Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam

Mục lục Lời mở đầu Nội dung chínhI.Lý luận của Lê-nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1.Khái niệm về chủ nghĩa tư bản nhà nước 2.Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản nhà nước 3.ý nghĩa, các hình thức và kết quả của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong nhà nước vô sản 4.Bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện chuyên chính vô sản II.Thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản ở nước ta 1.Tính cấp thiết 2.Khả năng thực hành chế độ chủ nghĩa nhà n

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước tư bản ở nước ta 3.Những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở Việt Nam Kết luận Lời mở đầu Nhìn chung lịch sử xã hội toàn nhân loại đã phát triển qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế- xã hội nhất định. Cho đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua 4 hình thái kinh tế- xã hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang trong thời kỳ quá độ sang chủ nghĩa xã hội- giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Dựa trên những nền tảng học thuyết của Mac và Ănghen, Lê-nin đã đưa ra những lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xa hội, nó được trình bày rải rác trong rất nhiều các tác phẩm của ông, trong những điều kiện kinh tế và chính trị khác nhau, khi nhấn mạnh điều này, khi nhấn mạnh điều khác…nhằm thuyết phục những người cùng thời. Theo Lê-nin chủ nghĩa tư bản nhà nước đó là một sự cứu nguy đối với giai cấp vô sản còn non trẻ khi giai cấp mới nắm chính quyền. Chủ nghĩa tư bản nhà nước đó là điều cần thiết và có lợi, chẳng những nó “không đáng sợ, mà còn đáng mong đợi” .Chỉ có “du nhập” chủ nghĩa tư bản nhà nước thì chính quyền giai cấp vô sản mới có thể tạo dựng được cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam, sau khi chúng ta giành được độc lập (8/1945), chúng ta đã bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đó chúng ta đã vận dụng một cách sáng tạo các lý luận của Lê-nin về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là các lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh trong cương lĩnh chính trị được thông qua tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) cũng đã khẳng định rằng: “Đảng lấy chủ nghĩa Mac- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”, đây cũng là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam không chỉ trên 2/3 thế kỷ qua mà còn cho cả tương lai phát triển của đất nước. Nước ta là một nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng còn lạc hậu, kinh tế kém phát triển, vì vậy việc lùi về chủ nghĩa tư bản nhà nước đối với chúng ta là một tất yếu khách quan. Nhờ chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chúng ta đã thúc đẩy được nền kinh tế phát triển, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đi sâu tìm hiểu vấn đề này em chọn đề tài: “Lý luận của Lê-nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam”. Em trân trọng cảm ơn thầy Mai Hữu Thực đã giúp em hoàn thành tôt đề tài này. Nội dung chính I.Lý luận của Lê-nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 1.Khái niệm về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lê-nin là người đầu tiên đã có công nghiên cứu sâu sắc về vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước, xây dựng nên nền tảng lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện chuyên chính vô sản. Cho đến nay, chủ nghĩa tư bản nhà nước đã được hiểu theo rất nhiều cách khác nhau và có nhiều hình thức vận dụng khác nhau trong thực tiễn. Tóm lại có một số quan niệm chủ yếu về chủ nghĩa tư bản nhà nước như sau: Bản thân chủ nghĩa tư bản là sự “kết hợp, liên hợp, phối hợp nhà nước, nền chuyên chính vô sản với chủ nghĩa tư bản”, là “một khối với chủ nghĩa tư bản ở bên trên”. Chủ nghĩa tư bản nhà nước có thể coi là một bước tiến so với thế lực tự phát tiểu tư hữu, chúng ta không tìm cách chặn đứng hay ngăn cấm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta lùi về chủ nghĩa tư bản nhà nước và trong chế độ ấy có sự tự do trao đổi của nông dân và các tầng lớp nhân dân khác, có sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản nhưng dưới sự quản lý và điều tiết chặt chẽ của nhà nước vô sản. Chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chúng ta nói tới ở đây, có đôi lúc còn được gọi là một loại hình kinh tế tư bản nhà nước, bởi lẽ nó mới chỉ đề cập tới khía cạnh kinh tế, mối quan hệ kinh tế giữa tư bản và nhà nước, chưa bao gồm các mặt chính trị, văn hoá, xã hội. Nhưng lại có một câu hỏi đặt ra: vì đâu mà có thành phần kinh tế này và chưa ai trả lời được cả. Lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước của Lê-nin ra đời trong hoàn cảnh đang bổ sung, hoàn thiện quan niệm về chủ nghĩa xã hội, nên trong quá trình hoạt động để tìm ra bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước không tránh khỏi những thiếu sót. Một điều nữa là: Lê-nin nhấn mạnh rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nước mà chính quyền thuộc về tư bản và chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nhà nước vô sản là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Lê-nin đánh giá chủ nghĩa tư bản nhà nước là một “khái niệm” mới, là một hiện tượng mới mà cho tới thời của ông không có lấy một quyến sách nào nói đến, ngay cả Mác cũng không viết một lời nào về vấn đề đó. Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong nhà nước tư bản thì nó được nhà nước thừa nhận và kiểm soát nhằm mưu lợi ích cho giai cấp tư sản và chống lại giai cấp vô sản. Trong nhà nước vô sản thì chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng làm như vậy nhưng để làm lợi cho giai cấp công nhân, nhằm mục đích chống lại giai cấp tư sản còn mạnh và đấu tranh với giai cấp tư sản ấy. Khi đó, cố nhiên là chúng ta phải cho giai cấp tư sản ngoại quốc, cho tư bản ngoại quốc thuê một số cái mà mình có sẵn để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mình, và do đó khôi phục nền kinh tế nước ta. Như vậy, cho dù chủ nghĩa tư bản nhà nước có được hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì tóm lại, chủ nghĩa tư bản nhà nước là một công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư bản và chủ nghĩa tư bản. Lùi về chủ nghĩa tư bản nhà nước ở các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu để làm lợi cho giai cấp vô sản. Đồng thời lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để tạo tiền đề xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2. Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lê-nin đã khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước ra đời là một tất yếu lịch sử, là điều cần thiết và có lợi. Việc ra đời của nó do rất nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nói chung do một số nguyên nhân chủ yếu sau: Khi giai cấp vô sản nắm chính quyền ở một nước chậm tiến thì cái hy vọng có thể tổ chức nền sản xuất lớn và phân phối trực tiếp cho nông dân là một điều không tưởng vì điều kiện mọi mặt không cho phép giai cấp vô sản làm như vậy. ở một nước chậm tiến(điển hình là nước Nga sau cách mạng tháng Mười) co nền kinh tế vô cùng lạc hậu, có sự xen kẽ giữa các thành phần kinh tế, thế lực tự phát tiểu tư sản thường chiếm ưu thế, đại bộ phận những người làm nông nghiệp là những người sản xuất hàng hoá nhỏ, nạn đầu cơ len lỏi vào mọi lỗ chân lông của đời sống kinh tế xã hội, việc cải tạo nền sản xuất nông dân cá thể thành nền sản xuất xã hội chủ nghĩa ngay tức khắc là điều không thể thực hiện được. Giai cấp vô sản nắm chính quyền trong tay, họ có khả năng đầy đủ nhất về pháp lý để “giành lấy tất cả những gì trong những người tiểu tư sản, nhưng những thế lực tự phát của tiểu tư hữu và chủ nghĩa tư bản tư nhân đang phá hoại địa vị pháp lý ấy bằng nhiều cách, ngấm ngầm đầu cơ, phá hoại chính quyền còn non trẻ. Chính điều đó đã buộc những người cộng sản phải tạm thời lùi bước, phải viện đến chủ nghĩa tư bản nhà nước; lùi bước ở đây không phải là chịu khuất phục trước chủ nghĩa tư bản mà lùi bước về chủ nghĩa tư bản nhà nước để tạo tiền đề tiến thêm nhiều bước nữa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy mạnh ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc phát triển nhanh lực tượng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát khỏi khủng hoảng, khắc phục tình trạng của công nặng nề và nạn đầu cơ nhỏ tràn lan. Chủ nghĩa tư bản nhà nước có thể coi là một bước tiến to lớn, nó sẽ đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất. Chủ nghĩa tư bản nhà nước giúp cho giai cấp vô sản có thể tố chức thông minh và có kinh nghiệm trong những xĩ nghiệp hết sức to lớn, thực sự đảm nhận được việc cung cấp sản phấm cho hàng chục triệu người. Trong quá trình phát triển kinh tế “chúng ta tuyệt nhiên không nêu ra vấn đề: nền kinh tế sẽ có quan hệ như thế nào với thị trờng, với mậu dịch”. Khi đặt công tác xây dựng kinh tế lên hàng đầu, chúng ta chỉ đứng trên một góc độ mà nhìn, chúng ta định chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không qua cái thời kỳ mở đầu để làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, một biểu tượng về chủ nghĩa xã hội như là một xã hội trong đó không có sản xuất hàng hoá, chỉ có việc phân phối theo lao động đựơc thực hiện theo các giấy chứng chỉ lao động không cần có thương nghiệp và tiền tệ. Chúng ta cứ nghĩ rằng cả hai chế độ: chế độ sản xuất, phân phối quốc doanh và chế độ sản xuất, phân phối tư doanh sẽ đấu tranh với nhau trong điều kiện khiến chúng ta có thể thiết lập được chế độ sản xuất và phân phối quốc doanh bằng cách lấn dần chế độ đối địch. Nhưng chúng ta đã mắc phải sai lầm, chúng ta đã khôngnghiên cứu những hình thức cụ thể và các giai đoạn của sự quá độ ấy trong lúc này. Tiền là giấy chứng nhận của cải xã hội, và tầng lớp tiểu tư hữu đông hàng chục triệu người đang nắm chắc lấy giấy chứng nhận đó. Họ chỉ muốn dùng những khoản tiền ấy cho riên họ thôi, chống lại dân nghèo, chống lại bất cứ sự kiểm soát chung nào của nhà nước, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của giai cấp vô sản. Do dó, trong một số vấn đề kinh tế, cần phải rút lui về những vị trí của chủ nghĩa tư bản nhà nước; không thể xung phong tấn công mà phải thực hiện một nhiệm vụ rất gian khổ, rất khó khăn là bao vây lâu dài với nhiều lần rút lui. Đó là điều kiện cần thiết để giải quyết các vấn đề kinh tế, là bảo đảm chuyển nền kinh tế sang cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Nó chính là một sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc nào ở giữa cả. Khi thực hiện bước lùi như vậy thì tình hình của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ dễ dàng hơn, các nhiệm vụ xã hội chủ nghĩa sẽ chóng được giải quyết hơn. Trong điều kiện cụ thể bây giờ, chúng ta phải điều hoà mậu dịch với lưu thông tiền tệ, trong lĩnh vực này những người cộng sản phải tỏ rõ được tài năng của mình. Có giải quyết được nhiệm vụ ấy, giai cấp vô sản mới có thể tiến tới giải quyết những nhu cầu kinh tế bức thiết, và chỉ có thế mới có thể đảm bảo khả năng khôi phục được nền công nghiệp lớn bằng con đưòng dài hơn nhưng chắc chắn hơn, con đường mà ngỳ nay duy nhất có thể đối với ta. Nhưng làm thế nào để thực hiện chủ nghĩa xã hội ở một nước mà tiểu nông nghiệp chiếm đại bộ phận dân cư?. Theo Lê-nin phải có hai điều kiện: Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước hay một số nước tiên tiến. Về điều kiện này, theo Lê-nin tuy đã làm nhiều hơn trước để được điều kiện âý, xong cho đến lúc này vẫn còn chưa đủ điều kiện đó trở thành sự thật được. Điều kiện thứ hai là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước với đại đa số nông dân, phải thoả thuận với nông dân vì lợi ích của cả hai giai cấp. Theo Lê-nin người tiểu nông chừng nào còn là tiểu nông thì họ không ưa tất cả những gì mà người công nhân muốn. Nhưng vẫn phải thoả thuận được với nông dân thì mới duy trì được chính quyền của giai cấp công nhân, mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội. Khi nông dân không hài lòng với hình thức quan hệ hiện có, không muốn có hình thức quan hệ ấy nữa thì sự thoả thuận giữa hai giai cấp trở nên không chắc chắn. Đó cũng là lý do phải lùi về chủ nghĩa tư bản nhà nước, tức là phải thiết lập các quan hệ mới thông qua các hoạt động kinh tế và thoả mãn được những nhu cầu của nông dân. Để thoả mãn được những nhu cầu của nông dân thì phải có sự tự do trao đổi nhất định, đồng thời phải kiếm ra hàng hoá và lương thực, nếu không làm được điều này thì lấy gì mà trao đổi, mà buôn bán. Muốn chấm đứt tình trạng thiếu hàng hoá thì phải khôi phục được công nghiệp nhưng điều kiện thực tế lại khiến ta không thế phát triển được công nghiệp. Lối thoát duy nhất để thoát sự bế tắc này là phải phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân, phải giúp nông dân bằng bất cứ giá nào tăng nhanh nông sản phẩm. Điều chủ yếu là phải đem lại cho người tiểu nông một sự thúc đấy trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ bằng một tổ chức kinh tế thích ứng với nền kinh tế của trung nông. Thực tế thời :Lê-nin cho thấy rằng chính sách tự do buôn bán là sự thoả thuận một cách thực tế, khoé léo, khôn ngoan và mềm dẻo hay lùi một bước về chủ nghĩa tư bản nhà nước là một biện pháp phù hợp với thực tế. Nhưng từ những chính sách tự do trao đổi trong nông dân mà xuất hiện hai vấn đề dẫn đến chủ nghĩa tư bản nhà nước: Trước hết, trong điều kiện nhà nước vô sản thf tự do trao đổi là tự do buôn bán, mà tự do buôn bán theo quan niệm của Lê-nin thời đó tức là lùi lại chủ nghĩa tư bản. Thứ trao đổi hàng hoá ấy có thể không dẫn đến chỗ phân hoá những người sản xuất hàng hoá ra thành kẻ sở hữu tư bản và người sở hữu sức lao động, nghĩa là khôi phục lại chế độ chủ nghĩa tư bản. Cho nên sự phát triển trao đổi tư nhân, tức là phát triển chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh khỏi khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Lê-nin chỉ rõ, tự do buôn bán là “khôi phục chủ nghĩa tư bản trên một mức độ lớn”, là tự do của chủ nghĩa tư bản. Nhưng sự dung nạp chủ nghĩa tư bản lại cần cho đông đảo quàn chúng nông dân và cho tư bản tư nhân là người buôn bán để thoả mãn dượcnhu cầu của nông dân. ở đây đã diễn ra một điều mà chính Lê-nin cũng phải nói “hình như là ngược đời: chủ nghĩa tư bản tư nhân lại đóng vai trò trợ thủ cho chủ nghĩa xã hội”, “có thể sử dụng chủ ngiã tư bản tư nhân để xúc tiến chủ nghĩa xã hội”. Nhưng muốn không thay đổi bản chất của mình, nhà nước vô sản chỉ có thể thừa nhận cho chủ nghĩa tư bản được phát triển trong một chừng mực nào đó và chỉ với điều kiện là thương nghiệp tư nhân và tư bản tư nhân phải phục tùng sự điều tiết của nhà nước, phải tìm cách hướng chúng vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước bằng một tổ chức của nhà nước và những biện pháp có tính chất từ bên trên. Vấn đề thứ hai là trong điều kiện một nước mà chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản chiếm ưu thế, hàng hoá chỉ có thể có được từ nông dân, từ nền nông nghiệp. Và như vậy chỉ có nông sản hàng hoá này trao đổi với nông sản hàng hoá khác, điều đó sẽ không kích thích nông dân, nông nghiệp phát triển. Phải có những hàng hoá mà nông dân cần, mà muốn có những hàng hoá đó phải dựa vào sự phát triển của thủ công nghiệp và công nghiệp. Lê-nin nói rõ: “điều đó chúng ta không thể tự mình làm được nếu không có sự giúp đỡ của tư bản nước ngoài. Người nào không chìm đắm trong ảo tưởng mà nhìn vào thực tế thì phải hiểu rõ điều đó”. Theo Lê-nin cần phải “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài bằng những hợp đồng buôn bán với các nước tư bản lớn, bằng chính sách tô nhượng. Tóm lại là bằng các hinh thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước. 3.