Tài liệu Mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không: LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn tới toàn bộ các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã tận tình giảng dạy cho em trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới PGS.TS Nguyễn Như Bình đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt quá trình hoàn thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Công ty Cổ phần Cung ứng Dịch vụ Hàng Không đặc biệt là cô: Lê Thị Thảo-... Ebook Mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu và anh Bùi Thái Nguyên - trưởng phòng Marketing và các anh chị trong phòng Marketing, Phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến để em hoàn thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên
Lưu Thị Hương
MỤC LỤC
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
MFN
Chế độ ưu đãi tối huệ quốc
ISO2000
Chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng
HACCP
Tiêu chuẩn đặt ra các nguyên tắc của hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn
SA8000
Hệ thống trách nhiệm xã hội
FAO
Tổ chức nông lương Liên hợp quốc
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam giai đoạn
2000 - 3/2008 20
Bảng 2.2: Một số thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam giai đoạn
2001 –2007 24
Bảng 2.3: Doanh thu sản xuất kinh doanh năm 2003-2007 39
Bảng 2.4: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của công ty giai đoạn
2003 – 2007 42
Bảng 2.5: Kim ngạch xuất khẩu rau quả theo thị trường giai đoạn
2003 – 2007 43
Bảng 2.6: Thị trường xuất khẩu rau quả của Công ty theo chủng loại….. 46
Bảng2.7: Số lượng thị trường rau quả giai đoạn 2003 – 2007 46
Bảng2.8 : Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu liên hoàn trên tất cả
thị trường .48
Bảng 2.9: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu liên hoàn trên từng
thị trường 49
Bảng 2.10: Tốc độ tăng quy mô thị trường bình quân trên từng
thị trường 50
Bảng 2.11: Một số doanh nghiệp xuất khẩu lớn theo mặt hàng
năm 2007 53
Bảng 2.12: Thời điểm sản xuất rau quả xuất khẩu của công ty 58
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam giai đoạn
2000 – 3/2008 20
Hình 2.2. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam giai đoạn
2001 – 2007 21
Hình 2.3: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang một số thị trường giai đoạn 2001 – 2007 25
Hình 2.4: Cơ cấu thị trường xuất khẩu rau quả Việt Nam năm 2007 30
Hình 2.5: Doanh thu sản xuất kinh doanh năm 2003-2007 39
Hình 2.6: Cơ cấu doanh thu của công ty năm 2007 40
Hình 2.7: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của công ty giai đoạn
2003 – 2007 42
Hình 2.8: Cơ cấu thị trường xuất khẩu rau quả năm 2007 .45
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, rau quả trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu và quy mô thị trường ngày càng gia tăng. Thị trường xuất khẩu là một điểm lớn của rau quả Việt Nam. Với những bước đầu xâm nhập thị trường, rau quả Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường trong khu vực Châu Á có vị trí địa lý gần với Việt Nam như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, các nước ASEAN…. Hòa cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, rau quả Việt Nam cũng không ngừng phát triển, tích cực tìm kiếm những bước đi mới mở rộng sự có mặt rau quả Việt Nam trên khắp các Châu lục trên thế giới. Với chiến lược và hướng đi đúng đắn, thị trường rau quả của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Bên cạnh những thị trường truyền thống, hiện nay rau quả Việt Nam đã vươn xa sang các thị trường Mỹ, EU, Nam Phi, Brazil…
Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa trở thành một tất yếu đối với nền kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới. Cũng chính vì vậy, sự cạnh tranh trên thị trường thế giới cũng diễn ra gay gắt và quyết liệt hơn. Sự sụt giảm của kim ngạch xuất khẩu rau quả và đánh mất thị trường trong một số năm đã chứng minh được điều đó. Để có được hướng đi đúng đắn, mở rộng được thị phần rau quả của Việt Nam trên thị trường thế giới đòi hỏi công tác mở rộng thị trường của nhà nước phải có những bước tiến mới, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của quá trình mở rộng.
Bên cạnh đó, hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp được coi là chìa khóa để mở rộng thị trường của quốc gia đó trên thị trường thế giới đối với từng ngành hàng và mặt hàng cụ thể. Xuất phát từ tình hình thực tiễn, tìm hiểu công tác mở rộng thị trường rau quả trong doanh nghiệp em đã chọn đề tài: “Mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Bài chuyên đề được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mở rộng thị trường xuất khẩu
Chương 2: Thực trạng mở rộng thị trường xuất khẩt rau quả tại công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
1.1. Thị trường xuất khẩu hàng hóa
1.1.1. Khái niệm về thị trường xuất khẩu
Đứng trên mỗi giác độ khác nhau sẽ có những khái niệm khác nhau về thị trường xuất khẩu hàng hóa. Nếu đứng trên giác độ quản lý doanh nghiệp cho thị trường thế giới thì thị trường xuất khẩu được hiểu là: Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó.
Còn theo kinh tế học thì thị trường xuất khẩu được mở rộng ra và cụ thể hơn đó là: “Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là tập hợp người mua và người bán có quốc tịch khác nhau tác động với nhau để xác định giá cả, số lượng hàng hóa mua bán, chất lượng hàng hóa và các điều kiện mua bán khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới”. Theo nghĩa này, thị trường xuất khẩu bao gồm cả thị trường xuất khẩu trực tiếp (nước tiêu thụ cuối cùng) và thị trường xuất khẩu gián tiếp (xuất khẩu qua trung gian).
1.1.2. Phân loại về thị trường xuất khẩu
Dựa trên những căn cứ khác nhau mà thị trường xuất khẩu được phân loại thành:
Nếu căn cứ vào vị trí địa lý, thị trường xuất khẩu được chia thành:
+Thị trường Châu lục: Châu Âu, Châu Á, Châu Phi..
+ Thị trường khu vực: ASEAN, EU, Nam Mỹ…
+ Thị trường trong nước và vùng lãnh thổ: Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ…
Nếu căn cứ vào lịch sử quan hệ ngoại thương, thị trường xuất khẩu được chia thành:
+ Thị trường truyền thống là thị trường mà quốc gia hay doanh nghiệp đã từng có quan hệ trao đổi, buôn bán trong một thời gian dài. Thông thường khi kinh doanh tại thị trường truyền thống, quốc gia hay doanh nghiệp xuất khẩu được hưởng những ưu đãi nhất định về thuế, thủ tục nhập khẩu …từ phía đối tác và đổi lại quốc gia và doanh nghiệp xuất khẩu cũng có những ưu đãi về giá, tín dụng… đối với bạn hàng.
+ Thị trường mới là thị trường mà quốc gia hay doanh nghiệp mới thiết lập quan hệ buôn bán trên thị trường đó. Kinh doanh trên thị trường mới thường mang tính chất thăm dò và bước đầu thiết lập quan hệ với các đối tác để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu trong tương lai
+Thị trường tiềm năng là thị trường mà các quốc gia hay doanh nghiệp chưa chiếm lĩnh được thị trường song thị trường có nhu cầu, tiêu dùng những sản phẩm mà quốc gia hay doanh nghiệp có khả năng đáp ứng được.
Nếu căn cứ vào mức độ quan tâm và tính ưu tiên, thị trường xuất khẩu
được chia thành:
+ Thị trường xuất khẩu chính là thị trường mà quốc gia hay doanh nghiệp xuất khẩu tập trung các chính sách, biện pháp xúc tiến thương mại nhằm khai thác tối đa khả năng tiêu thụ hàng hóa của thị trường đó trên cơ sở thị trường có nhu cầu lớn đối với hàng hóa mà quốc gia hay doanh nghiệp có thể đáp ứng.
+Thị trường xuất khẩu tương hỗ là thị trường mà quốc gia hay doanh nghiệp xuất khẩu có mức độ ưu tiên kém hơn trong phát triển thị trường do các yếu tố như thị trường có sức mua thấp, không có nhu cầu cao về chủng loại hàng hóa xuất khẩu, quan hệ thương mại giữa hai quốc gia chưa phát triển.
Nếu căn cứ vào cán cân thương mại giữa nước xuất khẩu và nhập khẩu, thị trường xuất khẩu được chia thành:
+Thị trường xuất siêu là thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn kim ngạch nhập khẩu
+Thị trường nhập siêu là thị trường có kim ngạch nhập khẩu lớn hơn kim ngạch xuất khẩu
Nếu căn cứ vào sức cạnh tranh, thị trường xuất khẩu được chia thành:
+ Thị trường xuất khẩu có ưu thế cạnh tranh
+ Thị trường xuất khẩu không có ưu thế cạnh tranh
Nếu căn cứ vào các loại hình cạnh tranh trên thị trường, thị trường xuất khẩu được chia thành:
+Thị trường độc quyền
+Thị trường độc quyền “ nhóm”
+Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
+Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
Để xem xét mức độ mở rộng thị trường xuất khẩu, người ta thường dựa trên căn cứ phân loại thị trường dựa theo vị trí địa lý và lịch sử quan hệ ngoại thương.
1.2. Mở rộng thị trường xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm về mở rộng thị trường
Đứng trên những góc độ kinh tế khác nhau sẽ có những cách tiếp cận khác nhau về mở rộng thị trường xuất khẩu.
Đứng trên góc độ là doanh nghiệp thì mở rộng thị trường xuất khẩu là tổng hợp các cách thức, biện pháp của doanh nghiệp để đưa ngày càng nhiều khối lượng sản phẩm ra nhiều thị trường ngoài nước để tiêu thụ. Mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp không chỉ bao gồm việc mở rộng thêm những thị trường mới mà còn phải tăng thị phần của sản phẩm trên các thị trường hiện có. Cụ thể hơn, mở rộng thị trường xuất khẩu chính là việc thâm nhập sâu hơn, rộng hơn vào những thị trường sẵn có của doanh nghiệp, đồng thời tìm kiếm những thị trường mới, tiềm năng mà doanh nghiệp có khả năng chiếm lĩnh. Doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường bằng cách đa dạng hóa sản phẩm, đưa ra những sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm để mở rộng thị phần tại thị trường hiện có hoặc đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng được cả nhu cầu tại thị trường hiện tại lẫn thị trường tiềm năng.
Đứng trên góc độ của quốc gia thì mở rộng thị trường xuất khẩu là việc quốc gia đó đưa được những sản phẩm của mình thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng được phạm vi địa lý của thị trường và kết quả là tăng được kim ngạch xuất khẩu từ sản phẩm đó.
Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của một quốc gia là sự kết hợp giữa hoạt động mở rộng thị trường của tất cả các doanh nghiệp trong quốc gia đó và các hoạt động hỗ trợ của các cơ quan tổ chức Nhà nước trong quốc gia đó. Trong đó, hoạt động hỗ trợ của các cơ quan tổ chức Nhà nước đóng vai trò quan trọng chi phối hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp thông qua chiến lược và định hướng phát triển của quốc gia, của ngành hàng và doanh nghiệp. Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu quốc gia ngày một rộng lớn, phạm vị mở rộng đối với từng ngành hàng và mặt hàng.
1.2.2. Vai trò của mở rộng thị trường xuất khẩu
Mở rộng thị trường xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá.
Thứ nhất: Mở rộng thị trường làm tăng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mở rộng thị trường xuất khẩu tức số lượng thị trường tăng lên do đó nhu cầu về sản phẩm tăng, nâng cao được khối lượng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu cũng tăng lên và lợi nhuận của doanh nghiệp cao hơn trước. Điều này, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, mở rộng sản xuất quy mô của mình trong nền kinh tế.
Thứ hai: Mở rộng thị trường xuất khẩu góp phần giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp trước những biến động của thị trường nhập khẩu như tình trạng khủng hoảng thị trường khi có một thị trường bị biến động như chiến tranh, đảo chính....
Thứ ba: Hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với hoạt động nền kinh tế quốc dân như tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thương mại, nâng cao vị thế đất nước, tạo thêm được nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Thứ tư: Mở rộng thị trường góp phần củng cố phát triển mối quan hệ với các quốc gia, các khu vực trên thế giới do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, liên kết kinh tế thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển.
1.2.3. Phương hướng mở rộng thị trường xuất khẩu
Mở rộng thị trường xuất khẩu có thể được phân thành hai hướng là mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng và mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng là việc tăng phạm vi thị trường, đưa sản phẩm mới đến với những thị trường mới và khách hàng mới. Cụ thể hơn, mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng là sự phát triển về số lượng thị trường, số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để bán nhiều hơn một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Hay mở rộng thị trường theo chiều rộng sẽ làm phạm vị thị trường tiêu thụ sản phẩm thay đổi. Mở rộng thị trường theo chiều rộng sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng sự có mặt của sản phẩm sang các thị trường chưa biết đến sản phẩm của doanh nghiệp đồng thời đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành tốt công tác nghiên cứu thị trường để đưa ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường đang nghiên cứu.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu là việc gia tăng số lượng và giá trị sản phẩm xuất khẩu trên những thị trường hiện tại bằng cách gia tăng những mặt hàng hiện có hoặc những mặt hàng mới đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Cụ thể, mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu thì phạm vi thị trường tiêu thụ sản phẩm không thay đổi nhưng thị phần sản phẩm doanh nghiệp sẽ ngày càng gia tăng dựa trên việc khai thác tốt thị trường hiện có.
