Lời mở đầu
Sau hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm và giành được độc lập, đất nước ta tiếp tục con đường mình đã lựa chọnđó là con đường đi lên CNXH, chúng ta đang vững bước tiến vào thế kỷ mới với những thách thức và khó khăn mới với con đường mà chúng ta đã chọn,nhưng không vì thế mà ta chịu lùi bước,chịu khuất phục trước khó khăn.Chúng ta sẽ vẫn tiếp tục đi theo con đường mà chúng ta đã lựa chọn,chúng ta đề ra nhiệm vụ để hoàn thành nó và những phương hướng để dẫn chúng ta tớ
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1606 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lý luận chung về quá độ lên CNXH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i thắng lợi trên con đường mà chúng ta đã chon. Tuy nhiên để tiến đến được CNXH chúng ta còn phải trải qua nhiều chặng đường đầy gian lao va thử thách, đó là bước quá độ để Tổ quốc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc hùng mạnh trên thế giới, đó là bước quá độ để chúng ta tiến đến chế độ mới, chế độ Cộng sản chủ nghĩa, chế độ mà mọi người đều được hưởng hạnh phúc, ấm no và công bằng.Tuy nhiên từ giờ đến đó chúng ta còn bao nhiêu công việc phải làm, bao nhiệm vụ phải hoàn tất. Con đường mà chúng ta đang đi đầy chông gai, đòi hỏi chúng ta phải có được phương hướng đúng đắn,phải nêu được rõ nhiệm vụ cơ bản mà chúng ta cần làm. Để có thể làm được điều đó, chúng ta cần có nhận thức đúng đắn về CNXH và con đường quá độ để tiến lên CNXH. Và để có thể làm được điều đó thì tất cả chúng ta cùng phải đồng lòng, chung sức vun đắp nó. Đặc biệt là đối với thế hệ trẻ chúng em,thì nhiệm vụ càng nhiều và thêm phần nặng gánh, đòi hỏi chúng em phải cố gắng, nỗ lực hết mình để góp phần vào cùng đất nước tiến lên. Đó chính là lý do khiến em chọn đề tài này. Em mong rằng sau đề tài mà mình làm, em có thể biết rõ hơn về con đường mà chúng ta đang đi, nhận thức về nó sâu sắc hơn sẽ có thể hiểu được nhiệm vụ mà cả nước ta phải làm, con đường mà chúng ta phải vượt qua.
Qua đề tài này, em muốn gửi lời cảm ơn tới Thầy Tô Đức Hạnh, người đã giúp em hiểu sâu sắc hơn con đường mà cả nước ta đang tiến đến.Những lời giảng của thầy giúp em biết thêm những khó khăn và thử thách mà cả nước đang phải trải qua trên con đường tiến lên CNXH. Với đề tài này, em muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước
Trong quá trình thực hiện đề tài,em cũng đã rất cố gắng,nhưng sự cố gắng đó không thể không có những thiếu xót,vì thế em mong thầy có thể làm cho nó trở nên đầy đủ hơn.
Nội dung
I. Lý luận chung về quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là gì ?
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nó diễn ra trong toàn bộ các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra các tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa từng bước được thực hiện.
1.2. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là những nhân tố của xã hội mới và tàn dư của xã hội cũ tồn tại đan xen lẫn nhau, đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng, tập quán trong xã hội. Về mặt kinh tế, đây là thời kỳ bao gồm những mảng, những phần, những bộ phận của Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội xen kẽ nhau tác động với nhau, lồng vào nhau, nghĩa là thời kỳ tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, cả thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa lẫn thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ cùng tồn tại phát triển, vừa hợp tác thống nhất nhưng vừa mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt với nhau.
Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong về cơ bản cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội.
2. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa do cả hai cùng dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không thể ra đời từ trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa bởi nó dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa chỉ ra đời sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng vô sản khác với các cuộc cách mạng trước đó ở chỗ các cuộc cách mạng trước đó giành được chính quyền là kết thúc cuộc cách mạng vì nó dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn cuộc cách mạng vô sản thì việc giành được chính quyền mới chỉ là bước khởi đầu còn vấn đề cơ bản hơn là giai cấp vô sản phải phải xây dựng một xã hội mới cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuât, cả về cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng, cả về tồn tại xã hội lẫn ý thức xã hội.
Không những thế, công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội phải thông qua quá trình đấu tranh gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm giành lấy chính quyền Nhà nước và sử dụng bộ máy Nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa, quá trình đó cần phải có thời gian, một thời kỳ lâu dài.
Vì thế thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Nó do đặc điểm của sự ra đời phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của cuộc cách mạng vô sản quy định.
Xã hội Tư bản chủ nghĩa càng phát triển mạnh bao nhiêu thì mâu thuẫn trong lòng nó càng gay gắt hơn bấy nhiêu, vì thế sự mâu thuẫn đó đã tạo ra những tiền đề vật chất làm cơ sở cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới
V.I.Lênin đã khẳng định rằng ở các nước kém phát triển cũng có khả năng tiến lên Chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện thích hợp. Trên thực tế,thắng lợi của cách mạng tháng 10- Nga, sau đó là thắng lợi của một loạt các nước cộng hoà ở Trung á, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam... đã chứng minh khẳng định này là hoàn toàn đúng đắn.
3. Các hình thức quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Theo Chủ nghĩa Mác- Lênin thì thời kỳ quá độ là một tất yếu đối với mọi nước đi lên Chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên do đặc điểm của từng nước là khác nhau, có nước nền kinh tế còn lạc hậu kém phát triển, có nước nền kinh tế phát triển theo chủ nghĩa tư bản, vì vậy thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội cũng khác nhau. Chủ nghĩa Mac-Lênin cho rằng có hai loại hình quá độ, đó là:
3.1. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Loại hình này phản ánh quy luật phát triển tuần tự của xã hội loài người. Đó là loại hình quá độ đối với các nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Với các nước này, do đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,nên đã có sẵn tiền đề về cơ sở vật chất kỹ thuật. Vì thế công cuộc quá độ, chỉ còn là biến những tiền đề ấy thành cơ sở vật chât của chủ nghĩa xã hội, thiết lập một quan hệ sản xuất mới, một Nhà nước mới, một xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
3.2. Quá độ từ các hình thái kinh tế- xã hội trước chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Loại hình này phản ánh quy luật phát triển nhảy vọt của xã hội loài người.
Với các nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, cũng có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển. Tuy nhiên để có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội thì các nước này cần phải thực hiện từng bước quá độ và phải có những điều kiện phù hợp.
Để có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các nước này cần phải có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến đang xây dựng Chủ nghĩa xã hội cả về vốn, kỹ thuật công nghệ lẫn kinh nghiệm xây dựng Chủ nghĩa xã hội.Đồng thời nước này cũng phải hình thành được các tổ chức đảng cách mạng và cộng sản, phải giành được chính quyền về tay mình, xây dựng được các tổ chức nhà nước mà bản chất là xô viết nông dân và xô viết những người lao động.
Lênin khẳng định rằng ở một nước kém phát triển có thể và cần phải tạo ra những điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội bắt đầu bằng một cuộc cách mạng thiết lập chính quyền liên minh công nông và phải tiến lên Chủ nghĩa xã hội qua các bước quá độ, không được nhảy vọt cũng như nóng vội.
4. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với các nước đã có nền kinh tế rất phát triển. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.
4.1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Từ khi Thực dân Pháp xâm lược cho đến năm 1930, các phong trào cứu nước của nhân dân ta,những phong trào theo lập trường tiểu tư sản và tư sản, đều lần lượt thất bại. Nhưng từ năm 1930 trở đi,dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng Sản theo con đường chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đã thu được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đầu tiên là chiến thắng Thực dân Pháp xâm lược, sau đến đế quốc Mỹ, và tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường mới con đường xã hội chủ nghĩa.
Hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc xâm lược đã khiến nhân dân ta phải hy sinh rất nhiều cả về người và của. Cuộc đấu tranh đó chính là cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản. Vì vậy sau khi giành chiến thắng, chúng ta không thể tiến theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi nhân dân ta đã phải chịu quá nhiều đau thương, đó cũng là do chủ nghĩa tư bản gây ra. Tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội là phù hợp với đông đảo nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
Hơn thế nữa trong hoàn cảnh toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời về mặt lịch sử. Vì thế sớm hay muộn nó cũng phải được thay thế bằng hình thái kinh tế mới xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho dù chủ nghĩa tư bản đã cố gắng để thích nghi với tình hình mới, nhưng càng cố gắng thì nó càng không thể vượt qua khỏi những mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Vì thế chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của nhân loại. Thời đại ngày nay là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa là vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người.Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.Mà thực tế lịch sử đã cho thấy rằng, trên thế giới, đã có nhiều nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng kết quả là chỉ có một số nước có nền kinh tế phát triển còn lại đa số các nước thì Châu Phi đói, Châu á nghèo, Châu Mỹ La Tinh nợ nần chồng chất.
Điều đó cho thấy sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Vì thế việc chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan và hoàn toàn đúng đắn.
4.2. Vậy quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nghĩa là gì ?
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nghĩa là rút ngắn một cách đáng kể quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là xoá bỏ kinh tế tư nhân nói chung và kinh tế tư nhân tư bản nói riêng, mà là bỏ qua sự thống trị của kinh tế tư bản tư nhân, của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội không phải là việc có thể làm một cách nhanh chóng mà cần phải có cả một quá trình lâu dài với nhiều bước quá độ. Trong quá trình đó, chúng ta phải biết tiếp thu, nhận thức và tận dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật –công nghệ của thời đại để phát triển nền kinh tế của nước nhà.
Không những thế, chúng ta phải biết phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc, tranh thủ tối đa mọi điều kiện thuận lợi từ bên ngoài.
Nói chung, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình hết sức khó khăn phức tạp,đòi hỏi chúng ta phải biết phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế, tận dụng tối đa thành tựu khoa học của nhân loại thì mới có thể thực hiện được chặng đường quá độ.
4.3. Khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở nước ta.
Chúng ta có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bởi chúng ta có đầy đủ điều kiện thuận lợi cả về khách quan lẫn chủ quan.
Về khách quan, đất nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại trên thế giới phát triển hết sức mạnh mẽ,nó làm cho lực lượng sản xuất ngày càng mang tính quốc tế hoá cao,vì vậy các quốc gia phụ thuộc vào nhau ngày càng lớn. Điều đó cho phép chúng ta có thể tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài,đặc biệt là vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý..để phát triển nhanh nền kinh tế trong nước.
Về chủ quan, sau chặng đường gian lao chống giặc ngoại xâm, chúng ta đã giành được chính quyền về tay giai cấp vô sản, do Đảng Cộng Sản - đại diện của Đảng Mác xit lãnh đạo,chúng ta đã thiết lập được liên minh giai cấp công nông. Có nghĩa là chúng ta đã có đầy đủ điều kiện để tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
II. Quá trình nhận thức về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1. Quá trình nhận thức về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nghĩa là rút ngắn một cách đáng kể quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên chúng ta cần phải biết tiếp thu,nhận thức,vận dụng những thành khoa học –kỹ thuật tiên tiến để phát triển nền kinh tế, biết tranh thủ tối đa mọi điều kiện thuận lợi. Chúng ta phải biết tận dụng sức mạnh tổng hợp của mọi thành kinh tế trong nước để phát triển kinh tế nước nhà.
