Luận án Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây nguyên giai đoạn hiện nay

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ BẠCH YẾN TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ BẠCH YẾN TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Chuyên ngành : Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số́ : 62 31 23 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ HÀ NỘI -

pdf196 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây nguyên giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Trương Thị Bạch Yến MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 Chương 1: TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 28 1.1. Xã và nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên 28 1.2. Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên - khái niệm, phương thức và vai trò 54 Chương 2: NGUỒN VÀ TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 76 2.1. Thực trạng nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay 76 2.2. Thực trạng tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay 82 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN ĐẾN NĂM 2020 113 3.1. Dự báo những yếu tố tác động và phương hướng tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020 113 3.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020 121 KẾT LUẬN 154 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 157 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160 PHỤ LỤC 174 BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CB,CC : Cán bộ, công chức CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNXH : Chủ nghĩa xã hội DTTS : Dân tộc thiểu số GS : Giáo sư HĐND : Hội đồng nhân dân HTCT : Hệ thống chính trị KT-XH : Kinh tế - xã hội Nxb : Nhà xuất bản PGS : Phó giáo sư ThS : Thạc sĩ TS : Tiến sĩ UBND : Uỷ ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo Luật Cán bộ, công chức (2008), cán bộ cấp xã là người được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND), Bí thư, Phó bí thư đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Như vậy, để có cán bộ, công chức (CB, CC) giữ các chức danh trong hệ thống chính trị (HTCT) ở xã, việc bầu cử, tuyển dụng là khâu chốt cuối cùng. Nhưng đội ngũ đó có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng và có sự chuyển tiếp vững vàng, liên tục giữa các thế hệ hay không lại phụ thuộc vào yếu tố có tính quyết định: chất lượng nguồn do công tác tạo nguồn trước đó mang lại. Phát hiện, thu hút, quy hoạch tạo nguồn tốt, số lượng nguồn phong phú, đa dạng giúp cấp ủy chủ động chọn nguồn đủ số dư cho nhân sự bầu cử, tuyển chọn thuận lợi, tránh được tình trạng hẫng hụt cán bộ, nhất là khi chuyển giai đoạn cách mạng. Đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa nguồn tốt, đội ngũ nguồn sớm đạt chuẩn về trình độ, năng lực, phẩm chất thì công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng CB, CC sẽ chủ động. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác tạo nguồn cán bộ. Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, việc chủ động phát hiện tài năng trẻ, cán bộ có triển vọng đưa vào quy hoạch dự nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, tăng tỷ lệ cán bộ trẻ, xuất thân từ công nhân, nông dân, con em các gia đình có công với cách mạng, cán bộ dân tộc thiểu số (DTTS), cán bộ nữ, không phân biệt đảng viên hay quần chúng... được các cấp bộ đảng quán triệt sâu sắc và quyết liệt tổ chức thực hiện, mang lại những chuyển biến tích cực về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng ở nhiều địa phương, đơn vị trên cả nước. 2 Tây Nguyên là địa bàn chiến lược của cả nước, nơi cư trú của hơn 5,2 triệu người, trong đó có gần 2 triệu người thuộc 46 DTTS (chiếm tỷ lệ 37,84% số dân). Đội ngũ CB, CC cấp cơ sở hiện có trên 23.500 người, trong đó 26,8% là người DTTS. Bên cạnh cán bộ người Kinh đến từ nhiều nguồn, đội ngũ cán bộ người DTTS đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), giữ vững ổn định an ninh, trật tự ở cơ sở, nhất là các xã có đông đồng bào DTTS sinh sống. Đó là kết quả của quá trình tạo nguồn và xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có kế hoạch của các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên, đặc biệt là từ khi có Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước của Đảng. Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy nhanh quá trình xây dựng nông thôn mới theo hướng CNH, HĐH, xét một cách toàn diện, đội ngũ CB, CC xã là người DTTS ở Tây Nguyên hiện vẫn còn không ít hạn chế. Số lượng, cơ cấu thành phần, năng lực, trình độ, mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cả đội ngũ chưa đồng bộ. Khá phổ biến tình trạng cán bộ có trình độ thấp; năng lực bao quát, quyết đoán trong chỉ đạo thực tiễn không cao; có nơi bắt đầu hẫng hụt cán bộ sau khi lớp cán bộ trưởng thành trong kháng chiến nghỉ công tác... Thực tế đó tạo nên trở ngại lớn cho việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở một địa bàn miền núi chiến lược trọng yếu đông đồng bào DTTS sinh sống. Những hạn chế đó có nguyên nhân từ việc tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở Tây Nguyên vừa qua còn nhiều bất cập. Công tác tuyên truyền, vận động, xây dựng các phong trào hành động cách mạng tại các thôn, buôn nhằm bồi dưỡng, rèn luyện, phát hiện quần chúng ưu tú là người DTTS hiệu quả còn thấp. Công tác giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho học sinh, sinh viên, công chức tập sự, cán bộ giữ vị trí thấp là người DTTS để chuẩn bị nguồn cho công chức và cán bộ ở vị trí cao hơn chưa đáp ứng được yêu cầu chuẩn hóa nguồn. Việc xây dựng chính sách hỗ trợ chưa đủ mạnh để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là người DTTS về các xã. Công tác phát triển đảng viên mới người DTTS còn hạn chế, trong một thời gian dài còn có nhiều thôn, buôn chưa có chi bộ đảng độc lập, thậm chí “trắng” đảng viên... Khắc phục những hạn chế, 3 yếu kém ấy là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ tình hình nêu trên, tôi chọn vấn đề “Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay” làm đề tài Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, với mong muốn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, thúc đẩy việc tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên ngày một tốt hơn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án 2.1. Mục đích Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh việc tạo nguồn đội ngũ này đến năm 2020. 2.2. Nhiệm vụ - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. - Khái quát tình hình Tây Nguyên, hệ thống chính trị các xã, đặc điểm, vai trò của CB, CC và nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên. - Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức, vai trò tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên. - Đánh giá đúng thực trạng nguồn và công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên, rút ra nguyên nhân của thực trạng, những kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh việc tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án * Đối tượng nghiên cứu của Luận án: là tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên nước ta hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: - Luận án khảo sát, nghiên cứu việc tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở 5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắc, Đắk Nông, Lâm Đồng. 4 - Thời gian nghiên cứu từ khi có Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ra đời đến nay, phương hướng, giải pháp đến năm 2020. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của Luận án 4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn * Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác cán bộ, công tác tạo nguồn cán bộ. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố. * Cơ sở thực tiễn: Luận án được nghiên cứu từ thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên nói riêng, được phản ánh trong các văn bản báo cáo, các bảng biểu thống kê lưu trữ của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể và các cơ quan chức năng có liên quan, và kết quả điều tra, khảo sát trực tiếp. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của Luận án Luận án được nghiên cứu trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên ngành và chuyên ngành, như: lôgic-lịch sử, phân tích-tổng hợp, hệ thống, thống kê-so sánh, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận án - Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên. - Kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên những năm vừa qua. - Đề xuất hai giải pháp có tính đặc thù, khả thi nhằm đẩy mạnh tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên đến năm 2020: Một là, củng cố, phát triển và giao trách nhiệm cụ thể cho hệ thống các trường dân tộc nội trú, các cơ sở giáo dục - đào tạo trên địa bàn Tây Nguyên tham gia tạo nguồn CB, CC xã người DTTS. Hai là, xây dựng, củng cố và phát huy vai trò HTCT xã, lực lượng người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở thôn, buôn trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS. 5 6. Ý nghĩa thực tiễn của Luận án - Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, giúp các cấp ủy đảng đẩy mạnh công tác tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở Tây Nguyên. - Kết quả nghiên cứu của Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động nghiên cứu, học tập môn Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác, đặc biệt là các trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện ở Tây Nguyên. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của Luận án gồm Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và 3 chương, 6 tiết. 6 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có tạo nguồn cán bộ của đảng cộng sản là vấn đề đã được trình bày trong nhiều tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh; bài viết của các lãnh tụ của Đảng, Nhà nước; công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong thời gian gần đây, có thể tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án như sau: I. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến công tác cán bộ và tạo nguồn cán bộ nói chung Công tác cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài học mà V.I.Lênin từng tổng kết: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào nắm được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [82, tr.473] trở thành mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là từ khi Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ra đời (1997) đến nay, nhiều công trình khoa học được triển khai, đề cập tổng thể những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác cán bộ của Đảng. Sách “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới” (1998) của PGS,TS Trần Xuân Sầm (chủ biên) và sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2001) của Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm là hai công trình nghiên cứu lớn, xác định rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng ta trong thời kỳ mới, đặc biệt là những yêu cầu, đòi hỏi cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ trong HTCT các cấp. Theo các tác giả, việc xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và thế giới; phải căn cứ vào đường lối cán bộ của Đảng đã 7 được kiểm nghiệm từ cuộc sống; khai thác những nhân tố hợp lý về tiêu chuẩn quan chức trong các vương triều phong kiến và chú ý đến đặc trưng của con người Việt Nam truyền thống, đồng thời tham khảo kinh nghiệm và thành tựu khoa học quản lý của các nước. Đây là những quan điểm rất đổi mới về công tác cán bộ của Đảng, Luận án có thể kế thừa và vận dụng vào việc luận bàn về mục tiêu tạo nguồn và đổi mới việc xây dựng tiêu chuẩn nguồn CB, CC xã người DTTS phù hợp với điều kiện và xu thế phát triển của vùng Tây Nguyên. Nhiều công trình khác như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.04.09 “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” (2002-2004) của Bộ Nội vụ; sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2007) của Vũ Văn Hiền (chủ biên), Trần Quang Nhiếp, Lê Đức Bình; sách “Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức” (2011) của TS Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội)... tiếp tục đưa ra nhiều luận cứ khoa học của việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành nước ta. Qua đó, nhiều vấn đề được khẳng định: về vị trí, vai trò nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng của cán bộ và công tác cán bộ; về yêu cầu đức - tài, phẩm chất - năng lực của tiêu chuẩn cán bộ đặt trong trong quan hệ với nhiệm vụ chính trị, với xu thế của thời đại; về trách nhiệm của các cấp chủ thể, nhất là cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, HTCT; về quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH. Luận án có thể kế thừa các kết quả nghiên cứu trên để vận dụng vào việc làm rõ vai trò của đội ngũ CB, CC và những yêu cầu đặt ra trong tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên. Bài viết “Công tác cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng” (2004) của Vũ Văn Hiền và Tạ Xuân Đại (Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc: Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc) khẳng định công tác cán bộ của Đảng ta là vấn đề then chốt của nhiệm vụ then chốt; xây dựng đội 8 ngũ cán bộ chủ chốt là điều cốt lõi của vấn đề then chốt, vì vậy cần chuẩn bị chiến lược cán bộ, với nội dung quan trọng là tạo nguồn, xây dựng quy hoạch và chăm lo bồi dưỡng, đào tạo, giáo dục cán bộ. Đối với hai khâu quan trọng của công tác cán bộ là đào tạo và luân chuyển, có các công trình: Đề tài khoa học cấp Bộ (1998-1999) “Những căn cứ lý luận và thực tiễn xác định nội dung, chương trình đào tạo cán bộ chủ chốt cơ sở miền núi đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay” do TS Trần Ngọc Uẩn (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) làm chủ nhiệm, nhấn mạnh việc xây dựng một chương trình phù hợp phải được coi là nội dung cốt lõi trong công tác đào tạo cán bộ. Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2002)-07 "Cơ sở lý luận và thực tiễn đánh giá, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đạ hóa đất nước", chủ nhiệm PGS, TS Trần Đình Hoan lần đầu tiên bàn về công tác luân chuyển với tư cách là khâu góp phần đào tạo cán bộ qua thực tiễn. Luân chuyển gắn liền với quy hoạch, và có thể theo 3 hướng: luân chuyển ngang, trên xuống, dưới lên. Vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức nơi đi và nơi đến của cán bộ luân chuyển đều được nhấn mạnh. Những vấn đề liên quan đến chế độ chính sách hỗ trợ đời sống, điều kiện, phương tiện để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ cũng là nội dung được tổng kết và đề xuất trong Đề tài. Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể giúp Luận án hoàn thiện hơn trong giải pháp đổi mới nội dung tạo nguồn CB, CC xã, phần đổi mới công tác luân chuyển tạo nguồn. Tạo nguồn cán bộ nằm trong phạm vi công tác cán bộ, nên có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn về nó, sử dụng thuật ngữ “tạo nguồn” trong tên công trình, hoặc phạm vi rộng hơn là “xây dựng đội ngũ cán bộ”, trong đó có cán bộ người DTTS, nhưng nhìn chung nội hàm khái niệm “tạo nguồn” chưa được minh định. Tuyệt đại bộ phận các bài báo khoa học hiện nay đều xuất phát từ quan niệm tạo nguồn cán bộ tập trung ở quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng nguồn, nên thực trạng và giải pháp cho tạo nguồn cũng hướng chủ yếu về nâng cao chất lượng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tiêu biểu có: bài viết “Bộ đội Biên phòng với việc tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số” của Thiếu tướng Võ 9 Trọng Việt (Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 15-2-2007); “Tạo nguồn cán bộ từ đồng bào dân tộc thiểu số” của Nguyễn Văn Bình (Webside Quảng Nam online, 5-10-2009); “Nét mới trong tạo nguồn bí thư, chủ tịch xã phường ở Đồng Nai” của Thủy Anh (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 9-2009); “Hải Phòng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo trẻ” của Lê Xuân Lịch (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 1-2010); “Tạo nguồn lãnh đạo phường, xã ở Đà Nẵng” của Bùi Văn Tiếng (Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 4/2010) v.v.. Tuy còn hạn hẹp trong quan niệm và giải pháp tạo nguồn, nhưng giá trị của các bài viết cho thấy bức tranh khá đa dạng về thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn, cùng những mô hình, kinh nghiệm hay, có thể dùng làm cơ sở để xác định những nội dung trọng tâm, những vấn đề đặt ra trong công tác tạo nguồn cán bộ trên bình diện chung và cho đề tài Luận án nói riêng. Bên cạnh đó, một số đề tài khoa học, luận văn, luận án gần đây mở rộng được phạm vi hoặc đi sâu vào một số nội dung tạo nguồn cán bộ cụ thể: Tại Hội thảo khoa học “Một số vấn đề về công tác quy hoạch cán bộ” (1998) thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KHXH.05, TS Đỗ Xuân Định có bài “Vấn đề tạo nguồn trong quy hoạch cán bộ” bàn về hai cách tạo nguồn: từ xa và trực tiếp. Theo tác giả, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí là cách tạo nguồn từ xa, còn việc đưa cán bộ vào hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, sàng lọc là cách tạo nguồn trực tiếp từng loại cán bộ. Thực chất của tạo nguồn trực tiếp là “sự tiếp tục đào tạo trong thực tiễn”, là “sự đào tạo trong quá trình sử dụng”, vì vậy cần sử dụng đúng chuyên ngành đào tạo, bố trí công việc thích hợp, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong tạo nguồn, không chỉ đòi hỏi cao về đạo đức, năng lực công tác cán bộ, mà phải chú ý đến chính sách đãi ngộ, khuyến khích lợi ích vật chất, bởi nó “như là một tất yếu đi đôi với những giá trị tinh thần và việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng”. Những tiếp cận mang tính khái quát này là gợi mở quan trọng cho việc xây dựng bộ khung lý thuyết về nội dung tạo nguồn của Luận án. Đề tài khoa học cấp Bộ (2005) “Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay” do TS Đoàn Minh Huấn làm chủ nhiệm, đưa ra 10 các khái niệm và cách tiếp cận vấn đề tạo nguồn cán bộ chủ chốt, phân tích đánh giá thực trạng công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho HTCT cấp xã các tỉnh Tây Bắc nước ta những năm qua. Đề tài cũng tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn trong việc tạo nguồn cán bộ chủ chốt của HTCT cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc qua việc nghiên cứu hoạt động này ở một số trường chính trị trong khu vực, đề xuất những giải pháp đẩy mạnh công tác tạo nguồn cán bộ HTCT cơ sở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới. Đề tài khoa học “Vấn đề tạo nguồn cán bộ các xã vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn - thực trạng và giải pháp” (Mã số KHBD (2009) - 51) của ThS Trần Thị Hương đưa ra khái niệm “Tạo nguồn cán bộ cơ sở cấp xã vùng cao, vùng xa đặc biệt khó khăn là quá trình phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những người công tác tại cơ sở xã, thôn bản thuộc khu vực này, hoặc có thể là học sinh, sinh viên, để giúp họ có đủ các điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở”. Khái niệm cho thấy: đối tượng tạo nguồn là người đang công tác tại chỗ, hoặc học sinh, sinh viên; nội dung tạo nguồn là phát hiện, quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đối tượng; mục tiêu tạo nguồn là giúp đối tượng có đủ điều kiện tiêu chuẩn của cán bộ cơ sở. Có thể đánh giá: với mục tiêu nói trên, thì nội dung tạo nguồn mà tác giả đề cập chưa thể đáp ứng, bởi sau khi phát hiện và quy hoạch, chỉ bằng công tác đào tạo, bồi dưỡng thì sẽ không đủ để chuẩn hóa nguồn theo tiêu chuẩn cán bộ cơ sở. Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng “Tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay” (2010) của Trần Hoàng Khải đưa ra được một số quan niệm mới về nguồn và tạo nguồn cán bộ. Tác giả phân biệt 4 loại nguồn: Nguồn kế cận (đã được quy hoạch, đang trực tiếp tham mưu, giúp việc cho cán bộ đương chức giữ chức danh mình được quy hoạch và sẵn sàng cho việc thay thế ngay chức danh đó khi có nhu cầu sử dụng cán bộ). Nguồn dự bị dài hạn (là những CB, CC đã được quy hoạch và đang trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng). Nguồn cán bộ hoạt động thực tiễn (trong phong trào quần chúng) và Nguồn học sinh, sinh viên (trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ thông). Từ quan niệm về nguồn nói trên, tác giả cho rằng “Tạo nguồn là hoạt động tích cực, tự giác, chủ động của các chủ thể để hình thành nguồn”; “Tạo nguồn cán 11 bộ lãnh đạo, quản lý là tổng thể những chủ trương, biện pháp, cách thức của hệ thống chính trị, các tổ chức, các lực lượng và toàn thể xã hội mà trực tiếp là tổ chức đảng các cấp trong việc chuẩn bị nguồn cán bộ có số lượng dồi dào, cơ cấu phù hợp và có chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị sẵn sàng thay thế vào các chức danh lãnh đạo, quản lý”. Nội dung tạo nguồn bao gồm: phát hiện, lựa chọn đối tượng; đánh giá đối tượng; quy hoạch nguồn; đào tạo, bồi dưỡng; quản lý; bố trí, sử dụng nguồn. Đây là những nghiên cứu khung bước đầu, có nhiều nội dung đã được làm rõ. Tác giả bám sát các khâu của công tác cán bộ nói chung để xây dựng nội dung tạo nguồn. Tuy nhiên còn những khoảng trống trong các khâu đó. Ví dụ, việc xây dựng tiêu chuẩn nguồn (cơ cấu đội ngũ, phẩm chất cá nhân) để định hình mục tiêu tạo nguồn; hay xây dựng môi trường (phong trào hành động cách mạng, cơ chế chính sách) để phát hiện, thu hút và thử thách, rèn luyện nguồn v.v.. khá quan trọng nhưng chưa được đề cập trong phần lý luận chung về tạo nguồn cán bộ. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu nói trên, Luận án sẽ tiếp tục khảo sát thực tiễn ở Tây Nguyên và khảo cứu quan điểm của Đảng qua các giai đoạn lịch sử để xác định đầy đủ hơn các nội dung tạo nguồn cán bộ. 1.2. Những nghiên cứu liên quan đến cán bộ cấp xã, cán bộ dân tộc thiểu số và tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số Xây dựng đội ngũ cán bộ của HTCT cấp xã là đối tượng nghiên cứu được nhiều nhà khoa học quan tâm, không chỉ bởi vai trò của HTCT cấp cơ sở, mà còn liên quan đến vai trò và thực tế việc xây dựng, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ chủ chốt ở đây. Nhiều sách, đề tài, luận án, luận văn, bài viết đã phân tích sâu sắc, trên từng góc độ tiếp cận thực trạng của HTCT cấp cơ sở, nhất là ở vùng nông thôn miền núi, vùng DTTS, với những khó khăn, vướng mắc về điều kiện kinh tế - xã hội, về đội ngũ CB, CC, với nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, trong đó có 2 yếu tố quan trọng nhất: con người và cơ chế - những điều kiện đảm bảo cho HTCT vững mạnh. Tiêu biểu như: sách: “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội vùng nông thôn miền núi, vùng DTTS” của Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà 12 Nội, 2000); sách: “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” của Hoàng Chí Bảo (Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005); sách “Hệ thống chính trị cơ sở - thực trạng và một số giải pháp đổi mới” của Bộ Nội vụ - Viện nghiên cứu khoa học tổ chức nhà nước (Nxb CTQG, Hà Nội, 2004); đề tài khoa học cấp Bộ 2007 “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX)” của ThS Nguyễn Thế Vịnh; luận văn thạc sĩ “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước yêu cầu đổi mới” (2003) của Lê Thị Lý v.v.. kết quả nghiên cứu của các công trình trên có thể giúp cho Luận án định hướng rõ yêu cầu công tác xây dựng đội ngũ cán bộ luôn gắn với trách nhiệm của cấp ủy đảng các cấp, vai trò chủ động tham mưu và tổ chức thực hiện chủ trương của cấp ủy của các cơ quan, tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong HTCT. Cán bộ người DTTS là nhóm đối tượng đặc biệt quan trọng của công tác cán bộ vùng miền núi, dân tộc. Nghiên cứu của Đàm Thị Uyên trong sách “Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ XI - XIX)” (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998) cho thấy đã có nhiều chính sách, biện pháp cai trị đặc biệt của các triều đại phong kiến Việt Nam trong lịch sử đối với các DTTS vùng miền núi. Từ thời Lý (thế kỷ XI), chính sách “nhu viễn” (mềm dẻo với phương xa) được ban hành, sau này vẫn là quốc sách hàng đầu, phổ biến và lâu dài của các vương triều phong kiến. “Nhu viễn” xây dựng mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước trung ương (phong kiến tập quyền) với cộng đồng các tù trưởng (người có uy tín, thế lực, đang điều hành, quản lý các tộc người bằng tự trị, theo luật tục) thông qua việc ban phẩm tước cho tù trưởng; phân phong một số hoàng thân, quan lại lên trấn giữ vùng biên; đặc biệt là câu thúc, lôi kéo bằng quan hệ thân tộc (qua hôn nhân) giữa các tù trưởng với công chúa, cung phi của triều đình. Song song với “nhu viễn”, các nhà nước còn kiên quyết dùng chính sách “cương bạo lực” lúc cần thiết để trừng trị những kẻ gây mất đoàn kết các dân tộc, chống lại triều đình và cắt đất cho ngoại bang. Chính sách nhu, cương hợp lý có ý nghĩa tích cực trong củng cố quốc gia thống nhất, đẩy lùi các thế lực cát cứ, xâm lấn và giữ gìn được an ninh biên giới. Đó là kinh nghiệm lịch sử để luận án, trong quá 13 trình đề xuất giải pháp tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên chú ý đến những chính sách đối với người DTTS: phải trên cơ sở tình thân (không kỳ thị dân tộc); phải hướng đến đối tượng tạo nguồn là những người có uy tín trong cộng đồng; phải tăng cường sức mạnh cho đội ngũ này bằng việc điều động, luân chuyển cán bộ nơi khác về; đồng thời cương quyết sàng lọc nguồn trong quá trình tạo nguồn trên cơ sở tiêu chuẩn CB, CC do pháp luật quy định. Sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp” (2005) của TS Lê Thị Phương Thảo, PGS, TS Nguyễn Cúc, TS Doãn Hùng đồng chủ biên (Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội) là tập hợp kết quả nghiên cứu của 34 nhà khoa học, tập trung vào những vấn đề: lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, cùng một số các yếu tố tác động về tâm lý, văn hóa tộc người liên quan đến vấn đề dân tộc, cán bộ DTTS, công tác cán bộ DTTS; thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS nói chung và trên một số lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Nhiều giải pháp đổi mới công tác cán bộ DTTS được đề xuất có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, thể hiện trong các chuyên đề: Quy hoạch cán bộ DTTS trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH (của TS Ngô Kim Ngân); Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng (của TS Nguyễn Hữu Ngà); Phát huy vai trò của HTCT trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ DTTS (của TS Nguyễn Văn Sáu); Đổi mới chính sách ưu tiên đại học, cao đẳng đối với con em đồng bào DTTS (của PGS, TS Ngô Kim Khôi); Đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng tạo cơ hội phát huy năng lực nội sinh của đồng bào các DTTS (của TS Hoàng Văn Hiện). Các kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần làm sâu sắc thêm những luận giải trong chương 1 và chương 3 của Luận án. Sách “Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” của Lô Quốc Toản (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010) đưa ra định nghĩa khái niệm Nguồn cán bộ DTTS “là những người có nguồn gốc xuất thân từ các DTTS, được tuyển chọn, được đào tạo, bồi dưỡng, được rèn luyện, thử thách để bố trí, sắp xếp vào các cương vị công tác trong bộ 14 máy của hệ thống chính trị”. Tác giả phân biệt tiêu chuẩn nguồn cán bộ nói chung so với nguồn cán bộ DTTS chỉ khác ở chỗ thành phần dân tộc xuất thân (DTTS không phải là dân tộc Kinh), còn các tiêu chuẩn khác thì giống nhau. Điều này theo chúng tôi là chưa phù hợp, bởi trong thực tế điều kiện phát triển của đồng bào DTTS vùng miền núi chưa cho phép. Khi quan niệm Phát triển nguồn cán bộ DTTS là “phát triển những con người ở các DTTS, tạo điều kiện thuận lợi để họ trở thành cán bộ” và “phát triển về năng lực và trình độ công tác của đội ngũ cán bộ DTTS”, là tác giả đã phân biệt 2 nhóm nguồn khác nhau: người DTTS chưa là cán bộ và cán bộ người DTTS. Điều này đồng nhất với nhiều tác giả trong quan niệm về nguồn cán bộ, và cho thấy phát triển nguồn nằm trong nội hàm khái niệm tạo nguồn, nhưng chỉ là một khâu của tạo nguồn. Ở mục đánh giá về công tác phát triển nguồn, tác giả đề cập đến 3 việc cụ thể: khôi phục và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú; thực hiện chế độ cử tuyển vào các trường đại học, cao đẳng và trung cấp; đào tạo cán bộ ... tỉnh còn lại của Tây Nguyên thuộc phạm vi Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, có đường biên giới giáp hai nước bạn dài 590 km ở phía tây (biên giới với Lào dài 135 km, biên giới với Campuchia dài 455 km). Trong nội địa, phía bắc Tây Nguyên giáp tỉnh Quảng Nam; phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận; phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai và Bình Phước. Tây Nguyên có tổng diện tích đất tự nhiên rộng lớn (54.639 km2), mật độ dân số không cao (93 người/km2), khí hậu tương đối mát mẻ, mưa nhiều, đất đai màu mỡ (với 1.800.000 ha đất đỏ bazan, 91.000 ha đất phù sa, 52.000 ha đồng cỏ tự nhiên) là điều kiện lý tưởng cho phát triển nhiều loài cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, nhất là cao su, cà phê, tiêu, điều, chè, dâu tằm... vốn là cây trồng truyền thống mang lại nguồn thu nhập chính cho đồng bào. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật “điện, đường, trường, trạm” qua nhiều năm được Nhà nước đầu tư xây dựng đã phát triển rộng khắp đến tận xã, thôn. Đường Hồ Chí Minh, các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đan xen dày đặc mang lại sự thông thương ngày càng thuận lợi trong vùng, đồng thời nối liền với các tỉnh Đông Bắc Campuchia, Nam Lào và duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ, tạo cho toàn Tây Nguyên có 29 một vị thế địa kinh tế - chính trị đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh, xây dựng vùng kinh tế mở. Tây Nguyên cũng là nơi giàu có về tiềm năng du lịch, không chỉ bởi những thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng mà còn bởi kho tàng văn hóa các dân tộc phong phú, nhiều màu sắc, nhất là “Không gian văn hóa cồng chiêng” đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ở thời điểm Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số Tây Nguyên là 5.107.437 người (tăng 3,17 lần so với năm 1976), trong đó dân sống ở nông thôn chiếm 72,2%. Hệ thống đơn vị hành chính ở 5 tỉnh Tây Nguyên gồm 61 đơn vị cấp huyện và 702 đơn vị cấp xã. Đến năm đầu năm 2012, Tây Nguyên có số dân 5.208.258 người, trong đó đồng bào DTTS có 1.970.877 người [103], chiếm tỷ lệ 37,84%, gồm 47 dân tộc anh em đang sinh sống. Sau quá trình chia tách, Tây Nguyên hiện có 722 đơn vị cấp xã (trong đó số xã là 598, chiếm 82,83% đơn vị cấp xã), 7.616 thôn, buôn, làng, tổ dân phố (trong đó có 2.464 buôn, làng đồng bào DTTS sinh sống, chiếm 32,35%). Tuy đất rộng, người thưa, nhưng vấn đề dân cư, dân sinh Tây Nguyên khá phức tạp. Trên địa bàn các xã ở Tây Nguyên, tỷ trọng số người/1 hộ trung bình cao nhất nước (nông thôn cả nước: 3,9 người/hộ; Tây Nguyên: 4,3 người/hộ). Quy mô hộ có 5-6 người của cả nước là 24,6% thì Tây Nguyên là 29,8%. Quy mô hộ có trên 7 người của cả nước là 5,1%, Tây Nguyên là 10,1%. Đặc điểm này liên quan đến tập quán sống theo gia đình nhiều thế hệ của đồng bào DTTS, nhưng thời gian gần đây chủ yếu do tỷ suất sinh cao, độ tuổi kết hôn thấp và số con trong một gia đình nhiều. Trong khi cả nước tỷ lệ tăng dân số trong 10 năm (từ 1999-2009) ở mức 1,2% thì Tây Nguyên là 2,3% (nông thôn 2,2%, thành thị 2,5%), chỉ đứng sau Đông Nam bộ (3,2%). Tỷ lệ nữ sinh con thứ 3 trở lên ở Tây Nguyên chiếm 30,6% (riêng Kon Tum 39,5%). Tỷ lệ kết hôn lần đầu trong lứa tuổi vị thành niên (15 - 19 tuổi) ở Tây Nguyên là 18,4 tuổi (nữ) và 18,9 tuổi (nam), thậm chí kết hôn lúc mới 15 tuổi ở nam chiếm 0,5%, nữ 2,2% [10]. Điều này ảnh hưởng lớn đến thời gian học tập nâng cao trình độ và tham gia hoạt động 30 xã hội của lực lượng lao động ở Tây Nguyên, nhất là thanh niên các xã và trong đồng bào DTTS. Năm 2009, toàn vùng có 74,6% số xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, trong đó 221 xã phải hỗ trợ bằng Chương trình 135 của Chính phủ. Hiện nay, tuy đã được Nhà nước đầu tư mạnh mẽ, quyết liệt để xây dựng HTCT cơ sở, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo..., nhưng toàn Tây Nguyên vẫn còn 199 xã được xác định là trọng điểm về an ninh chính trị và 276 xã, trong đó có 32 xã biên giới, thuộc diện đặc biệt khó khăn. Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược về kinh tế và an ninh, quốc phòng. Trước năm 1954, Tây Nguyên từng được người Pháp xem là “nóc nhà Đông Dương”, ai chiếm được Tây Nguyên thì sẽ làm chủ cả miền nam Đông Dương. Người Mỹ cũng sẵn sàng bỏ ra vô số tiền của để mưu nắm giữ, chi phối vùng đất và cộng đồng người bản xứ nơi đây. Trước và sau năm 1975, các tổ chức chính trị, quân sự do một số người DTTS lập nên nhằm đòi “quyền tự trị” cho đồng bào DTTS tại chỗ, như FULRO, liên tục được Mỹ tiếp sức, xây dựng lực lượng, tổ chức quấy rối, bạo động nhằm chống Đảng, chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc ở Tây Nguyên, gây mất ổn định an ninh và kìm hãm sự phát triển KT- XH. Khi cả nước đã bắt tay vào công cuộc đổi mới toàn diện để thoát ra khỏi khủng hoảng KT-XH sau 10 năm thống nhất đất nước, thì Tây Nguyên vẫn đang phải đối phó với sự chống phá điên cuồng của FULRO, mãi đến 1992 mới cơ bản giải quyết xong. Hậu quả của FULRO chưa thể bị xóa bỏ triệt khi các thế lực thù địch quốc tế tiếp tục lợi dụng cái gọi là “Nhà nước Tin Lành Đề-ga” để xúi giục một bộ phận đồng bào DTTS Tây Nguyên gây ra các cuộc bạo động chính trị năm 2001 và 2004, sau này còn tiếp tục xây dựng cơ sở ngầm, tung tin kích động, biểu tình gây rối, ảnh hưởng xấu đến sự ổn định chính trị ở nhiều địa phương. Vượt qua những trở ngại, thách thức, những âm mưu và thủ đoạn chống phá quyết liệt của các thế lực phản động, Tây Nguyên giờ đây, bằng sức sáng tạo của cộng đồng các dân tộc, dưới sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và hỗ trợ của Trung ương, các cấp, các ngành, bộ mặt KT-XH nhiều địa phương đang trên đà 31 khởi sắc nhanh chóng, đời sống nhân dân dần được ổn định, nâng cao. Bên cạnh có nơi còn không ít hộ nghèo, nhiều vùng khó khăn, thì Tây Nguyên cũng xuất hiện ngày càng nhiều hộ khá và giàu từ thành công của lao động cần cù, biết tận dụng lợi thế, tiềm năng đất đai, con người, trong đó có không ít hộ đồng bào DTTS. Dẫu vậy, cơ hội và thách thức đan xen, những đòi hỏi của một vùng đất nhiều lợi thế nhưng tiềm ẩn bất ổn đang là áp lực đối với đảng bộ và chính quyền các cấp. Con đường để đưa các xã ở Tây Nguyên tiến kịp cùng sự phát triển của đất nước vẫn còn dài và không ít trở ngại, khó khăn. Người đồng hành cùng nhân dân Tây Nguyên trên con đường đó không ai khác chính là đội ngũ CB, CC cơ sở, đặc biệt là CB, CC người DTTS đang ngày đêm bám dân, bám địa bàn. Bởi vậy, xây dựng đội ngũ CB, CC người DTTS ở Tây Nguyên từ lâu đã được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm, mà tạo nguồn là khâu đột phá, có tính chiến lược lâu dài. 1.1.1.2. Hệ thống chính trị các xã ở Tây Nguyên HTCT các xã ở Tây Nguyên gồm các tổ chức được pháp luật công nhận: Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam). Đảng bộ xã là tổ chức cơ sở đảng - cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức 4 cấp từ Trung ương đến cơ sở của Đảng. Đảng bộ xã trực thuộc cấp ủy cấp huyện, có cơ quan lãnh đạo giữa hai nhiệm kỳ 5 năm là đảng ủy xã, được bầu cử tại đại hội đại biểu đảng bộ, trong đó bí thư và phó bí thư đảng ủy là hai chức danh cán bộ theo Luật Cán bộ, công chức. Đảng bộ xã có hai chức năng: hạt nhân lãnh đạo chính trị và xây dựng nội bộ đảng trên địa bàn xã. Nhiệm vụ của đảng bộ xã là chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả; xây dựng đảng bộ, các chi bộ trực thuộc đảng ủy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trên cả ba lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh, xây dựng Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn xã trong sạch, vững mạnh; chăm lo đời 32 sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh ở xã. Chính quyền xã thuộc cấp chính quyền cơ sở, gồm hai cơ quan là HĐND và UBND xã, được bầu cử dân chủ theo nhiệm kỳ 5 năm. Trong bộ máy chính quyền xã, có 4 chức danh cán bộ (chủ tịch, phó chủ tịch HĐND và UBND) và 7 chức danh công chức (thuộc UBND) được Luật Cán bộ, công chức quy định. HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước của nhân dân ở xã, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. HĐND xã quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của xã, xây dựng và phát triển KT-XH, củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, làm tròn nghĩa vụ của xã đối với cấp trên; giám sát hoạt động của thường trực HĐND, UBND xã; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang và của công dân trên địa bàn. UBND xã là cơ quan chấp hành của HĐND xã, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND xã nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển KT-XH, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn. Với chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, UBND xã góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương tới cơ sở. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã là cơ sở chính trị - xã hội của đảng bộ, chính quyền xã; nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, trách nhiệm và sức mạnh của toàn dân và của mỗi giới (mà đoàn thể đại diện) trong việc góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển KT-XH trên địa bàn xã. Chủ tịch Ủy ban Mặt trận và trưởng các đoàn thể ở xã là cán bộ xã theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, được hình thành qua con đường bầu cử theo Luật Mặt trận và điều lệ của các đoàn thể. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị 33 và tinh thần trong nhân dân trên địa bàn xã; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của xã; giám sát hoạt động của HĐND, UBND, của CB, CC xã; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền xã; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Các đoàn thể chính trị - xã hội đại diện, chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ, đoàn viên, hội viên; tổ chức các hoạt động, tạo môi trường giáo dục, rèn luyện đoàn viên, hội viên nhằm góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, KT-XH của xã; phối hợp với chính quyền, các lực lượng khác để xây dựng Đảng vững mạnh. HTCT các xã ở Tây Nguyên được hình thành từ sau ngày giải phóng miền Nam, đến nay đã cơ bản ổn định về cơ cấu tổ chức. Tất cả 598 xã đều xây dựng được HTCT với đầy đủ các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể. Bộ máy, chức danh CB,CC cụ thể trong từng cơ quan, tổ chức của HTCT cơ bản thực hiện theo quy định chung, song có những vận dụng phù hợp với yêu cầu của từng nơi. Thông thường, mỗi xã có 6 chức danh cán bộ chủ chốt được bố trí theo cơ cấu: 2 cán bộ ở cơ quan đảng (1 bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch HĐND; 1 phó bí thư đảng ủy trực kiêm chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra đảng ủy); 3 cán bộ ở UBND (1 chủ tịch và 2 phó chủ tịch); 1 cán bộ ở HĐND (phó chủ tịch HĐND). Những xã vùng có đông đồng bào DTTS, vùng đạo, vùng đặc biệt khó khăn, phức tạp về an ninh chính trị thì có thêm 1 cán bộ là phó bí thư đảng uỷ phụ trách dân tộc-tôn giáoủyhoặc xây dựng cơ sở. Có nơi, chức danh chủ tịch HĐND do phó bí thư đảng ủy kiêm nhiệm, hoặc bí thư đảng uỷ đồng thờ ủy là chủ tịch UBND xã. Các chức danh: văn phòng - thống kê, địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường, tài chính - kế toán, tư pháp-hộ tịch, văn hoá - hóahội được bố trí 2 công chức trên mỗi chức danh. Chất lượng hoạt động của HTCT các xã phụ thuộc vào trình độ, năng lực của đội ngũ CB,CC, đồng thời chịu tác động của độ phức tạp ở mỗi địa bàn. Bên cạnh sự vững mạnh, đồng bộ trong hoạt động của HTCT ở nhiều xã, thì vẫn còn không ít nơi, nhất là vùng đặc biệt khó khăn, vùng có đông đồng bào DTTS sinh 34 sống, vùng luôn chịu sự quấy phá của các lực lượng thù địch, phản động..., hoạt động của HTCT xã còn những bất cập, hạn chế. Có nơi tổ chức đảng bao biện làm thay chính quyền, đoàn thể hoặc buông lỏng lãnh đạo, yếu kém, thậm chí có lúc tê liệt; chính quyền quản lý xã hội không nghiêm, bị luật tục chi phối; Mặt trận và các đoàn thể hoạt động cầm chừng. Hoạt động của các tổ chức trong HTCT ở cấp thôn, buôn có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của các xã. Tuy nhiên trong một thời gian dài, bộ máy thôn, buôn còn có những điểm “trắng” về đảng viên, chi bộ, chi hội các đoàn thể. Đó là những thôn, buôn ở quá sâu, xa trung tâm, hoặc mới được thành lập do đồng bào di cư tự do mới đến... Hiện Tây Nguyên vẫn còn 604 thôn, buôn, tổ dân phố chưa thành lập chi bộ, chiếm tỷ lệ 7,93% và 51 thôn, buôn chưa có đảng viên, chiếm tỷ lệ 0,67% [103]. Số thôn, buôn có địa bàn rộng nhưng chưa có các chi hội đoàn thể độc lập, phải sinh hoạt ghép chiếm tỷ lệ còn cao hơn. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của các cơ quan trong HTCT xã, nhất là ở vùng sâu, vùng biên giới chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Trước đây, tính chất tạm bợ, thiếu thốn, sơ sài của trụ sở làm việc, trang thiết bị, phòng làm việc thiếu đồng bộ, lạc hậu... ảnh hưởng nhất định đến tác phong công tác, lề lối làm việc, đến việc đáp ứng yêu cầu về tin học hóa, thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”. Chế độ, chính sách đối với CB, CC cơ sở vùng Tây Nguyên thực hiện theo quy định chung của Nhà nước, tuy có đổi mới gắn với điều kiện đặc thù của địa bàn, nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu đời sống và công tác, làm cho nhiều CB, CC xã thiếu an tâm, người mới không muốn về, người cũ có trình độ tìm cách chuyển lên trên, dẫn đến tình trạng thiếu ổn định trong đội ngũ CB, CC xã. Những khó khăn trên mang tính phổ biến ở nhiều nơi, nhưng ở Tây Nguyên lại “đậm nét” hơn, đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng HTCT xã cấp thiết hơn. Giải quyết nó không thể không chú trọng đến đổi mới, củng cố HTCT, trong đó mấu chốt là đội ngũ CB, CC, đặc biệt là CB, CC người DTTS - những người đang góp phần quyết định sự thành công của cuộc cách mạng xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững ở Tây Nguyên. 