Hiện nay, các doanh nghiệp khi mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm của mình đều kết hợp cả mở rộng thị trường theo chiều rộng và chiều sâu, có nghĩa là vừa khai thác hiệu quả thị trường hiện có vừa đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường tiềm năng mà doanh nghiệp có khả năng chiếm lĩnh được.
1.2.4.Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu
1.2.4.1.Các chỉ tiêu đo lường hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng
Số lượng thị trường xuất khẩu (Tn)
Công thức Tn = Tn-1 + (Tm + T k – Td)
Trong đó: Tn : Số thị trường xuất khẩu năm n
Tn-1: Số thị trường xuất khẩu năm n-1
Tm : Số thị trường mới mở trong năm
Tk : Số thị trường khôi phục trong năm
Td : Số thị trường để mất trong năm
Nếu Tn tăng đều và ổn định qua các năm, chứng tỏ hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp có hiệu quả. Ngược lại, nếu Tn không đổi, giảm hay có xu hướng biến động bất thường thì hoạt động mở rộng thị trường còn nhiều yếu kém.
Số lượng thị trường mới tăng bình quân
Công thức: t1 + t2 +....+tn
t =
n
Trong đó: t: tốc độ tăng số lượng thị trường xuất khẩu bình quân
t1, t2 , ...tn : số lượng thị trường xuất khẩu thực hàng năm
n: số năm trong giai đoạn
Khi t <0: hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kém hiệu quả, thị trường xuất khẩu đang ngày càng bị thu hẹp theo phạm vi địa lý, sản phẩm không xâm nhập được vào thị trường mới hay số lượng thị trường mới mở nhỏ hơn số lượng thị trường mất đi
Khi t = 0: hoạt động mở rộng thị trường không đem lại hiệu quả, doanh nghiệp chỉ duy trì được hoạt động của mình trên những thị trường hiện có hoặc số lượng thị trường mới mà doanh nghiệp khai phá được chỉ bằng số lượng thị trường mà doanh nghiệp để mất đi.
Khi t >0 : hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu có hiệu quả, sản phẩm đang chiếm lĩnh được các thị trường mới.
1.2.4.2.Các chỉ tiêu đo lường hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu liên hoàn (k)
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu liên hoàn là một chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng của kim ngạch xuất khẩu năm sau so với năm trước và được tính bằng cách lấy kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của năm cần tính chia cho kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của năm trước đó.
Nếu k < 1 có nghĩa là kim ngạch xuất khẩu năm sau giảm đi so với năm trước, điều này cho thấy hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu chưa hiệu quả, quy mô thị trường thu hẹp hoặc đã đạt mức bão hòa cần đẩy mạnh mở rộng thị trường sang những thị trường mới.
Nếu k>1 tức là kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước, sản phẩm xuất khẩu đã khai thác và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường hiện tại, hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu khẩu theo chiều sâu đang hiệu quả.
Nếu k = 1 tức kim ngạch xuất khẩu năm sau bằng với năm trước đó, có nghĩa là quy mô thị trường không thay đổi theo chiều sâu.
Tốc độ tăng quy mô thị trường bình quân (K)
Công thức : K = (k1.k2 . ... .kn)1/n
Trong đó:
K: tốc độ tăng quy mô thị trường bình quân
k1, k2,...kn là tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu liên hoàn
n: số năm
Nếu K= 1 có nghĩa là quy mô thị trường hiện tại của doanh nghiệp không đổi, doanh nghiệp không thể thâm nhập sâu hơn vào thị trường đã chiếm lĩnh được mà chỉ duy trì được thị phần của mình, cần mở rộng ra những thị trường mới.
Nếu K < 1 có nghĩa là quy mô bình quân của doanh nghiệp ngày càng bị thu hẹp, doanh nghiệp đang mất dần thị phần của mình trên những thị trường hiện tại, công tác mở rộng thị trường chưa hiệu quả.
Nếu K >1 có nghĩa là quy mô thị trường của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, sản phẩm ngày càng chiếm lĩnh được thị trường, công tác mở rộng thị trường có hiệu quả.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu
1.2.5.1. Các nhân tố thuộc về quốc gia xuất khẩu
Chủng loại và chất lượng sản phẩm
Tốc độ mở rộng thị trường xuất khẩu nhanh hay chậm phụ thuộc trước hết vào chủng loại sản phẩm đó. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp là mặt hàng đang có nhu cầu lớn, mức độ tiêu thụ mạnh trên nhiều thị trường thì chắc chắn việc mở rộng thị trường sẽ dễ dàng hơn so với những sản phẩm mà nhu cầu tiêu dùng hạn chế. Nếu chủng loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường nhập khẩu, mức độ tiêu thụ mạnh thì việc mở rộng thị trường sẽ dễ dàng hơn so với các sản phẩm mà nhu cầu hạn chế.
Hiện nay, khi trên mỗi một quốc gia trên thế giới đều có những quy định, tiêu chuẩn riêng về chất lượng sản phẩm thì chất lượng sản phẩm giữ vai trò quyết định tới sự thành bại của sản phẩm. Sản phẩm có chất lượng tốt bao giờ cũng được khách hàng tin dùng và lựa chọn đầu tiên do đó việc mở rộng thị trường sẽ có nhiều thuận lợi. Hơn nữa, sản phẩm có chất lượng tốt sẽ làm tăng tính cạnh tranh của sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh, vì vậy sản phẩm sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường.
Nguồn lực của doanh nghiệp
Nguồn lực của doanh nghiệp bao gồm khả năng tài chính, khả năng sản xuất, nguồn nhân lực… Khi nguồn lực của doanh nghiệp được đảm bảo, khả năng tài chính lớn sẽ quyết định tới quy mô của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Khả năng tài chính lớn tức là việc cung cấp chi phí cho công tác xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường được đảm bảo, khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn. Ngoài ra, nguồn nhân lực của doanh nghiệp khi được trang bị tốt về kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, sự am hiểu về thị trường quốc tế, thông thạo ngoại ngữ thì những định hướng, chiến lược phát triển sẽ xác thực hơn, doanh nghiệp nhanh chóng cập nhập những diễn biến của thị trường xuất khẩu một cách chính xác, nắm bắt được thời cơ và dự báo được nhu cầu, rủi ro có thể xảy ra khi mở rộng thị trường.
Chính sách hỗ trợ, phát triển thị trường của nhà nước
Mỗi một quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế đều có những chính sách kinh tế chi phối hoạt động xuất khẩu của quốc gia mình nhằm điều tiết hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường đối với từng ngành hàng và mặt hàng cụ thể. Chính sách của nhà nước càng thông thoáng và hỗ trợ cho doanh nghiệp thì hoạt động xuất khẩu sẽ diễn ra thuận lợi hơn, doanh nghiệp tích cực đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh đó, mức độ mở cửa nền kinh tế đóng vai trò rất lớn trong việc mở rộng thị trường, chính sách kinh tế đối ngoại nhà nước sẽ chi phối toàn bộ hoạt động xuất khẩu. Nhà nước càng tích cực tham gia ký kết các hiệp định thương mại đa phương, song phương, tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực thì khả năng tìm kiếm thị trường cho sản phẩm xuất khẩu sẽ ngày càng được mở rộng.
1.2.5.2.Các nhân tố thuộc về nước nhập khẩu
Nhu cầu thị trường về sản phẩm và mức độ cạnh tranh trên thị trường nhập khẩu
Nhu cầu về sản phẩm và mức độ cạnh tranh trên thị trường nhập khẩu là yếu tố để xác định chiến lược mở rộng thị trường. Sản phẩm khi có nhu cầu nhập khẩu lớn sẽ dễ dàng thâm nhập được vào thị trường hơn là những sản phẩm chỉ có nhu cầu thấp hoặc không có nhu cầu. Nhu cầu sản phẩm ở đây không đơn giản chỉ là số lượng, chủng loại sản phẩm mà bao hàm cả chất lượng sản phẩm, giá cả, mẫu mã, bao bì…Do đó, trong công tác mở rộng thị trường doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược cụ thể đối với từng nhu cầu của sản phẩm. Bên cạnh đó, khi tiến hành hoạt động mở rộng thị trường các doanh nghiệp còn phải đối mặt với sự cạnh tranh lớn tại thị trường nhập khẩu mà trước hết đó là những doanh nghiệp tại chính nước nhập khẩu. Các đối thủ cạnh tranh này luôn có ưu thế trong việc khai thác thị trường do nắm vững nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng. Thêm vào đó, các doanh nghiệp này đều có những chính sách ưu đãi của Chính phủ và sự ưu đãi của người tiêu dùng trong nước. Do đó, khi xâm nhập thị trường cần chú ý tới lợi ích của các doanh nghiệp đó, tránh gây tổn hại lợi ích của họ như trong một số trường hợp bán phá giá. Bên cạnh đó là sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài đang trong quá trình xâm nhập thị trường cũng là trở ngại lớn trong quá trình mở rộng thị trường. Mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt thì cơ hội xuất khẩu càng ít, khó có thể khai thác sâu vào thị trường.
Chế độ ưu đãi đối với hàng hóa nước xuất khẩu
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, tùy thuộc vào mức độ hợp tác mà các nước giành cho nhau những ưu đãi nhất định. Mức độ ưu đãi đối với một quốc gia xuất khẩu sẽ tác động trực tiếp tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm nước đó trên thị trường quốc gia nhập khẩu. Nó có thể tạo điều kiện nhưng đồng thời cũng tạo những cản trở đối với hoạt động xuất khẩu mở rộng thị trường. Mức độ ưu đãi càng cao thì sản phẩm càng dễ dàng thâm nhập được vào thị trường. Ngược lại, mức độ ưu đãi thấp đặc biệt tương quan đối với các đối thủ cạnh tranh thì sản phẩm khó có thể đứng vững được trên thị trường, khả năng mở rộng thị trường là rất khó.
Tình hình kinh tế, chính trị của quốc gia nhập khẩu
Nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng hay giảm sút đều ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống nhân dân tại các quốc gia đó, qua đó tác động tới nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Nếu nền kinh tế tăng trưởng, ổn định sẽ tạo điều kiện có mức sống nhân dân tăng cao nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, mức sống của nhân dân giảm sút, khả năng tiêu dùng và chi trả hàng nhập khẩu giảm.
Nếu nước nhập khẩu có tình hình chính trị không ổn định như chiến tranh, bạo động, nội chiến, bãi công…thì khi đó môi trường kinh doanh không an toàn và không hấp dẫn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Lúc đó, doanh nghiệp khi xuất khẩu tiềm ẩn nhiều rủi ro về thanh toán, mất hàng hóa, các mối liên kết kinh doanh bị phá vỡ. Trong những trường hợp như vậy, doanh nghiệp cần nhanh chóng rút lui tại thị trường hiện tại và tìm kiếm những thị trường mới.
1.2.6. Các vấn đề đặt ra để mở rộng thị trường xuất khẩu
- Xác định mặt hàng mà thế giới đang có nhu cầu để tập trung nguồn lực vào sản xuất trong đó nhà nước bước đầu hỗ trợ trong việc chuẩn bị sản xuất hay chế biến sản phẩm nó phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Xây dựng giải pháp sản xuất mặt hàng xuất khẩu phù hợp với điều kiện, đặc điểm và lợi thế của quốc gia.
- Hoạch định các công cụ trợ giúp phù hợp với cam kết kinh tế quốc tế cho doanh nghiệp hướng vào xuất khẩu tránh trường hợp doanh nghiệp hướng vào xuất khẩu lạm dụng chính sách để kinh doanh không hợp lý, minh bạch cụ thể hóa chính sách, giảm bớt sự những thủ tục giấy tờ không cần thiết gây khó khăn cho doanh nghiệp hướng về xuất khẩu.
- Nhà nước tiến hành đầu tư vào các ngành then chốt để yểm trợ cho sản phẩm xuất khẩu được xác định, dùng lợi thế xuất khẩu để đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm, nới lỏng bảo hộ mậu dịch để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nội địa.
1.2.7. Một số biện pháp mở rộng thị trường xuất khẩu
Mở rộng thị trường đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của hoạt động xuất khẩu của quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Thị trường xuất khẩu được mở rộng sẽ làm tăng số lượng thị trường xuất khẩu của quốc gia, doanh nghiệp; gia tăng khối lượng hàng hóa xuất khẩu; góp phần tạo việc làm, nâng cao giá trị, tạo đà tăng trưởng kinh tế và tạo lập vị thế của quốc gia trên thị trường thế giới. Do đó, mở rộng thị trường là chiến lược phát triển mà mọi quốc gia và doanh nghiệp hướng tới. Hoạt động mở rộng thị trường thường bao gồm các hoạt động:
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu:
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu là việc thu thập thông tin về thị trường xuất khẩu, xử lý thông tin và đưa ra các kết luận về đặc điểm của thị trường. Nghiên cứu thông tin về thị trường bao gồm nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu, hành vi tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh, cách thức tổ chức mạng lưới kênh phân phối thị trường, các yếu tố về chính trị, tình hình phát triển kinh tế, chính sách nhập khẩu, rào cản thương mại… tại quốc gia nhập khẩu.
