A. Giới thiệu đề tài
Trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, việc ứng dụng lí luận triết học Mác Lênin vào thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó đóng vai trò là kim chỉ nam, chỉ ra hướng đi đúng đắn cho toàn bộ quá trình này.
Trong triết học duy vật biện chứng, bất kì sự vật nào cũng đều chứa đựng mâu thuẫn. Đó là hiện tượng khách quan, phổ biến, hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong, vốn có của mỗi sự vật, hiện tượng.
22 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Triết học Mác Lênin đã khẳng định, chính mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc, động lực cho sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tường trong thế giới khách quan.
Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một hiện tượng trong đời sống kinh tế xã hội. Vì vậy, nó cũng không thể nằm ngoài qui luật mâu thuẫn. Điều này có nghĩa là nó luôn chứa đựng mâu thuẫn, và trong đó có mâu thuẫn biện chứng - nguồn gốc, động lực cho sự tồn tại, phát triển. Muốn xây dựng thành công và đưa nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đi lên, hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới thì điều tất yếu là phải nghiên cứu những mâu thuẫn biện chứng trong đó. Từ đó giúp chúng ta tìm ra những phương pháp có hiệu quả đối với điều kiện của đất nước.
Chính vì những lí do trên đây, em đã chọn “Mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài cho tiểu luận triết học đầu tiên của mình. Trong tiểu luận này, em chỉ xin đề cập tới một số mâu thuẫn tiêu biểu:
- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu
- Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con ngừơi xã hội chủ nghĩa
- Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội
- Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Hoàn thành được bài tiểu luận này, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Đoàn Quang Thọ đã hướng dẫn và truyền thụ kiến thức cho em. Do còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu, tiểu luận này không khỏi có thiếu sót và sai lầm do chủ quan khi nhìn nhận vấn đề. Em rất mong nhận được sự đánh giá và góp ý từ các thầy cô để em có thể thu được kết quả tốt hơn trong những lần nghiên cứu sau.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên
Nguyễn Quang Tuấn
B. NộI DUNG chính của đề tài
I. Lí luận chung về mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1, Cơ sở lí luận
Để nghiên cứu những mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chúng ta trước hết cần hiểu rõ thế nào là mâu thuẫn biện chứng, thế nào là công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, rồi từ đó mới liên hệ, thấy được những mâu thuẫn trong đó. Vì vậy phần cơ sở lí luận sẽ giúp chúng ta rõ hai mảng kiến thức cơ bản trên.
a, Mâu thuẫn biện chứng, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong quan điểm triết học phi Macxít, sự tồn tại của các mâu thuẫn bị phủ nhận, sự vật được cho là một thể thống nhất tuyệt đối. Hoặc nếu có thừa nhận có mâu thuẫn thì lại cho rằng mâu thuẫn chỉ tồn tại trong tư tưởng của một số ít ngừơi, và những tư tưởng đó là sai lầm.
Nhưng khi triết học duy vật biện chứng ra đời, sự tồn tại của mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng đã được khẳng định. Vậy mâu thuẫn biện chứng là gì mà có thể tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan? Đó chính là mối liên hệ, tác động qua lại giữa các mặt đối lập. Hay nói cách khác, mâu thuẫn biện chứng là mối liên hệ, tác động qua lại của những yếu tố, lực lượng, thuộc tính, khuynh hướng phát triển trái ngược nhau trong cùng một sự vật, hiện tượng, đồng thời chúng phải có khả năng chuyển hoá lẫn nhau, tạo nên sự vật, hiện tượng đó.
Ví dụ: sự liên hệ, tác động qua lại giữa sản xuất và tiêu dùng tạo nên một mâu thuẫn trong quá trình tái sản xuất; hoặc đồng hóa và dị hóa là hai mặt đối lập hình thành nên một mâu thuẫn biện chứng trong cơ thể sống.