Với nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu như nước ta, thời kỳ quá độ phải trải qua rất nhiều chặng đường, đó là:
1.1. Bước đầu hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1954,Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới của cách mạng: đó là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đường lối chung của Đảng trong thời kỳ này là đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh,tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no,hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Nam thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa. Thực hiện đường lối cách mạng do Đại hội Đảng lần thứ III nêu ra miền Bắc đã có những bước tiến và phát triển nhanh các lĩnh vực kinh tế và xã hội,cơ sở vật chất trong công nghiệp, nông nghiệp và kết cấu hạ tầng được xây dựng,phát triển tương đối nhanh.Những thành tựu đó đã giúp miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc, căn cứ địa cách mạng của cả nước.
1.2. Quá trình bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, nó bắt đầu từ sau Đại hội III đến Đại hôi IV.
Trong thời kỳ này, Đảng ta đã đề ra nhiều việc cần phải làm.
Phải ra sức tăng cường chuyên chính vô sản, phát huy cao độ vai trò lãnh đạo của Đảng,vai trò tổ chức của và quản lý của Nhà nước và tinh thần làm chủ tập thể của quần chúng lao động nhằm thực hiện thắng lợi ba cuộc cách mạng,trong đó cách mạng kỹ thuật là then chốt,là phương hướng cơ bản có tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đảng nêu ra mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là phải xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa –chế độ mới, nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa –nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Cần phải nhận thức về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa rõ hơn,đồng thời phải thấy rõ hơn sự cần thiết phải gắn liền nhiệm vụ xây dựng kinh tế với xây dựng văn hoá và con người mới Điều đáng chú ý là việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động được nhấn mạnh, xem đó là động lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Tất cả đều thể hiện mong muốn và cố gắng của Đảng tatrong việc tìm tòi sáng tạo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, một mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.3. Cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đối mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước thống nhất, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện những điều kiện không thuận lợi do tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp.
Cùng lúc đó, mô hình kinh tế tập trung quan liêu,bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó, hậu quả nó mang lại là một tổn thất lớn đối với chúng ta.
Với những khó khăn đó Đảng ta đã phân tích tình hình và nguyên nhân, tìm ra các giải pháp, từ đó thực hiện đổi mới.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện từ đổi mới kinh tế là chủ yếu, phải đi đến đổi mới chính trị, văn hoá,xã hội, từ đổi mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến đổi mới hoạt động thực tiễn của Đảng, nhà nước và các tầng lớp nhân dân Chúng ta phải vượt qua mô hình chủ nghĩa xã hội cũ để xác lập mô hình mới về chủ nghĩa xã hội của nước ta, mô hình hướng sự phát triển của đất nước đi tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Từ những quan điểm đó, Đảng đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đề ra nhiệm mà chúng ta phải làm đó là phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,thu hút mạnh mẽ đầu tư của nước ngoài, tận dụng những thành tựu của nhân loại vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội
2. Nhiệm vụ –nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Nước ta tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát về kinh tế quá thấp,từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề trong gần ba thập kỷ,và một cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp kém hiệu quả kéo dài. Thêm vào đó, tình hình quốc tế có nhiều biến động lớn,ảnh hưởng bất lợi cho nền kinh tế nước ta. Tất cả những yếu tố khách quan lẫn chủ quan đó đã làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trong đầu những năm 80. Mười lăm năm trở lại đây nhờ công cuộc đổi mới,nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và đạt được nhiều thắng lợi to lớn. Nhưng vì điểm xuất phát quá thấp,tốc độ tăng trưởng chậm và chưa có cơ sở thật sự vững chắc,nên nước ta chưa hoàn toàn thoát khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Từ tình hình thực tế như vậy,muốn xây dựng được chủ nghĩa xã hội thành công,chúng ta cần phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ, trong đó nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ quan trọng và thiết yếu nhất.
2.1. Phải phát triển lực lượng sản xuất,công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước.
Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp về thực chất mang tính chất kinh tế, và với riêng nước ta thì nó càng có ý nghĩa. Để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải giành thắng lợi trong lĩnh vực kinh tế. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế là một trong những nguy cơ lớn nhất trên con đường của chúng ta. Để củng cố vững chắc độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,vấn đề trung tâm là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để có thể biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền công nghiệp hiện đại, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng,dân chủ,văn minh “.Vì thế công nghiệp hoá,hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ,là nội dung cơ bản để khắc phục tình trạng kém phát triển và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế,đuổi kịp và có thể vượt qua trình độ phát triển của các nước tư bản.