35 1.1.1.3. Các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên * Đặc điểm các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên liên quan đến việc tạo nguồn cán bộ, công chức xã - Các DTTS ở Tây Nguyên có lịch sử biến thiên phức tạp nên ngày càng đa dạng về nguồn gốc, phong phú về thành phần, đông đảo về số lượng, có sự khác biệt nhất định về địa bàn cư trú và tập quán sống. Trước và trong thời kỳ Pháp thuộc, nhìn chung vùng Tây Nguyên chỉ có các DTTS tại chỗ sinh sống. Người Pháp nghiên cứu và tiến hành khai thác Tây Nguyên rất sớm, từ những năm đầu thế kỷ XX, song đặt chính sách hạn chế người Kinh lên Tây Nguyên, giao quyền tự trị cho các DTTS nhưng thực chất là thâu tóm quyền cai quản và chia để trị. Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chủ trương đưa khoảng một nửa dân di cư từ miền Bắc vào lên Tây Nguyên (khoảng hơn 54.000 người), tập trung chủ yếu ở Đà Lạt, Lâm Đồng. Đặc biệt, từ sau năm 1975, chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước tạo nên một luồng di dân lớn vào Tây Nguyên theo kế hoạch (đối với những hộ gia đình nghèo, vùng đồng bằng, đô thị đất chật người đông không có đất sản xuất). Hơn hai thập niên trở lại đây, Tây Nguyên còn đối mặt với tình trạng nhập cư tự do, tự phát, không kiểm soát được (chủ yếu là đồng bào miền Trung và miền núi phía Bắc vào), kéo theo đó là phá rừng, tranh chấp đất đai, tăng dân số sinh học và cơ học, đặt ra cho cấp ủy và chính quyền các địa phương ở Tây Nguyên bài toán nan giải - an ninh, trật tự xã hội, việc làm cho người lao động, học hành cho trẻ em, chăm sóc sức khỏe cộng đồng... Có thể nói, từ quá trình di dân của cộng đồng nhiều dân tộc, nhiều vùng miền, nhiều thành phần xã hội khác nhau đến với Tây Nguyên trong thế kỷ XX, cơ cấu dân số, dân tộc, đặc điểm văn hóa, tín ngưỡng, phương thức làm ăn, lối sống... đã có nhiều biến đổi sâu sắc, tác động không nhỏ đến cộng đồng các DTTS tại chỗ. Gần đây, tỷ xuất nhập /xuất cư ở Tây Nguyên có sự chuyển biến đáng kể, theo hướng ít chênh lệch (+8 người/1000dân). Điều đáng quan ngại là, một bộ phận lớn trong số xuất cư là con em cán bộ và gia đình khá giả, kể cả con em đồng bào DTTS được Nhà nước ưu đãi chế độ cử tuyển cho đi đào tạo tại các 36 thành phố lớn, sau khi ra trường không về lại Tây Nguyên mà ở lại các địa phương có điều kiện phát triển hơn. Số nhập cư thì đa phần là các hộ gia đình nghèo, trong đó có nhiều đồng bào DTTS ở phía Bắc, do thiếu đất sản xuất mà di cư tự do vào. Như vậy, hiện đang có một dòng chảy nguồn nhân lực chất lượng cao ra khỏi Tây Nguyên, và một dòng chảy nhân lực hạn chế hơn vào, trong đó không ít là đồng bào DTTS. Đây là vấn đề của thực tế, nhiều năm qua là nguyên nhân của tình trạng thiếu bền vững trong thu hút tạo nguồn và giữ nguồn cho đội ngũ CB, CC người DTTS ở các xã. Dân số Tây Nguyên sau ngày thống nhất đất nước (1976) có 1.225.000 người, gồm 18 dân tộc, trong đó DTTS chiếm 69,7% dân số, đến thời điểm cuối năm 2010 là 5.208.258 người, trong đó DTTS có 1.970.877 người (chiếm 37,84% dân số). Hiện nay, Tây Nguyên có 47 dân tộc anh em sinh sống, trong đó có 12 dân tộc tại chỗ, một số dân tộc từ các địa phương phía bắc vào, dân tộc Lào và dân tộc Campuchia di cư sang. Trên địa bàn có khoảng 530.000 người DTTS là tín đồ đạo Tin lành và Công giáo (chiếm 31,18% trong tổng số 1.700.000 tín đồ của 5 tôn giáo chính: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Baha’i). 12 dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên có nguồn gốc lâu đời, chiếm 26,1% tổng dân số toàn vùng, đông nhất là Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, ít nhất có Rơ-mâm, Brâu. Các DTTS nơi khác đến sinh sống ở Tây Nguyên chiếm 11,74% dân số, đông nhất là Nùng, Tày, Mông, Thái, Dao và Mường [68], [Phụ lục 3]. Phạm vi cư trú của các DTTS ở Tây Nguyên không đồng nhất, nên tỷ lệ người DTTS ở mỗi địa phương có khác nhau. Cao nhất là Kon Tum, 34 DTTS cùng chung sống trên địa bàn tỉnh đã chiếm tỷ lệ 53,6% dân số, trong đó đông nhất là người Xơ-đăng chiếm 25,1%; Ba-na 12,0%; Giẻ-triêng 8,1% ; Gia-rai 5,1%.... Gia Lai đến năm 2012 có số dân hơn 1,3 triệu người, gồm 33 DTTS chiếm 44,7% số dân, chủ yếu là Gia-rai và Ba-na (gần 43%). Tỉnh Đắk Nông hiện có hơn 500 nghìn người, với 39 DTTS chiếm 32,07% dân số, đông nhất có M’Nông, Nùng, Mông, Tày, Dao. Lâm Đồng có 32 DTTS, trong đó dân tộc tại chỗ Tây Nguyên chiếm 16,1%, các DTTS khác chiếm 6,7%, cư trú chủ yếu ở 37 98/148 xã, phường, thị trấn. Đắk Lắk gồm 43 DTTS, chiếm 30% dân số, đông nhất có Ê-đê, M'Nông, Thái, Tày, Nùng cư trú ở 125/170 xã trên địa bàn tỉnh, nhưng phần lớn tập trung ở các xã vùng cao, vùng xa. Sự phong phú về thành phần dân tộc ở Tây Nguyên đặt ra cho công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS yêu cầu: đảm bảo thành phần và tỷ lệ nguồn tương ứng với thành phần DTTS và tỷ lệ dân số người DTTS trong tổng số dân trên địa bàn. - Văn hóa các DTTS ở Tây Nguyên giàu bản sắc, thống nhất trong đa dạng do sự giao thoa, tiếp biến thường xuyên và lâu dài; phong tục, tập quán cổ truyền chi phối đời sống tâm lý - xã hội của người dân, vừa mang tính tích cực, tiến bộ lẫn tiêu cực, lạc hậu. Các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên thuộc hai ngữ hệ: Nam Á (nhóm Môn - Khơme) và Nam đảo (nhóm Malayo - Polynesia). Trải qua nhiều đời cư trú đan xen, giao thoa văn hóa, sự phát triển kinh tế - văn hóa của các dân tộc đã trở nên tương đồng, tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của các dân tộc. Tác động của điều kiện sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên (rừng núi mênh mông, địa bàn chia cắt, giao thông khó khăn, kinh tế tự nhiên...) là cơ sở tạo nên nhiều đặc trưng trong văn hóa, xã hội, con người Tây Nguyên. Hình thái tổ chức xã hội cổ truyền của người DTTS tại chỗ Tây Nguyên là “làng” (plei, plơi, buôn, bon) - đơn vị tự quản, cư trú độc lập và duy nhất, có chung quy tắc ứng xử lệ tục. Mỗi làng là một thể chế kinh tế, văn hóa, xã hội và một không gian sinh tồn tự nhiên khép kín. Đồng bào DTTS sống trong làng, chịu sự quy định của lệ tục làng, và nhân cách con người cũng từ đó mà được hình thành. Trong làng, ngoài trưởng làng thì già làng, thầy cúng và người giỏi chỉ huy quân sự là những người được tôn trọng nhất. Trong nhà, chế độ mẫu hệ quy định quyền uy và trách nhiệm của người phụ nữ. Quan hệ gia đình dựa theo thứ bậc thế hệ, quan hệ cộng đồng được điều chỉnh bằng tục, lệ và bằng cả những tín ngưỡng truyền thống. Hiện nay, làng của các DTTS Tây Nguyên không còn là thực thể đơn nhất, mà bao trùm lên nó là hệ thống thể chế chính trị. Phía trên của 38 làng có xã, với một hệ thống tổ chức bộ máy, con người (đội ngũ CB, CC của HTCT) thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, thì trong làng, bên cạnh cơ cấu bộ máy HTCT, còn có một lực lượng quan trọng - đội ngũ nòng cốt, người có uy tín trong cộng đồng. Họ bao gồm những người tích cực trong Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, những đảng viên, già làng, trưởng thôn, trưởng các dòng họ, trí thức, chức sắc tôn giáo... Trên thực tế, những người này đã và đang đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và quản lý làng của đồng bào DTTS, không chỉ theo luật pháp Nhà nước, mà còn theo tục, lệ bằng chính uy tín của lời nói và việc làm của mình. Đặc trưng xã hội này là điểm rất quan trọng, vì đó là nhân tố tác động đến mỗi con người thuộc cộng đồng các DTTS Tây Nguyên, tạo nên đặc điểm tâm lý - văn hóa của người DTTS Tây Nguyên đan xen giữa yếu tố tích cực lẫn tiêu cực, tiến bộ lẫn lạc hậu. Đây là điều rất cần được nghiên cứu để có quan điểm đánh giá đúng đắn về nguồn CB, CC người DTTS, từ đó xây dựng nội dung và tìm kiếm phương thức tạo nguồn phù hợp. Văn hóa truyền thống của các DTTS Tây Nguyên là sự hòa quyện những nét đẹp đặc trưng của từng dân tộc cư trú lâu đời trên dải đất Tây Nguyên. Văn hóa tạo nên con người, hướng nhân cách con người phát triển theo các giá trị của chân, thiện, mỹ. Nên bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các DTTS là điều mà các cấp ủy, chính quyền không thể không chú ý khi muốn tạo dựng sự phát triển bền vững cho Tây Nguyên từ chính những con người ưu tú, những CB, CC xuất thân từ cộng đồng các DTTS nơi đây. Đồng bào DTTS tại chỗ của Tây Nguyên không có tập quán du canh, du cư. Cộng đồng truyền thống của họ khép kín quan hệ, co cụm trong làng, ít đi xa khỏi nơi cư trú. Các già làng (người có uy tín) có vị trí xã hội rất quan trọng đối với mỗi cá nhân và cả cộng đồng. CB, CC xã người DTTS xuất thân từ cộng đồng, chịu ảnh hưởng của tập quán, vì thế cũng khá khép kín trong quan hệ xã hội. Họ ít chủ động, cởi mở trong giao tiếp, nhất là với người “lạ”; thường “nể, sợ” người có uy tín hơn là cán bộ cấp trên; thường chấp nhận trình độ hạn chế hơn là vươn ra ngoài để học tập nâng cao kiến thức, kinh nghiệm. Đây là đặc điểm cần chú ý, để trong tạo nguồn 39 CB, CC xã người DTTS, các cấp ủy phải quan tâm đến hệ thống các trường dân tộc nội trú, bán trú cấp xã, huyện; có kế hoạch mở các lớp tạo nguồn, cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ tại địa phương; phát huy vai trò của cộng đồng DTTS, nhất là lực lượng người có uy tín trong cộng đồng. - Các DTTS ở Tây Nguyên đang trong quá trình nâng cao trình độ học vấn, nhưng nhìn chung mặt bằng dân trí vẫn còn thấp. Như nhiều DTTS cư trú ở miền núi, vùng sâu vùng xa, điều kiện khó khăn, các DTTS ở Tây Nguyên nhìn chung có mặt bằng dân trí tương đối thấp. Trước đây, nó là kết quả của chính sách “ngu dân” của chính quyền phong kiến và thực dân, đế quốc. Trước năm 1945, chỉ một số rất ít người DTTS được chính quyền thực dân cho đi đào tạo, trở thành quan lại trong bộ máy thống trị của chúng, còn hầu hết người dân bị thất học. Dưới thời Mỹ - Ngụy, nền giáo dục bắt đầu được hình thành, nhưng mất cân đối về nhiều mặt. Từ sau ngày Giải phóng, nền giáo dục mới XHCN chính thức được mở rộng trên khắp địa bàn Tây Nguyên. Ðến năm học 2010-2011, toàn Tây Nguyên có 2.151 trường phổ thông, trong đó số học sinh người DTTS là 339.640 em, số giáo viên người DTTS trong các trường phổ thông là 5.468 người [111, tr.628, 645, 646, 640]. Mạng lưới trường học phủ khắp các tỉnh, huyện, xã, về tận thôn, buôn vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt, hệ thống trường nội trú, bán trú dành cho học sinh DTTS ở Tây Nguyên được ngành giáo dục đầu tư mạnh mẽ. Toàn vùng hiện có 54 trường phổ thông dân tộc nội trú, trong đó 5 trường cấp tỉnh, 49 trường huyện. Các ngành công an, quân đội đóng trên địa bàn cũng có trường đào tạo cán bộ DTTS cho ngành mình. Nhờ quá trình đầu tư cho giáo dục, không ít con em người DTTS hiện đạt đến trình độ bậc cao. Nếu biết động viên, khuyến khích, có chế độ ưu đãi hợp lý thì đây thực sự là nguồn nhân lực có chất lượng để bổ sung cho đội ngũ CB, CC xã. Tuy vậy hiện nay, do nhiều nguyên nhân, từ những khó khăn chung của đời sống, của điều kiện đi lại, của bất đồng ngôn ngữ, đến ý thức học tập tự vươn lên của con em đồng bào DTTS chưa cao, kể cả ý thức đầu tư cho con em của nhiều gia đình người DTTS cũng còn hạn chế khiến