Tuy nhiên cần phải phân biệt rõ, không phải bất kì hai thuộc tính trái ngược nhau nào cũng tạo nên mâu thuẫn. Bởi trong một sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, không chỉ tồn tại duy nhất hai xu hướng ngược chiều nhau, mà cùng một lúc tồn tại nhiều khuynh hướng phát triển ngợc nhau. Chỉ có những mặt nào cùng tồn tại trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, phát triển trái ngược nhau, có khả năng bài trừ, phủ định, và đặc biệt là chuyển hóa cho nhau, thì mới là hai mặt đối lập để tạo nên mâu thuẫn.
Ví dụ như đối với một liên doanh, việc sản xuất vào hai ca: ca sáng và ca chiều không tạo nên mâu thuẫn, chỉ có quá trình mua nguyên liệu vào và sản xuất ra sản phẩm rồi từ đó bán đi thu tiền về mới tạo nên một mâu thuẫn. Nó tựa như hai quá trình đồng hóa, dị hóa diễn ra trong một cơ thể sống.
a1, Trên cơ sở khái niệm về mâu thuẫn vừa nêu, triết học duy vật biện chứng đã tìm ra các đặc điểm của mâu thuẫn: tính khách quan và tính phổ biến.
Tính khách quan được thể hiện ở chỗ bất kì sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật hiện tượng quy định, không phụ thuộc hay bị một lực lượng siêu nhiên nào, kể cả ý chí của con ngời chi phối. Điều đó chứng tỏ cho dù trình độ khoa học, nhận thức của con ngừơi có phát triển tới mức độ nào chăng nữa thì cũng không thể tạo ra hay xóa bỏ mâu thuẫn. Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn trong mỗi một sự vật, hiện tượng mà còn chỉ ra rằng mâu thuẫn và sự chuyển hóa của các mặt đối lập là nguyên nhân sâu sa nhất, là động lực bên trong cho mọi quá trình vận động và phát triển khách quan của sự vật hiện tượng
Bên cạnh tính chất khách quan, mâu thuẫn biện chứng còn mang tính chất phổ biến, tức là nó có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy của con ngừơi. Trong lĩnh vực tự nhiên, khoa học đã chứng minh rằng thế giới vi mô là sự thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái dấu, giữa hạt và trường, giữa hạt và phản hat. Trong sinh học, sự sống được diễn ra theo các quá trình đối lập nhau: di truyền và biến dị, đồng hóa và dị hóa. Nếu xét các mâu thuẫn trong xã hội thì còn nhiều và phức tạp hơn. Đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng,...trong xã hội đối kháng thì mâu thuẫn cơ bản, điểm xuất phát của các mâu thuẫn khác là mâu thuẫn giai cấp: mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giữa giai cấp địa chủ và dân cày trong xã hội phong kiến, giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong xã hội tư bản. Trong kinh tế, mâu thuẫn còn phổ biến hơn: cung và cầu, tích lũy và tiêu dùng...Trong nền kinh tế hàng hóa còn có mâu thuẫn giữa tính kế hoạch hoá của từng công ty với tính tự phát vô chính phủ,...hay có những mâu thuẫn thuộc cả hai lĩnh vực xã hội và kinh tế như sự tăng trưởng kinh tế và việc tạo ra công bằng xã hội trong thời kì xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự tăng trưởng kinh tế với vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái. Không dừng lại ở tự nhiên, xã hội, mâu thuẫn còn tồn tại trong tư duy con ngừơi. Đó là mâu thuẫn giữa chân lí và sai lầm, giữa lí trí và tình cảm, giữa bản chất sinh học và bản chất xã hội trong con ngừơi, ...
Điểm đáng chú ý ở đây là không phải ứng với mỗi một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan chỉ có một mâu thuẫn mà nó bao gồm nhiểu mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn khác hình thành. Các sự vật khác nhau thì các mâu thuẫn cũng khác nhau. Điều đó tạo nên các tính chất riêng, các đặc trưng riêng cho mỗi sự vật hiện tượng khác nhau. Khi vật chất tồn tại ở hình thức vận động càng cao thì những mâu thuẫn của nó thể hiện càng rõ.
