Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực với hợp tác kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay

Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực với hợp tác kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay. Mục lục @ Đặt vấn đề. @ Nội dung. 1.Phát huy nội lực và hợp tác quốc tế. 1.1. Nội lực 1.2. Hợp tác quốc tế. 1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực và hợp tác quốc tế. 2.Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực và hợp tác ở Việt Nam hiện nay. 2.1. Tác động của ngoại lực trong việc phát huy nội lực ở nước ta hiện nay. 2.2. Tác động của nội lực trong việc hợp tác quốc tế. 3. Chủ

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1641 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực với hợp tác kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trương, chính sách nhằm phát huy nội lực, khai thác ngoại lực để tạo sức mạnh tổng hợp. @ Kết luận.  @ Tài liệu tham khảo. A-Đặt vấn đề: Ngày nay khi mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất làm cho nó vượt khỏi khuôn khổ các quốc gia, đòi hỏi phải mở rộng không gian kinh tế mới có khả năng sử dụng có hiệu quả thì tòan cầu hóa là một xu thế khách quan. Càng ngày xu thế ấy càng diễn ra một cách mạnh mẽ và không một quốc gia nào có thể đứng ngoài dòng xóay của nó. Và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Ngày 10/12/2001Việt Nam ký hiệp định Thương mại song phương với Mỹ. Ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới(WTO). Từ ngày 18/11 đến ngày 20/11/2006, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), tạo hình ảnh tiếng vang tốt đẹp cho Việt Nam trên toàn thế giới. Ngày 19/12/2006, Quốc hội Mỹ chính thức thông qua Quy chế bình thường hóa thương mại vĩnh viễn với Việt Nam. Như vậy, từ một nền kinh tế tập trung, bao cấp, đóng cửa và hướng nội Việt Nam dần chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập trên tất cả các cấp độ: song phương, khu vực và đa phương toàn cầu, đã và đang trở thành một bộ phận hữu cơ, có ý nghĩa nhất định trong chỉnh thể nền kinh tế thị trường thế giới. Điều đó đã đem đến cho Việt Nam những cơ hội lớn như được tiếp cận thị trường hàng hoá, dịch vụ ở các nước thành viên; có được vị thế bình đẳng trong hoạch định chính sách thương mại toàn cầu;… Nhưng bên cạnh những thuận lợi đó, chúng ta cũng có thể thấy được những thách thức không nhỏ mà nước ta phải đương đầu; đó là những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc; đó là việc cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn,.. Và để có thể tận dụng được những cơ hội, vượt qua những thách thức đó, nội lực ta phải mạnh. Nói cách khác, nếu không chuẩn bị tốt bên trong, thì bên ngoài vào có mạnh, có nhiều đến đâu cũng không phát huy được tác dụng, chưa nói là có thể gây tác động ngược lại. Ngoại lực nên được kết hợp với nội lực như thế nào để phát triển nhanh và bền vững? Là một sinh viên Kinh tế, việc nhận thức được mối quan hệ giữa phát huy nội lực và hợp tác quốc tế trong nền kinh tế nước ta hiện nay là một đòi hỏi vô cùng quan trọng. Để có thể từ đó rút ra những kinh nghiệm quý báu,làm hành trang vào đời sau 4 năm nữa cho những nhà kinh tế trẻ,những chủ nhân mới của đất nước. B-Nội dung 1.Quan điểm về nội lực và ngoại lực. 1.1.Khái niệm nội lực Nội lực là một từ được ghép bởi hai từ “năng lực” và “nội sinh”. Theo từ điển tiếng Việt, “năng lực” được giải thách là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; còn “nội sinh” được giải thách là sinh từ bên trong bản thân sự vật. Như vậy, theo từ điển tiếng Việt có thể hiểu nội lực chính là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có được sinh ra từ bên trong. Nhưng theo như một số nhà nghiên cứu, nội lực lại có thể được hiểu là năng lực