Để tiến lên một nền sản xuất hiện đại,tất cả các nước đều phải thực hiện quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá. Đây là quá trình tạo nên sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất của khoa học và công nghệ cả về số lượng và chất lượng. Nó làm thay đổi cách thức sản xuất,chuyển người lao động từ lao động thủ công sang sử dụng lao động cơ giới,tự động hóa,tin học hoá...và nhờ đó sức lao động của con người được giải phóng, năng suất lao động xã hội ngày càng tăng,sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều và đa dạng,đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người. Công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển nói chung và nước ta nói riêng. Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật cho xã hội mới,nâng cao năng suất lao động.Việc thực hiện công nghiệp hoá,hiện đại hóa ở nước ta hiện nay vừa nhằm cơ khí hoá sản xuất thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc,vừa nhằm tạo ra những bước nhảy vọt, đi tắt từ thủ công lên thẳng từ động hoá, tin học hoá ở một số ngành mũi nhọn.
Bên cạnh việc phát triển lực lượng sản xuất –cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại –là nhiệm vụ cơ bản của công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước. Chúng ta cần phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá,hợp lý và hiệu quả cao,có nghĩa là chúng ta cần phải giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp,xây dựng và dịch vụ; trình độ kỹ thuật phải ngày càng tiến bộ,phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học công nghệ trên toà thế giới;phải khai thác tối đa mọi nguồn lực trong nước và thực hiện sự phân công lao động và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế.Nước ta kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,dưới ánh sáng của đường lối đổi mới do Đảng đề xướng,việc chuyển dịch cơ cấu đã đạt được những thành tựu quan trọng.Đảng ta đã xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý mà "bộ xương " của nó là cơ cấu kinh tế công -nông nghiệp-dịch vụ gắn với phân công lao động và hợp tác quốc tế sâu rộng.
2.2. Phải xây dựng,phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới.Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải được phát triển từng bước,theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước như nước ta,thì việc cải tạo quan hệ sản xuất mới phải làm một cách từ từ không thể nóng vội, bởi lực lượng sản xuất mới cũng không thể phát triển một cách nhảy vọt được.
Điều quan trọng cần làm là phải phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần với chế độ sở hữu đa dạng,trong đó kinh tế nhà nước làm nòng cốt kinh tế hợp tác làm nền tảng.Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý.
Như vậy việc xây dựng quan hệ sản xuất mớiphải phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Thứ nhất là về sở hữu:trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, lực lượng sản xuất phát triển chưa cao và có nhiều trình độ khác nhau. Do đó trong nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau là sở hữu tư nhân,sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn hợp. Các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất này không tồn tại biệt lập mà đan xen nhau và tác động lẫn nhau.Với sự thiết lập sở hữu nhà nước trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng, Nhà nước trở thành chủ thể kinh tế thực sự, thiết lập quan hệ kinh tế và tác động đến các chủ thể kinh tế khác. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sở hữu tư bản tư nhân không còn là hình thức sở hữu thống trị nhưng vẫn tồn tại đan xen với sở hữu nhà nước.
Thứ hai là về tổ chức quản lý: chúng ta phải xây dựng được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.Nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng mới chỉ là nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa chứ chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,nên còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế.Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ,vì thế cần phải kết hợp và tận dụng thế mạnh của tất cả các thành phần kinh tế,chưa nên xoá bỏ hẳn thành phần kinh tế tư nhân,vì nó còn mang lại nhiều ích lợi cho con đường chúng ta đang đi.