Ví dụ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, mâu thuẫn giai cấp thể hiện không rõ, không quyết liệt như trong xã hội phong kiến hay xã hội tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại, mâu thuẫn vừa mang tính khách quan, vừa mang tính phổ biến, luôn gắn liền với tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng từ khi xuất hiện tới khi kết thúc.
a2, Như đã nói ở trên, mâu thuẫn biện chứng là mối liên hệ giữa các mặt đối lập. Mối liên hệ này được thực hiện theo hai chiều: thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập chính là sự ràng buộc, nương tựa lẫn nhau, tạo điều kiện tiền đề cho nhau, ảnh hưởng nhau của các mặt đối lập. Các mặt đối lập tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng không phải ở trạng thái đứng cạnh nhau mà phụ thuộc vào nhau, tạo sự phù hợp, cân bằng cho nhau trong sự vật, hiện tượng đó. Nếu thiếu một trong hai mặt thì sự vật sẽ không tồn tại.
Ví dụ: sự thống nhất giữa sản xuất và tiêu dùng trong nền sản xuất hàng hóa. Nếu sản xuất ra mà không có tiêu dùng thì hàng hóa sẽ ế thừa. Không có tiêu dùng sẽ không có các nhu cầu đợc đặt ra, dẫn tới sản xuất sẽ không thể tiếp tục hoạt động. Ngược lại, nếu chỉ có tiêu dùng mà không có sản xuất thì sẽ không có hàng hóa để tiêu dùng, nhu cầu tiêu dùng không được thỏa mãn. Như vậy,tiêu dùng và sản xuất đều cùng tồn tại, ràng buộc nhau, cái này làm tiền đề tồn tại và phát triển cho cái kia và ngược lại. Hai quá trình này tạo nên sự ổn định tương đối cho nền sản xuất hàng hóa.
Ngay từ khái niệm thống nhất của các mặt đối lập, ta đã thấy có sự tương đổi trong đó, bởi trong thống nhất lại chứa cái đối lập. Vì vậy ta chỉ nên hiểu khái niệm này một cách tơng đối, nó chỉ ra sự cùng tồn tại, ràng buộc, qui định lẫn nhau của các mặt đối lập.
Đã nói tới đối lập là nói tới những xu hướng phát triển ngược chiều nhau. Chúng không chỉ dừng lại ở sự ràng buộc nhau mà giữa chúng luôn có sự đấu tranh, khi có điều kiện sẽ đưa tới sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập. Đây chính là động lực phát triển của bản thân sự vật hiện tượng. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự phủ định, bài trừ, gạt bỏ lẫn nhau của các mặt đối lập. Sự đấu tranh này được thể hiện dới nhiều hình thức khác nhau.
Ví dụ: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện ở sự kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến của quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Cuối thời phong kiến,lực lượng sản xuất đã phát triển rất mạnh mẽ, mang nhiều yếu tố, đặc điểm tiến bộ của chủ nghĩa tư bản. Xong quan hệ sản xuất phong kiến lại lạc hậu, ngăn cản những mặt tích cực, tiến bộ đó. Khi đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt. Muốn giải quyết mâu thuẫn, hay nói cách khác, muốn QHSX phù hợp với LLSX thì cần tiến hành các cuộc cách mạng dứơi nhiều hình thức khác nhau, trong đó có cả bạo lực vũ trang. Để chuyển từ QHSX phong kiến lên QHSX tư bản chủ nghĩa thì cần có cách mạng tư sản mà mở đầu là cuộc cách mạng t sản Pháp (1779).
Nhng sự đấu tranh giữa sản xuất và tiêu dùng lại diễn ra theo phương thức khác. Đó là sự phá huỷ sản phẩm của nhau. Sản xuất tạo ra sản phẩm thì tiêu dùng sử dụng chúng, làm mất đi giá trị của chúng do sản xuất tạo ra. Còn sản xuất tạo ra sản phẩm, làm mất đi các đòi hỏi, nhu cầu do tiêu dùng đặt ra.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập được diễn ra theo nhiều giai đoạn, tương ứng với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn.