cho tình trạng bỏ học sớm, 40 chất lượng học không cao của học sinh các DTTS ở Tây Nguyên, nhất là DTTS tại chỗ xảy ra khá phổ biến. Đây là điểm bất lợi cho quá trình tạo nguồn CB, CC xã ở vùng có đông đồng bào DTTS, bởi “đầu vào” thấp thì tạo nguồn sẽ phải kéo dài nhiều năm, trải qua nhiều khâu hơn. - Một bộ phận đồng bào các DTTS ở Tây Nguyên đang dần khá lên về kinh tế, song đa phần chưa thoát khỏi tình trạng đói nghèo do tập quán canh tác lạc hậu, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ hạn chế và tâm lý ỷ lại vào chính sách ưu đãi của Nhà nước. Từ Đổi mới, nhất là hơn 10 năm gần đây, khi Nhà nước tập trung nhiều nguồn lực để phát huy tiềm năng, lợi thế của Tây Nguyên, đời sống của một bộ phận đồng bào có sự chuyển biến vượt bậc. Số hộ DTTS “tỷ phú” giờ không phải là hiếm gặp. Song, Tây Nguyên từ xưa đến nay luôn chứa đựng mâu thuẫn - mâu thuẫn giữa tài nguyên đất đai dồi dào, màu mỡ với tình trạng đói nghèo, thậm chí là triền miên hay vào mùa giáp hạt của một bộ phận đồng bào DTTS. Gần đây, cái đói cơ bản đã được xóa, cái nghèo có giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao trong đồng bào DTTS (40,5% năm 2011). Nguyên nhân có nhiều, ngoài tác động của khách quan, thì yếu tố chủ quan từ phía đồng bào DTTS là cơ bản. Tập quán canh tác “phát-đốt- hốt-chọc-trỉa”, tàn phá đất đai, phó mặc kết quả cuối cùng cho trời đất khiến cuộc sống một bộ phận đồng bào bấp bênh; thói quen chịu khổ, tập quán tiêu dùng không có kế hoạch nên lúc no dồn, lúc đói dập. Trình độ học vấn, khoa học - kỹ thuật hạn chế, khiến đồng bào khó đổi mới phương thức làm ăn, mạnh dạn bứt phá. Tâm lý “con nhà nghèo”, ở nơi phên dậu của đất nước, được quan tâm, ưu đãi... hình thành nên thói quen ỷ lại, dựa dẫm vào Đảng và Nhà nước. Các nguyên nhân đó đều đã được nhận thức, nhưng không thể xóa bỏ trong một sớm một chiều. Thực tế đó đặt ra vấn đề: trong công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS, các chủ thể tạo nguồn phải chú ý đến những tác động tiêu cực từ cái nghèo. * Vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên - Đồng bào các DTTS là chủ nhân lâu đời của vùng đất Tây Nguyên, là người sáng tạo, phát triển và bảo tồn giá trị văn hóa Tây Nguyên. 41 Việc phát hiện bộ đàn đá tiền sử niên đại khoảng 3000 năm (do nhà dân tộc học người Pháp Goerges Condominas tìm thấy ở làng Nđut Liêng Krak thuộc huyện Krông Nô tỉnh Đắk Lắk, năm 1948) có hệ thang âm trùng hợp với thang âm các bộ chiêng của các DTTS Tây Nguyên hiện nay, cùng những kết quả khai quật di chỉ Lung Leng (nay là lòng hồ Yaly) và nhiều khu di tích khác ở khắp Tây Nguyên cho thấy sự tồn tại của nền văn hóa các tộc người Tây Nguyên có từ thời Đồ đá cũ, Đồ đá mới sang đến Đồ đồng, có sự giao lưu rộng rãi với văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh. Đến nay, người DTTS tại chỗ Tây Nguyên vẫn bảo lưu được một kho tàng văn hóa phong phú, thể hiện sự khát khao hướng tới những giá trị chân, thiện, mỹ mà cả nhân loại đều đang hướng đến. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là một điển hình, được UNESCO công nhận là “Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại” vào ngày 15-11-2005. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố, bộ phận như: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...) v.v.. Chủ thể của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên gồm nhiều dân tộc khác nhau: Ê-đê, Ba-na, Mạ, Lặc... Họ đang giữ gìn, và cùng với sự giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt, văn hóa các dân tộc khác, tạo nên một bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng, mộc mạc, gần gũi với thiên nhiên, với những giá trị nhân bản, là lá chắn bảo vệ Tây Nguyên trước những xô bồ, biến dạng giá trị do mặt trái của đời sống hiện đại mang đến. - Cộng đồng các DTTS đã góp phần to lớn vào lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam và hiện đang là lực lượng to lớn, hiệu quả canh gác bảo vệ, giữ gìn một vùng lãnh thổ biên cương hiểm yếu của Tổ quốc. Dù lịch sử có bao thăng trầm, nhưng trước khi về với đại gia đình Việt Nam, Tây Nguyên là vùng đất của các bộ lạc...Tổng kết 7 năm thực hiện Quyết định 253/QĐ-TTg ngày 5-3-2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002-2010”, ngày 2-7-2012 tại Buôn Ma Thuột. 70. Đức Hưng (2012), “7 năm thực hiện Quyết định 253/QĐ-TTg: Cán bộ cấp xã đang từng bước “trẻ hóa” và “chuẩn hóa”. baolamdong.vn, 11-4-2012. 71. Huyện uỷ Chư Păh (2007), Nghị quyết số 05-NQ/HU, ngày 9-7-2007 về công tác cán bộ và tạo nguồn cán bộ đến năm 2010, định hướng đến 2015. 72. Huyện uỷ Chư Pah, Ban Tổ chức (2011), Danh sách cán bộ quy hoạch Ban Chấp hành các đảng bộ xã (giai đoạn 2015-2020). 73. Huyện uỷ Ngọc Hồi (2010), Báo cáo số 305-BC/HU ngày 8-3-2010 Tổng kết Đề án 381-ĐA/TU về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đến năm 2010. 74. Huyện uỷ Ea H’Leo, Ban Dân vận (2012), Báo cáo tóm tắt về việc xây dựng lực lượng nòng cốt trong đồng bào DTTS. 75. Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Luận án TS Triết học. 76. Huỳnh Trung Kim (2006), Đảng bộ huyện Kon Plong đào tạo cán bộ dự nguồn cơ sở. 1-9-2006. 77. Trần Hoàng Khải (2010), Tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. 78. Lê Xuân Lịch (2010), "Hải Phòng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo trẻ", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1/2010). 167 79. Lachay Sinhsuvan (2011), Đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học. 80. Litthi Sisouvong (2011), Đột phá về công tác cán bộ. xaydungdang.org.vn, 2-12-2011. 81. Nguyễn Phú Lập (2012), Đăk Lăk tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở thôn, buôn, tổ dân phố. 7-8-2012. 82. Lênin, Toàn tập, Tập 4, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1978. 83. Trần Thanh Long, Kết quả và kinh nghiệm thực hiện công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. bdt.daknong.gov.vn, 15-11-2012. 84. C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995-2001. 85. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. 86. Mitokaza Aoki (1993), Nguyên tắc quản lý kiểu Nhật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 87. Matsushita Konouke (1999), Nhân sự - chìa khoá của thành công, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 88. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban tỉnh Đăk Lăk, Ban Thường trực (2012), Báo cáo thực trạng cốt cán trong tôn giáo và đồng bào DTTS. 89. Nxb Chính trị quốc gia (2004), Xây dựng Đảng cầm quyền - Kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc. 90. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hoá đời sống xã hội vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 91. Quốc hội (2008): Luật số 22/2008/QH12 ngày 13-11-2008 Luật Cán bộ, công chức. 92. Nguyễn Văn Quý (2011), Một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên. 7-3-2011. 93. Tô Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc Việt (2003), Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 168 94. Trần Xuân Sầm (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 95. Sở Nội vụ Kon Tum (2009), Công tác đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ cơ sở tỉnh Kon Tum - Thực trạng và giải pháp. Hội thảo: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên do Đại học Đà Nẵng tổ chức. www.kontum.udn.vn, 05-12-2009. 96. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số: 253/QĐ-TTg ngày 05-03- 2003 Về việc phê duyệt Đề án Một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002 - 2010. 97. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07-1- 2004 Phê duyệt Định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010. 98. Thủ tướng Chính phủ (2006) Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 8-2- 2006 Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 - 2010. 99. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị 06/2008/CT-TTg ngày 01-02-2008 về phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 100. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1374/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015. 101. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1640/QĐ-TTg ngày 21-9-2011 phê duyệt Đề án Củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú giai đoạn 2011 - 2015. 102. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 1951/QĐ-TTg ngày 2-11-2011 Về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề các tỉnh Tây Nguyên và các huyện miền núi của các tỉnh giáp Tây Nguyên giai đoạn 2011 - 2015. 103. Thủ tướng Chính phủ (2012), Báo cáo Tổng kết 07 năm thực hiện Quyết định số 253/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên” giai đoạn 2002-2010. Tháng 6-2012 169 104. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 936/QĐ-TTg ngày 18-7-2012 Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020. 105. Trần Thiết (2011), Gia Lai tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp đại học về cơ sở công tác - Kết quả và kinh nghiệm. org.vn, 01-9-2011. 106. Bùi Văn Tiếng (2010), "Tạo nguồn lãnh đạo phường, xã ở Đà Nẵng", Tạp chí Xây dựng Đảng, số tháng 4/2010. 107. Lô Quốc Toản (2010), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 108. Viết Trọng (2010), Tạo nguồn cán bộ xã ở Lâm Hà. vn, 26-12-2010. 109. Blong Tiến (2009), Đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho người dân tộc thiểu số. www.kontum.udn.vn, 11-2009. 110. Lê Thị Phương Thảo, Nguyễn Cúc, Doãn Hùng (2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Luận cứ và giải pháp”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 111. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội. 112. Hồ Bá Thâm (1994), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học 113. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 114. Ngô Huy Tiếp (2011), Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 115. Nguyễn Đăng Thành chủ biên (2010), Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 116. Nguyễn Đình Tấn, Trần Thị Bích Hằng (2010), Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 170 117. Nguyễn Thị Tâm (2009), "Thực trạng và giải pháp để xây dựng cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ cấp xã ở các tỉnh Tây Nguyên", Tạp chí Dân tộc, số 3/2009. 118. Trần Thường (2006), Trường Đại học dân tộc: tại sao không? 22-12-2006. 119. Trần Trung Trực (2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính trị. 120. Tỉnh uỷ Đắk Lắk (1999), Chỉ thị số 19-CT/TU ngày 26-7-1999 về việc đào tạo và sử dụng cán bộ dân tộc. 121. Tỉnh uỷ Đắk Lắk (2004), Báo cáo số 72-BC/TU ngày 08-12-2004 về Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (khoá XII) về đào tạo và sử dụng cán bộ dân tộc. 122. Tỉnh uỷ Đắk Lắk (2005), Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 14-1-2005 về lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ nay đến năm 2010. 