Thứ ba là về phân phối: Đất nước ta còn nghèo,chúng ta chưa thể cải thiện đời sống nhân dân nhanh chóng.Thế nhưng,sự phát triển của các quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ cho phép đồng thời đòi hỏi mỗi bước tiến của sự phát triển kinh tế phải là một bước cải thiện đời sống nhân dân,đặc biệt là người lao động.Vì thế trong thời kỳ quá độ,khi mà các thành phần kinh tế tồn tại đan xen nhau với chế độ sở hữu đa dạng, chúng ta lấy mục tiêu phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế làm nền tảng.
Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.Nó là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của từng người đã đóng góp cho xã hội.Người làm nhiều hưởng nhiều,người làm ít hưởng ít.Phân phối theo lao động sẽ khuyến khích mọi người cùng cố gắng phấn đấu, làm cho dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,văn minh và hạnh phúc.
Chúng ta sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn,gian lao và thử thách trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang đi. Đòi hỏi,không phải chỉ riêng với Đảng -Nhà nước -các cấp chính quyền,mà còn đòi hỏi toàn thể quần chúng nhân dân cùng cố gắng nỗ lực phấn đấu vì sự nghiệp phát triển của cả nước,có thế chúng ta mới có thể giành thắng lợi trên con đường đi đến vinh quang.
2.3. Phải mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học -công nghệ,con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta không thể là con đường đóng cửa thu mình mà phải là con đường mở cửa,hội nhập vào nền kinh tế quốc tế,xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong hội nhập.Đó là một quá trình đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gay go phức tạp,tuy có những điều kiện thuận lợi khách quan nhưng có không ít khó khăn trở ngại đòi hỏi sự nỗ lực chủ quan rất lớn của toàn Đảng,toàn dân,toàn thể bộ máy nhà nước ta. Đó cũng là một xu thế tất yếu của thời đại,là vấn đề có tính chất quy luật.Chúng ta mở cửa nền kinh tế,thực hiện đa dạng,đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế,nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ,cơ cấu ngành và sản phẩm...mở rộng phân công lao động quốc tế,tăng cường liên doanh,liên kết,hợp tác,là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển,vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Chúng ta hội nhập kinh tế,nhưng không thể quên rằng nền kinh tế mà chúng ta hội nhập là nền kinh tế mà ở đó chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đang đóng vai trò chi phối. Vì thế vấn đề đặt ra là một nước lạc hậu như nước ta muốn phát triển mà lại phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì liệu có thể sử dụng được chính những nguồn lực từ thế giới tư bản chủ nghĩa để phục vụ cho công cuộc xây dựng phát triển đất nước hay không ? Đúng là có không ít khó khăn và thách thức phải đối mặt,phải vượt qua,nhưng với thực tiễn 16 năm đổi mới,chúng ta có cơ sở để tin rằng hoàn toàn có thể vượt qua để biến khả năng thành hiện thực.Với đường lối đối ngoại độc lập,tự chủ,đa phương hoá và đa dạng hoá,sử dụng một cách khôn khéo những mâu thuẫn trong thế giới tư bản,chúng ta có thể khai thác những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và mặt tích cực của toàn cầu hoá kinh tế đem lại để phục vụ việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Tuy nhiên trong điều kiện và bối cảnh quốc tế như vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta phải đồng thời là quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Hai phương hướng phát triển đó tưởng như đối lập với nhau nhưng thực chất lại gắn bó hữu cơ với nhau,làm điều kiện cho nhau để phát triển. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ
Muốn vậy,phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh quốc tế,tích cực khai thác thị trường thế giới,tối ưu hoá cơ cấu xuất-nhập khẩu
tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu,xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ,tự lực cánh sinh,bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.
III. Những giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Để có thể đưa đất nước vững bước trên con đường quá độ,Đảng ta đã đề ra đường lối kinh tế chung là đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá,xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp;ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực,đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh,có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá,từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,bảo vệ và cải thiện môi trường;kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng -an ninh.Đồng thời Đảng đã đề ra những biện pháp cụ thể cho từng nhiệm vụ để có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đã đặt ra.
1. Giải pháp cho việc phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Con đường công nghiệp hoá,hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt.Phát huy những lợi ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35547.doc