Với giai đoạn hình thành mâu thuẫn, đây là giai đoạn mà các mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt. Ban đầu, các mặt đối lập mới chỉ tồn tại với tư cách là sự khác nhau. Cùng với sự phát triển của từng mặt, sự khác nhau này được nâng cao dần và chuyển thành sự khác biệt. Rồi sự khác biệt lại tăng dần và chuyển thành hai xu hướng trái ngợc nhau. Lúc đó các mặt đối lập được hình thành. Các mặt đối lập này liên hệ, tác động với nhau để tạo nên sự vật, qua đó tạo nên mâu thuẫn.
Ví dụ: khi chế độ tư bản chủ nghĩa mới hình thành, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản mới chỉ là hai giai cấp khác nhau trong xã hội. Họ khác nhau ở chỗ: giai cấp tư sản có nhiều tư liệu sản xuất hơn giai cấp vô sản. Do có nhiều tư liệu sản xuất, giai cấp tư sản tiến hành đầu tư, thuê công nhân là những ngời có ít hoặc không có tư liệu sản xuất mà phần lớn thuộc giai cấp vô sản. Thông qua đó, giai cấp tư sản đã tước đoạt phần giá trị thặng dư mà ngừơi công nhân đã tạo ra thông qua lao động trừu tượng của mình. Dần dần số vốn cũng nh lượng tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản càng ngày càng tăng, họ mở rộng thị trường và bóp nghẹt những cơ sở sản xuất của những ngừơi có ít tư liệu sản xuất, buộc họ muốn tồn tại thì phải trở thành lao động làm thuê. Như vậy, đã xuất hiện sự khác biệt gữa hai giai cấp, một bên có tư liệu sản xuất, một bên hoàn toàn không có tư liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất, ngừơi công nhân tạo ra giá trị thặng dư nhưng không đựoc sở hữu nó mà quyền sở hữu thuộc về nhà tư bản. Điểu đó tạo nên mâu thuẫn giữa hai giai cấp trong xã hội t bản. Hai giai cấp này chính là hai giai cấp cơ bản hình thành xã hội tư bản hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó.
Sau khi mâu thuẫn hình thành, các mặt đối lập không đứng yên mà tiếp tục vận động, phát triển theo các xu hướng ngược chiều nhau, làm tăng thêm sự khác biệt giữa chúng. Đây là biểu hiện của giai đoạn phát triển mâu thuẫn. Các mặt đối lập đã đối lập hơn và chuyển dần sang các mặt đối địch. Khi đó, mâu thuẫn đã phát triển tới đỉnh cao, nó đỏi hỏi cần được giải quyết. Ví dụ khi giai cấp tư sản ngày càng bóc lột phần giá trị thặng dư do công nhân làm thuê tạo ra, nên họ càng trở nên giàu có hơn. Trong khi đó, giai cấp vô sản ngày càng bị bần cùng hóa, phải bán sức lao động, chịu thiệt thòi. Quyền lợi của hai giai cấp về kinh tế đã đối lập hẳn nhau, mâu thuẫn càng tăng và tới lúc nào đó hai giai cấp trở thành hai giai cấp đối địch trong xã hội tư bản.
Khi mâu thuẫn đã phát triển tới đỉnh cao của nó, khi các điều kiện cần thiết cho việc giải quyết mâu thuẫn đã chín muồi thì lúc đó mâu thuẫn được giải quyết. Việc giải quyết mâu thuẫn được tiến hành bằng cách tạo nên sự chuyển hoá, bài trừ, phủ định giữa các mặt đối lập, thay đổi các mặt đối lập, làm mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới hình thành. Trong giới tự nhiên, sự chuyển hóa thường diễn ra một cách tự phát theo các qui luật tự nhiên, còn trong xã hội, sự chuyển hóa lại diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con ngừơi.
