993), “Văn học hôm nay đang nhìn lại chính mình”, Văn học, (1), tr.42-45. 143. G.N. Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân dịch), Tập 1, Nxb Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh. 144. Nguyễn Phúc (2004), Văn học – Sáng tạo và thẩm định, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 145. Barthes Roland (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 146. Trần Đình Sử (1996), Lý luận, phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 147. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận Thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 148. Trần Đình Sử (2010), “Văn học và hiện thực trong tầm nhìn hiện đại”, (Hội nghị khoa học về Văn học phản ánh hiện thực đất nước hôm nay, tại Đà Lạt, ngày 12/7/2010). 149. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực – đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội. 150.Trần Đăng Suyền (2014), Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng. 151. Hà Công Tài, Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn và giới thiệu (2000), Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 152. Todorov (2008), Thi pháp văn xuôi, (Đặng Anh Đào, Lê Hồng sâm dịch), Nxb ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 153. Lê Tuyên (1961),“Hiện hữu của tiểu thuyết”, Đại học, (4/1961), tr. 154. 154. Lê Phong Tuyết (1995), Alain Robbe Grillet và sự đổi mới tiểu thuyết, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 155. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại những tìm tòi đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 156. Nguyễn Thị Minh Thái (2006), “Mười lẻ một đêm, cái nhìn hắt sáng từ phía sau”, Văn nghệ, (23), tr. 6. 157. Hoài Thanh (1993), Di bút và di cảo, Nxb Văn học, Hà Nội. 158. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 159. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vẫn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.  160. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 161. Trần Ngọc Thêm (1993), “Đi tìm ngôn ngữ của văn hoá và đặc trưng văn hoá của ngôn ngữ”, Khoa học Xã hội, ĐHSPTP. Hồ Chí Minh, (18). 162. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (cái nhìn hệ thống – loại hình), Nxb TP. Hồ Chí Minh. 163. Nguyễn Đình Thi (1964), Công việc của người viết tiểu thuyết, Nxb Văn học, Hà Nội. 164. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Giăng lưới bắt chim, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 165. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 166. Bích Thu (1995), “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống motip chủ đề”, Văn học, (4), tr. 24-28. 167. Bích Thu (2001), Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi mới, Nxb Khoa học Xã hội,Hà Nội. 168. Bích Thu (2006), “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Nghiên cứu văn học, (11), tr. 15-28. 169. Lý Hoài Thu (2001), “Tiểu thuyết - tầm vóc hiện thực và số phận con người”, Văn nghệ quân đội, (2), tr. 105-108. 170. Phạm Thị Thu (2016), Parody/ Nhại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, Hà Nội. 171. Đỗ Lai Thúy (tái bản 2010), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn học, Hà Nội. 172. Lộc Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lý luận - phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 173. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, Hà Nội. 174. Nguyễn Văn Trung (1965), Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn. 175. Nguyễn Khắc Xuyên (2002), Mục lục phân tích Tạp chí Nam Phong, Nxb Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa và Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. B. Tiếng Anh 176. Hutcheon L. (2000), Atheory of Parody: The teaching of Twentieth Century Art Forms, University of Illinois Press. DANH MỤC VĂN BẢN KHẢO SÁT 177. Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần sám hối, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 178. Tạ Duy Anh (2008), Đi tìm nhân vật, Nxb Tổng hợp, Đồng Nai. 179. Tạ Duy Anh (2008), Giã biệt bóng tối, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 180. Vũ Bão (2007), Utopi một miếng để đời, Nxb Văn học, Hà Nội. 181. Mạc Can (2004), Tấm ván phóng dao, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 182. Châu Diên (2003), Người sông Mê, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 183. Nguyễn Việt Hà (2005), Khải huyền muộn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 184. Nguyễn Việt Hà (2007), Cơ hội của Chúa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 185. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 186. Phạm Thị Hoài (1995), Thiên sứ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 187. Tô Hoài (2006), Ba người khác, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 188. Dương Hướng (2004), Bến không chồng, NxbHội Nhà văn, Hà Nội. 189. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 190. Nguyễn Khải (2002), Thượng đế thì cười, NxbHội Nhà văn, Hà Nội. 191. Ma Văn Kháng (2002), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb Văn học, Hà Nội. 192. Ma văn Kháng (2009), Một mình một ngựa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 193. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 194. Chu Lai (1992), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 195. Nguyễn Quang Lập (2004), Những mảnh đời đen trắng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 196. Đoàn Lê (2004), Cuốn gia phả để lại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 197. Lê Lựu (1986), Thời xa vắng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 198. Lê Lựu (1993), Chuyện làng Cuội, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 199. Nguyễn Một (2012), Ngược mặt trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 200. Trần Nhương (2017), Kim kổ kỳ kuặc ký, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 201. Dạ Ngân (2008), Gia đình bé mọn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 202. Trịnh Thanh Phong (2007), Ma làng, Nxb Văn học, Hà Nội. 203. Nguyễn Bình Phương (2002), Những đứa trẻ chết già, Nxb Văn học, Hà Nội. 204. Nguyễn Bình Phương (2004), Ngồi, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 205. Nguyễn Bình Phương (2005), Thoạt kỳ thủy, Nxb Văn học, Hà Nội. 206. Lê Minh Quốc (2015), Đời, thế mà vui, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, Hà Nội. 207. Nguyễn Bắc Sơn (2006). Luật đời cha và con, Nxb Văn học, Hà Nội. 208. Nguyễn Bắc Sơn (2008). Lửa đắng, Nxb Lao động, Hà Nội. 209. Nguyễn Bắc Sơn (2015), Vỡ vụn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 210. Bùi Ngọc Tấn (2000), Chuyện kể năm 2000, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 211. Nguyễn Đình Tú (2008), Nháp, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 212. Nguyễn Đình Tú (2013), Hoang tâm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 213. Đỗ Minh Tuấn (2010), Thần thánh và bươm bướm, Nxb Văn học, Hà Nội. 214. Hồ Anh Thái (2004), Trong sương hồng hiện ra, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 215. Hồ Anh Thái (2004), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 216. Hồ Anh Thái (2007), Mười lẻ một đêm, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 217. Hồ Anh Thái (2011), SBC và săn bắt chuột, Nxb Trẻ, Hà Nội. 218. Hồ Anh Thái (2014), Những đứa con rải rác trên đường, Nxb Trẻ, Hà Nội. 219. Đào Thắng (2004), Dòng sông Mía, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 220. Thuận (2005), Paris 11- 8, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 221. Thuận (2009), China town, Nxb Văn học, Hà Nội. 222. Võ Văn Trực (2006), Vết sẹo và cái đầu hói, Nxb Văn hóa -Thông tin, Hà Nội. 223. Nguyễn Khắc Trường (2008), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 224. Nguyễn Quang Vinh (1989), Người và dã thú, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_khuynh_huong_hien_thuc_trao_long_trong_tieu_thuyet_v.doc
  • docTOM TAT TIENG ANH.doc
  • pdfTOM TAT TIENG ANH.pdf
  • docxTÓM TẮT.docx
  • pdfTÓM TẮT.pdf
  • docxTRÍCH YẾU LUẬN ÁN.docx
  • pdfTRÍCH YẾU LUẬN ÁN.pdf