Đối với các doanh nghiệp, nghiên cứu thị trường chủ yếu bao gồm nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu, đối thủ cạnh tranh và các tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra đối với sản phẩm. Nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng và nhanh chóng giúp doanh nghiệp sớm nắm bắt được cơ hội kinh doanh, lựa chọn đối tác, thị trường, cách thức thâm nhập thị trường và tham gia vào hệ thống phân phối hàng hóa của quốc gia nhập khẩu để chiếm lĩnh thị trường.
Đối với nhà nước, nghiên cứu thị trường chủ yếu là bao gồm nghiên cứu về đặc điểm kinh doanh quốc tế, chính sách nhập khẩu và các yếu tố vĩ mô nhằm cung cấp thông tin cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất khẩu đồng thời đưa ra những định hướng, chính sách phát triển và hỗ trợ hợp lý cho các doanh nghiệp. Việc nghiên cứu thị trường của nhà nước thường diễn ra thông qua hoạt động của các thương vụ, đại sứ quán ở nước ngoài, hiệp hội ngành nghề, mối quan hệ ngoại giao của nhà nước….
Xúc tiến thương mại:
Xúc tiến thương mại là họat động nhằm quảng bá, giới thiệu hình ảnh về doanh nghiệp, sản phẩm, đất nước đến với khách hàng. Đây là biện pháp quan trọng để thúc đẩy hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu. Xúc tiến thương mại bao gồm các hoạt động:
+ Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm xuất khẩu với khách hàng thông qua hoạt động quảng cáo trên các phương tiện truyền thông (như truyền hình, qua Internet, ấn phẩm, báo chí, áp phích, biển hiệu…), thông qua việc tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước và tổ chức các chương trình khuyến mại.
+ Thiết lập các văn phòng đại diện thương mại tại thị trường xuất khẩu. Văn phòng đại diện thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, đối tác và khách hàng nước ngoài. Thông qua hoạt động của các văn phòng đại diện, doanh nghiệp có điều kiện thu thập thông tin về thị trường bạn hàng nhu cầu một cách nhanh chóng, đầy đủ, thường xuyên, có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với các đối tác đồng thời giảm chi phí giao dịch và tiến hành đàm phám một cách nhanh chóng thuận tiện. Bên cạnh đó, văn phòng đại diện được thành lập sẽ tạo điều kiện cho các đối tác và khách hàng dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu về sản phẩm và doanh nghiệp để từ đó tạo điều kiện cho sự hợp tác kinh doanh. Hoạt động của cơ quan đại diện được diễn ra một cách hiệu quả là tiền đề để doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ làm ăn lâu dài đồng thời tạo lập uy tín doanh nghiệp trên thị trường thúc đẩy mở rộng thị trường, thu hút đối tác kinh doanh.
Xây dựng thương hiệu sản phẩm
Sản phẩm có thương hiệu là những sản phẩm đã được qua kiểm nghiệm về chất lượng, uy tín, đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật do đó sản phẩm có thương hiệu luôn được người tiêu dùng lựa chọn, khả năng tiêu thụ mạnh, dễ dàng thâm nhập được vào thị trường. Đối với các doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu sản phẩm đồng nghĩa với việc khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Thương hiệu được xây dựng sẽ tạo dựng hình ảnh tốt về sản phẩm, doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, thị trường trong và ngoài nước. Việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm hiện nay của các doanh nghiệp thường tốn nhiều chi phí và thời gian. Để xây dựng được thương hiệu doanh nghiệp trước hết cần đảm bảo về chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp, bao bì, lô gô cho sản phẩm. Tiếp theo là việc tạo lập uy tín doanh nghiệp trên thị trường trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thì đó là vấn đề tiêu chuẩn kỹ thuật, khả năng cung cấp hàng đủ về số lượng và chính xác về thời gian, phương thức tiến hành giao dịch và thanh toán hợp đồng.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨT RAU QUẢ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CUNG ỨNG DỊCH VỤ HÀNG KHÔNG
2.1. Thực trạng mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam
2.1.1. Tình hình xuất khẩu rau quả của Việt Nam hiện nay
Về chủng loại sản phẩm
Các sản phẩm rau quả xuất khẩu của nước ta khá phong phú và đa dạng, xấp xỉ 90 mặt hàng khác nhau. Nhìn chung, rau hoa quả xuất khẩu chủ yếu là đóng hộp, sấy khô, và một lượng nhỏ là xuất tươi hoặc cấp đông. Trong đó: các mặt hàng rau quả chủ yếu xuất khẩu dưới dạng chế biến như: dứa đông lạnh, dứa hộp, dưa chuột ngâm dấm, chôm chôm nhân dứa đóng hộp, nước quả tươi và nước cô đặc, rau đông lạnh…. Các sản phẩm rau quả tươi xuất khẩu chiếm tỷ trọng thấp như: cải bắp, xoài, thanh long, chuối, vải, nhãn… Việt Nam được đánh giá có nhiều thuận lợi hơn các nước khác trong xuất khẩu rau quả do có nhiều loại trái cây ngon và lợi thế cạnh tranh. Các loại trái cây như vải thiều Lục Ngạn, thanh long Bình Thuận, vú sữa Lò Rèn, xoài cát Hòa Lộc, bưởi Năm Roi ... được thị trường thế giới ưa chuộng, đặc biệt thanh long Việt Nam đang chiếm vị thế hàng đầu thế giới.
Thanh long và nấm là hai mặt hàng luôn đứng ở vị trí đầu về kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, thanh long là mặt hàng có sức phát triển mạnh nhất so với các ngành hàng trái cây xuất khẩu cả về phạm vi thị trường và sản lượng. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thanh long đạt hơn 5,8 triệu USD, năm 2004 tăng lên gần 6,6 triệu USD, năm 2005 hơn 10 triệu USD, năm 2006 đạt gần 13,3 triệu USD, tháng 10/ 2007 đạt 13,2 triệu USD gần bằng năm 2006. (Nguồn: Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư, năm 2007, link: www.itpc.hochiminhcity.gov.vn). Thanh long của Việt Nam đã xuất khẩu sang các thị trường khu vực như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Thái Lan….và có mặt tại một số thị trường Châu Âu như Pháp, Hà Lan, Đức.
Nấm là mặt hàng mà Việt Nam có nhiều tiềm năng để sản xuất và xuất khẩu. Hiện tại Việt Nam đang đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu nấm trong khi đó nhu cầu về nấm ăn thế giới rất lớn, trung bình tiêu thụ k._.hoảng 15 triệu tấn nấm rơm/ năm. Bên cạnh đó đây là sản phẩm có mức giá cao như nấm mỡ muối khoảng 1.200USD/tấn; mộc nhĩ, nấm hương, nấm rơm từ 1.700 - 6.500 USD/tấn và nếu được chế biến thành đồ hộp thì giá trị đem sẽ còn cao hơn rất nhiều.(Nguồn: Bản tin xuất khẩu – Cục xúc tiến thương mại – Bộ Công thương số 67 tháng 3/2008). Nấm rơm của Việt Nam đã xuất khẩu được sang một số các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU…
Rau quả xuất khẩu trong những năm qua đã được mở rộng thêm một số loại trái cây, rau đặc sản của Việt Nam và ngày càng được biết đến trên thế giới như Bưởi Năm Roi xuất khẩu sang Trung Quốc, Hồng Không, Na Uy, Thụy Điển, nhãn được xuất sang Trung Quốc, Đài Loan. Các mặt hàng chôm chôm, chanh, chuối cũng đang gây được chú ý mạnh ở nước ngoài bởi khả năng cung cấp trái vụ. Mãng cầu, xoài và các loại trái cây khác cũng đã ra mắt thị trường Trung Quốc, Hồng Công, Pháp, Hà Lan....Mặc dù, các sản phẩm được chào bán số lượng nhỏ, hàng gởi máy bay nhưng đã được thị trường các nước chấp nhận về mẫu mã, chất lượng.
Về kim ngạch xuất khẩu
Với những điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, rau quả Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay, rau quả trở thành một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu có thế mạnh, đạt hiệu quả kinh tế và cho kim ngạch xuất khẩu cao.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam giai đoạn 2000 -3/ 2008
Năm
Kim ngạch xuất khẩu rau quả (Triệu USD)
Tốc độ tăng (%)
2000
213,1
-
2001
344,3
61,56
2002
221,2
- 35,75
2003
151,5
- 31,5
2004
178,8
18,02
2005
235,5
31,71
2006
259,08
10,01
2007
305,641
17,97
3/2008
84,1
-
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, năm 2008,
link:
Hình 2.1: Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam giai đoạn
2000 – 3/2008
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, năm 2008,
link:
Hình 2.2. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam
giai đoạn 2001 – 2007
Theo biểu đồ 2.1 và 2.2 ta thấy, thời kỳ 2001-2003, kim ngạch xuất khẩu rau quả bị giảm sút mạnh. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt mức kim ngạch cao 344,3 triệu USD tăng 61,56% so với năm 2000. Năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả sụt giảm mạnh chỉ đạt 221,2 triệu USD giảm 35,75 % so với năm 2001. Nguyên nhân chủ yếu là do giá xuất khẩu giảm sút và lượng xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc, một thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất gặp khó khăn, đặc biệt đối với các loại quả tươi.
Trong những năm gần đây, với những nỗ lực của cả doanh nghiệp và nhà sản xuất, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã liên tục tăng trưởng, từ mức 151,5 triệu USD năm 2004 lên 263 triệu USD vào năm 2006 tăng 10,01% so với năm 2005 (235,5 triệu USD). Sang năm 2007, mặc dù thách thức đặt ra cho ngành rau quả là rất lớn từ việc Việt Nam gia nhập gia nhập WTO, song với những chính sách phát triển đúng đắn, xuất khẩu rau quả vẫn tăng trưởng mạnh, đạt 305,641 triệu USD tăng 17,79% so với năm 2006, trung bình giai đoạn 2000 – 2007 kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng 8,56%. Trên đà thắng lợi của kim ngạch xuất khẩu nói chung và rau quả nói riêng, năm 2008 kim ngạch rau quả vẫn tiếp tục đạt được những bước tiến mới. Tính tới tháng 3/2008, kim ngạch xuất khẩu rau quả đã đạt 84 triệu USD.
2.1.2. Thực trạng mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam
2.1.2.1.Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau quả Việt Nam
Việt Nam với đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loại rau quả nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới nên có điều kiện phát triển ngành rau quả. Tận dụng được những điều kiện thuận lợi này, Việt Nam đã sớm và ngày càng phát triển sản xuất rau quả, trở thành một ngành sản xuất nông nghiệp quan trọng.
Hiện nay, Việt Nam sản xuất rau thuộc nhóm cao nhất thế giới, bình quân khoảng 116 kg/người/năm, cao hơn mức tiêu thụ của các nước phát triển, như Hàn Quốc (93 kg), Nhật (52 kg). Trong 10 năm trở lại đây, ngành rau Việt Nam là ngành có tốc độ phát triển nhanh, khoảng 8,5%/năm. (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, 2007, link:
Với những nỗ lực và sự tập trung đầu tư, nghiên cứu, trong những năm qua diện tích trồng rau quả nước ta đã tăng lên nhanh chóng. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, khu vực Đồng bằng Sông Hồng trở thành vùng sản xuất rau lớn nhất nước, còn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất quả chủ yếu của cả nước. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2007 cả nước có trên 1,4 triệu ha rau, quả cho thu hoạch trên 6,5 triệu tấn trái cây, 9,6 triệu tấn rau, là một tiềm năng rất lớn cho xuất khẩu. (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, 2007, link:
Những năm trở lại đây, Việt Nam đã tăng cường đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất rau quả, thành lập rất nhiều cơ sở sản xuất cỡ lớn, như xoài ở Tiền Giang, thanh long ở Bình Thuận, vải thiều ở Bắc Giang, bưởi Năm Roi ở Vĩnh Long, nho ở Ninh Thuận. Do điều kiện khí hậu nhiệt đới nên rau quả dễ trồng, đầu tư ít nhưng sản lượng cao, nên Việt Nam rất có tiềm năng trong việc sản xuất rau quả. Một số địa phương ở Việt Nam đã thành lập các hợp tác trồng cùng một loại rau quả, nhằm tăng cường quản lý canh tác, để các sản phẩm đạt được tiêu chuẩn xuất khẩu. Tuy nhiên, rau quả là mặt hàng nông nghiệp nhập khẩu lớn nhất thế giới với doanh số hàng năm lên đến 103 tỷ USD, so với chỉ có 9 tỷ cho lúa gạo song rau quả Việt Nam xuất khẩu lại chiếm một tỷ lệ thấp, chiếm 0,2% thị phần của cả thế giới (trong lúc xuất khẩu gạo đã đạt được 15%) năm 2005. Điều này cho thấy, tiềm năng phát triển rau quả Việt Nam sang các thị trường trên thế giới là rất lớn.(Nguồn: Sự chuyển mình của sản xuất nông nghiệp, 2008,link: www.vietlinh.vn)
2.1.2.2.Thực trạng thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam
Dưới tác động của hội nhập, xuất khẩu rau quả Việt Nam đã có những bước phát triển mới. Xu hướng hội nhập đã mở ra những cơ hội, điều kiện mở rộng thị trường và là điều kiện tốt cho sản xuất phát triển. Trong những năm vừa qua, thị trường rau quả có xu hướng phát triển nhanh. Các mặt hàng rau quả của Việt Nam hiện đã có mặt trên 50 quốc gia trên thế giới.