Ví dụ: trong tự nhiên, sự đấu tranh giữa biến dị và di truyền trong sinh vật thế hệ trước tạo ra loại sinh vật mới với những đặc điểm của thế hệ trước và cả những đặc điểm mới, thích nghi hơn với điều kiện môi trường xung quanh. Sự đấu tranh này theo quy luật tién hóa tự nhiên và tự diễn ra không cần sức mạnh hay sự chi phối của bàn tay con ngời. Còn trong xã hội, mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX muốn được giải quyết phải có các cuộc cách mạng, do con ngời tạo ra, bị chi phối dứơi ý thức tiến bộ của con ngừơi, hình thành QHSX mới, phù hợp với sự phát triển của LLSX.
Quá trình chuyển hoá của các mặt đối lập diễn ra rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú. Thông thường sự chuyển hóa có ba dạng:
Một mặt đối lập nào đó mất đi, mặt đối lập mới xuất hiện.
Các mặt đối lập thay đổi vị trí, tương quan lực lượng. Ví dụ sự thay đổi điện tích âm và dương trong phản ứng hạt nhân để tạo ra hạt nhân mới.
Cả hai mặt đối lập cùng thay đổi lên một trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật. Ví dụ: địa chủ, quí tộc với nông dân là hai giai cấp tạo nên mâu thuẫn trong xã hội phong kiến. Khi xã hội phong kiến sụp đổ, bị thay thế bằng xã hội tư bản chủ nghĩa thì hai giai cấp mâu thuẫn cơ bản trong xã hội cũ được thay thế bằng hai giai cấp là tư sản và vô sản. Hai giai cấp này đều có nhận thức, hiểu biết cao hơn hai giai cấp trong thời phong kiến, tức là có sự phát triển cao hơn về chất.
Như vậy, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đã đa tới sự chuyển hóa giữa chúng, làm các mặt đối lập thay đổi, tạo nên các mặt đối lập mới. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũ được thay thế bắng sự thống nhất của các mặt đối lập mới. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới hình thành. Cứ như thế sự đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn làm cho sự vật hiện tượng phát triển không ngừng. Sự phát triển này diễn ra theo ba xu hướng: từ thấp tới cao, từ đơn giản tới phức tạp, từ kém hoàn thiện tới hoàn thiện hơn. Hay nói cách khác, sự giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực cho sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan.
Có thể nói, thống nhất và đấu tranh là hai mặt của quá trình tồn tại của thế giới khách quan. Lênin đã chỉ ra rằng: Mặc dù thống nhất là điều kiện để sự vật , hiện tượng tồn tại với ý nghĩa nó là nó, nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được các sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó thường diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi chuyển hóa nhảy vọt về chất. Lênin viết: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Trên đây ta đã phân tích quá trình tồn tại, hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn biện chứng, cho thấy mâu thuẫn là một hiên tượng khách quan và phổ biến. Dù muốn hay không muốn chúng vẫn tồn tại trong sự vật hiện tượng của thế giới khách quan. Vì vậy chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận, và thừa nhận mâu thuẫn. Khi nghiên cứu một sự vật hiên tượng nào thì cần nghiên cứu những mâu thuẫn của đối tượng đó. Từ đó tìm ra những biện pháp, cách thức tác động tới sự vật hiện tượng đó sao cho phù hợp với qui luật khách quan, phục vụ cho nhu cầu của con ngừơi.
Bên cạnh những kiến thức về mâu thuẫn biện chứng, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu một só đặc điểm của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
b, Nền kinh tế thị trờng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải mang những tính chất của nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển nghĩa là phạm trù hàng hóa, phàm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hóa. Khi đó ngừơi ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường.
Trên thế giới đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế thị trường. Chẳng hạn, mô hình kinh tế thị trường-xã hội của Cộng hòa Liên bang Đức, kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc,...Nếu gác lại những đặc điểm cá biệt của những mô hình trên, thì kinh tế thị trường có những đặc điểm chung như sau:
Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp các chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường.