123. Tỉnh uỷ Đắk Lắk, Ban Dân vận (2005), Kế hoạch số 622-KH/DV ngày 14- 3-2005 về xây dựng lực lượng cốt cán trong hệ thống Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể quần chúng các cấp ở khu dân cư. 124. Tỉnh uỷ Đắk Lắk (2010), Báo cáo 16-BC/TU ngày 24-12-2010 Sơ kết 5 năm thực hiện công tác lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. 125. Tỉnh uỷ Đắk Lắk (2011), Báo cáo số 64-BC/TU ngày 15-7-2011 về Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số của tỉnh. 126. Tỉnh uỷ Đăk Nông (2006), Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 24-7-2006 về công tác cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2020. 127. Tỉnh uỷ Đắk Nông, Ban Tổ chức (2009), Báo cáo số 247-BC/BTC ngày 30- 9-2009 về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2004 đến tháng 10/2009. 128. Tỉnh uỷ Đắk Nông (2010), Quyết định 1201-QĐ/TU ngày 17-3-2010 về việc Ban hành Quy chế tạo nguồn cán bộ tỉnh. 171 129. Tỉnh uỷ Đắk Nông (2011), Biểu mẫu thống kê Tổng kết Nghị quyết về công tác quy hoạch cán bộ cấp xã (nhiệm kỳ 2005-2010 và 2010-2015). 130. Tỉnh uỷ Đắk Nông (2011), Báo cáo Tổng kết Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 24/7/2006 của Tỉnh uỷ về công tác cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2006- 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết quả một năm thực hiện Thông báo Kết luận số 1463-KL/TU ngày 22/1/2010 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tiếp tục xây dựng, phát triển bon, buôn, thôn có đông đồng bào dân tộc thiểu số. 131. Tỉnh uỷ Đắk Nông, Ban Tổ chức (2011), Danh sách cán bộ chuyên trách, không chuyên trách cấp xã người dân tộc thiểu số đến tháng 8-2011. 132. Tỉnh uỷ Gia Lai, Đề án số 02-ĐA/TU ngày 17-4-2009 về Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn giai đoạn 2009-2015. 133. Tỉnh uỷ Gia Lai (2009), Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (giai đoạn 2008-2015). 134. Tỉnh uỷ Kon Tum (2008), Chương trình số 50-Ctr/TU ngày 24-4-2008 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng. 135. Tỉnh uỷ Kon Tum, Ban Dân vận (2010), Báo cáo tình hình công tác vận động quần chúng của tỉnh Kon Tum. 136. Tỉnh uỷ Kon Tum, Ban Tổ chức (2011), Báo cáo một số nội dung về công tác tổ chức xây dựng Đảng. 137. Tỉnh uỷ Lâm Đồng (2006): Nghị quyết số 09-NQ/TU của Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 7 (khoá VIII) ngày 31-10-2006 về tập trung nguồn lực tiếp tục đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010. 138. Tỉnh uỷ Lâm Đồng (2009), Kết luận số 316-KL/TU ngày 10-4-2009 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc thí điểm thực hiện chính sách đối với cán bộ cơ sở huyện Lâm Hà. 139. Uỷ ban Dân tộc (2003), Điều tra, đánh giá về đội ngũ cán bộ, công chức dân tộc thiểu số, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo văn bản số 1189/Chính phủ - ĐPI của Chính phủ. 172 140. Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, Sở Nội vụ (2011), Báo cáo 76/BC-SNV ngày 25-7-2011 về việc thực hiện chế độ, chính sách và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2006-2010. 141. Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2012) Báo cáo số 28/BC-UBND ngày 19-3- 2012 Tổng kết 07 năm thực hiện quyết định số 253/QĐ-TTg ngày 05-3- 2003 của Thủ tướng Chính phủ. 142. Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai, Ban Chỉ đạo giảm nghèo (2012), Báo cáo 01/BC-BCĐGN ngày 01-2-2012 Tổng kết công tác giảm nghèo năm 2011, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giảm nghèo năm 2012. 143. Uỷ ban nhân dân huyện Chư Pah (2011), Báo cáo danh sách cán bộ, công chức cấp xã theo hệ thống tổ chức có đến ngày 30-9-1011. 144. Uỷ ban nhân dân huyện Đak Đoa (2011), Kế hoạch số 29/KH-UBND ngày 22-9-2011 về Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã của huyện Đak Đoa giai đoạn 2011-2015. 145. Uỷ ban nhân dân huyện Cư Kuin (2012), Báo cáo số 03/BC-UBND ngày 13-01-2012 về Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức năm 2011 và kế hoạch năm 2012. 146. Uỷ ban nhân dân tỉnh Kon Tum (2006), Kế hoạch số 1640/KH-UBND về Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010. 147. Trần Ngọc Uẩn (1999), Những căn cứ lý luận và thực tiễn xác định nội dung, chương trình đào tạo cán bộ chủ chốt cơ sở miền núi đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Đề tài khoa học cấp Bộ. 148. Unkẹo Sipasợt (2009), Công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. 24-8-2009. 149. Đàm Thị Uyên (1998), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ XI - XIX). Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 150. Võ Trọng Việt (2007), Bộ đội Biên phòng với việc tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số. 15-2-2007. 173 151. Phạm Quang Vịnh (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở ở Tây Nguyên vững mạnh và hiệu quả. www.tapchicongsan.org.vn, 11-7-2009. 152. Thái Thị Bích Vân (2009), Cần đổi mới phương pháp giảng dạy đối với sinh viên các dân tộc thiểu số. www.kontum.udn.vn, 17-11-2009. 153. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2007): Từ điển Công tác đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 154. Nguyễn Như Ý chủ biên (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, Việt Nam. 155. Yasuhiko Inoue (2012), Kinh nghiệm Nhật Bản về phát triển nguồn nhân lực (HRD). 174 PHỤ LỤC Phụ lục 1: 175 Phụ lục 2 DÂN SỐ CÁC DÂN TỘC Ở TÂY NGUYÊN NĂM 2009 Dân tộc Số người Tỷ lệ Kinh 3.309.836 64,7% Gia-rai 409.141 8,0% Ê-đê 304.794 6,0% Ba-na 204.784 4,0% Cơ-ho 145.993 2,9% Nùng 135.362 2,6% Xơ-đăng 113.522 2,2% Tày 104.798 2,0% Mnông 89.562 1,8% Mông 48.877 1,0% Thái 40.556 0,8% Mạ 38.377 0,8% Mường 35.544 0,7% Dao 35.176 0,7% Giẻ-triêng 31.784 0,6% Hoa 23.882 0,5% Chu-ru 18.656 0,4% Khác 24.491 0,5% Nguồn: Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010), Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.197-204. 176 Phụ lục 3 TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG (TCCSĐ) VÀ ĐẢNG VIÊN (ĐV) VÙNG TÂY NGUYÊN NĂM 2011 Tiêu chí Kon Tum Gia Lai Đăk Lăk Đăk Nông Lâm Đồng Toàn vùng Số TCCSĐ 651 942 956 460 815 3.824 TCCSĐ cấp xã 97 222 184 71 148 722 Thôn, buôn, tổ 833 2.141 2.445 756 1.441 7.616 Thôn, buôn, tổ có chi bộ 768 1.929 2.259 756 1.300 7.012 Thôn, buôn, tổ chưa có chi bộ 65 (7,8%) 212 (9,9%) 186 (7,61%) 0 (0%) 141 (9,78%) 604 (7,93% ) Thôn, buôn, tổ chưa có ĐV 4 (0,48%) 6 (0,28%) 20 (0,82%) 19 (2,51%) 2 (0,14%) 51 (0,67% ) Tổng số ĐV 18.650 37.768 51.998 16.884 31.461 156.76 1 ĐV DTTS 5.626 (30,17 %) 9.059 (23,99 %) 7.445 (14,32 %) 2.296 (13,6%) 2.978 (9,47%) 27.404 (17,48 %) ĐV có đạo 537 (2,88%) 317 (0,84%) 379 (0,73%) 340 (2,01%) 2544 (8,09%) 4.117 (2,63% ) Kết nạp ĐV năm 2011 1.278 2.827 3.749 1.364 2.001 11.219 Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên 177 Phụ lục 4 TỶ TRỌNG DÂN SỐ CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN CHIA THEO TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN, CHUYÊN MÔN KỸ THUẬT Chư a đi học Chưa tốt nghiệ p tiểu học Tốt nghiệ p tiểu học Tốt nghiệ p trung học cơ sở Tốt nghiệp trung học phổ thông Tốt nghiệ p sơ cấp Tốt nghiệ p trung cấp Tốt nghiệ p cao đẳng Tốt nghiệ p đại học trở lên Toàn quốc 5,5 14,5 25,7 28,9 12,1 2,6 4,7 1,6 4,4 Tây Nguyên 10,3 13,7 30,3 27,6 8,4 1,9 3,8 1,3 2,8 Kon Tum 13,7 16,2 27,9 23,6 6,6 2,6 4,2 1,7 3,4 Gia Lai 18,5 15,4 28,7 23 5,3 2,3 3,5 1 2,3 Đắk Lắk 7,5 13,1 30,3 30 9 1,8 4,1 1,4 2,8 Đắk Nông 8,4 14,0 33,7 29,3 7,4 0,9 3,2 1 2,1 Lâm Đồng 5,7 11,7 31,5 29,4 11,4 18 3,6 1,5 3,5 Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở ở Việt Nam năm 2009 - Các kết quả chủ yếu. Ban Chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, tr.156, 158 178 Phụ lục 5 ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TOÀN VÙNG TÂY NGUYÊN TÍNH ĐẾN NĂM 2010 Cấp học Số lượng Chất lượng Mầm non 14.246 93,9% đạt và vượt chuẩn đào tạo Tiểu học 34.930 99,13% đạt và vượt chuẩn đào tạo Trung học cơ sở 28.172 99,1% đạt và vượt chuẩn đào tạo Trung học phổ thông 12.716 98,5% đạt và vượt chuẩn đào tạo Trung cấp chuyên nghiệp 757 86 thạc sĩ (11%) Đại học, cao đẳng 1.398 13 phó giáo sư và 66 tiến sĩ (5,8%), 657 thạc sĩ (47%) Nguồn: Nâng cao chất lượng giáo dục vùng Tây Nguyên, www.nhandan.com.vn, 03/03/2011 Phụ lục 6 THỐNG KÊ HỌC SINH PHỔ THÔNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN NĂM 2007 và NĂM 2011 Năm 2007 Năm 2011 Tổng số học sinh Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Tổng số Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Kon Tum 56563 33422 19862 3279 56917 31370 21449 4098 Gia Lai 110835 75421 29809 5605 123208 81825 34032 7351 Đắc Lắk 143966 80283 48486 15197 129719 71776 44665 13278 Đắk Nông 39768 25309 11213 3246 40054 24573 11827 3654 Lâm Đồng 63583 35319 21673 6591 60736 31195 21759 7782 Nguồn: Tổng cục thống kê, 179 Phụ lục 7 ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2008 Ngành đào tạo Số lượng tham gia Người dân tộc thiểu số 1. Trung cấp 11.293 3.083 (27,3%) - Trung cấp Chính trị 5.567 1.442 - Trung cấp Quản lý nhà nước 519 94 - Trung cấp Tài chính 110 39 - Trung cấp Địa chính 388 96 - Trung cấp Luật 1.025 232 - Trung cấp Quản lý văn hoá 744 243 - Trung cấp Công an 868 220 - Trung cấp Quân sự 1.024 428 - Trung cấp Văn thư 285 67 - Trung cấp Thanh vận 408 115 - Trung cấp Phụ vận 355 116 2. Đại học chuyên môn 290 23 (7,93%) 3. Cao cấp lý luận chính trị 835 55 (5,27%) 4. Bồi dưỡng nghiệp vụ 64.965 3.905 (0,6%) Tổng 77.383 7.066 (9,13%) Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên 180 Phụ lục 8 TRÌNH ĐỘ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHUYÊN TRÁCH, KHÔNG CHUYÊN TRÁCH CẤP XÃ Ở TÂY NGUYÊN, NĂM 2009 Tổng số Học vấn Chuyên môn Lý luận chính trị Quản lý nhà nước Tin học CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH CẤP XÃ 7.650 - Nam 6.483 - Nữ 1.167 - DTTS 2.595 (33,92%) - Tiểu học 528 (6,9%) - THCS 3.095 (40,45%) - THPT 4.027 (52,64%) - Sơ, trung cấp 1.627 (21,26%) - Cao đẳng 100 (1,3%) - Đại học 326 (4,2%) - Chưa đào tạo 5.597 (73,16%) - Sơ cấp 1853 (24,22%) - Trung cấp 3.218 (42,06%) - Cao cấp 265 (0,34%) - Chưa đào tạo 2.314 (30,24%) - Sơ cấp 727 (9,5%) - Trung cấp 344 (4,4%) - Cử nhân 386 (5%) - Chưa đào tạo 6.193 (81%) 497 (6,4%) CÔNG CHỨC CẤP XÃ 5.233 - Nam 4.086, - Nữ 1.147 - DTTS 1.183 (22,60%) - Tiểu học 114 (2,18%) - THCS 880 (16,81%) - THPT 4.239 (81%) - Sơ, trung cấp 2.534 (48,42%) - CĐ 869 (16,6%) - ĐH 251 (4,8%) - Chưa đào tạo 1.579 (30,17%) - Sơ cấp 1.193 (22,80%) - Trung cấp 1.275 (24,76%) - Cao cấp 106 (2,02%) - Chưa đào tạo 3.225 (61,63%) - Sơ cấp 106 (2.02%) - Trung cấp 149 (2,85%) - Cử nhân 3 (0,06%) - Chưa đào tạo 4.994(95,42%) 1.018 (19,45%) CÁN BỘ KHÔNG CHUYÊN TRÁCH CẤP XÃ 10.731 - Nam 7.433 - Nữ 3.298 - DTTS 3.343 (31,15%) - Tiểu học 945 (8,8%) - THCS 4.719 (43,97%) - THPT 5.067 (47,21%) - Sơ, trung cấp 1.732 (16,14%) - CĐ 128 (1,19%) - ĐH 112 (1,04%) - Chưa đào tạo 6.696 (79,3%) - Sơ cấp 1.675 (15,6%) - Trung cấp 1.458 (13,58%) - Cao cấp 44 (0,57%) - Chưa đào tạo 7.536 (70,22%) - Sơ cấp 192 (1,79%) - Trung cấp 220 (2,05%) - Cử nhân 46 (0,43%) - Chưa đào tạo 10.273(95,73%) Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên 181 Phụ lục 9 ĐÀO TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN TỪ NĂM 2003 ĐẾN 2010 Loại lớp Số lượt người học Số lượt người DTTS học Tổng 55.960 14.926 Chuyên môn (đại học, trung cấp) 11.955 Trung cấp lý luận chính trị 17.336 Trung học phổ thông 2.178 Bồi dưỡng kiến thức cơ bản về an ninh trật tự cho cán bộ chủ chốt thôn, buôn 18.779 Bồi dưỡng nghiệp vụ công an xã 5.712 Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên Phụ lục 10 TRÌNH ĐỘ CÁC MẶT CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CƠ SỞ CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN NĂM 2003 VÀ 2010 Cán bộ (%) Công chức (%) Cấp học Năm 2003 Năm 2010 Năm 2003 Năm 2010 Tiểu học 20,0 7,1 13,5 3,0 Trung học cơ sở 46,0 38,4 56,4 16 Trung học phổ thông 34,0 54,4 56,4 80,8 Đại học, cao đẳng 6,8 8,5 2,9 10,6 Trung cấp chuyên môn 19,2 21,4 30,1 64,3 Trung cấp chính trị trở lên 30 49,8 0,9 17,8 Trung cấp quản lý nhà nước 3,8 4,5 2,5 2,7 Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên 182 Phụ lục 11 ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG TIẾNG DÂN TỘC PHỤC VỤ CÔNG TÁC TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC XÃ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 2003 ĐẾN 2010 Lớp Số lớp Số người học 264 9.796 Tiếng Ê-đê 56 2.485 Tiếng M’nông 09 410 Tiếng Gia-rai 56 2485 Tiếng Ba-na 13 172 Tiếng Xê-đăng 30 1.636 Tiếng Giẻ-triêng 04 95 Tiếng Cơ-ho 59 1.534 Tiếng Chu-ru 14 364 Tiếng Mạ 23 615 Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên 183 Phụ lục 12 PHIẾU HỎI Ý KIẾN Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài: “Tạo nguồn CB, CC xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay” xin đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin dưới đây bằng cách đánh dấu “X” vào các ô trống mà đồng chí cho là thích hợp hoặc ghi ý kiến vào những chỗ trống. 1. Đ/c có biết về chủ trương tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS? (Đánh dấu vào 1 ô trống) 1. Biết từ lâu 3. Bây giờ mới biết 2. Mới biết vài năm nay 4. Không biết 2. Đ/c biết về chủ trương tạo nguồn CB, CC xã là người DTTS ở địa phương đ/c thông qua kênh thông tin nào? (Có thể đánh dấu ở nhiều ô) 1 Nghe cán bộ huyện, tỉnh, trung ương nói 2 Nghe cán bộ xã nói 3 Đọc trong các văn kiện của huyện, tỉnh, trung ương 4 Đọc trong các văn kiện của xã 5 Nghe đọc trên báo, đài; thông tin từ người quen 6 Chưa hề biết 7 Kênh khác (Ghi rõ tên) 3. Theo đ/c, tạo nguồn công chức xã (tức là chuẩn bị những người sẽ giữ các chức danh Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường; Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn hoá - xã hội) là người DTTS ở Tây Nguyên về lâu dài nên bắt đầu từ nhóm đối tượng nào? (Chỉ đánh dấu 1 ô trống) Học sinh tốt nghiệp tiểu học Người lao động có trình độ chuyên môn trung cấp Học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở Người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông Đối tượng khác (ghi rõ tên) 184 4. Theo đ/c, tạo nguồn công chức xã là người DTTS ở Tây Nguyên trước mắt nên tập trung nhất vào nhóm đối tượng nào? (Chỉ đánh dấu 1 ô trống) Học sinh tốt nghiệp tiểu học Người lao động có trình độ chuyên môn trung cấp Học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở Người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông Đối tượng khác (ghi rõ tên) 5. Theo đ/c, tạo nguồn cán bộ xã (tức là chuẩn bị những người sẽ giữ chức danh Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND; Chủ tịch UB MTTQVN; Bí thư Đoàn TNCSHCM; Chủ tịch HLH Phụ nữ; Chủ tịch Hội Nông dân; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh) là người DTTS ở Tây Nguyên về lâu dài nên bắt đầu từ nhóm đối tượng nào? (đánh dấu 1 ô) Học sinh tốt nghiệp tiểu học Người lao động có trình độ chuyên môn trung cấp Học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở Người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông Đối tượng khác (ghi rõ tên) Công chức xã 6. Theo đ/c, tạo nguồn cán bộ xã là người DTTS ở Tây Nguyên trước mắt nên tập trung nhất ở nhóm đối tượng nào? (Chỉ đánh dấu 1 ô trống) Học sinh tốt nghiệp tiểu học Người lao động có trình độ chuyên môn trung cấp Học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở Người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông Đối tượng khác (ghi rõ tên) Công chức xã 185 7. Đồng chí đánh giá như thế nào về chất lượng công tác tạo nguồn CBCC xã người DTTS ở Tây Nguyên hiện nay (Chỉ đánh dấu 1 ô trống) 1. Rất tốt 3. Khá 5. Yếu 2. Tốt 4. Trung bình 6. Rất yếu 8. Đ/chí đánh giá thế nào về vai trò trên thực tế của các cấp lãnh đạo, quản lý của HTCT đối với công tác tạo nguồn CB, CC xã người DTTS ở Tây Nguyên thời gian qua (đánh giá mỗi cấp 1 ô vai trò) Vai trò trên thực tế Cấp To lớn Khá Trung bình Hạn chế Chưa có Trung ương Tỉnh Huyện Xã 9. Theo đ/c, công tác tạo nguồn CB, CC bao gồm nội dung nào sau? (Đánh vào những ô phù hợp) 1. Xây dựng tiêu chuẩn, cơ cấu nguồn 2. Rèn luyện, phát hiện nguồn qua phong trào quần chúng 3. Thực hiện chính sách hỗ trợ tạo nguồn 4. Thu hút, tuyển chọn, tiếp nhận vào tổ chức 5. Đào tạo, bồi dưỡng 6. Phát triển đảng viên 7. Quy hoạch nguồn theo từng chức danh 8. Điều động, tăng cường, luân chuyển cán bộ về xã 9. Lựa chọn nhân sự đại hội, bầu cử, tuyển dụng 10. (Nội dung khác) 186 10. Theo đồng chí, chất lượng thực tế của từng nội dung tạo nguồn CB, CC sau như thế nào? (Mỗi nội dung đánh dấu vào 1 ô) Chất lượng Nội dung Tốt khá Tr. Bình Hạn chế Chưa có 1. Xây dựng tiêu chuẩn, cơ cấu nguồn 2. Rèn luyện, phát hiện nguồn qua phong trào quần chúng 3. Thực hiện chính sách hỗ trợ tạo nguồn 4. Thu hút, tuyển chọn, tiếp nhận vào tổ chức 5. Đào tạo, bồi dưỡng 6. Phát triển đảng viên 7. Quy hoạch nguồn theo chức danh 8. Điều động, tăng cường, luân chuyển cán bộ về xã 9. Lựa chọn nhân sự đại hội, bầu cử, tuyển dụng 10. (Nội dung khác) 11. Đồng chí hãy xếp theo thứ tự (1,2,3) từ nội dung quan trọng nhất, cần tập trung thực hiện đến ít quan trọng hơn trong công tác tạo nguồn CBCC xã người DTTS ở Tây Nguyên hiện nay 1. Xây dựng tiêu chuẩn, cơ cấu nguồn 2. Rèn luyện, phát hiện nguồn qua phong trào quần chúng 3. Thực hiện chính sách hỗ trợ tạo nguồn 4. Thu hút, tuyển chọn, tiếp nhận vào tổ chức 5. Đào tạo, bồi dưỡng 6. Phát triển đảng viên 7. Quy hoạch nguồn theo từng chức danh 8. Điều động, tăng cường, luân chuyển cán bộ về xã 9. Lựa chọn nhân sự đại hội, bầu cử, tuyển dụng 10. (Nội dung khác) 187 12. Xin đ/c cho biết một số thông tin cá nhân: (Có thể đánh dấu nhiều ô) Là người dân tộc thiểu số Là cán bộ chuyên trách công tác cán bộ ở tỉnh, huyện Là cán bộ không chuyên trách công tác cán bộ ở tỉnh, huyện Là cán bộ các đơn vị khác có tham gia công tác tạo nguồn CB, CC xã Là cán bộ, công chức xã Là nguồn cán bộ, công chức xã Tuổi đời Tuổi đảng 13. Ở địa phương đ/c đã có văn bản nào liên quan đến công tác tạo nguồn cán bộ xã người DTTS (Ghi tên địa phương; Tên và số văn bản) . Xin cám ơn đồng chí ! 188 Phụ lục 13 KẾT QUẢ KHẢO SÁT NHẬN THỨC VỀ CHỦ TRƯƠNG TẠO NGUỒN CB, CC XÃ NGƯỜI DTTT Ở TÂY NGUYÊN (Số lượng phiếu khảo sát: 750) Biết về chủ trương Biết qua kênh thông tin Nội dung Từ lâu Vài năm nay mới biết Không biết Cánbộ huyện, tỉnh, Trung ương Cán bộ xã Văn kiện huyện, tỉnh, Trung ương Văn kiện của xã Báo, đài; người quen Kênh khác Tỷ lệ % 54.0 34.4 8.4 3.2 40.8 16.0 66.8 13.6 56.0 5.6 Phụ lục 14 ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ THỰC TẾ CỦA CÁC CẤP LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ VỀ TẠO NGUỒN CB, CC XÃ NGƯỜI DTTT Ở TÂY NGUYÊN (Số lượng phiếu khảo sát: 750 phiếu) Tỷ lệ đánh giá (%) Cấp To lớn Khá Trung bình Hạn chế Chưa có Trung ương 26,8 47,2 17,2 6,0 2,8 Tỉnh 11,2 50,0 29,2 8,0 1,2 Huyện 12,4 42,4 29,2 13,2 2,4 Xã 12,0 35,6 28,0 19,2 5,2 189 Phụ lục 15 KẾT QUẢ KHẢO SÁT XÁC ĐỊNH NỘI DUNG TẠO NGUỒN CB, CC XÃ NGƯỜI DTTT Ở TÂY NGUYÊN (Số lượng phiếu khảo sát: 750 phiếu) Nội dung tạo nguồn Đồng ý (%) Không đồng ý (%) Không ý kiến (%) 1. Xây dựng tiêu chuẩn, cơ cấu nguồn 79,6 20 0,4 2. Rèn luyện, phát hiện nguồn qua phong trào quần chúng 53,2 46,8 3. Thực hiện chính sách hỗ trợ tạo nguồn 73,2 26,4 0,4 4. Thu hút, tuyển chọn, tiếp nhận vào tổ chức 68,8 31,2 5. Đào tạo, bồi dưỡng 82,4 17,6 6. Phát triển đảng viên 73,2 26,8 7. Quy hoạch nguồn theo từng chức danh 72 28 8. Điều động, luân chuyển cán bộ về xã 58 41,6 0,4 9. Lựa chọn nhân sự đại hội, bầu cử, tuyển dụng 56,4 43,6 10. (Nội dung khác) 10,4 89,6 190 Phụ lục 16 CÁC NỘI DUNG TẠO NGUỒN CB, CC XÃ NGƯỜI DTTT Ở TÂY NGUYÊN CẦN TẬP TRUNG THỰC HIỆN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY (XẾP THEO THỨ TỰ ƯU TIÊN) (Số lượng phiếu khảo sát: 750 phiếu) Nội dung Thứ tự ưu tiên Tỷ lệ % đồng ý Xây dựng tiêu chuẩn, cơ cấu nguồn 1 56,8 Đào tạo, bồi dưỡng 2 22,0 Thực hiện chính sách hỗ trợ tạo nguồn 3 18,4 Phát triển đảng viên 4 14,4 Thu hút, tuyển chọn, tiếp nhận vào tổ chức 5 13,6 Quy hoạch nguồn theo từng chức danh 6 14,0 Rèn luyện, phát hiện nguồn qua phong trào quần chúng 7 12,8 Điều động, luân chuyển cán bộ về xã 8 18,0 Lựa chọn nhân sự đại hội, bầu cử, tuyển dụng 9 19,2 191 Phụ lục 17 KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NỘI DUNG TẠO NGUỒN CB, CC XÃ NGƯỜI DTTT Ở TÂY NGUYÊN (Số lượng phiếu khảo sát: 750 phiếu) Nội dung tạo nguồn Tốt (%) Khá (%) Trung bình (%) Hạn chế (%) Chưa có (%) Chất lượng chung 7.2 16.8 27.2 35.2 12.0 1. Xây dựng tiêu chuẩn, cơ cấu nguồn 19.2 32.4 20.4 10.4 17.6 2. Rèn luyện, phát hiện nguồn qua phong trào 10.0 19.6 26.8 16.8 26.8 3. Thực hiện chính sách hỗ trợ tạo nguồn 11.2 24.0 28.4 14.8 21.6 4. Thu hút, tuyển chọn, tiếp nhận vào tổ chức 5.6 21.2 27.6 23.6 22.0 5. Đào tạo, bồi dưỡng 18.4 31.2 25.2 11.2 14.0 6. Phát triển đảng viên 18.8 30.8 20.4 10.4 19.6 7. Quy hoạch nguồn theo từng chức danh 7.6 25.6 28.8 15.2 22.8 8. Điều động, tăng cường, luân chuyển cán bộ về xã 10.8 18.0 28.0 18.0 25.2 9. Lựa chọn nhân sự đại hội, bầu cử, tuyển dụng 13.2 29.2 22.8 6.4 28.4

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_tao_nguon_can_bo_cong_chuc_xa_nguoi_dan_toc_thieu_so.pdf
  • pdfYen - Tom tat.pdf
  • pdfYen- tom tat tiengAnh.pdf
  • pdfYen-1trangThtin len mang-sua13.3.pdf
  • pdfYen-thong tin len mang- tiengAnh.pdf
Tài liệu liên quan