ý nghĩa, các hình thức và kết quả của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong nhà nước vô sản. 3.1.ý nghĩa của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong nhà nước vô sản. Từ sự phân tích rên ta thấy rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước là “có lợi và cần thiết”, là “điều đáng mong đợi”, là “sự cứu nguy đối với chúng ta”. Lý luận của Lê-nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi, trong nhà nước vô sản. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh tự phát tiểu tư bản và tư bản chủ nghĩa, tính tự phát tiểu tư sản, chống đầu cơ-được coi là kẻ thù chính của chủ nghĩa xã hội ở các nước tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là xu hướng và là kết quả phát triển tự phát của nền sản xuất nhỏ. Xét về trinhd độ phát triển thì chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế tiểu nông. Nếu phát triển được chủ nghĩa tư bản nhà nước thì sẽ tăng cường được nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp, củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh, đối lập với các quan hệ kinh tế tiểu tư sản vô chính phủ. Theo Lê-nin, chính là giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghã tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Nó chống lại bất kỳ sự can thiệp, kiểm kê, kiểm soát nào của nhà nước, dù là chủ nghĩa tư bản nhà nước hay chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tượng lỏng lẻo, những tập quán, những thói quen, địa vị giai cấp ấy là căi quan trọng hơn hết. Bởi vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là một mối nguy hại lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt vong. Nếu khôi phục được tình trạng này thì “tất cả những con bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố. Cũng vì thế mà chủ nghĩa xã hội sẽ đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hộibằng con đường chắc chắn nhất. Chủ nghĩa tư bản nhà nước còn là công cụ để khắc phục được “kẻ thù chính trong nội bộ đất nước, kẻ thùcủa các biện pháp kinh tế”. Đó chính là bọn đầu cơ, bọn gian thương, bọn phá hoại độc quyền của nhà nước. Lê-nin nói rằng không thể giải quyết vấn đề này bằng biẹn pháp xử bắn hoặc “những lời tuyên bố sấm sét”, bởi vì cơ sở kinh tế của bọn đầu cơ là tầng lớp những kẻ tiểu tư hữu và chủ nghĩa tư bản tư nhân, có đại diện của mình trong mỗi người tiểu tư sản. Chủ nghĩa tư bản nhà nước còn được xem là cong cụ đấu tranh chống chủ nghía quan liêu và những lệch lạc quan liêu công nghiệp. Lê-nin phân tích nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa quan liêu chính là tình trạng riêng rẽ, tình trạng phân tán của những người sản xuất nhỏ, cảnh khốn cùng của họ, tình trạng dốt nát của họ, tình trạng không có đường sá, nạn mù chữ, tình trạng không có sự trao đổi giưa nông nghiệp và công nghiệp, tình trạng thiếu sự liên hệ và tác động qua lại giữa nông nghiệp và cong nghiệp. Thông qua chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tư bản nhà nước mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức được một nền sản xuất lớn. Giai cấp vô sản ở những nước đã tiến hành cách mạng để giành chính quyền cho rằng họ là giai cấp tiên tiến hơn về chế độ chính trị của nước mình so với bất cứ giai cấp vô sản ở các nước phát triển nào khác, nhưng lại lạc hậu hơn các nước lạc hậu nhất ở Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa tư bản có quy củ về trình độ văn hóa, về mức độ cho sự chuẩn bị cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Lê-nin phê phán luận điểm cho rằng do không có sự tương ứng nên chưa cướp chính quyền, Lê-nin coi đó là luận điểm của hạng “người trong vỏ ốc” không biết rằng sẽ không bao giờ có, không thể có sự tương xứng ấy trong sự phát triển của tự nhiên cũng như của xã hôi, mà chỉ có trải qua hàng loạt lần làm thử thì mới có thể xây dựng lên chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh…Chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ giúp chính quyền của giai cấp vô sản khắc phục được dần các tình trạng lạc hậu trên. Cũng qua đây mà học tập được cách quản lý của “những người tổ chức thông minh và có kinh nghiệm” trong những xí nghiệp hết sức lớn. Chủ nghĩa tư bản nhà nước thông qua sự “du nhập” của tư bản từ bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại, qua đó mà hy vọng có được trình độ trang bị cao của chủ nghĩa tư bản. Nếu không lợi dụng kinh tế đó thì không xây dựng tốt được cơ sở cho nền đại sản xuất của giai cấp vô sản. Nhưng đồng thời nó cũng đạt giai cấp vô sản vào một nguy cơ, đó là sự lệ thuộc về kinh tế, nguy cơ của chủ nghĩa thực dân mới. Có thể chúngta sẽ bị buộc phải du nhập những luồng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến không mạnh, chấp nhận việc đầu tư một cách thụ động. Chủ nghĩa tư bản nhà nước còn mang lại cái lợi là thông qua sự phát triển của nó mà phục hồi được giai cấp công nhân. Chủ nghĩa tư bản làm cho sản xuất công nghiệp tăng lên và giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn nhanh lên. Nếu chủ nghĩa tư bản nhà nước được khôi phục lại thì cũng có nghĩa là sẽ phục hồi lại giai cấp vô sản và tạo ra một giai cấp vô sản công nghiệp, vì đấu tranh, vì bị phá sản nên đã bị mất tính giai cấp, nghĩa là đã bị đẩy ra ngòai con đường tồn tại giai cấp của mình và không còn tồn tại với tư cách là giai cấp vô sản nữa, đôi khi về hình thức nó được coi là giai cấp vô sản nhưng nó không có gốc về kinh tế. 3.2.Các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước trong nhà nước vô sản thời Lê-nin. Chủ nghĩa tư bản nhà nước tòn tại dưới rất nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Lê-nin không trói buộc chủ nghĩa tư bản nhà nước trong một số hình thức đã có nhất định. Tư tưởng của Lê-nin là: “ở chỗ nào có những thành phần tự do buôn bán và những thành phần tư bản chủ nghĩa nói chung, thì ở đó có chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác, ở trình đọ này hay trình độ nọ”. ở thời Lê-nin có những hình thức cụ thể sau: a.Tô nhượng. Lê-nin quan niệm tô nhượng là một giao kèo, một liên kết,liên minh giữa chính quyền nhà nước vô sản với chủ nghĩa tư bản nhà nước, chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản, tô nhượng là do chính quyền vô sản kí hợp đồng với nhà tư bản. Theo hợp đồng ấy thì nhà tư bản được sử dụng một vài thứ: nguyên liệu, xí nghiệp, hầm mỏ…Còn chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình.Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên kí kết, là người thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho nhà nước xã hội chủ nghĩa một phần gọi là tô nhượng, đó là hình thức kinh tế mà cả hai bên cùng có lợi. Hình thức tô nhượng là sự “du nhập” chủ nghĩa tư bản nhà nước từ bên ngoài vào, có giúp cho chính quyền nhà nước vô sản tăng cường được nền đại sản xuất, làm tăng thêm số sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp, nó củng cố được các quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh đối lập với những quan hệ tiểu tư sản vô chính phủ. áp dụng một cách có chừng mực và thận trọng, chính sách tô nhượng nhất định sẽ giúp chúng ta cải thiện được nhanh chóng tình trạng sản xuất, đời sống của công nhân và nông dân. Tô nhượng là một hình thức đấu tranh, là sự tiếp tục của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức khác. Thời Lê-nin hình thức tô nhượng được coi là phổ biến hơn cả. So với những hình thức khác của chủnghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa thì chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô nhượng có lẽ là hình thức đơn giản nhất, rành mạch nhất, sáng tỏ nhất, có hình thù rõ rệt nhất. Chúng ta biết đích xác những cái lợi và những cái hại cho chúng ta, những quyền hạn và nghĩa vụ của chúng ta. Chúng ta trả một “cống nạp” cho chủ nghĩa tư bản thế giới về một số mặt nào đó, nhưng chúng ta lại có ngay được một biện pháp nhất định để củng cố chính quyền của mình, để cải thiện những điều kiện làm ăn. Về tô nhượng, thì tất cả khó khăn của nhiệm vụ là phải suy nghĩ, phải cân nhắc hết mọi điều khi ký hợp đồng tô nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó. Như vậy, có thể coi tô nhượng là một hình thức “làm ăn” với tư bản nước ngoài nói chung. Để thực hành tô nhượng trong nhà nước vô sản thì cần phải có một số điều kiện sau: Cần phải từ bỏ chủ nghĩa ái quốc địa phương của một số người cho rằng tự mình có thể làn lấy, không chấp nhận trở lại chịu ách nô dịch của tư bản. Lê-nin nêu rõ cần phải sẵn sàng chịu đựng một loạt hy sinh thiếu thốn và bất lợi miễn sao có được một sự chuyển biến quan trọng và cải thiện tình trạng kinh tế trong các ngành công nghiệp chủ yếu. Cũng phải dự kiến rằng trong thời gian đầu không thể tránh khỏi sai lầm, nhưng dù sao cũng phải cố đạt được điều đó. Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nước ngoài. Điều trọng yếu nhất khi thực hành chế độ tô nhượng là nâng cao số lượng sản phẩm nên. Nhưng điều đặc biệt quan trọng, thậm trí càng quan trọng hơn là cải thiện ngay tức khắc đời sống của công nhân. Cải thiện đời sống của công nhân trong các xí nghiệp tô nhượng và ngoài tô nhượng được xem là “cơ sở của chính sách tô nhượng”. Ngoài ra, người nhận tô nhượng phải bán thêm cho chính quyền nhà nước vô sản (nếu có yêu cầu) từ 50% đến 100% số lượng sản phẩm tiêu dùng cho các công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng, làm như vậy để cải thiện đời sống của các công nhân khác. Vấn đề trả lương cho các công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng, trả bằng ngoại tệ , bằng phiếu đặc biệt hay bằng tiền thì sẽ được quy định theo sự thỏa thuận riêng trong từng hợp đồng. Vấn đề đối với nhà nước là phải biết thích ứng với mọi điều kiện sao cho có thể đấu tranh được với họ để cải thiện một mức nào đó đời sống của công nhân. Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng và những loại công nhân viên nói trên. Cố nhiên, việc thuê mướn công nhân và nhân viên nước ngoài, tổng số cũng như từng loại phải theo tỷ lệ phần trăm so với công nhân, tỷ lệ này sẽ thoả thuận trong hợp đồng. Còn đối với những công nhân là chuyên gia có trình độ cao, nếu các xí nghiệp tô nhượng muốn mời thì phải được sự đồng ý của các cơ quan chính quyền trung ương. Theo tinh thần này thì tức là không thể để các chuyên gia ưu tú nhất làm việc ở các xí nghiệp tô nhượng. Tuy không cấm hoàn toàn nhưng việc thi hành hợp đồng phải được giám sát từ trên xuống và từ dưới lên. Phải tôn trọng pháp luâth như các đạo luật về điều kiện lao động, về kỳ hạn phát lương… Nếu người nhận tô nhượng yêu cầu phải ký hợp đồng với các công đoàn thì đó chính là nhằm xoá bỏ mối lo ngại của tư bản đối với công đoàn trong nhà nước vô sản. Đồng thời cũng phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật trong nước và nước ngoài. Điều này phải được quy định tỷ mỷ trong từng hợp đồng, bởi vì đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là ở chỗ nó không có khả năng chăm lo đến việc sử dụng đất đai và sức lao động một cách khoa học và đúng đắn. b.Các hợp tác xã: Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước nhưng ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn. Nó cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự kiểm kê, kiểm soát, theo dõi cho những quan hệ đã ghi trong hợp đồng giữa nhà nước và nhà nước tư bản. Hơn thế, nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hiệp và tổ chức hàng triệu người, sau đó là toàn thể dân chúng. Đó là một điều lợi rất lớn cho bước quá độ tương lai từ chủ nghĩa tư bản nhà nước lên chủ nghĩa xã hội. Chế độ hợp tác xã ra đời dựa trên cơ sở tiểu công nghiệp, trên nền sản xuất thủ công mà một bộ phận thậm chí còn gia trưởng. Hợp tác xã bao gồm hàng ngàn, hàng chí hàng triệu tiểu nghiệp chủ, trong đó việc kiểm soát các thành viên hợp tác xã là rất khó khăn. Khi chính sách hợp tác xã thành công sẽ giúp cho nền kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp. Theo quan điểm của Lê-nin thì có hai loại hợp tác xã. Đó là: Thứ nhất là chế độ hợp tác xã hoàn toàn đồng nhất với chủ nghã xã hội, đó là một tổ chức được quần chúng nhân dân chân chính thực sự tham gia một cách tự giác, một tổ chức có thể kết hợp lợi ích tư nhân, lợi ích thươn g nghiệp tư nhân với việc nhà nước kiểm soát và kiểm tra lợi ích đó, làm cho lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung. Đó còn là một kiểu xí nghiệp thứ 3, tức xí nghiệp hợp tác xã, những xí nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân và những xí nghiệp kiểu chủ nghĩa xã hội chính cống. Chế độ hợp tác xã kiểu này có ý nghĩa đặc biệt trước hết là về phương diện nguyên tắc( nhà nước nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất, sau nữa là về phương diện bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường đơn giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nhân dân. Nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nhân dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững được hai chân trên mảnh đất xã hội chủ nghĩa. Thứ hai là hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước, với cách diễn đạt của Lê-nin nó là các hình thức hợp doanh(cong ty hợp doanh). Theo khái niệm thường dùng hiện nay thì đó là những tổ chức tư bản tập thể. Nó là bước chuyển từ tiểu sản xuất sang một thời kỳ lịch sử. c.Hình thức đại lý uỷ thác. Theo hình thức này thì nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nứơc và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. d.Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất. Hình thức này giống như hình thức tô nhượng, nhưng đối tượng tô nhượng không phải là tư bản nước ngoài mà là tư bản trong nước. Hình thức này được coi là hình thức riêng biệt để phân biệt nó với hình thức tương tự nhưng đối tượng thuê chỉ là tư bản trong nước. e.Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ. Qua thực tiễn Lê-nin đã đưa ra hình thức nữa của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chính ở những hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê, sản xuất tại đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn nhất trước kia là của tư bản. Những quan hệ của chủ nghĩa tư bản nhà nước được phát triển, những nông dân nay hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước. Đây cũng là một đối tượng cho thuê-theo cách nói của Lê-nin là những tiểu tư bản. g.Công ty hợp doanh. Khi nói về lĩnh vực thương nghiệp thì không thể khong nhắc tới các công ty hợp doanh. Đó là những công ty thành lập theo thể thức tiền vốn một phần là của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư bản nước ngoài và một phần là của chính quyền giai cấp vô sản. Việc công ty hợp doan ra đời là một bước tiến lớn của chính quyền giai cấp vô sản. Chính quyền giai cấp vô sản thành lập ra các công ty này và lúc nào cũng có khả năng thủ tiêu nó. Trên đây là một số hình thức chủ nghĩa tư bản nhà ._.nước có thể rút ra từ thực tiễn thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước của Lê-nin. 3.3.Kết quả của việc thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước ở thời Lê-nin. Sự thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước ở thời Lê-nin đã mang lại những hiệu quả rất lớn: Trước hết và chủ yếu là tình hình giai cấp nông dân: nền kinh tế nông dân được phục hồi từ cchỗ đói kém, nông dân chẳng những đã thoát khỏi được nạn đói mà còn nộp thuế lương thực hàng trăm triệu pút, họ đã hại lòng với tình hình của họ. Đặc biệt là sau những “năm chính sách thời chiến”, ở nông thôn đã có những thay đổi to lớn. Nhân dân đã trung nông hoá nhều hơn, số trung nông đã chiêm đến 65% trong tổng số nhân dân (thay cho con số 20% trước cách mạng) và họ trở thành bộ mặt trung tâm ở nông thôn. Về công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển chung, và do đó điều kiện sinh hoạt của các công nhân trong lĩnh vực này đã được cải thện rõ nét, đặc biệt là công nhân ở Pê-tơ-rô-gơ-rat và ở Mạc-tư-khoa. Đó là điều không thể chối cãi được. Còn về công nghiệp nặng tuy vẫn còn nhiều khó khăn nhưng cũng có sự thay đổi nhất định. Công nghiệp nặng vẫn còn khó khăn là do không có khoản vay lớn hàng mấy trăm triệu đô la. Chính sách tô nhượng cho đến lúc ấy (1922) vẫn chưa có một tô nhượng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Các nước đế quốc vẫn đang muốn bóp chết nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ nên không hy vọng gì là có thể vay ở các nước giàu có. Công nghiệp nặng cần được nhà nước trợ cấp, nếu không tìm ra dwocj những khoản trợ cấp đó thì nhà nước của giai cấp vô sản sẽ bị đập tan. Chính sách chủ nghĩa tư bản nhà nước theo đánh giá cho đến năm 1924, nhìn chung đã đem lại cho nước Nga Xô Viết những tác dụng tích cực nhất định, góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã bị suy sụp sau chiến tranh. Nhờ tô nhượng, nhiều ngành công nghiệp quan trọng (đặc biệt là khai thác dầu) đã phát triển với nhiều kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật và thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đã được đưa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao.Tô nhượng cùng các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương Tây. Thông qua các hoạt động của các công ty hợp doanh, những người cộng sản còn có thể thực sự học cách buôn bán, điều mà bấy giờ Lê-nin thường nói là nhiệm vụ rất quan trọng. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp đã góp phần giúp cho giai cấp vô sản duy trì sự hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu dùng đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hóa nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liền quan hệ trao đổi công- nông nghiệp,thành thị-nông thôn. Kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới, và chủ nghĩa tư bản nhà nước đã thực sự là một phần đặc trưng của chính sách kinh tế mới ở Liên Xô. 4.Bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện chuyên chính vô sản. Cho đến nay, chủ nghĩa tư bản nhà nước thường được hiểu chỉ là một hình thức kinh tế, một thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức này không sai nhưng không đầy đủ. Chừng nào giai cấp tư sản còn có dù chỉ một tia hy vọng để giải quyết vấn đề căn bản (tức là vấn đề chính quyền), bằng mọi phương tiện có hiệu lực mạnh nhất, tức là chiến tranh, thì giai cấp tư sản không thể nào và cũng không cần phải chịu nhận những sự nhượng bộ cục bộ mà chính quyền giai cấp tư sản giành cho họ nhằm chuyển sang chế độ mới một cách hết sức tuần tự. Cũng có một nhận thức nữa về chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa tư bản nhà nước với tính cách là phương pháp sử dụng giai cấp tư sản ở trong nước, phương pháp cải tạo hoà bình giai cấp tư sản. Cách hiểu này là phổ biến đối với các nước dân chủ nhân dân trước đây. Nhưng dưới ánh sáng của tư duy mới, của nhận thức mới về chủ nghĩa tư bản nhà nước, quan niệm đó đã là một sai lầm và là một nguyên nhân dẫn đến sự sút kém của nền kinh tế quốc dân, vì vậy có thể dẫn đến xoá bỏ nhanh chóng chủ nghĩa tư bản nhà nước, khiến cho bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội rơi vào tình trạng bế tắc. Như vậy không phải ý định duy trì quan hệ kinh tế với tư bản tư nhân cũng như với tư bản nước ngoài, ý định tìm cách thích ứng với những quan hệ xã hội tồn tại khi ấy đã có thể trở thành hiện thực nay, mặc dù đó là một khả năng khách quan. Chỉ sau khi sức mạnh của chính quyền công nông đã đè bẹp sự phản kháng, chống đối của giai cấp tư sản bên trong được giai cấp tư sản quốc tế ủng hộ, việc “ nắm tất cả các đòn bẩy chỉ huy”, “nắm ruộng đất”, “ruộng đất thuộc về nhà nước”, chỉ khi ấy sự tồn tại của thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước mới thành hiện thực. Quá trình thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước là quá trình xã hội hoá sản xuất trong thực tế. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán, được kiểm soát và được xã hội hoá, là con đường đạt tới sự kiểm kê, kiểm soát của toàn dân. Chính sách chủ nghĩa tư bản nhà nước có tư tưởng “lợi dụng chủ nghĩa tư bản, đó là lợi dụng về vốn, kinh nghiệm quản lý, mối liên hệ kinh tế với bên ngoài, đặc biệt là lợi dụng về quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa. Lê-nin viết: “chủ nghĩa tư bản nhà nước không phải là vấn đề tiền, mà là vấn đề xã hội. Rất đáng chú ý những tư tưởng sau đây của Lê-nin: chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất nên. Việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản cần thiết phải có một loạt các bước quá độ như chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Trong một nước tiểu nông, trước hết phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản nhà nước: mô hình kinh tế, cương lĩnh quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đặt ra cho thời kỳ quá độ là công cuộc xây dựng kinh tế, là việc đặt nền móng kinh tế cho toà nhà mới, toà nhà xã hội chủ nghĩa để thay thế cho toà nhà phong kiến đã bị phá huỷ hay toà nhà tư bản chủ nghĩa đã bị phá huỷ một nửa. Nói cách khác, đó là nhiệm vụ xã hội hoá sản xuất trong thực tê, là sự kiểm kê, kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm, thiếu nó chủ nghĩa xã hội chỉ là không tưởng. Một kết cấu kinh tế tiểu nông là một kết cấu mà một phần có tính chất gia trưởng, một phần có tính chất tiểu tư sản. Một nước có nền kinh tế chậm phát triển là nước có kết cấu kinh tế như thế hoặc chủ yếu là như thế. Cho nên để quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tiểu nông thì phải tiến tới xã hội hoá trong thực tế bằng sự phát triển cực thịnh nền kinh tế thị trường. Nhưng vì là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cho nên chính quyền dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân phải đồng thời thực hiện 3 sự chuyển hóa: từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa, từ nền kinh tế hàng hoá thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, từ những nền kinh tế hàng hoá (tiểu tư bản và tư bản) thành nền kinh tế thị trường định hướng lên chủ nghĩa xã hội, với tính cách là công cụ xây dựng lên chủ nghĩa xã hội, xã hội hoá xã hội chủ nghĩa trong thực tế. Sự chuyển hoá ấy rõ ràng ít đau đớn hơn nhưng vô cùng phức tạp, khó khăn và cũng không loại trừ khả năng chủ nghĩa xã hội tự bị phá huỷ một phần từ bên trong trước tính tự phát của kinh tế thị trường, trước sức mạnh của đồng tiền. Như vậy trong mô hình kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông, vấn đề “phát triển tự do trao đổi” phải được coi là “chiếc đòn xeo”, “chiếc gậy chống” để đi lên. Trong chính sách tự do trao đổi mà có sự liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, có sự hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản. Do đó trong nền kinh tế cùng với những cơ sở kinh doanh tư bản chủ nghĩa vốn có, nhà nước vô sản chẳng những phải để cho nó tồn tại vì có lợi và cần thiết, mà còn tạo điều kiện để cho nó phát triển (với mức độ cần thiết). Thành phần kinh tế tư bản tư nhân tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan trong nền kinh tế quá độ. Việc hướng kết cấu ấy vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước cùng với việc “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài đã hình thành một thành phần kinh tế khách quan chủ nghĩa tư bản nhà nước. Từ đó có thể khẳng định: nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng kinh tế tư bản của thời kỳ quá độ không phải chỉ đối với một nước tiểu nông, mà nói chung đối với mọi nước khi chưa có cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở vào trình độ xã hội hoá sản xuất cao độ. Chỉ có thể hiểu đúng các thành phần kinh tế trong mối liên hệ với đường lối kinh tế quá độ, với chính sách phát triển kinh tế hàng hoá và chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tư tưởng của Lê-nin là phải xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở nền kinh tế cũ, làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với chủ nghĩa xã hội. Do đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ là khắc phục từng bước tính chất không thuần nhất về quan hệ kinh tế trên cơ sở phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Vì vậy quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình khá lâu dài, nhất là đối với những nước tiểu nông. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, tuỳ theo điều kiện xuất phát của từng nước mà tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế không giống nhau. Về thực chất, có hai hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu tư nhân tiểu tư bản và tư nhân tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu xã hội chủ nghĩa mà sở hữu nhà nước là một hình thức. Nhiệm vụ của chính quyền không phải là chặn đứng sự phát triển của kinh tế tư nhân nếu không muốn ngăn cấm phát triển kinh tế hàng hoá, xây dựng và mở rộng thị trường. Nhưng cũng không phải là chấp nhận tính tự phát không giới hạn của chế độ sở hữu này,mà phải hướng nó đi vào con đường của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực hiện chế độ sở hữu hỗn hợp, đa dạng chính là thực hiện dân chủ về mặt kinh tế trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hôị. Đó là sự phân phối dân chủ,nghĩa là dưới nhiều hình thức nhưng hình thức phân phối theo lao động ngày càng chiếm ưu thế, nghĩa là quá trình phân phối sẽ vận động theo xu hướng đó nhưng không phải là phổ biến ngay lập tức. Còn về chính trị thì lại phải hiểu một cách tinh tế hơn, đó là một khi đã nắm được sức mạnh kinh tế, trong khi chức năng kiểm soát và điều tiết của nhà nước bị suy yếu thì không phải không có khả năng nền chính trị bị tri phối bởi những lực lượng chính trị tư bản chủ nghĩa. Nhà nước sử dụng chủ nghĩa tư bản theo tinh thần vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đấu tranh để hợp tác, hợp tác trong đấu tranh. Ta phải làm sao để ngày càng củng cố được sự hợp tác giữa mọi lực lượng trong khi nhà nước ngày càng thực hiện được sự kiểm soát và điều tiết của mình đối với toàn bộ các lực lượng xã hội. Mô hình kinh tế quá độ theo chính sách chủ nghĩa tư bản nhà nước chứa đựng những quan niêm về mục tiêu,con đường, phương pháp, phương thức để đạt được đến mục tiêu kinh tế của thời kỳ quá độ lâu dài, hoà bình, hợp tác và đấu tranh, về những chiếc cầu vững chắc và những mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội. II.Thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản ở nước ta 1.Tính cấp thiết . Trước những diễn biến cuả thế giới nói chung và tình hình nước ta nói riêng, chúng ta càng thấy rõ được tính cấp thiết phải thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản ở nước ta hiện nay. Nó được thể hiện rõ ở các điểm sau : Luận điểm quan trọng nhất làm cơ sở xuất phát để nghiên cứu là việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư bản nhà nước.Nước ta sau khi thống nhất hoàn toàn đất nước (1975) là một nước lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, bình quân lương thực rất thấp : năm 1976 là 274,4 kg/đầu người, năm 1980 chỉ còn 268,2 kg/đầu người, thậm chí có năm tụt xuống chỉ còn 215 kg/đầu người, không đạt một số chỉ tiêu đầu tư, sản lượng công nghiệp, giá trị sản phẩm nông nghiệp … Do đó cần phải có một sách lược phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Nội dung sách lược đó của Lê-nin là: phải tỏ ra mềm dẻo hơn, thận trọng hơn, nhượng bộ hơn với giai cấp tiểu tư sản, đối với trí thức, nhất là đối với giai cấp nông dân. Phải lợi dụng các nước phương Tây về mặt kinh tế, bằng đủ mọi cách lợi dụng họ hơn nữa và thật nhanh chóng bằng cách thực hiện chính sách tô nhượng và trao đổi hàng hoá với họ. Phải làm việc đó một cách rộng rãi, kiên quyết, khéo léo và thận trọng. ở đây, có thể và cần thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội chậm hơn, thận trọng hơn và có hệ thống hơn. Cần phải biết lợi dụng hoàn cảnh quốc tế có lợi. Về mặt kinh tế nên dựa ngay tức khắc vào việc trao đổi hàng hoá với tư bản nước ngoài và không nên bủn xỉn, nếu cần cho họ những khoáng sản quý giá. Cố gắng cải thiện ngay lập tức đời sống của nông dân, lôi cuốn các nhà tri thức tham gia xây dựng kinh tế… Từ đó ta đưa ra các nhận xét sau: _Thứ nhất là trong hoàn cảnh dù gay go quyết liệt nhất vẫn có khả năng thực hiện chính sách chủ nghĩa tư bản nhà nước. Con đường đi xuyên vòng qua chủ nghĩa tư bản để đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan đối với nước ta.Sự tất yếu này được đề cập tới ngay trong cuộc đấu tranh hết sức gay go, gian khổ giữa một bên là chính quyền còn non yếu với một bên là tư bản đế quốc đang là một lực lượng mạnh toàn thế giới, đang nắm trong tay toàn bộ kỹ thuật, phương tiện vận tải và hải quân… _Thứ hai là thời kỳ quá độ là một thời kỳ khá lâu dài, nhất là đối với những nước tiểu nông. Bản thân chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước đã tự nói lên điều này. Để có thể khẳng định tính tất yếu lâu dài của chủ nghĩa tư bản nhà nước đối với nước ta, cần phân tích và tìm hiểu một số luận điểm của Lê-nin có liên quan : +Luận điểm thứ nhất: “Chúng ta đã lùi về chủ nghĩa tư bản nhà nước” Trong hoàn cảnh thực tế của chúng ta bây giờ, chúng ta không thể trực tiếp chuyển ngay lên chủ nghĩa Cộng sản được, không thể tấn công trực diện được vì làm như thế sẽ gây bất bình trong nhân dân. Vì vậy Lê-nin đã thực hiện một bước lùi so với trước đây, từ vội vàng trở về với những bước đi thận trọng. Thực chất sự “lùi” này là sự từ bỏ những quan niệm sách vở về chủ nghĩa xã hội để trở về với thực tiễn và sáng tạo, từ bỏ chủ nghĩa duy ý chí để trở về với tính khách quan của quy luật… +Luận điểm thứ hai: “Hiện nay đã có những triệu chứng cho thấy rằng cuộc lùi bước ấy sắp chấm dứt; rằng chúng ta sẽ có thể chấm dứt cuộc lùi bước ấy trong một tương lai không xa lắm nữa”. Luận điểm này nói lên rằng: có thể do chủ trương thi hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước đã không được chủ nghĩa tư bản quốc tế trả lời có thiện chí, mà còn đi ngược lại nên buộc phải chấm dứt. Có thể luận điểm này nêu lên vấn đề cần có sự thay đổi căn bản quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Cũng có thể luận điểm này của Lê-nin là sự phản ánh quan niệm phần nào đơn giản về chủ nghĩa xã hội do bị hạn chế của điều kiện lịch sử, đặc biệt là trình độ kỹ thuật, công nghệ còn thấp hồi ấy, luận điểm còn gắn với sự tự phát triển của chủ nghĩa đế quốc, về sức sống khá mãnh liệt của chủ nghĩa tư bản ở thời đại đế quốc chủ nghĩa. Hơn thế nữa, vào nửa cuối thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật-công nghệ diễn ra như vũ bão. Chính các nước tư bản phát triển đã kích thích và tận dụng được cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật-công nghệ đó, cùng những điều kiện khác về kinh tế –xã hội đã giúp chủ nghĩa tư bản nhà nước đang còn sức phát triển. Trong khi đó chủ nghĩa xã hội lại có một số khuyết tật nghiêm trọng, vì vậy mà thời kỳ quá độ vẫn còn diễn ra lâu dài. Như vậy, điều không thể phủ định được rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không thể nào khác ngoài con đường phát triển kinh tế hàng hoá, dung nạp, du nhập chủ nghĩa tư bản và hướng vào chủ nghĩa tư bản nhà nước. 2.Khả năng thực hành chế độ chủ nghĩa nhà nước tư bản ở nước ta: a.Những đặc điểm của thời đại hiện nay: Vào khoảng cuối thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã mở ra những chân trời vô cùng rộng lớn cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nó có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới nền sản xuất công nghiệp toàn cầu, làm thay đổi cơ bản bộ mặt kinh tế và chính trị thế giới hiện đại. Loài người đã bước vào một thời đại phát triển mới, chuyển từ nền văn minh máy móc, hoá chất,dầu lửa sang nền văn minh sinh học và thông tin, nền kinh tế thế giới đang bước vào một nền kinh tế được nhiều người gọi là nền kinh tế trí tuệ. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới được thể hiện ở một số điểm lớn sau: Tốc độ phát triển kinh tế thế giới ngày càng cao.Tốc độ phát triển tổng sản phẩm xã hội thế giới từ 1%/năm trong thế kỷ XVIII lên 2%/năm trong thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai là 5%.Cuối thế kỷ XVIII, để công nghiệp hoá một nước cần gần 100 năm, ở thế kỷ XIX là gần 50 năm, đầu thế kỷ XX là 30 năm, từ những năm 70 đến những năm 80 là 20 năm nhưng trong những thập kỷ 90 thời gian chỉ cần là khoảng 10 năm. Vai trò điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế ngày càng mạnh,và vai trò điều tiết này không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà nó có sự điều chuyển phối hợp siêu quốc gia. Hiện nay còn có dấu hiệu xuất hiện một thứ chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế. Các tổ chức xuyên quốc gia này ngày càng phát triển và có ảnh hưởng chi phối các quan hệ kinh tế, chính trị quốc tế của nhiều quốc gia. Hiện nay có khoảng 2000 công ty xuyên quốc gia với 33 triệu lao động làm thuê, kiểm soát 40% sản lượng công nghiệp thế tư bản, 60% ngoại thương, 80% đến 85% kỹ thuật mới của thế giới tư bản. Không chỉ các nước phát triển mới có các công ty xuyên quốc gia, mà các nước đang phát triển cũng có các công ty này như: ấn Độ có 193 công ty, Nam Triều Tiên có 140 công ty đặt ở 44 nước… Các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, đặc biệt là các nước Bắc Âu hiện đang giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, trợ cấp thất nghiệp, giáo dục phổ cập, bảo vệ môi trường…trên cơ sở bảo đảm lợi ích phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong quan hệ với các nước kém phát triển, các nước tư bản đang chuyển từ chính sách tước đoạt, cướp bóc, kiềm chế các nước này trong vùng lạc hậu sang chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa phụ thuộc ở các nước này, tạo ra một thị trường rộng lớn, một hệ thống công nghệ phụ thuộc, một môi trường kinh doanh có lợi cho họ. ở các nước đang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa đều tiến hành những cải tổ với các mật độ khác nhau. Khuynh hướng mở cửa nền kinh tế đang phát triển, thực hiện chính sách thu hẹp khu vực kinh tế quốc doanh, mở rộng kinh doanh tư nhân tuy vẫn giữ vẫn giữ quyền điều tiết và kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động kinh tế, tiến hành cuộc đấu tranh thành lập các khu vực phi hạt nhân, phi căn cứ quân sự nước ngoài, mở rộng cuộc đấu tranh cho một trật tự kinh tế quốc tế mới. Tóm lại, đặc trưng bao quát nhất của thời đại hiện nay là: thế giới đang ở bước ngoặt,bước quá độ từ cục diện cũ sang cục diện mới chạy đua toàn cầu về kinh tế, một cuộc “đấu tranh mềm” trong cục diện vừa đấu tranh vừa hợp tác,trong cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau; “vừa có diễn biến hoà bình” vừa có chống “diễn biến hoà bình”, cục diện một thế giới với tính độc lập gần 200 nước trên thế giới với các trào lưu toàn cầu hoá, dân chủ hoá, hoà bình và phát triển.Sức mạnh của thời đại sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội thuận lợi cho nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng đặt ra cho chúng ta nhiều khó khăn thách thức. Chúng ta phải biết nắm bắt những cơ hội và vượt qua mọi khó khăn thách thức đó. b.Đặc điểm nước ta cùng thời cơ và thách thức: Hiện nay nước ta có một số đặc điểm nổi bật và tạo ra những thời cơ, thách thức với nước ta như: Việt Nam là một nước đang phát triển, còn nghèo nàn và lạc hậu, đa số dân cư làm nông nghiệp, trình độ dân trí chưa cao. Chúng ta quả là đang ở vào một vị trí xuất phát không thuận lợi lắm trong cuộc chạy đua kinh tế. Trong mấy năm gần đây mức tăng trưởng ngày một cao hơn nhưng vẫn chưa vẫn chưa cao vì tăng trưởng trên một nền tảng thấp: năm 1992 là 8,3%; năm 1993 là 7,5%; năm 1994 là 8,8% và năm 2002 là 7,04%. Nếu so sánh tổng sản phẩm quốc dân theo đầu người năm 1987 thì nước ta kém Thái Lan hơn 06 lần, kém Philipin hơn 4 lần, kém Malaysia hơn 13 lần, kém Indonexia gần 4 lần. Nhìn chung,năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả ở trong nước và nước ngoài, một phần do thiếu sức cạnh tranh. Gần 80% dân số làm nông nghiệp nhưng nông nghiệp chưa được đầu tư hợp lý và thích đáng, công nghiệp trong nông nghiệp chưa phát triển, nông dân vẫn còn lao động với những dụng cụ thô sơ, ít máy móc. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao, đang là vấn đề nổi cộm của xã. Phân hoá giàu nghèo ở nước ta đang tăng trong nền kinh tế thị trường, nhiều nơi trầm trọng. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu, trình độ quản lý còn thấp và có nhiều thiếu sót. Đào tạo chưa gắn với sử dụng, gây lãng phí. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tất cả những điều đó đã làm cho chúng ta gặp không ít những khó khăn thách thức với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện nay trong công việc thực hành chế độ chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước. Khi đó nếu chúng ta không tranh thủ được cơ hội và khắc phục những yếu kém thì sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác trên thế giới. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ còn làm cho quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi chúng ta phải có một trình độ dân trí cao để tiếp nhận các dây truyền sản xuất hiện đại, trong khi đó trình độ dân trí của ta còn thấp nên việc lựa chọn việc tiếp nhận các dây chuyền sản xuát từ các nước khác gặp nhiều khó khăn, gây ra lãng phí và đẩy nước ta trở thành bãi thải các khoa học công nghệ lạc hậu, và điều này được thể hiện ở sự tác động của các công ty xuyên quốc gia, đó là sự phân công chuyên môn hoá hẹp kiểu công trường thủ công kết hợp các loại kỹ thuật. Trong sự phân công ấy những thao tác, quy trình công nghệ cần nhiều lao động giản đơn thì đều “nhường” cho các nước kém phát triển như nước ta vì tiền công rẻ. Như vậy nước ta sẽ buộc phải lao vào ngành kỹ thuật cao nhưng vấp phải vấn đề vốn và đội ngũ khoa học, kỹ thuật không có hoặc yếu kém. Bên cạnh đó cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ cũng đem đến cho nước ta những thời cơ lớn, giúp chúng ta thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước một cách dễ dàng để thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước một cách nhanh chóng, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đã đem lại cho nước ta những đảo lộn lớn lao trong cơ sở vật chất kỹ thuật và kiến trúc thượng tầng, trong thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, trong quan hệ quốc tế , trong kết cấu giai cấp và xã hội…, nó có thể đưa nền kinh tế nước ta cất cánh lên một cách nhẹ nhàng nếu chúng ta biết nắm bắt những thời cơ đó. Chính vì thế chúng ta chấp nhậ lùi một bước về chủ nghĩa tư bản nhà nước để nắm bắt được những cơ hội mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ mang lại cho chúng ta, nắm bắt được cái mà thiên hạ cần ta để có chính sách thoả đáng, biến cái thiên hạ cần ta thành hiện thực. Không chỉ thế, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ còn đem lại cho ta những phương thức sản xuất tiên tiến và hiện đại, một nguồn vốn lớn từ nước ngoài vào nước ta nhưng chúng ta phải tiếp nhận một cách chọn lọc thì sẽ thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Một điều thuận lợi nữa của nước ta là: nước ta có được một hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ giữa nước ta với các nước lâu nay là thù địch, thuận lợi cho việc mở rộng mối quan hệ quốc tế. Bởi lẽ xu hướng trên thế giới hiện nay là toàn cầu hóa đã lôi cuốn các nước và Việt Nam ta không nằm ngoài vòng xoáy đó, nó vừa thúc đẩy sự hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế để cùng phát triển trên tiêu chí “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” đã trở nên quen thuộc, đặc biệt Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Mỹ, mở rộng quan hệ với Nhật, EU…trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, khoa học-kỹ thuật…Việc bình thường hoá quan hệ với quỹ tiền tệ thế giới (IMF), ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển Châu á (ADB)…đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam phát triển nền kinh tế của mình. Sự kiện nổi bật là tháng 6-1995 Việt Nam gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam á(ASEAN), cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA)…Việc mở rộng các mối quan hệ quốc tế như vậy sẽ giúp ta phát triển ngày càng nhanh, trở thành một đối tác kinh tế xã hội và ngày càng được chú ý trong cộng đồng kinh tế quốc tế và khu vực. Không chỉ thế, nước ta còn có một vị trí địa lý rất thuậ lợi, nằm ngay trong khu vực phát triển năng động nhất của thế giới ngày nay nên thu hút được vốn nước ngoài dưới những hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước, đó là khu vực Châu á-Thái Bình Dương, trong đó Trung Quốc có vai trò ngày càng lớn. Do đó mà ta không thể không lưu ý mở rộng ảnh hưởng và tìm những nguồn đầu tư mới ở vùng này bằng cách hợp tác khu vực đúng đắn cùng với chính sách quốc tế mềm dẻo: Luật đầu tư nước ngoài được ban hành rất sớm (tháng 12-1987) và được sửa đổi bổ xung nhiều lần cho đến nay, đã thu hút được một tỷ lệ vốn lớn (khoảng 8%GDP), nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã trở thành một nhân tố phát triển quan trọng của nền kinh tế nước ta hiện nay. Có nhiều doanh nghiệp thực hiện liên doanh với nước ngoài trong nhiều lĩnh vực. Tổng kim ngạch xã hội 5 năm (1995-2000) đạt trên 51,6 tỷ USD, trong đó năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt trên 186 USD/một người. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Hơn thế nữa, nước ta còn có lợi thế là có nhiều tài nguyên quý giá (dầu khí,kim loại quý, rừng với nhiều gỗ quý), đó là một thị trường không phải nhỏ với gần 80 triệu dân với sức tiêu dùng khổng lồ, đặc biệt là sự ổn định chính trị (nước ta được đánh giá là nước có tình hình chính trị ổn định nhất thế giới) đã thu hút được đầu tư lâu dài của người nước ngoài, các tổ chức.tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Trong 5 năm (1996-2000) tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện đạt khoảng 10 tỷ USD, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và bổ xung đạt 24,6 tỷ USD, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 nên 85% năm 2000. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU), ASEAN có chiều hướng tăng cao, riêng các nước thuộc EU, Mỹ, Nhật Bản chiếm 44% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng. Tính trong 5 năm(1996-2000) nguồn vốn ODA đưa vào thực hiện khoảng 6,1 tỷ USD, tập trung hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, phát triển nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục và đào tạo…Vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội và kết cấu hạ tầng. Nhưng chúng ta lại vấp phải một điều khó khăn là thiếu tri thức và đội ngũ kinh doanh hiện đại, khoa học công nghệ lạc hậu làm mất đi đáng kể sự đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. Trình độ dân trí trên mặt bằng xã hội còn thấp so với thế giới, số người có trình độ đại học và trên đại học còn thấp so với tổng số dân, đội ngũ kinh doanh kém nhanh nhạy trong việc nắm bắt tình hình kinh tế thế giới và trong nước, hiện nay có nguy cơ giảm sút xuống cấp, nếu không có những cải cách mạnh mẽ và đúng đắn trên những lĩnh vực này thì có thể dẫn tới sự lạc hậu về trí tuệ, sự giảm sút về thể lực…làm cho nguồn nhân lực trong tương lai của chúng ta sẽ kém chất lượng. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ, sẽ không thay đổi được những công nghệ lạc hậu, thô sơ. Từ đó mà kềm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội nước ta. Hiện nay trên thế giới nước ta là một trong số ít những nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội nên gặp phải sự chống phá của các thế lực trong và ngoài nước trên con đường đi lên chr nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch và phản động đã hân hoan cuồng nhiệt khi chế xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô cũ bị sụp đổ. Chúng hy vọng rằng Việt Nam không thể đứng vững nổi trước một tình thế hết sức khó khăn. Nhưng trái lại Việt Nam vẫn ổn định, vẫn đứng vững và vượt lên phía trước. Vì vậy, bọn chúng luôn nuôi dưỡng mưu toan “diễn biến hoà bình” và hướng công cuộc đổi mới cuả nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa bằng những thủ đoạn đê hèn tuyên truyền làm giảm uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước, mua chuộc những phần tử phản cách mạng trong nước cấu kết với bọn chống phá ngoài nước…Bọn chúng tìm mọi cách đó là đồng nhất sự khủng hoảng hiện nay ở các nước xã hội chủ nghĩa với sự khủng hoảng của chính học thuyết của Lênin về chủ nghĩa xã hội để làm cho ta xa rời và từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đến với một loại học thuyết của chủ nghĩa tư bản, là hệ tư tưởng tư sản, để cho chúng ta từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa để chyển sang định hướng tư bản chủ nghĩa . Những đặc điểm trên của nước ta đã cho phép chúng ta có đầy đủ những điều kiện thuận lợi để thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước. Từ đó làm nền tảng xây dựng cơ sở vật chất kinh tế để công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. c. Một số quan điểm về thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta. Khi thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta thì có nhiều quan điểm khác nhau nhưng có một số quan điểm chiến lược thống nhất sau: *Phải phát triển và xây dựng một thị trường văn minh, tức là một thị trường phải có sự điều tiết chín chắn của nhà nước dựa vào sự tham ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0282.doc
Tài liệu liên quan