có nguồn gốc phát sinh, hình thành và phát triển từ bên trong một chủ thể, do chủ thể tự nhận thức và chủ động tìm kiếm phương tiện thích hợp để hình thành và sử dụng, phù hợp với nhu cầu phát triển của mình. Từ những cách giải thích trên về nội lực, ta có thể đưa ra khái niệm thế nào là nội lực của một quốc gia? Đó là những khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có được sinh ra từ bên trong của một quốc gia. Nội hàm của khái niệm này rất rộng, nó bao gồm tổng hợp toàn bộ các nguồn lực trong nước, không chỉ biểu hiện ở vốn, tài sản, cơ sở vật chất-kỹ thuật đã tích lũy được, mà còn là tài nguyên chưa đưa vào sử dụng, lợi thế về địa lý kinh tế, chính trị, trong đó quan trọng nhất là nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống văn hóa của dân tộc. Như vậy, ngoại trừ nguồn tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý vốn là những thứ “tự nhiên”, thì các yếu tố còn lại là các yếu tố chủ quan để tạo nên năng lực nội sinh của một quốc gia. Tuy nội lực có thể được xem xét trên nhiều mặt, song có thể khái quát thành các nhóm nhân tố sau: Các nhân tố kinh tế gồm: vốn, lao động, tiến bộ công nghệ và tài nguyên. Trong đó, vốn là yếu tố đầu vào vật chất quan trọng, có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế; lao động là yếu tố đầu vào không thể thiếu của sản xuất; tiến bộ công nghệ là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưỏng ở các nền kinh tế trong điều kiện hiện nay; tài nguyên được đưa vào sử dụng để tạo ra sản phẩm cho xã hội càng nhiều càng tốt, nhưng phải đảm bảo chúng được sử dụng có hiệu quả, không lãng phí. Các nhân tố phi kinh tế gồm: văn hóa-xã hội, tư tưởng, lịch sử, thể chế chính trị, cơ cấu tôn giáo và dân tộc,sự tham gia của cộng đồng,..Khác với các nhân tố kinh tế, các nhân tố phi kinh tế có tác động gián tiếp và rất khó lượng hóa cụ thể mức độ tác động của chúng đến nền kinh tế và sự tăng trưởng kinh tế. Cũng cần nhấn mạnh thêm, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, khi mà tính phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng cao, thì năng lực nội sinh hay nội lực không chỉ là sự phát triển tự thân của quốc gia đó, mà còn là điều kiện để chọn lọc, tiếp cận các yếu tố bên ngoài, biến cái bên ngoài thành cái của chính mình. Do đó, sẽ là sai lầm nếu hiểu phát huy năng lực nội sinh là duy trì nền kinh tế đóng cửa khép kín, thay thế nhập khẩu bằng việc tự sản xuất mọi thứ mà đất nước cần với bất cứ giá nào mà không tính đến lợi thế và hiệu quả. 1.2.Khái niệm ngoại lực Cũng với cách giải thích trên, ta có thể hiểu ngoại lực là sự kết hợp của “năng lực” và “ngoại sinh”, là những khả năng, điều kiện nhưng do bên ngòai tác động vào. Còn ngoại lực của một quốc gia là những khả năng điều kiện do bên ngoài của quốc gia đó tác động vào, đó có thể là một nước khác hay một tổ chức kinh tế quốc tế khác. Trong thời đại ngày nay, tòan cầu hóa phát triển rất mạnh mẽ cả chiều rộnh và chiều sâu, trở thành xu thế tất yếumà không một quốc gia nào có thể phát triển nếu đứng ngoài xu thế đó. Tòan cầu hóa kinh tế lôi cuốn mọi quốc gia vào vòng xoáy của nó, dù là quốc gia tiên tiến hay lạc hậu, phát triển hay chậm phát triển. Tòan cầu hóa kinh tế tạo ra những thời cơ và nhưng thách thức mới; quốc gia nào nắm bắt được thời cơ, vượt qua được thách thức sẽ phát riển nhanh hơn, ngược lại sẽ bị tụt hậu xa hơn. Đối với các nước đang phát triển thì đó là vấn đề ngoại lực. Ngoại lực bao gồm vốn đầu tư, công nghệ, nguồn lực kinh doanh, trong nguồn lực kinh doanh lại bao gồm năng lực quản lý và khả năng kinh doanh,… Trước hết, về vấn đề vốn đầu tư, nó được chuyển giao thông qua hình thức đầu tư trực tiếp hay còn gọi là xuất khẩu tư bản, là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên có quốc tịch khác nhau cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi. Có hai loại hình đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp hay còn gọi là xuất khẩu tư bản hoạt động là hình thức đầu tư mà quyên sở hữu và quyền sử dung quản lý vốn của nguời đầu tư thống nhất vào nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Loại hình này được thực hiện dưới các hình thức như: hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, xí nghiệp liên doanh,…Loại hình thứ hai đầu tư gián tiếp hay còn gọi là xuất khẩu tư bản cho vay là laọi hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư. Điều đó có nghĩa là người có vôan khong trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay hay lợi tức cổ phần. Nguồn vốn này rất đa dạng về chủ thể và hình thức. Chủ thể đầu tư gián tiếp có thể là chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ,.. với các hình thức như: viện trợ có hòan lại, việ trợ không hòan lại, cho vay ưu đãi hoặc không ưu đãi,…Trong số đó một bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức ODA của chính phủ một số nước có nền kinh tế phát triển. Hai vấn đề tiếp theo có thể đề cập đến trong phần ngoại lực là công nghệ và nguồn lực kinh doanh. Công nghệ là nguồn lực phải được xây dựng lâu dài, nếu chỉ vào nội lực thì đó chỉ là quá trình phát triển chậm chạp. Trong lịch sử kinh tế, trừ nước Anh là nước công nghiệp hiện đại đầu tiên, hầu như các nước đều nhập công nghệ từ các nước tiên tiến hơn mình để phát triển nhanh. Còn nguồn lực kinh doanh bao gồm năng lực quản lý và khả năng kinh doanh, là những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của một doanh nghiệp. Và con đường để du nhập công nghệ và nguồn kực kinh doanh không gì khác ngoài hợp tác khoa học-kỹ thuật và hợp tác sản xuất. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất quốc tế,…Hợp tác khoa học-kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức, như trao đổi tài liệu-kỹ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học-kỹ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân 1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực và hợp tác quốc tế. Không chỉ những cơ sở lý luận mà trên thực tế cũng chứng minh rằng, năng lực nội sinh có mối quan hệ tương hỗ với năng lực ngoại sinh. Chung là điều kiện, tiền đề của nhau trong quá trình phát triển. Kết hợp tốt nội lực và ngoại lực sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp để xây dựng đất nước. Từ cuối những năm 80 đến đầu nhũng năm 90. khi mà nền kinh tế thế giới đã đang đứng trước nhiều thay đổi về chất : 1)Phân công lao đông không ngừng gia tăng kể cả chiều rộng và chiều sâu, trên một mạng thống nhất toàn cầu ; 2)Mậu dich quốc tế phát triển nhanh trở thành sợi dây gắn kết quan trọng tất cả các nền kinh tế trên thế giới ; 3)Gia tăng các yếu tố lao động sản xuất như : vốn, lao động, công nghệ,.. và theo đó làm thay đổi nhanh lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia ; 4)Sự hình thành và phát triển của các tổ chức kinh tế toàn cầu ngày càng mang tính thể chế cao hơn để quản lý điều hành các quá trình liên kết toàn cầu đang diễn ra ngày cang mạnh mẽ ;...toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành khuôn khổ phát triển mới cho mọi nền kinh tế quốc gia cũng như khu vực. Là khuôn khổ phát triển mới của thế giới, toàn cầu hóa kinh tế đang đặt ra yêu cầu các quốc gia phải thực hiện các rỡ bỏ về rào cản thương mại, đầu tư, tài chính, công nghệ, lao động có kỹ năng và thể chế cho các quá trình phát triển toàn cầu. Nghĩa là nền kinh tế các nước phải thực hiện tự do hóa thông qua mở cửa và xâm nhập vào thị trường của các nước khác để tiếp cận vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý và các dịch vụ phát triển đã ngày càng trở nên đa dạng và mang tính toàn cầu. Quá trình