Bảng 2.2: Một số thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Trung Quốc
Nhật Bản
Đài Loan
Nga
Hoa Kỳ
Tổng kim ngạch xuất khẩu
2001
144,6
13,7
23,3
4,52
2,6
344,3
2002
59,8
16,0
20,1
4,79
6,5
221,2
2003
49,4
15,5
21,36
5,29
6,0
151,5
2004
43,3
26,12
20,47
10,18
13,9
178,8
2005
34,94
28,98
26,36
17,82
13,15
235,5
2006
24,61
27,57
27,15
22,07
18,40
259,08
2007
27,229
26,426
29,476
22,430
20,304
305,641
(Nguồn: Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn)
Rau quả của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Nga, Mỹ. Nếu năm 2001, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu rau quả chính của Việt Nam chiếm 41,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì gần đây kim ngạch tại thị trường này có xu hướng giảm mạnh.Trong khi đó, các thị trường như Nhật Bản, Đài Loan lại có xu hướng nhập khẩu rau quả của Việt Nam khá ổn định, hàng năm xuất khẩu trên 25 triệu USD. (Nguồn: Tính toán bảng số liệu 2.1). Bên cạnh đó, các thị trường Mỹ và Nga có vị trí cách xa Việt Nam nhưng kim ngạch xuất khẩu rau quả lại có tốc độ tăng mạnh. Điều này cho thấy, rau quả Việt Nam ngày càng được ưa chuộng, thị trường ngày càng được mở rộng.
Hình 2.3: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang một số
thị trường giai đoạn 2001 – 2007
Đơn vị: Triệu USD
(Nguồn: Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn)
Trung Quốc hiện là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất Châu Á đồng thời cũng là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam. Các mặt hàng rau quả nhập khẩu chủ yếu là chuối, nho, cam, táo, cần tây, đậu hạt, nấm. Trung Quốc nhập khẩu chủ yếu từ Hoa Kỳ, Chi lê, Philippin, Ecuador, Niu Di lân và các nước Đông Nam Á. Trong đó, các nước ASEAN – 10 và Hồng Công chiếm 68% tổng kim ngạch nhập khẩu rau quả vào thị trường Trung Quốc. Khi xuất khẩu rau quả sang thị trường Trung Quốc, các nhà cung cấp nước ngoài có thể xuất khẩu hàng thông qua các công ty nhập khẩu phân phối, các nhà nhập khẩu nhỏ, các công ty mua gom, đóng gói cũng như cung cấp trực tiếp cho các nhà bán lẻ lớn.
Trong những năm trở lại đây, hoạt động hoạt động xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc đạt được mức gia tăng đáng kể. Năm 2001 là năm xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đạt mức giá trị cao nhất 144,6 triệu USD, đây cũng là năm hoạt động xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt được mức tăng trưởng cao nhất. Những năm tiếp theo kim ngạch xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc suy giảm nghiêm trọng, năm 2002 chỉ đạt 59,8 triệu USD giảm 58,92% so với năm 2001, năm 2003 đạt 49,4 triệu USD giảm 17,39% so với năm 2002 và năm 2006 chỉ còn 24,61 triệu tấn. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc đạt 27,229 triệu USD. Nguyên nhân của tình trạng kim ngạch sụt giảm một phần là do sự bất lợi về thuế. Năm 2002, Trung Quốc và Thái Lan đã ký kết Hiệp định Thái Lan – Trung Quốc (gọi tắt là Hiệp định Thái – Trung) về sản phẩm rau quả và có hiệu lực từ tháng 10 năm 2003. Theo đó, mức thuế mà Trung Quốc áp dụng đối với nhập khẩu rau quả của Thái Lan là 0% còn đối với Việt Nam là 27%. Chính vì vậy, rau quả của Thái Lan – vốn là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam được xuất khẩu mạnh vào thị trường Trung Quốc do những ưu đãi thuế quan khiến cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu khó có khả năng cạnh tranh về giá. Vì vậy, kim ngạch rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc sụt giảm một cách đáng kể. Mặc dù, theo lộ trình cắt giảm thuế quan giữa khu vực ASEAN và Trung Quốc tới năm 2005 còn 1,67% song vẫn bất lợi hơn so với Thái Lan, gây nản lòng tới các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu rau quả sang thị trường này do vậy hạn chế khả năng mở rộng thị trường rau quả Việt Nam. (Nguồn:Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư, năm 2007, link: www.itpc.hochiminhcity.gov.vn)
Về mặt hàng, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc những mặt hàng: thanh long, chuối, dứa, xoài, dừa, vải, nhãn, chôm chôm, dưa hấu; dưa chuột, khoai tây, đậu quả các loại, măng ta, cà chua, nấm; hạt tiêu, gừng, ớt, giềng, nghệ, tỏi.
Trong chính sách quản lý nhập khẩu, Trung Quốc áp dụng các mức thuế nhập khẩu tương đối cao và chính sách phi thuế quan khá chặt chẽ. Thuế suất trung bình phổ thông đối với các loại rau chủ yếu khoảng 70% (thuế suất MFN tương ứng là 13%), trừ một số mặt hàng như nấm, măng, hành khô hoặc sơ chế, có thuế suất phổ thông cao hơn, khoảng 80% - 90% (thuế suất MFN vẫn là 13%); nhưng các loại hạt giống rau có thuế suất MFN khoảng 0-8%, các loại đậu, lạc thuế MFN khoảng 30%. Riêng các loại quả tươi, khô có thuế suất cao hơn. Thuế suất MFN trung bình với quả khoảng từ 30%-50% (thuế phổ thông lên tới 100%). (Nguồn: Rau hoa quả Việt Nam, năm 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn)
Thị trường Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam. Đây là thị trường có mức sống của người dân cao nên nhu cầu về hàng hóa rất lớn và đa dạng. Trong lĩnh vực nhập khẩu rau quả, Nhật Bản thường nhập khẩu chủ yếu từ Mỹ, Mêhico, Niu Di Lân, Ôtrâylia, Trung Quốc. Trong đó, Mỹ là nước cung cấp chủ yếu các mặt hàng hành, hoa lơ, măng tây, bí ngô. Niu Di Lân và Ôtrâylia thường cung cấp các loại rau quả tươi trái vụ và Trung Quốc cung cấp các loại rau quả tươi nhờ những ưu thế thuận lợi về địa lý. Mặc dù, các sản phẩm rau quả Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm tỷ lệ không lớn trong cơ cấu nhập khẩu rau quả của Nhật Bản song Nhật Bản đang là một trong ba thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản qua các năm không ổn định, có năm tăng năm giảm nhưng nhìn chung mức giảm không lớn. Theo bảng số liệu 2.3, năm 2001, kim ngạch đạt 13,7 triệu USD chiếm 3,98% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả. Sang năm 2002, mặc dù kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam giảm mạnh song kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản lại tăng đạt 16,0 triệu USD tăng 16,78% so với năm 2001. Đến năm 2003, mức kim ngạch sụt giảm nhẹ chỉ đạt 15,5 triệu USD giảm 3,12% nhưng đến năm 2004, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản lại tăng mạnh đạt 26,12 triệu USD, tăng 68,51% so với năm 2003, chiếm 14,6% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng đạt 28,98triệu USD nhưng bắt đầu có sự sụt giảm nhẹ trong những năm 27,57 triệu tấn năm 2006 giảm 4,86% so với năm 2005. Tới năm 2007, kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản chỉ đạt 26,426 triệu USD, chiếm 8,65% thị phần xuất khẩu rau quả của Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Đài Loan luôn là một trong những thị trường xuất khẩu rau hoa quả lớn của Việt Nam. Đây là một thị trường nhiều tiềm năng với thị hiếu tương đối đa dạng và không đòi hỏi quá cao về chất lượng. Hàng năm, Đài Loan nhập khẩu rau từ 130 – 145 triệu USD và nhập khẩu quả từ 400 – 420 triệu USD. (Nguồn: Trung tâm xúc tiến phát triển thương mại Hải Phòng, năm 2008, Trong số các loại quả nhập khẩu vào Đài Loan thì táo và lê là những sản phẩm được nhập nhiều nhất, nước này chủ yếu nhập khẩu hoa quả từ Hoa Kỳ. Loại rau tươi mà Đài Loan nhập khẩu nhiều nhất là súp lơ xanh, súp lơ trắng, bắp cải và bắp cải tàu. Thị trường nhập khẩu rau quả chủ yếu của Đài Loan là Hoa Kỳ, Trung Quốc và Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đứng vị trí thứ 5 trong số các nước và khu vực xuất khẩu rau vào Đài Loan (sau Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản), mỗi năm đạt khoảng trên 10 triệu USD rau và đứng thứ 8 về xuất khẩu quả vào Đài Loan (sau Mỹ, Chi Lê, Nhật Bản, New Zealand, Thái lan, Trung Quốc, Hàn Quốc), đạt trên 13 triệu USD. (Nguồn: , Trung tâm xúc tiến phát triển thương mại Hải Phòng, năm 2008).
Xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Đài Loan nhìn chung đạt hiệu quả,trung bình hàng năm Đài Loan nhập khẩu 23,6 triệu USD rau quả từ Việt Nam. Theo bảng số liệu 2.1, năm 2001, kim ngạch xuất khẩu rau quả sang Đài Loan đạt 23,3 triệu USD chiếm 6,76% thị phần xuất khẩu rau quả. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu có sự sụp giảm xuống còn 20,1 triệu USD (giảm 13,73% so với năm 2001) song lại tăng lên 21,36 triệu tấn vào năm 2003. Sang năm 2004, kim ngạch xuất khẩu sang Đài Loan lại giảm song không đáng kể đạt 20,47 triệu USD giảm 6,26% so với năm 2003 song có sự phục hồi nhanh chóng và đạt mức tăng trưởng cao vào năm 2005 (đạt 26,36 triệu USD tăng 28,77% so với năm 2004) và 2006 đạt 27,15% tăng 2,99% so với năm 2005. Tới năm 2007, Đài Loan trở thành thị trường xuất khẩu số 1 của rau quả Việt Nam đạt 29,476 triệu USD chiếm 9,64% thị phần xuất khẩu. Điều này cho thấy, trong thời gian tới thị trường Đài Loan vẫn là một thị trường đầy tiềm năng đối với rau quả Việt Nam.
Hiện Đài Loan là thị trường nhập khẩu rau quả lớn của Việt Nam với kim ngạch chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam. Bên cạnh đó, Đài Loan còn là thị trường trung gian cho rất nhiều loại sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường châu Âu, Mỹ và Đông Á.
Các mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất sang Đài Loan gồm: bắp cải, dưa chuột, cà chua, nấm, chuối, thanh long, vải và xoài, ngoài ra có các loại gia vị như: hạt tiêu, gừng, ớt, giềng, nghệ, tỏi.
Nhìn chung, hàng rau quả của Việt Nam xuất khẩu sang Đài Loan có tăng song còn manh nhúm. Lượng hàng xuất khẩu còn hạn chế, chưa tương xứng với nhu cầu của thị trường và năng lực của Việt Nam. Trong thời gian tới, để tăng năng lực xuất khẩu cho hàng rau quả Việt Nam sang thị trường Đài Loan, chúng ta cần quy hoạch thành những vùng rau quả lớn, có đủ khả năng cung cấp được với số lượng lớn, tranh thủ những thời điểm trái vụ và vào mùa mưa bão của Đài Loan (tháng 4 và 5 hàng năm). Bên cạnh đó, cần chú ý tới công tác bảo quản, đóng gói và đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực thẩm.
Hình 2.4: Cơ cấu thị trường xuất khẩu rau quả Việt Nam
năm 2007
(Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ bảng số liệu 2.2, Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn)
Theo biểu đồ 2.4, năm 2007 Đài Loan trở thành thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam chiếm 9,64%, tiếp theo là các thị trường Trung Quốc 8,91%, Nhật Bản 8,65%, Nga 7,33% và Mỹ 6,64%.