Hai là: Hàng hóa trên thị trường rất phong phú, trong đó có sự xuất hiện của loại hàng hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao động. Loại hàng hóa này có ưu điểm là sau khi mua ngừơi mua không bị lỗ mà còn thu được lãi. Lãi này được thể hiện ở phần giá trị thặng dư trong sản phẩm, được sinh ra do lao động trừu tượng của ngừơi công nhân. Sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại những hàng hóa trên thị trường cho thấy trình độ phát triển cao của năng suất lao động, của quan hệ trao đổi, phân công lao động xã hội và phát triển thị trường.
Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường.Giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh, quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ.
Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Muốn có nhiều lợi nhuận, các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm chi phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và lưu thông, trong nội bộ từng ngành và giữa các ngành với nhau.
Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở, được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và pháp luật của Nhà nước.
Mỗi đặc trưng trên đây phản ánh một khía cạnh của nền kinh tế thị trường. Tổng hợp cả năm đặc trưng sẽ giúp ta hình dung được khái quát cấu trúc của mô hình kinh tế này.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy mô hình phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh của thời đại ngày nay là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về đại thể, đáp ứng được những thách thức của sự phát triển.
ở nước ta, việc thực hiện mô hình này, trên thực tế, chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa, còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của nhân dân. Xã hội không có chế độ ngừơi bóc lột ngừơi, dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con ngừơi được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết vầ có tính khách quan. Nội dung định hướng XHCN của kinh tế thị trường ở nước ta đã được hội thảo khoa học nhiều lần. Đã có nhiều ngừơi cho rằng thị trường là cái của riêng của chủ nghĩa tư bản; thậm chí là không có thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội là hai thứ không thể dung hợp được. Họ cho rằng: “ Cả về lí thuyết và thực tiễn, kinh tế thị trường-điều kiện tất yếu để phát triển kinh tế - không thể đi đôi với định hướng xã hội chủ nghĩa đụơc”...Xong thực tế đã chứng minh đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Theo ý kiến của đa số các nhà khoa học Việt Nam, có thể quan niệm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta có những nội dung chính như sau:
Một là: Hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên cả tầm quản lí vĩ mô và vi mô. Nếu ở tầm vi mô, các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận là mục tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở tầm vĩ mô, Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế-xã hội làm mục tiêu quản lí nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Hai là: cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của đất nước được chủ động bảo vệ.
Ba là: Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nền kinh tế có trình độ phát triển cao, có tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế.
Bốn là: Kinh tế nhà nước phải phát huy vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế trong nước. Ngoài ra, Nhà nước đầu tư, phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo ra nhiều việc làm cho dân và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau.
Năm là: Nhà nước XHCN thực hiện vai trò “bà đỡ”, tạo điều kiện thuận lơi cho kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Vai trò đó được thể hiện bằng hệ thống pháp luật.
Sáu là: Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hòa nhập với kinh tế quốc tế, tạo điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học-kĩ thuật, công nghệ thế giới, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
2, Cơ sở thực tiễn
a, Thực trạng nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước một thực trạng là: đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Vì vậy, nền kinh tế nước ta tuy không còn hoàn toàn là kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hóa theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác, do có sự đổi mới về mặt kinh tế cho nên nền kinh tế nước ta cũng không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói, thực trạng kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa kém phát triển, còn mang tính chất tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng này được biểu hiện ở các mặt sau:
Kinh tế hàng hóa còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Sự yếu kém đó được thể hiện ở:
- Trình độ cơ sở vật chất- kĩ thuật và công nghệ xản xuất yếu kém.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa đủ khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế.
- Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Từ xuất phát điểm thấp, nền kinh tế nước ta còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nhiều tính chất của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển. Sau Đại hội Đảng, tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn chưa hình thành được một cơ cấu kinh tế mới hợp lí và có hiệu quả.