tham gia của một nước một khu vực vào nền kinh tế toàn cầu theo cách đó chính là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế- phản ánh sự bắt kịp và thich ứng của các nền kinh tế quốc gia hay khu vực vào nền kinh tế toàn cầu đang vận hành theo nguyên tắc thị trường tự do hóa, giảm thiểu sự khác biệt và không phân biệt đỗi xử. Đối với những nước đang phát triển hay chưa phát triển, hợp tác quốc tế đem đến cho họ không chỉ các nguồn vốn đầu tư có thể là trực tiếp(FDI) hay các nguồn vốn viện trợ không chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế(ODA) ; mà còn cả khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm xây dựng và tổ chức quản lý. Những điều đó đã tạo điều kiện sử dụng với hiệu quả cao hơn các tiềm lực nội sinh của nền kinh tế. Còn đối với những nước đã phát triển thì đó là điều kiện để họ mở rông thị trường. 2.Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nội lực và hợp tác quốc tế ở Việt Nam hiện nay. 2.1. Tác động của ngoại lực trong việc phát huy nội lực ở nước ta hiện nay. Lấy mốc từ năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới, nhận thức về quá trình toàn cầu hóa ở nước ta là chưa thực sự rõ ràng, phần nhiều các quan điểm đã đồng nhất khái niệm ‘toàn cầu hóa’ với khái niệm ‘quốc tế hóa’ nghĩa là nhìn nhận các quá trình sản xuất, phân phối, trao dổi và tiêu dùng đã vươt ra khỏi biên giới các quốc gia. Và chỉ đến Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam,vượt ra khỏi quan niệm toàn cầu hóa kinh tế là ‘tòan cầu hóa tư bản chủ nghĩa’, Đảng ta mới dần đi đến thống nhất toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, một khuynh hướng bao trùm của sự phát triển ngày nay. Trên nền tảng nhận thức đúng về toàn cầu hóa, tư duy mới về hội nhập kinh tế của nước ta đã dần hinh thành và phát triển. Việt Nam đã bắt đầu từ mở rộng quan hệ với các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình(Đại hội VI), chưa hề chính thức đề cập đến phạm trù hội nhập (vì sợ hội nhập dễ bi hòa tan) và trên một số quan hệ còn mang tính đối đầu,... đã có một bước chuyển biến thực sự về chất sang chủ trương ‘Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển’, ‘gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới’ và ‘mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi’ (Đại hội VII). Và đến Đại hội IX, ý tưởng về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã được phát triển và nâng lên một tầm mức mới với phương châm ‘Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển’ ; thực hiện chủ trương lớn ‘chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương và song phương đã kí kết’. Rõ ràng, sau 20 năm đổi mới ở Việt Nam, tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế đã ngày càng mở rộng và sâu sắc hơn. Một là, hội nhập kinh tế quốc tế được thừa nhận một cách rộng rãi là một tiến trình mang hai mặt : một mặt thể hiệ được lợi thế và tính tự cường quốc gia,dân tộc và mặt khác tham gia vao loại trừ dần sự khác biệt để Việt Nam trở thành một bộ phận hợp thành trong chính thể thị trường khu vực và thế giới. Hai là, hội nhập kinh tế diễn ra trên tất cả các cấp độ: đơn phương(nỗ lực cải cách bên trong), song phương và đa phương(cả khu vực và tòan cầu) trong đó, hội nhập toàn cầu là khuôn khổ để xác định các lộ trình cụ thể. Ba là, hội nhập kinh tế không dừng lại ở việc tham gia được bao nhiêu định chế song phương, khu vực và toàn cầu mà là tận dụng các ưu trội của các định chế này đến mức nào cho mục tiêu cuối cùng là đảm bảo lợi ích quốc gia và phát triển đất nước. Bốn là, hội nhập là một quá trình cụ thể làm bộc lộ các nguồn lực và điều kiện kinh tế-xã hội đặc thù giữa các quốc gia, nó không giống nhau giữa các quốc gia và theo đó, nỗ lực cải cách bên trong mỗi nước quyết định sự thành công