2.1.2.3. Đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong những năm qua
Những kết quả đạt được
- Các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả đã tích cực chủ động tìm hiểu thị trường xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu sang hơn 50 quốc gia trên thế giới. Bên cạnh những thị trường truyền thống (Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, ASEAN…) hoạt động xuất khẩu rau quả có nhiều thuận lợi do gần vị trí địa lý, chi phí vận chuyển thấp, rau quả Việt Nam trong những năm qua đã được mở rộng thêm ra các thị trường mới như: Achentina, Li Băng, Qata, Môtitania, Áo, Estônia …Đặc biệt, rau quả Việt Nam đã có mặt tại những thị trường được coi là khó tính trong việc yêu cầu chất lượng sản phẩm như Mỹ, EU… Đây cũng là những thị trường có nhu cầu lớn về nhập khẩu rau quả, trong đó EU là thị trường nhập khẩu quả nhiệt đới lớn nhất thế giới.
- Hoạt động xúc tiến thương mại mở rộng thị trường được quan tâm và phát triển hơn trước, hiệp hội ngành hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin, tìm hiểu thị trường, tìm kiếm khách hàng, tổ chức các cuộc triển lãm trong và ngoài nước quảng bá sản phẩm ra nước ngoài…
- Để mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả Nhà nước đã thực hiện rất nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, các nhà kinh tế sản xuất, xuất khẩu rau quả thông qua nhiều biện pháp như hoàn thuế giá trị gia tăng cho rau quả xuất khẩu; thưởng xuất khẩu đổi với nhiều mặt hàng rau quả mới xuất khẩu; hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường. Cụ thể, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu rau quả được phép hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng rau quả xuất khẩu. Đây là một trong những ưu đãi lớn đối với xuất khẩu rau quả, điều này đã khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực xuất nhập khẩu rau quả và đẩy mạnh xuất khẩu rau quả ra nhiều thị trường. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu sản phẩm rau quả cũng được hưởng chế độ ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra, nhà nước còn tiến hành hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu trong đó có rau quả. Chính phủ cho vay với lãi suất thấp hơn 0,2%/tháng so với mức lãi suất cho vay xuất khẩu của các ngân hàng thương mại.(Nguồn: Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn)
Những mặt hạn chế
- Mặc dù đã có những tiến bộ nhất định khả năng mở rộng thị trường, thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam vẫn khá hạn chế, thị trường xuất khẩu nhỏ lẻ. Hiện nay, rau quả Việt Nam xuất khẩu trên 50 quốc gia nhưng số thị trường có giá trị kim ngạch xuất khẩu trên 10 triệu USD còn rất ít, năm 2007 bao gồm các thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Nga, Mỹ…
- Cơ cấu thị trường mất cân đối dẫn đến việc xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào một số thị trường những nước lân cận như Trung Quốc, Đài Loan. Xuất khẩu rau quả, đặc biệt là rau quả tươi sang các thị trường nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản còn gặp nhiều trở ngại về công nghệ bảo quản và chế biến cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu về hàng nhập khẩu của các thị trường này.
- Khả năng phát triển thị trường rau quả của Việt Nam còn thiếu hiệu quả. Hiện nay, Việt Nam chưa hình thành được các mặt hàng chủ lực, có địa vị thống trị trên thị trường như dứa của Thái Lan, chuối của Philippin, rau tươi và rau chế biến của Trung Quốc mặc dù Việt Nam có tiềm năng phát triển các sản phẩm này là rất lớn và có khả năng cung cấp các sản phẩm có chất lượng tốt, đảm bảo độ tươi mới mang hương vị đặc trưng và giá trị dinh dưỡng cao. Thị phần hầu hết các mặt hàng rau quả Việt Nam còn ở mức hạn chế, chưa tạo được tác động chi phối đến thị trường thế giới.
- Kim ngạch xuất khẩu rau quả có mức tăng chậm và không ổn định. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu còn chưa phù hợp. Các mặt hàng rau, hoa, quả xuất khẩu chủ yếu là đóng hộp, sấy khô và một lượng rất nhỏ xuất tươi hoặc cấp đông trong khi đó trên thế giới nhu cầu về nhập khẩu rau quả tươi lớn. Chủng loại sản phẩm xuất khẩu rau quả của Việt Nam khá phong phú song khả năng cung ứng lại hạn chế, khó đáp ứng được khối lượng đặt hàng lớn.
- Trình độ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu rau, hoa quả ra nước ngoài của rất nhiều doanh nghiệp còn thấp, thiếu thông tin thị trường và giá cả. Phương thức thanh toán không phù hợp với thông lệ quốc tế trong xuất nhập khẩu loại hàng này và nhất là phương pháp tổ chức từ sản xuất đến tiêu thụ và xuất khẩu còn rất yếu kém. Bởi vậy, hầu hết những đơn vị xuất khẩu rau, hoa quả cũng mới chỉ chủ yếu xuất khẩu tiểu ngạch hoặc thu mua cung ứng cho bạn hàng nước ngoài theo từng lô hàng. Do đó trong quá trình mở rộng thị trường xuất khẩu khả năng cung ứng không ổn định, ngoài những thị trường lớn truyền thống thì những thị trường nhỏ mới mở sau một, hai năm xuất khẩu thường xuyên bị mất thị trường do đơn vị xuất khẩu chủ yếu là làm theo đơn đặt hàng mà chưa có sự chủ động trong việc tìm kiếm đối tác hay phát triển, củng cố sản phẩm của mình trên những thị trường đó.
Nguyên nhân những hạn chế
- Năng lực cạnh tranh của rau quả của Việt Nam không cao ảnh hưởng tới khả năng mở rộng thị trường. Nhiều sản phẩm rau quả xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn chưa cạnh tranh được với những sản phẩm của các nước trong khu vực như Thái Lan, Philippin. Trong đó, những yếu tố làm hạn chế sức cạnh tranh của rau quả Việt Nam trong thời gian qua đó là:
+ Việc xây dựng thương hiệu mạnh cho rau quả Việt Nam trên thế giới vẫn chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu rau, hoa, quả không gắn được thương hiệu của doanh nghiệp vào sản phẩm. Không có thương hiệu riêng, khiến rau quả Việt Nam không tạo được chỗ đứng trên thị trường, nhiều sản phẩm rau quả Việt Nam bị người tiêu dùng ở nhiều nước hiểu lầm là các sản phẩm của Thái Lan, Trung Quốc. Thực tế cho thấy, mặc dù Việt Nam có nhiều loại trái cây ngon, nổi tiếng như xoài xất Hòa Lộc (Tiền Giang), Thanh Long (Bình Thuận), vải thiều Bắc Giang, nho Ninh Thuận, Bưởi Năm Roi (Vĩnh Long)…song vấn đề phát triển thương hiệu sản phẩm đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay chủ yếu chỉ dừng lại ở việc tiến hành đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm. Một số lượng nhỏ các doanh nghiệp đã tiến hành đăng ký thương hiệu sản phẩm song ít quan tâm tới việc quảng bán thương hiệu nên thương hiệu sản phẩm trên thị trường quốc tế chưa thật sự nổi tiếng…Điều này làm hạn chế khả năng xâm nhập của rau quả Việt Nam trên thị trường thế giới.
+ Giá các sản phẩm rau quả của Việt Nam cao hơn so với rau quả cùng loại của các nước nhiệt đới khác. Ví dụ như so với sầu riêng Ri-6 Việt Nam bán lẻ 25.000 đồng/kg thì tại Thái Lan sầu riêng Mongthong khoảng 7.000 đồng/kg, Mongthong Thái bán ở Việt Nam chỉ 10.000-15.000 đồng/kg. Tương tự, bưởi năm roi Việt Nam xuất sang Trung Quốc giá lên đến 2-2,5 USD/kg, trong khi đó bưởi Trung Quốc xuất sang Hà Lan chỉ 50 cent/kg. Giá rau quả Việt Nam thường đắt hơn các nước khác là do sản lượng rau quả của chúng ta chưa nhiều, khâu vận chuyển, bảo quản thiếu chuyên nghiệp. Hiện nay, tỷ lệ hư hỏng sau bảo quả của trái cây Việt Nam ở mức 20 - 30%. (Nguồn: Giá rau quả Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực, 2007, www.thoisu.com). Đặc biệt, các chi phí dịch vụ cho xuất khẩu, nhất là chi phí vận tải của Việt Nam cũng cao hơn hẳn so với các nước trong khu vực. Đơn cử, giá cước vận chuyển tàu thuỷ của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực như Thái Lan, giá cước hàng không cao gấp 1,5 lần và từ 200–500USD/công lanh fit. Ngoài ra, chi phí vận chuyển đường dài bằng xe lạnh quá cao, chiếm khoảng 60% chi phí kinh doanh. Các hình thức vận chuyển khác chưa phổ biến như các nước khác, cước phí hàng không của Việt Nam cao nhất khu vực. (Nguồn: Cần nâng cao năng lực cho cây ăn trái Việt Nam trong xuất khẩu, 2007, link:
+ Hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ về giống, thu hoạch, bảo quản chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sản xuất và chưa thực sự bám sát thị trường về nhu cầu các mặt hàng và yêu cầu chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là vấn đề bảo quản sản phẩm gây cản trở lớn tới khả năng xuất khẩu rau quả Việt Nam đến các thị trường xa. Đơn cử như xoài, vú sữa, chuối….có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon nhưng mỏng vỏ nên không cất giữ được lâu, không bảo quản được để chủ động độ chín đáp ứng nhu cầu thị trường Pháp, Nhật, Hà Lan, Ai Cập. Bên cạnh đó, hiện nay Việt Nam chưa có hệ thống sản xuất và cung ứng giống chuyên nghiệp. Do đó, người sản xuất thường mua những giống cây rẻ, trôi nổi trên thị trường hay trồng những giống cây truyền thống nên chủ yếu đã thoái hóa, nhiễm bệnh, chất lượng ngày càng giảm sút. Còn tại các nước trong khu vực do luôn cập nhật và đưa vào canh tác những giống mới lạ, có chất lượng tốt, năng suất cao, thời gian bảo quản lâu như dứa MD2, thanh long ruột đỏ, chôm chôm râu dài xanh, xoài ngọt…do đó chất lượng luôn đảm bảo, đồng đều và dễ dàng xâm nhập được thị trường.
+ Công tác quy hoạch các vùng trồng cây ăn quả, trồng rau để tạo ra những vùng sản xuất lớn, tập trung, chuyên canh cho rau, hoa, quả, sản xuất hàng hoá, tạo sản lượng lớn ổn định, chất lượng cao, có tính cạnh tranh đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu chưa đầy đủ. Số lượng các vùng chuyên canh như vải thiều Bắc Giang, vú sữa Lò Rèn, thanh long Bình Thuận, nho Ninh Thuận còn ít. Mặc dù sản lượng sản xuất được khá lớn nhưng khó đáp ứng được nhu cầu khách hàng do việc thu gom gặp khó khăn.
+ Sản xuất rau quả manh nhúm, nhỏ lẻ khiến cho sản phẩm khi xuất khẩu có kích thước, trọng lượng, hương vị, chất lượng không giống nhau. Việt Nam có khả năng cung cấp các mặt loại rau quả trái vụ do có điều kiện thuận lợi về khí hậu so với các đối thủ cạnh tranh khác như Thái Lan. Đó sẽ là lợi thế xuất khẩu để nâng cao thị phần rau quả và mở rộng thị trường xuất khẩu song thực tế cho thấy kỹ thuật canh tác sản xuất rau quả chủ yếu là mang tính thời vụ do đó khả năng cung cấp các mặt hàng với số lượng lớn để tận dụng lợi thế và mở rộng khả năng chi phối tại các thị trường là khó thực hiện.
- Chất lượng các sản phẩm rau quả của Việt Nam chưa cao nên khả năng cung cấp tại các thị trường còn nhiều hạn chế. Nhiều giống rau quả của Việt Nam hiện nay chỉ phù hợp với thị trường trong nước chứ chưa thích hợp cho xuất khẩu. Việt Nam có tiềm năng lớn về xuất khẩu rau quả, diện tích rau quả đạt trên 1,4 triệu ha và sản lượng đạt trên 16 triệu tấn song số lượng xuất khẩu vẫn còn thấp, so với các loại nông sản khác thì mới xuất khẩu đạt 20 – 25%.(Nguồn: Hội nông dân Việt Nam, link: Bên cạnh đó, rau quả Việt Nam còn kém về mẫu mã sản phẩm và bao bì. Nhiều loại rau quả của Việt Nam có chất lượng tốt hơn nhiều nước như bưởi của Trung Quốc, Thái Lan không ngon bằng bưởi Việt Nam nhưng vì giá bán của những nước này thấp hơn từ 10 – 20%, tươi lâu, mẫu mã lại đẹp hơn của Việt Nam do nhờ khâu xử lý đánh bóng nên được ưa chuộng hơn.
2.2. Thực trạng hoạt động mở rộng thị trường tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng Không
2.2.1. Khái quát chung về Công ty
2.2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Tên công ty: Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không
Tên giao dịch quốc tế: Air services supply joint stock company
Tên viết tắt: AIRSERCO
Trụ sở chính: Số 1 Ngõ 196, Phố Nguyễn Sơn, Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội.
Điện thoại: 8 271352 / 8 271565 / 8731675
Fax: 04 8272426
Website: www. airserco.vn
E-mail: info@airserco.vn
Chi nhánh Tp Hồ Chí Minh: Số 7- Đường Hậu Giang - Phường 4 – Tân Bình
Điện thoại: (08)8118687 – (08)8118688
Fax: (08)8118683
Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không ra đời trên cơ sở tiền thân là Cục phục vụ - Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam, ngày 19/9/2004 Bộ Giao thông vận tải ra Quyết định số 1507/QĐ/TCCB – LĐ thành lập Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không Việt Nam không trực thuộc Cục. Ngày 30/6/1997, Hội đồng quản trị Tổng Công ty Hàng không Việt Nam ra Quyết định số 1023/HĐQT về việc đổi tên Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng Không trực thuộc Cục Hàng không Dân Dụng Việt Nam thành Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không không thuộc trực thuộc Tổng công ty Hàng Không Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là một đơn vị độc lập, hoạt động đa ngàng nghề trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, sản xuất và cung ứng các sản phẩm phục vụ hành khách trên máy bay; trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh. Ngày 1/1/2007, Công ty chính thức cổ phần hoá lấy tên là: Công ty cổ phần Cung ứng Dịch vụ Hàng không.
Trong quá trình hoạt động của mình, công ty luôn phấn đấu và nỗ lực nhằm đem đến những sản phẩm và dịch vụ tốt nhất đối với người tiêu dùng. Các sản phẩm sản xuất của Công ty hi ện nay gồm:
- Khăn các loại phục vụ các chuyến bay trong và ngoài nước cho VIETNAM AIRLINES.
- Các sản phẩm rau quả chế biến: dưa chuột, nấm, cà chua….
- Các sản phẩm dệt may: quần áo nam nữ, trẻ em…
- Các sản phẩm về gỗ.
Hoạt động Dịch vụ của Công ty bao gồm:
- Hoạt động đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; Tổ chức Đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam trước khi đi làm việc ở nước ngoài, Tư vấn du học.
- Đại lý bán vé máy bay cho VIETNAM AIRLINES
- Du lịch nội địa và Quốc tế, dịch vụ thu gom và giao nhận hàng hoá
Hiện nay, sản phẩm của Công ty đã xuất khẩu đi các thị trường nước ngoài như: Đức, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... luôn nhận được sự đánh giá cao của khách hàng về chất lượng sản phẩm, năng lực cung cấp và giá cả cạnh tranh. Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài, Công ty cũng hết sức chú trọng đến nhu cầu của thị trường nội địa trong nước đầy tiềm năng. Thông qua kênh phân phối của các đại lý bán buôn, bán lẻ, các siêu thị và nhà hàng, Công ty hy vọng được đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm tốt nhất của mình.
2.2.1.2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
Với mục tiêu trở thành một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả, uy tín trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh các sản phầm đồ hộp, rau quả chế biến, nước giải khát, sản suất kinh doanh may mặc, dệt thủ công mỹ nghệ, lữ hành nội địa, q._.oạt động sản xuất, tiến hành hợp tác và xây dựng thành một vùng chuyên canh rộng lớn. Đối với các vùng nguyên liệu phân tán thì nhà nước nên phát triển hệ thống chế biến vừa và nhỏ để đảm bảo chế biến và bảo quản tại chỗ sau đó cung cấp bán thành phẩm cho các cơ sở chế biến công nghiệp có công suất lớn, tạo ra hệ thống nhiều tầng công nghệ có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
- Các vùng chuyên canh cần được quy hoạch sản xuất theo phương thức sản xuất hàng hóa, chất lượng đồng đều, sản lượng thu hoạch lớn, tránh hiện tượng trong một vùng sản xuất có quá nhiều các loại cây trồng khác nhau, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu của xuất khẩu. Cụ thể, khi xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh cần tiến hành chọn lọc loại cây trồng dựa vào lợi thế của từng khu vực, địa phương, tiến hành sản xuất thử trên quy mô nhỏ để thấy được hiệu quả kinh tế rồi mới đưa vào sản xuất đại trà theo hướng phát triển hợp lý.
- Quy hoạch gắn liền với xây dựng và nâng cấp hạ tầng cơ sở vật chất. Vùng sản xuất rau quả khi được hình thành và phát triển không những đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mà còn nâng cao đời sống người nông dân. Xây dựng cơ sở vật chất tại các vùng chuyên canh bao gồm hai vấn đề. Một là, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động sản xuất bao gồm hệ thống: kênh mương, hồ chứa nước, hệ thống để điều… để đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất đồng thời hạn chế những bất lợi do thiên tai gây ra. Hai là, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho việc vận chuyển hàng rau quả từ vùng nguyên liệu tới nơi chế biến và xuất khẩu đó là: hệ thống giao thông, bến cảng, cửa khẩu… Bên cạnh đó, việc đầu tư cho cơ sở vật chất tại các vùng sản xuất còn thúc đẩy việc thu hút đầu tư nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp, vừa có tác dụng giảm bớt nguồn chi ngân sách nhà nước vừa tạo động lực cho sự phát triển ngành nông nghiệp.
3.3.1.2. Nhà nước cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại đối với ngành hàng rau quả
Xúc tiến thương mại là hoạt động cần thiết, giữ vai trò quan trọng và quyết định tới việc đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng. Trong quá trình xuất khẩu, xúc tiến thương mại giúp cho doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường nhanh hơn và chính xác hơn từ việc thu thập thông tin về thị trường thông qua các đại sứ quan, cục xúc tiến thương mại, hệ thống văn phòng đại diện tại nước ngoài. Để mở rộng chiếm lĩnh và tạo vị thế cho rau quả của Việt Nam trên thị trường thế giới, công tác xúc tiến thương mại cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Tiếp tục tổ chức và đẩy mạnh hơn nữa việc tham gia các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm, tìm kiếm đối tác kinh doanh đặc biệt Việt Nam nên chủ động tổ chức các cuộc triển lãm, hội chợ với tư cách là chủ nhà, nên tạo thành một hoạt động thường niên, đồng thời chủ động gửi giấy mời tham dự tới các đối tác có nhu cầu nhập khẩu rau quả. Bên cạnh đó, nhà nước cũng nên tăng cường hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc tham gia hội chợ, triển lãm đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ngoài đưa sản phẩm của mình sang tham gia hội chợ triển lãm tổ chức tại Việt Nam như hỗ trợ thuê địa điểm diễn ra hội chợ, triển lãm; đơn giản hóa các thủ tục cho các doanh nghiệp trong khâu đưa sản phẩm đi triển lãm ở nước ngoài hay các doanh nghiệp nước ngoài mang sản phẩm đến triển lãm tại Việt Nam… Thông tin về hội chợ triển lãm cần được thông báo trên các phương tiện truyền thông về chương trình hội chợ, triển lãm và thông báo trực tiếp tới từng doanh nghiệp.
- Tổ chức các hội nghị và diễn đàn đối với các doanh nghiệp, nông dân rau quả nhằm cung cấp các thông tin, giới thiệu về các thị trường, nhu cầu, chính sách, quy định nhập khẩu, tiêu chuẩn chất lượng tại các thị trường để doanh nghiệp có chiến lược phát triển thị trường hiện tại và định hướng mở rộng thị trường tiềm năng. Qua hội nghị và diễn đàn, nhà nước và các ban ngành sẽ có những trao đổi và trực tiếp lấy ý kiến của các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và xuất khẩu từ đó đề ra những biện pháp, chính sách, hỗ trợ, phát triển phù hợp với thực tiễn để đẩy mạnh công tác mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả.
- Thành lập và mở rộng các cơ quan thương vụ ở nước ngoài để thu thập thông tin, dự báo về ngành hàng, tìm kiếm đối tác đặc biệt là các thông tin về quy định xuất nhập khẩu, về mặt hàng nhập khẩu, giá cả, thị hiếu khách hàng. Các cơ quan thương vụ sẽ cung cấp đầy đủ thông tin một cách nhanh nhất và thường xuyên tới doanh nghiệp, tư vấn cho doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu, hợp tác kinh doanh với nước ngoài và là cầu nối quan trọng trong trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế với các quốc gia trên thế giới để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa và mở rộng thị phần, thị trường của rau quả Việt Nam trên thế giới. Theo đó, Việt Nam nhanh chóng hoàn thành chiến lược tổng thể về hội nhập và tích cực tham gia vào các hiệp định thương mại song phương. Đặc biệt là đàm phán các hiệp định song phương với Hoa Kỳ, EU, Nhật, Trung Quốc về kiểm dịch động, thực vật và công nhận lẫn nhau về các cơ sở kiểm tra, cấp giấy chứng nhận về chất lượng cho rau quả Việt Nam.
3.3.1.3. Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp rau quả
Gia nhập WTO, các hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp dần bị xóa bỏ cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Do đó, để có những hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu rau quả nói riêng hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp của nhà nước cần tập trung vào việc cung cấp thông tin về thị trường xuất khẩu về thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ tín dụng. Trong đó, hướng hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp tham gia sản xuất xuất khẩu rau quả cần tập trung vào các vấn đề:
+ Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng và đội ngũ các nhà khoa học tại các viện và trung tâm nghiên cứu trong việc: nghiên cứu các giống cây trồng đảm bảo chất lượng, hiệu quả kinh tế cao; nghiên cứu công nghệ bảo quản, chế biến hàng hóa vừa đơn giản, chi phí không quá cao để đảm bảo sản phẩm được bảo quản trong thời gian dài, đủ đáp ứng nhu cầu vận chuyển tiêu thụ và có khả năng cạnh tranh. Đặc biệt trong công tác nghiên cứu giống cây cần đầu tư vào việc áp dụng các công nghệ sinh học để tiến hành lai tạo giống tạo ra nhiều loại giống mới cho sản lượng cao, kích thước lớn, đồng đều mà vẫn giữa được hương vị thơm ngon. Bên cạnh đó, nhà nước cần hỗ trợ cho doanh nghiệp để xây dựng các cơ sở sản xuất với thiết bị chuyên dùng tiên tiến sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển trong mọi điều kiện tự nhiên vẫn giữ được nguyên chất.
+ Xây dựng và hỗ trợ vận hành các trung tâm giao dịch rau quả là nơi tập kết, lựa chọn, bảo quản, đóng gói rau quả cho xuất khẩu và cả thị trường trong nước. Đây không chỉ là giải pháp tình thế cho vấn đề thiếu nguyên liệu cho sản xuất trong điều kiện việc quy hoạch giữa các vùng chuyên canh sản xuất rau quả với các nhà máy chế biến và xuất khẩu rau quả chưa hợp lý, thiếu đồng bộ. Xây dựng và vận hành trung tâm giao dịch giúp doanh nghiệp và những người nông dân trồng rau quả được tiếp cận với nhau trên cơ sở hợp tác kinh doanh có lợi, giảm thiểu rủi ro. Về lâu dài, hình thành trung tâm giao dịch sẽ tạo dựng được một chuỗi cung ứng sản phẩm theo dây chuyền, hướng tới cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp và hơn hết trong công tác mở rộng thị trường sẽ giúp thu hút được các đối tác nước ngoài tham gia. Doanh nghiệp và người nông dân khi tham gia vào trung tâm vừa có điều kiện thuận lợi để tiếp cận với các đối tác nước ngoài, tìm hiểu nhu cầu của họ vừa giảm thiểu chi phí trong công tác quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp đặc biệt là giảm thiểu rủi ro trong thanh toán. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần đầu tư phát triển cho hệ thống các chợ đầu mối, để tập trung nguồn hàng một cách nhanh chóng, đáp ứng được khối lượng hàng hóa lớn cho sản xuất chế biến và xuất khẩu.
Đồng bộ với việc quy hoạch xây dựng chợ đầu mối và trung tâm giao dịch là xây dựng và quy hoạch các kho bãi chứa hàng, kho lạnh để bảo quản rau quả xuất khẩu, chủ động nguồn hàng.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả. Doanh nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực rau quả phần lớn đều là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tài chính không lớn, chưa có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường thế giới do đó các doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong vấn đề xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường xuất khẩu. Do đó, trong thời gian tới nhà nước nên áp dụng hơn nữa mức lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất và xuất khẩu rau quả hay có chính sách hỗ trợ tài chính để các ngân hàng thương mại cho doanh nghiệp xuất khẩu rau quả vay vốn với mức lãi xuất ưu đãi.