- Chúng ta chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và đang phát triển. Vì vậy, thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Xem xét một cách khái quát về thị trường ở nước ta trong những năm vừa qua thì thấy thị trường ở nước ta còn là thị trường ở trình độ thấp. Tính chất của nó còn hoang sơ. Về cơ bản, nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mứơn còn thô sơ. Tuy vậy điều này đã phản ánh sự đổi mới to lớn trong nhận thức và quan điểm của Đảng và dân ta về sức lao động và các loại hàng hóa khác. Một thời gian dài ở nước ta, tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hóa đặc biệt. Nó không được mua bán một cách tự do và sở dĩ như vậy là vì vai trò đặc biệt quan trọng của những tư liệu sản xuất. Nếu tư liệu sản xuất rơi vào tay tư nhân, nó sẽ trở thành phương tiện nô dịch lao động của ngời khác. Sức lao động, tiền vốn cũng đựoc quan niệm khôngphải là hàng hóa v.v... Bên cạnh đó chúng ta vẫn chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn, hoặc mới chỉ có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh.
- Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu ngừơi còn thấp. Do vậy, mức tiêu dùng của xã hội từ năm 1988 đến năm 1990 đều lớn hơn mức GDP hàng năm. Chúng ta không có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế trong nước. Cụ thể là từ năm 1988 đến năm 1990 tiết kiệm đều là số âm ( năm 1988: -50; năm 1990: -10 ). Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới năm 1991 thì mức thu nhập bình quân tính theo đầu ngừơi của nước ta vào loại thấp nhất trong các nước Đông Nam á ( Việt Nam: trên 200 USD, trong khi đó, Trung Quốc là 370 USD, Thái Lan:1420 USD,...)
Một thời gian dài tồn tại nền kinh tế tập trung quan liêu bap cấp ở nước ta đã để lại những ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc đổi mới mà chúng ta đang tiến hành.
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cho nên trong nhiều thập kỉ vừa qua, ở nước ta đã tồn tại mô hinh kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm. Nó gần như đối lập với kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường. Cơ chế cũ hình thành trên cơ cở thu hẹp hoặc gần như xóa bỏ quan hệ hàng hóa tiền tệ, làm cho nền kinh tế bị “hiện vật hóa”. Còn cơ chế mới được hình thành trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng hóa tiền tệ. Trong cơ chế cũ, các phạm trù giá cả, tài chính, lưu thông tiền tệ là những phạm trù vốn có của kinh tế hàng hóa mặc dù có được sử dụng xong chỉ là hình thức.
Hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp hết sức nặng nề. Điều này được thể hiện:
- Một là: làm mất sức mạnh của tổ chức thống nhất theo kế hoạch trước hết đối với kinh tế Nhà nước. Sự chỉ huy tập trung và theo nhiều mối đã gây ra sự gò bó, vướng mắc. Từ đó, cơ chế tập trung trở thành bất lực và buông lỏng cho thực tế tự phát.
- Hai là: làm suy yếu, triệt tiêu động lực kinh tế, thậm chí gây ra tác động như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lừơi biếng gây thiệt hại cho những ngừơi tích cực, tạo môi trờng cho lãng phí, gây thất thoát tài sản quốc gia.
- Ba là: cản trở mục tiêu ổn định, cải thiện đời sống phát triển sản xuất. Trong điều kiện tồn tại cơ chế giao nộp và cấp phát, dù có nói nhiều đến bao nhiêu về qui luật giá trị thì đó cũng chỉ là hình thức.
b, Thực trạng của quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta
Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường có thể rút ra kết luận: Thực trạng của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình kết hợp giữa chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hóa tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu thiếu “đòn xeo” là kinh tế hàng hóa. Chính C.Mác đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hóa là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối với nền sản xuất lớn TBCN và nâng cao hơn là điều kiện quan trọng, tiền đề cho chúng ta tiến hành thành công sự nghiệp tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về thực chất, đây là sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hóa tiền tệ trên thị trường. Khác với một số nước xã hội chủ nghĩa khác khi chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường, khi các nước đó đã có sự phát triển cao hơn chúng ta rất nhiều về lực lợng sản xuất, chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh nền kinh tế mang tính chất tự cung tự cấp là phần lớn. Vì vậy, trước hết, quá trình xây dựng nền kinh tế thị ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29546.doc