đến quá trình hội nhập kinh tế. Do đó, Việt Nam trong quá trình hội nhập ngoài việc ký kết tham gia các định chế, còn phải thực hiện các cải cách trong nước để thực hiện hiệu quả các quy định cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, điều chỉnh cơ cấu kinh tế phù hợp với yêu cầu tự do hóa kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp,... Tính đến năm 2004, Việt Nam đã có quan hệ song phương với 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó đã ký 90 hiệp định Thương mại, 46 Hiệp định thúc đẩy và đầu tư, 40 Hiệp định về đánh thuế hai lần, 81 thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc. Các hiệp định quan trọng có thể kể đến là Hiệp định thương mại Việt Nam-Trung Quốc (1991), Hiệp định khung Việt Nam-EU (1995), Hiệp định thương mại song phương với Mỹ (2001), Hiệp định bảo hộ và thúc đẩy đầu tư với Nhật Bản (2003),..Trên cấp độ đa phương khu vực và toàn cầu, Việt Nam đã khai thông và nối lại quan hệ với hầu hết các định chế kinh tế chủ yếu: nối lại quan hệ với Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới (1993), gia nhập các quốc gia thuộc hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN) vào năm 1995 và tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào năm 1996. Đặc biệt, ngày 7/11/2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện đó đã tạo ra bước ngoặt góp phần nâng tầm đất nước lên một giai đoạn phát triển mới cao hơn. Những nỗ lực hội nhập kinh tế trên tất cả các cấp độ như vậy đã mang lại những kết quả rất đáng khích lệ trong công cuộc phát triển kinh tế hiện nay: +Việt Nam liên tục đạt tốc đọ tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực, bình quân khỏang 7% liên tục trong 5 năm từ 2001-2005 +Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến chế tạo gia tăng, với mức 57% năm 2004 so với cùng số liệu năm 1991 là 18% +Đã thiết lập và phát triển quan hệ kinh tế với các đối tác lớn. Hiệ xuất khẩu sang Mỹ, EU, Nhật, Trung Quốc đều đạt trên dưới mức 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đã bắt đầu có sự gia tăng các hoạt động đầu tư, chu chuyển công nghệ, kỹ thuật và kỹ năng quản lý vào nước ta. Tính đến năm 2004, FDI cam kết đầu tư vào nước ta đã đạt tới 54tỷ USD, trong đó vốn thực hiện trên 30 tỷ USD +Chất lương phát triển của nền kinh tế đã có sự nâng cao. Hiện nay Việt Nam đã trở thành nước tăng trưởng dựa trên đầu tư chứ không còn là nước tăng trưởng chỉ dựa vào các yếu tố cơ bản cấu thành đầu vào như: đất đai, lao động, nguyên liệu. +Sau 20 năm hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã giải quyết được khá tốt nhiều vấn đề xã hội, môi trường. Có thể kể đến: môi trường chính trị-xã hội ổn định khiến cho Việt Nam có hình ảnh tích cực trong cộng đồng quốc tế, điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư và du lịch,.. Và một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công của hội nhập kinh tế quốc tế là những nỗ lực cải cách bên trong nền kinh tế đất nước: +Việt Nam chủ động ban hành luật đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào năm 1987 ngay sau năm đầu tiên của công cuộc đổi mới, và tiếp tục điều chỉnh hoàn thiện tất cả các luật nhằm hình thành khung pháp lý ngày càng tốt hơn và phù hợp với quá trình hội nhập. +Trên từng bước hội nhập và phát triển, vừa là để thực hiện các cam kết, vừa là để tận dụng các ưu trội trong huy đọng và phân bố nguồn lực (cả trong và ngoài) cho mục tiêu phát triển, Việt Nam đã chủ động xây dựng các lộ trình giảm thuế, phi thuế và các rào cản khác, kể cả các rào cản thể chế, để đưa Việt Nam đến gần nhất các tiêu chí, nguyên tắc của kinh tế thị trường tòan cầu hóa, tự do hóa. +Việt Nam cũng thực hiện điều chỉnh theo cơ cấu theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến , chế tạo, tỷ trọng