3.3.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp
3.3.2.1.Tăng cường mối quan hệ hợp tác với các vùng nguyên liệu
Để đảm bảo nguồn cung cho quá trình sản xuất chế biến, Công ty cần kết hợp với vùng nguyên liệu trong việc đảm bảo nguồn cung cho sản xuất, giống cây để đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng được những nhu cầu khách hàng và khả năng cung ứng sản phẩm đúng thời hạn. Theo đó, Công ty sẽ tiến hành hợp tác và hỗ trợ một phần đối với nơi cung ứng nguyên liệu về giống, phân bón để vừa đảm bảo nguồn cung ổn định mặt khác lại theo dõi được quá trình sản xuất, xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng của công ty. Cụ thể, đối với các vùng nguyên liệu gần như dứa ở Đồng Gia (Bắc Giang); dưa chuột ở Hưng Yên, Lý Nhân (Hà Nam); cà chua ở Hà Nam, Bắc Giang; ngô ngọt ở Hà Nam, Bắc Giang, Hưng Yên, Công ty cần tạo lập mối quan hệ làm ăn lâu dài, chủ động tạm ứng tiền mua nguyên liệu trước mùa vụ, thường xuyên cử cán bộ tới vùng nguyên liệu để kiểm tra, theo dõi chất lượng sản phẩm. Đối với các vùng nguyên liệu xa như nhập khẩu nấm, đậu Hà Lan tại Trung Quốc, Công ty cần cử cán bộ đi công tác, tìm kiếm nguồn nguyên liệu đồng thời liên hệ sự giúp đỡ của hiệp hội ngành hàng ở đây để giới thiệu các vùng nguyên liệu đảm bảo nguồn cung ổn định và chất lượng.
Trong tương lai để tạo thế chủ động trong cung cấp nguyên liệu, Công ty cần hướng tới xây dựng vùng nguyên liệu riêng cho mình cụ thể là tiến hành xây dựng vùng nguyên liệu tại Hưng Yên để chủ động hơn trong sản xuất tiến tới ứng ứng dụng dây chuyền khép kín từ khâu trồng trọt đến chế biến, bảo quản đóng gói hàng hóa xuất khẩu. Để tạo ra một dây chuyền sản xuất khép kín thì việc xây dựng vùng nguyên liệu trước hết Công ty cần tiến hành đầu tư cho công tác nghiên cứu về giống, loại cây trồng, chất lượng sản phẩm và kỹ thuật canh tác.Theo đó, Công ty nên đầu tư cho việc thành lập xây dựng khu vực nghiên cứu trong khuôn viên nhà máy chế biến rau quả tại Hưng Yên, nâng cao và mở rộng hoạt động của phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm ra các lĩnh vực nghiên cứu để tạo thành một chuỗi các hoạt động hỗ trợ cho nhau đảm bảo về nguồn cung ứng sản phẩm ổn định, đồng đều và có chất lượng tốt.
3.3.2.2. Nâng cao chất lượng các sản phẩm rau quả
Chất lượng sản phẩm là yêu cầu tối quan trọng đối với các sản phẩm thực phẩm trong đó có rau quả. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay khi mà đời sống của người dân tại các quốc gia không ngừng được nâng cao, yêu cầu về chất lượng sản phẩm ngày càng cao thì vấn đề chất lượng cho sản phẩm giữ vai trò quyết định tới sự thành bại trên thị trường. Sản phẩm có chất lượng tốt sẽ được người tiêu dùng tin tưởng sử dụng và có khả năng gia tăng khối lượng trên thị trường xuất khẩu. Ngược lại, sản phẩm có chất lượng không tốt sẽ nhanh chóng mất đi thị trường xuất khẩu của mình và khó có thể khôi phục lại thị trường đó. Do đó, trong quá trình chế biến và xuất khẩu Công ty cần chú ý tới việc lựa chọn nguyên liệu đầu vào cho quá trình chế biến về độ tươi ngon, khả năng đồng đều của sản phẩm đảm bảo sản phẩm không bị nhiễm bẩn và sâu hại. Trong quá trình chế biến và bảo quản cần kiên quyết không sử dụng các thành tố, hóa chất không cho phép nhằm giữ độ tươi ngon và bảo quản được lâu cho sản phẩm, không sử dụng các loại màu nhân tạo để giữ màu của sản phẩm chế biến. Cụ thể, đối với các sản phẩm của Công ty chủ yếu là đóng lọ, đóng lon cần đảm bảo các lọ phải được vô trùng trước khi đóng hộp, không sử dụng các chai lọ đã bị nứt, các vỏ lon bị gỉ có ảnh hưởng tới bảo quản sản phẩm và khả năng vận chuyển xa, không sử dụng chất kích thích để đảm bảo độ chua, giòn cho sản phẩm. Đặc biệt, đối với sản phẩm của Công ty là sản phẩm đóng hộp thì Công ty cần quan tâm tới vấn đề đảm bảo các tiêu chuẩn về phân biệt sản phẩm, độ đầy đối với rau quả đóng hộp cho phù hợp với quy định tại từng thị trường xuất khẩu. Công ty nên học hỏi các doanh nghiệp nước ngoài về kỹ thuật bảo quản và đầu tư cho việc nhập khẩu những dây chuyền phân loại, bảo quản hiện đại. Trong quá trình sản xuất, Công ty phải không ngừng đổi mới công nghệ, đào tạo cho đội ngũ lao động sản xuất nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng sản phẩm chế biến xuất khẩu, Công ty cần tăng cường tìm kiếm thêm nhiều nguồn cung cấp nguyên liệu mới có chất lượng cao. Công ty nên tìm kiếm nguyên liệu từ các nhà cung ứng có uy tín và chất lượng đảm bảo. Có như vậy, chất lượng sản phẩm mới được đảm bảo và ngày càng nâng cao, mang tính ổn định lấy cơ sở để đẩy mạnh thị phần của Công ty trên thị trường.
Công ty cần nhanh chóng đẩy mạnh công tác đăng ký và tổ chức quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, HACCP, SA8000…. Hiện nay, tiêu chuẩn kỹ thuật trở thành điều kiện cơ bản và tiên quyết để các sản phẩm xuất khẩu xâm nhập được với các thị trường nước ngoài. Các thị trường khác nhau sẽ có nhưng tiêu chuẩn riêng đối với từng loại sản phẩm như Nhật Bản có hệ thống JAS và chứng nhận về bảo vệ sinh thái. Việc đăng ký, tổ chức quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn một mặt sẽ giúp Công ty có thể đẩy mạnh được sản phẩm của mình ra nước ngoài, được thị trường nước ngoài chấp nhận, mặt khác với việc đăng ký được các tiêu chuẩn quốc tế cũng đồng nghĩa sản phẩm của Công ty sẽ được người tiêu dùng biết đến nhiều hơn (hàng Việt Nam chất lượng cao) từ đó tạo điều kiện cho các công ty và đối tác nước ngoài tìm đến với Công ty nhanh hơn. Với mục tiêu của Công ty tới năm 2010 là mở rộng thị trường sang thị trường Nhật Bản, Công ty nên tiến hành xây dựng hệ thống tiêu chuẩn sao cho phù hợp với quy định tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhật Bản đồng thời tiến hành liên kết các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu rau quả sang thị trường Nhật Bản để học hỏi kinh nghiệm và trao đổi thêm về thông tin thị trường và nhu cầu tại thị trường Nhật Bản. Theo đó, để bước đầu xâm nhập vào thị trường Nhật Bản Công ty cần chú ý đến thủ tục xin giấy chứng nhận chất lượng JAS, Ecomark và chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu. Sản phẩm khi được đóng dấu JAS thì sẽ dễ dàng được tiêu thụ tại thị trường Nhật Bản do người tiêu dùng Nhật Bản rất tin tưởng vào sự kiểm nghiệm về chất lượng sản phẩm thông qua hệ thống tiêu chuẩn này. Công ty khi muốn xin giấy chứng nhận JAS thì phải đến đăng ký xin dấu tại Bộ Công thương và Bộ Nông Lâm Ngu nghiệp Nhật Bản.
3.3.2.3.Đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu
Công suất của nhà máy chế biến rau quả của Công ty hiện nay vẫn chưa hoạt động hết công suất thiết kế. Thiếu nguyên liệu cho sản xuất là một nguyên nhân song phải thấy rằng các sản phẩm của Công ty hiện nay còn thiếu đa dạng. Các sản phẩm chủ yếu là sản xuất theo mùa vụ, khả năng cung ứng cho thị trường hạn chế. Đa dạng hóa sản phẩm sẽ giúp Công ty vừa tăng được khối lượng mặt hàng cung ứng ra thị trường để mở rộng thị phần, khẳng định thương hiệu sản phẩm vừa tăng được công suất chế biến, khắc phục được tình trạng lãnh phí nguồn lực trong những tháng nguồn nguyên liệu khan hiếm. Để mở rộng thị trường xuất khẩu đòi hỏi Công ty phải đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu khai thác tốt các thị trường hiện có và mở rộng thêm các thị trường tiềm năng. Theo đó, bên cạnh việc nâng cao hơn nữa chất lượng của những sản phẩm truyền thống, Công ty nên tìm kiếm thêm các mặt hàng để chế biến vừa mở rộng được sản xuất, đảm bảo nguồn cung cấp hàng thêm cho các thị trường trước hết là các thị trường truyền thống vừa hạn chế rủi ro về kinh doanh, rủi ro do thiếu nguyên liệu từ đó ngày càng xây dựng được các mặt hàng chiến lược phù hợp với nhu cầu đa dạng tại các thị trường. Đồng thời, Công ty cần xác định các mặt hàng đưa thêm vào danh mục chế biến xuất khẩu sao cho phù hợp với khả năng của Công ty và nhu cầu có thể phát triển mặt hàng đó tại các thị trường, tránh tình trạng chạy theo nhu cầu và lợi nhuận mà mở rộng sản xuất các mặt hàng tràn lan, vừa thiếu hiệu quả, mang tính thời điểm vừa không đảm bảo chất lượng sản phẩm gây mất uy tín đối với khách hàng. Với đặc điểm là xuất khẩu rau quả chế biến, Công ty có thể mở rộng sang sản xuất và xuất khẩu mặt hàng cơm dừa, thạch dừa, ớt. Đây là mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng của Việt Nam đặc biệt là mặt hàng cơm dừa xuất khẩu đã được khách hàng tại nhiều nước đánh giá rất cao đồng thời Việt Nam cũng có một vùng nguyên liệu lớn để đảm bảo xuất khẩu. Đối với Công ty việc mở rộng sang sản xuất chế biến mặt hàng cơm dừa có nhiều thuận lợi bởi Công ty đã xây dựng được hệ thống chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh nên rất thuận tiện để liên hệ tìm hiểu các vùng nguyên liệu dừa tại các tỉnh Nam Bộ (nơi cung cấp dừa chủ yếu cho cả nước). Mặt khác, Công ty có một hệ thống các phương tiện vận chuyển chuyên dụng đảm bảo vận chuyển một khối lượng nguyên liệu lớn và đường dài.
3.3.2.4.Chú trọng đầu tư, tăng cường tìm hiểu về thị trường, chủ động tìm kiếm đối tác kinh doanh và quảng bá thương hiệu sản phẩm
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, cạnh tranh diễn ra ngày càng mạnh mẽ và gay gắt. Sự tồn tại của một doanh nghiệp phần lớn được quyết định bởi thông tin. Sự nắm bắt thông tin một cách nhanh nhạy, chính xác sẽ giúp doanh nghiệp đi trước một bước so với các đối thủ cạnh tranh của mình, có chiến lược phát triển thị trường hợp lý. Do đó, công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường là hết sức quan trọng đối với Công ty nhất là trong thời điểm hoạt động sản xuất chế biến của Công ty đang được mở rộng, nhu cầu về mở rộng thị trường là cần thiết. Để hoạt động xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường được hiệu quả, hàng năm Công ty cần trích một phần lợi nhuận để đầu tư cho công tác tìm hiểu thị trường và tìm kiếm đối tác kinh doanh. Trong đó cần tiến hành các công tác sau: một là thường xuyên cử cán bộ đi công tác nước ngoài tìm hiểu về thị trường và tìm đối tác kinh doanh đồng thời trao đổi và học tập kinh nghiệm phát triển thị trường của các doanh nghiệp nước ngoài. Hai là, hoàn thiện website của Công ty để giới thiệu về công ty và sản phẩm sản xuất, xây dựng website trở thành kênh thông tin hữu hiệu nhằm quảng bá sản phẩm, tên tuổi công ty đến người tiêu dùng trong và ngoài nước. Ba là, mở rộng hoạt động của phòng Marketing và đầu tư đào tạo nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và marketing đáp ứng được yêu cầu công việc. Trong quá trình tìm hiểuthị trường, Công ty cần nghiên cứu kỹ về các tiêu chuẩn, quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm của các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản để có quy trình bảo quản và chế biến phù hợp. Công ty cần đa dạng các thông tin về thị trường để có thông tin chính xác thông qua việc mở rộng kênh thông tin tìm kiếm: qua các Bộ ban ngành, Đại sứ quan, thương vụ, Hiệp hội ngành hàng, thông qua đối tác làm ăn, tổ chức quốc tế ở Việt Nam (như JETRO của Nhật Bản)… Công ty cũng nên sử dụng một phần lợi nhuận để mua thông tin về thị trường.