các ngành dịch vụ và giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp. Tuy mức tăng này chưa cao nhưng nhìn chung hướng chuyển dịch của nền kinh tế Việt Nam là theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển công nghiệp đang trở thành một định hướng ưu tiên nhằm tạo ra đột phá cho các giai đoạn tiếp theo. +Bắt đầu từ mô thức hướng về xuất khẩu và nhờ phản ứng chính sách phù hợp với các chiều hướng tự do hóa của nền kinh tế, Việt Nam đã chú trọng hơn đến tự do hóa nhập khẩu, coi hội nhập là phương thức để thúc đẩy xuất khẩu, thu hút FDI trên cơ sở lợi tận dụng tốt các lợi thế so sánh động của đất nước. Loại bỏ tư tưởng khu biệt thị trừơng trong và ngoài nước, coi cung ứng cho thị trường nội địa cũng là xuất khẩu tại chỗ, thực hiện các điều chỉnh mạnh mẽ về chính sách thương mại và đầu tư theo hướng giảm sự khác biệt và các sự phân biệt đối xử, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế cùng tập trung nguồn lực vì một mục tiêu xác định. +Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, ngành và sản phẩm, trong đó khẳng định ngày càng đúng vai trò các doanh nghiệp-chủ thể chính trong các nền kinh tế. Nhờ vậy, quan hệ giữa nhà nước với thị trường, nhà nước với doanh nghiệp đã được điều chỉnh phù hợp hơn. Nhà nước bằng sức mạnh thể chế đã thực hiện đúng vai trò định hướng, điều chỉnh, tạo thuận lợi hóa để doanh nghiệp hoạt động trên các nguyên tắc của kinh tế thị trường, laọi bỏ các chệch hướng thương mại, đầu tư và các méo mó thi trường khác. Thực tế là khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã phát triển ngày càng mạnh hơn, có vai trò ngày càng đáng kể trong công cuộc phát triển của đất nước. 2.2. Tác đông của nội lực trong việc hợp tác quốc tế. Trước những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, của quá trình toàn cầu hóa kinh tế ngày càng mở rộng thì vấn đề phát triển bền vững đã trở thành một đòi hỏi bức bách đối với mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Nhân tố quyết định để một quốc gia, dân tộc có thể phát triển bền vững đó chính là cần phải phát huy được năng lực nội sinh của quốc gia, dân tộc đó. Với tầm quan trọng của việc phát huy năng lực nội sinh, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh: Nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có phát huy được nội lực thì mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng cường thì mới bảo đảm được độc lập tự chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất nguồn lực của Nhà nước. Điều có ý nghĩa quyết định là phải có chính sách phù hợp để phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, thực chất của việc phát huy năng lực nội sinh cũng chính là nâng cao hiệu quả sử dụng tất cả các nguồn lực của quốc gia. Hay nói cách khác, muốn phát huy năng lực nội sinh đòi hỏi việc sử dụng toàn bộ các nguồn lực của xã hội phải mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững, theo đó cần tập trung vào một số vấn đề chính sau: Thứ nhất, phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, từng bước tạo được một đội ngũ lao động có trình độ cao, bản lĩnh vững vàng, có tri thức, có khả năng sáng tạo, cũng như có đầy đủ khả năng nắm bắt, vận dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ trong sản xuất. Đây là nhân tố quan trọng, đóng vai trò quyết định đối với sự nghiệp phát triển kinh của bất cứ một quốc gia nào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Do đó, cần phải có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển mạnh cho lĩnh giáo dục. Cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo dục gắn kết với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Đầu tư cao hơn và chất lượng hơn cho giáo dục - đào tạo có tác dụng nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động nhờ trình độ tay nghề, trình độ kỹ thuật của người lao động được nâng lên. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo còn nhằm tăng cường năng lực quản lý của doanh nghiệp, của các cơ quan quản lý nhà nước, từ đó nâng mức đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế nhờ vào yếu tố năng lực quản lý, yếu tố tri thức. Thứ hai, nâng cao trình độ lao động (vốn con người) và sử dụng hiệu quả nguồn lực này. Ngày nay, toàn cầu hóa, khu vực hóa đã làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt và khốc liệt hơn. Đó là cuộc cạnh tranh không chỉ về sản phẩm, mà cả về nguồn nhân lực. Chính điều này đòi hỏi các quốc gia phải nhanh chóng tạo ra đội ngũ những người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tri thức khoa học, công nghệ, phẩm chất đạo đức, nhân cách và sự hiểu biết những nét đặc thù về văn hóa để có thể tham gia vào các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất sản phẩm mang tính quốc tế. Do đó, cần phải nâng cao trình độ lao động, tức là phải chuyển dịch nhanh tỷ lệ lao động giản đơn sang lao động phức tạp. Việc nâng cao tri thức của người lao động sẽ làm tăng năng lực khoa học và công nghệ; tiếp đến tăng cường năng lực nội sinh về khoa học - công nghệ, từng bước làm chủ và sáng tạo các công nghệ mới, tạo ra nhiều công nghệ mới có giá trị, nâng cao khả năng, vai trò làm chủ các tri thức mới và năng lực sáng tạo của mọi người, tăng cường năng lực nội sinh về khoa học - công nghệ, tức nâng cao khả năng và vai trò làm chủ các tri thức mới và năng lực sáng tạo của người lao động. Thứ ba, phát triển mạnh khoa học, công nghệ và nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ. Ngày nay, khoa học, công nghệ ngày càng có vai trò to lớn đối với tăng trưởng kinh tế. Đây là nhân tố góp phần tăng năng suất lao động; hoàn thiện, nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh sản phẩm, đồng thời cũng là yếu tố tạo đà tăng trưởng cho mọi quốc gia. Trên phạm vi toàn cầu, tốc độ tiến triển của khoa học, công nghệ ngày càng nhanh; trình độ, phạm vi xã hội hoá ngày càng cao và rộng rãi; khoa học, công nghệ đóng vai trò ngày càng lớn trong phát triển. Quốc gia nào làm chủ được những thành tựu mới của khoa học - công nghệ thì quốc gia đó đứng vững trong cạnh tranh và có khả năng phát triển bền vững. Ngược lại, tụt hậu về khoa học, công nghệ sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị đánh bại trong cuộc cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt. Vì vậy, lựa chọn công nghệ sản xuất - kinh doanh thích hợp và đổi mới công nghệ để nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ; tăng năng suất lao động ngày càng trở thành một yêu cầu cấp bách của mọi quốc gia. Tuy vậy, để thực hiện được yêu cầu này, cần thoả mãn nhiều điều kiện, trong đó quan trọng nhất là điều kiện về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy, sự ra đời của các khu công nghiệp, khu chế xuất, với những ưu thế của nó, đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản về cơ sở hạ tầng cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến từ nước ngoài. Do đó, cùng với sự phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng của các khu công nghiệp, khu chế xuất, sức hấp thụ công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến từ nước ngoài cũng ngày càng gia tăng. Sự thay đổi về công nghệ và năng lực quản lý tất yếu sẽ dẫn đến thay đổi cơ cấu sản xuất, chất lượng, cơ cấu sản phẩm và xuất khẩu. Thứ tư, đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư. Lý thuyết và thực tiễn đều chứng minh rằng, sự gia tăng số lượng vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư luôn có ý nghĩa quyết định trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bất luận quy mô, trình độ của nền kinh tế như thế nào. Vì vậy, đa dạng hoá các nguồn vốn và kênh huy động vốn luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu trong hoạch định chiến lược, chính sách phát triển. Việc huy động vốn đầu tư không chỉ tập trung vào một hay một vài đối tượng, mà phải nhằm vào mục đích huy động tất cả các nguồn lực xã hội. Mục tiêu của việc huy động vốn không chỉ nhằm vào việc huy động các nguồn vốn mới, mà còn tập trung vào việc phát huy hiệu quả của các nguồn vốn sẵn có mà trước đây sử dụng chưa có hiệu quả.      