Cụ thể, với mục tiêu của Công ty đến năm 2010 sẽ xuất khẩu rau quả sang thị trường Nhật Bản. Đây là một thị trường có nhu cầu lớn đối với hàng rau quả đồng thời được coi là một thị trường khó tính với nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật được đặt ra. Để xuất khẩu thành công vào thị trường này, Công ty cần hiểu rõ về hệ thống bán đấu giá trên thị trường bán buôn của Nhật Bản và các chi phí phân phối để đảm bảo hàng đến tay người tiêu dùng. Công ty có thể ký hợp đồng trực tiếp với các đơn vị dịch vụ thực phẩm lớn để cung cấp trực tiếp sản phẩm cho họ để tham gia vào hệ thống phân phối của Nhật Bản. Trong quá trình thiết lập quan hệ kinh doanh với đối tác Nhật Bản điều quan trọng mang ý nghĩa quyết định đến thành công là sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau. Vì vậy, Công ty cần cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho khách hàng bao gồm việc giới thiệu về công ty, catalogue giới thiệu sản phẩm, mẫu mã, bảng giá, yêu cầu về lượng hàng tối thiểu, điều kiện giao hàng, khả năng cung cấp…
Bên cạnh đó, đối với các sản phẩm rau quả người Nhật Bản đòi hỏi rất nghiêm ngặt về chất lượng sản phẩm nên Công ty cần chú ý đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về chất lượng, dán nhãn sản phẩm, bảo bảo độ tươi, kích cỡ, màu sắc của sản phẩm. Đồng thời, Công ty cần có chiến lược quảng cáo giới thiệu sản phẩm, thông tin đến người tiêu dùng, hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm khi xâm nhập thị trường này. Xuất khẩu rau quả sang thị trường Nhật Bản thành công sẽ tạo điều kiện cho Công ty mở rộng sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường mới bởi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản có nghĩa là những tiêu chuẩn kỹ thuật tại các quốc gia khác sẽ cơ bản đạt được và tạo được sự tin tưởng đối với sản phẩm. Vì vậy, khi xuất khẩu rau quả sang thị trường Nhật Bản Công ty cần tiến hành kiểm tra kỹ từng lô hàng. Kinh nghiệm cho thấy, khi đã vào được thị trường Nhật Bản, chỉ một sơ xuất nhỏ trong một lô hàng do vấn đề vệ sinh thực phẩm có thể dẫn tới lô hàng bị hủy bỏ thậm chí còn bị cấm nhập khẩu, khi đó khả năng thâm nhập trở lại của loại sản phẩm đó là rất khó.
Về quảng bá và xây dựng thương hiệu, Công ty cần nhanh chóng đăng ký xây dựng thương hiệu rau quả “AIRSERCO” đối với các cơ quan chức năng đặc biệt là thông qua Hiệp hội trái cây Việt Nam nhằm khẳng định tên tuổi, chất lượng sản phẩm trong và ngoài nước. Việc xây dựng thương hiệu sản phẩm phải bắt đầu tư việc đảm bảo sự ổn định và ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm. Xây dựng thương hiệu trên cơ sở tạo ra nét riêng có của sản phẩm, hương vị độc đáo của sản phẩm so với các sản phẩm của các doanh nghiệp cùng tham gia xuất khẩu mặt hàng đó để người tiêu dùng nước ngoài cũng như trong nước có sự phân biệt và nhận biết riêng đối với những sản phẩm của các công ty khác nhau. Xây dựng thương hiệu cho rau quả xuất khẩu của công ty phải luôn đi đôi với công tác quảng bá thương hiệu để sản phẩm dễ dàng và nhanh chóng xâm nhập, mở rộng thị trường xuất khẩu. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần đầu tư cho công tác đào tạo đội ngũ cán bộ am hiểu về xây dựng và phát triển thương hiệu, cần xây dựng một quy trình cụ thể về đăng ký, phát triển quảng bá thương hiệu và dịch vụ sau bán hàng. Trong quá trình xây dựng thương hiệu, công ty nên thuê các chuyên gia tư vấn đề có sự tham khảo ý kiến và xây dựng thương hiệu một cách hiệu quả đặc biệt là khi xây dựng thương hiệu trên thị trường nước ngoài.
Bên cạnh đó, để có chiến lược phát triển lâu dài Công ty cần đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm trong và ngoài nước. Xây dựng hệ thống phân phối không chỉ để giới thiệu và đưa sản phẩm trực tiếp đến tay người tiêu dùng mà còn là phương thức quảng bá cho thương hiệu sản phẩm và tìm kiếm khách hàng. Vì vậy trong thời gian tới, Công ty nên chủ động nối lại các quan hệ kinh doanh với các siêu thị để phân phối sản phẩm của công ty tại thị trường trong nước, tạo dựng uy tín công ty và thương hiệu sản phẩm với người tiêu dùng, sau đó xây dựng hệ thống đại lý phân phối trên toàn quốc. Đồng thời, Công ty cần lựa chọn và tiến hành đào tạo hệ thống cán bộ tham gia vào công tác phân phối sản phẩm ra thị trường.
3.3.2.5.Tăng cường liên kết với các các doanh nghiệp rau quả để đảm bảo nguồn cung ứng trên thị trường
Hiện nay, các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh rau quả phần lớn đều là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nên khả năng tìm hiểu về thị trường nước ngoài gặp nhiều khó khăn, dễ thua thiệt tại thị trường nước ngoài. Sự thiếu liên kết của các doanh nghiệp còn gây ra tình trạng cạnh tranh nhau về thu mua nguyên liệu dẫn tới sự cạnh tranh về giá gây ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng Không nói riêng thường không ký được hợp đồng lớn do không có đủ khả năng cung ứng số lượng và chất lượng theo yêu cầu của phía nước ngoài. Do đó, thị phần rau quả của Việt Nam tại các thị trường vẫn chiếm thị phần nhỏ, hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả không lớn. Vì vậy, Công ty cần đẩy mạnh liên kết với một số các doanh nghiệp kể cả hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài. Công ty có thể hợp tác với các doanh nghiệp bằng phương pháp ký hợp đồng kinh tế đối với từng vụ việc cụ thể hoặc bằng hình thức xuất khẩu ủy thác. Trong quá trình thâm nhập thị trường nước ngoài đặc biệt là những thị trường mới mở Công ty cần chủ động tiến hành liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để cùng hợp tác xuất khẩu sang thị trường nước đó và hướng ra các thị trường trong khu vực. Việc liên kết với các doanh nghiệp sẽ giúp cho Công ty có thể tìm hiểu về thông tin thị trường sẽ ngày càng nhanh nhạy và chính xác hơn, chủ động hơn trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu và hơn hết là tạo được nguồn sản lượng lớn, và tạo thành chuỗi sản phẩm để cung cấp cho thị trường, ổn định đơn hàng xuất khẩu từ đó hướng ra các thị trường xuất khẩu mới.
KẾT LUẬN
Mở rộng thị trường là một tất yếu khách quan đối với các quốc gia trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Mở rộng thị trường không những nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm, thúc đẩy xuất khẩu, tăng cường thu ngoài tệ phát triển nền kinh tế mà còn nâng cao vị thế của quốc gia trên thị trường thế giới.
Mở rộng thị trường của doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động sản xuất xuất khẩu rau quả sẽ mở rộng quy mô hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, tận dụng được nguồn tài nguyên quốc gia. Qua quá trình tìm hiểu về hoạt động mở rộng thị trường tại Công ty cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không, em nhận thấy hoạt động mở rộng thị trường tại công ty đã đạt được một số kết quả nhất định: hoạt động mở rộng thị trường theo chiều sâu ngày càng hiệu quả số lượng thị trường mới tiềm năng ngày càng tăng, kim ngạch xuất khẩu và lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu rau quả năm sau cao hơn năm trước. Song vẫn còn những mặt hạn chế lớn cần được khắc phục đó là vấn đề nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, tiêu chuẩn chất lượng khi tham gia các thị trường nước ngoài, công tác mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu, đa dạng hóa sản phẩm. Điều này sẽ là những yếu tố gây cản trở lớn tới hoạt động sản xuất xuất khẩu rau quả của công ty trong thời gian tới. Hy vọng rằng với những cố gắng và chiến lược đúng đắn, thị trường xuất khẩu của Công ty sẽ ngày càng được mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách:
1. GS. TS Đỗ Đức Bình, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng. Năm 2002. Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Lao động – Xã hội
2. PGS.TS Nguyễn Thị Hường. Năm 2001. Giáo trình Kinh doanh quốc tế, Tập 1, NXB Thống kê
3. PGS. TS Nguyễn Thị Hường. Năm 2003. Giáo trình Kinh doanh quốc tế, Tập 2, NXB Lao động – Xã hội
4. Công ty cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng Không. Năm 2008. Báo cáo Bán hàng chi tiết theo mặt hàng giai đoạn 2003 - 2007
5. Công ty cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng Không. Năm 2008. Báo cáo Tài chính giai đoạn 2003 – 2007
6. Tổng cục Thống kê. Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi mới 1986 – 2005, NXB Thống kê - Hà Nội
Tạp chí:
Bộ Công thương - Tạp chí thương mại
Cục xúc tiến thương mại – Bộ Công thương. Bản tin xuất khẩu
Thời báo kinh tế Việt Nam
Tạp chí Kinh tế thế giới
Website:
Năm 2007.Tổng công ty Hàng Không Việt Nam.
Link:
Năm 2007.Công ty cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng Không.
Link:
Năm 2008. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Link:
Năm 2008. Bộ Công Thương
Link:
Năm 2008. Rau hoa quả Việt Nam
Link:
Năm 2008. Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Công thương
Link:
Năm 2007 – 2008.Hiệp hội trái cây Việt Nam
Link: PHỤ LỤC
PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN RAU QUẢ VÀ HOA CÂY CẢNH ĐẾN NĂM 2010, TẦM NHÌN 2020
Phụ lục I
BỐ TRÍ SẢN XUẤT RAU, QUẢ, HOA CÂY CẢNH VÀ HỒ TIÊU GIAI ĐOẠN 2006 – 2010
TT
Cả nước
Diện tích năm 2005 (1000ha)
Mục tiêu của đề án cũ
Phương án điều chỉnh (đến năm 2010)
Diện tích (1000ha)
Diện tích (1000ha)
Sản lượng (1000 tấn)
I
Rau
635,1
550
700
14000
1
ĐB SH
158,6
130
170
4100
2
TDMN BB
91,1
75
90
1260
3
BTB
68,5
60
80
1080
4
DH NTB
44,0
60
70
860
5
TN
49,0
35
50
1100
6
ĐNB
59,6
70
80
1700
7
ĐBSCL
164,3
120
160
3900
II
Cây ăn quả
767,1
750
1000
10000
1
ĐB SH
79,2
60
90
1160
2
TDMN BB
178,4
170
230
1440
3
BTB
58,5
70
80
720
4
DH NTB
30,2
60
38
300
5
TN
23,1
50
32
300
6
ĐNB
128,4
90
150
1755
7
ĐB SCL
269,3
250
380
4325
III
Hoa cây cảnh
13,2
10,9
15,0
6,3
1
ĐB SH
7,20
5
8,00
3,28
2
ĐNB
1,58
3
2,00
0,84
3
TN
1,80
1,2
2,00
0,86
4
Các vùng khác
2,07
1,7
3,00
1,32
IV
Hồ tiêu
49,2
10
50
120
1
BTB
3,7
3,7
6
2
DHNTB
1,2
1,3
2
3
TN
13,8
14
35
4
ĐNB
29,9
30
75
5
ĐB SCL
0,6
1
2
Ghi chú: hoa tính tỷ cành
Phụ lục II
ĐIỀU CHỈNH CHỈ TIÊU ĐỐI VỚI SẢN PHẨM RAU QUẢ PHỤC VỤ XUẤT KHẨU
STT
Loại cây
Mục tiêu của đề án cũ
Phương án điều chỉnh đến năm 2010
Sản phẩm xuất khẩu (1000 tấn)
KNXK
(tr. USD)
Sản phẩm xuất khẩu (1000 tấn)
KNXK
(tr. USD)
1
Măng tây
150
200
0
0
2
Măng ta
150
150
30
20
3
Nấm
100
100
100
100
4
Đậu rau
120
60
10
5
5
Khoai sọ, khoai lang
80
30
8
3
6
Cà chua
33
30
2
2
7
Rau khác
40
20
50
25
Tổng
673
590
200
155
Phụ lục III
ĐIỀU CHỈNH CHỈ TIÊU ĐỐI VỚI QUẢ CÁC LOẠI PHỤC VỤ XUẤT KHẨU
STT
Loại cây
Mục tiêu của đề án cũ
Phương án điều chỉnh đến năm 2010
Sản phẩm xuất khẩu (1000 tấn)
KNXK
(tr. USD)
Sản phẩm xuất khẩu (1000 tấn)
KNXK
(tr. USD)
1
Dứa
120
150
100
85
2
Chuối
500
100
100
35
3
Quả có múi
30
30
30
30
4
Vải
7
10
40
32
5
Xoài
10
10
10
10
6
Thanh Long
-
-
90
45
7
Cây ăn quả khác
50
50
60
58
Tổng
717
350
430
295
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12895.doc