Thứ năm, nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải tạo ra sự tăng trưởng nhanh trên cả ba khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, tăng nhanh tỉ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần phải đảm bảo phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ trên cơ sở đó mới có khả năng phát triển kinh tế bền vững, có khả năng đáp ứng các yêu cầu về xã hội và sự phát triển văn minh của con người.  Thứ sáu,nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp, trước hết phải cải thiện môi trường thể chế, môi trường kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia, giảm chi phí kinh doanh và nâng cao chất lượng sản phẩm. Khả năng cạnh tranh càng cao, phát triển sẽ càng bền vững, trong khi những lợi thế cạnh tranh vốn có không còn được đánh giá cao, áp lực cạnh tranh từ bên ngoài không ngừng gia tăng cùng với quá trình hội nhập, thì nâng cao năng lực cạnh tranh qốc gia trở thành một yêu cầu cấp bách nhằm góp phần cải thiện vị thế quốc gia.     Thứ bảy, việc tổ chức quản lý, phải đảm bảo quy mô sản xuất hợp lý và từng bước áp dụng công nghệ mới trong nền kinh tế quốc dân. Cũng cần lưu ý rằng, lựa chọn quy mô nào là hợp lý: vừa, nhỏ, hay lớn, có ý nghĩa quan trọng, bởi theo hướng đó cho phép khai thác tối đa khả năng của các thành phần kinh tế, các vùng lãnh thổ, các ngành kinh tế, phù hợp với vốn đầu tư, trình độ quản lý, với sự tiến bộ nhanh của khoa học kỹ thuật công nghệ. Có như vậy, mới phát huy được tiềm năng của vốn vật chất và vốn con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi đôi với việc khai thác, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế cũng như khả năng và thế mạnh của các vùng kinh tế, cần phân công lại lao động xã hội, phù hợp với xu hướng vận động và phát triển của nền kinh tế quốc dân theo yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ tám, đổi mới cơ chế quản lý, bao gồm thể chế vận hành, cơ cấu tổ chức, những công cụ được sử dụng…. Bởi lẽ, cơ chế quản lý và nguồn nhân lực của bộ máy quản lý, một mặt ra đời trên cơ sở những yêu cầu khách quan trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội; mặt khác lại có vai trò lớn trong kích thích động lực của phát triển, hoặc kìm hãm sự phát triển. Dù trong phạm vi rộng hay hẹp, nếu có cơ chế quản lý khoa học, phù hợp, tính khả thi cao và nguồn nhân lực quản lý tận tâm, trong sạch, tính chuyên nghiệp cao thì tất yếu sẽ kích thích, khơi dậy mọi tiềm năng để luôn luôn tạo động lực mới cho phát triển. Ngược lại, một cơ chế quản lý cồng kềnh, kém hiệu lực và một đội ngũ cán bộ quản lý thiếu trách nhiệm, kém năng lực sẽ là rào cản đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Tóm lại, các thành tố tạo nên năng lực nội sinh như phân tích ở trên không phải là những khái niệm khô cứng. Chúng ta cần nhìn nhận chúng dưới dạng những nhân tố sinh động có sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của mỗi thành tố, cũng như sự tác động của các thành tố này tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Chiến thắng sẽ thuộc về những quốc gia, dân tộc biết cách khai thác, phát huy, nuôi dưỡng và vun trồng nội lực. Do đó, phát triển và nâng ca._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0123.doc
Tài liệu liên quan