Lời nói đầu
Trên thế giới này mỗi quốc gia đều muốn phát triển, đều muốn khẳng định thế mạnh của mình. Quốc gia này có thế mạnh về lao động, tài nguyên, văn hoá xã hội, thị trường; quốc gia khác lại có thế mạnh về vốn, công nghệ...Nó đều có thế mạnh riêng của mình, không có quốc gia nào là hoàn toàn mạnh cũng như không có quốc gia nào là hoàn toàn yếu. Những quốc gia hiện nay chưa phát triển, nguyên nhân chính là do chưa biết cách khai thác thế mạnh của mình, chưa đề ra được hướng đi cho mục ti
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu phát triển của mình, hay nói cách khác chưa tạo ra được tính hợp lý cho quá trình khai thác và sử dụng thế mạnh của mình.
Để hoà nhập với xu hướng chung của thế giới, mỗi quốc gia đều vạch ra cho mình chiến lược phát triển kinh tế riêng. Với điều kiện nền kinh tế Việt Nam, đây cũng là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đảng và Chính phủ đã đưa ra mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhằm đưa đất nước đi lên thoát khỏi tình trạng ngèo nàn lạc hậu. Để thực hiện mục tiêu đó yêu cầu vê vốn là một trong những thách thức lớn nhất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Do đó Việt Nam đã tính đến khả năng huy động các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế.
Nhận thức được vị trí và vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài nên tháng 12 năm 1987 chính phủ đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Do vậy để đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam không thể phủ nhận vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để góp phần giải quyết những vướng mắc nói trên, trong phạm vi bài đề án này em xin được đề cập đến vấn đề:
“Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.
Kết cấu của bài đề án này bao gồm ba phần:
Phần I: Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò đối với nền kinh tế quốc dân.
Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua.
Phần III: Những biện pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Phần I
Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò đối với nền kinh tế quốc dân
I – Khái niệm, các hình thức và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1 – Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối trọng mà họ bỏ vốn.
2 – Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong thực tiễn, FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Những hình thức được áp dụng phổ biến là:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Tuỳ vào từng điều kiện cụ thể và tuỳ vào từng quốc gia khác nhau mà các hình thức trên đây được áp dụng khác nhau.
3 – Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.1 - Tác động tích cực
3.1.1 - Đối với nước xuất khẩu vốn đầu tư
- Có khả năng trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Do vậy, vốn đầu tư được sử dụng với hiệu quả cao.
- Giúp các chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại.
- Do khai thác được nguồn nhân công với giá rẻ nên giúp họ giảm chi phí và nâng cao năng suất lao động.
- Do xây dựng được các doanh nghiệp nằm trong lòng nước sở tại vì thế mà tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước sở tại.
3.1.2 - Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư
- Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể thu được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài.
- Tạo điều kiện cho nước sở tại khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Giúp cho các nước sở tại sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, mở rộng tích luỹ và góp phần vào việc nâng cao tốc độ phát triển kinh tế.
3.2 – Tác động tiêu cực
- Nếu môi trường chính trị và kinh tế ở nước sở tại không ổn định sẽ hạn chế nguồn FDI.
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
- Nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
- Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẩn đến sự du nhập của các loại công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiểm môi trường
II – Các xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1 - Xu hướng tự do hoá đầu tư
Xu hướng tự do hoá đầu tư được thể hiện trên ba bình diện là quốc gia, khu vực và quốc tế. Trên bình diện quốc gia, đó là việc giảm dần những hạn chế về hình thức đầu tư, về vốn góp, thuê mướn nhân công, đòi hỏi về chuyển giao công nghệ, tỷ lệ xuất khẩu,... Bên cạnh đó, các quốc gia cũng đang đưa ra các khuyến khích khác như tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, các khuyến khích về tài chính, ... Trên bình diện khu vực, đó là sự thành lập các khu vực đầu tư, việc ký kết các hiệp định đầu tư đa phương và song phương.
2 - Vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia trong đầu tư Quốc tế
Các tập đoàn xuyên quốc gia là nguồn cung cấp vốn, công nghệ và kinh nhiệm quản lý chính trong đầu tư quốc tế. Nếu như năm 1990 có hoảng 37000 tập đoàn loại này với khoảng 170000 chi nhánh và cơ sở ở nước ngoài thì đến 2007 đã có khoảng 59000 tập đoàn với khoảng 270000 chi nhánh và cơ sở ở nước ngoài nắm giữ khoảng 2700 tỷ USD FDI, tương ứng với 10% GDP thế giới. Điều đặc biệt lưu ý là đa số các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển hầu hết tập trung ở Châu á.
Bên cạnh đó, với sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các tập đoàn xuyên quốc gia giờ đây đang chịu sự cạnh tranh đáng kể của các hãng có quy mô vừa và nhỏ trên toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ mà biểu hiện rõ nhất là các dịch vụ thông tin.
3 - Địa bàn thu hút đầu tư
Cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển và tác động của quá trình toàn cầu hoá khu vực hoá, vốn FDI trên thế giới đang có những biến đổi theo xu hướng tăng dần quy mô và tốc độ vốn đầu tư vào các nước đang phát triển, trong đó các nước đang phát triển ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương nổi lên là khu vực thu hút nhiều vốn đầu tư vào nhất. Trong giai đoạn 2000-2005, các dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển đã tăng khoảng 7,5 lần. Các nước đang phát triển khu vực Châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 62% năm 2005 (so với 46% năm 2000) trong tổng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Khu vực Đông và Đông Nam á là khu vực thu hút nhiều đầu tư nước ngoài nhất những năm 90. Từ 2000, Trung Quốc ,Hàn Quốc ,Brasil,... nổi lên là một trong số các nước thu hút FDI lớn nhất trên Thế giới.
4 - Mối quan hệ giữa thu hút đầu tư vào trong nước với đầu tư ra nước ngoài và sự xuất hiện các chủ đầu tư mới trên thế giới
Thực tiễn FDI thời gian qua trên thế giới cho thấy nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển đã tăng từ 6% trong tổng FDI của thế giới trong giai đoạn 1995-1999 lên tới 30% ở giai đoạn 2000-2004. Các quốc gia Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông thuộc Trung Quốc đã chuyển sang thành các quốc gia xuất khẩu vốn. Hồng Kông trong 3 năm qua đã xuất khẩu khoảng 20 tỷ USD/năm (Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan xuất khẩu khoảng 3 tỷ). Kể từ năm 2002, Trung Quốc và Malaysia cũng đã trở thành những nhà xuất khẩu vốn. Trong năm 2005, Trung Quốc, Hồng Kông thuộc Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan, Singapore và Thái Lan chiếm khoảng 100% vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển khu vực Châu á - Thái Bình Dương và 88% của các nước đang phát triển trên toàn thế giới. Tốc độ tăng vốn đầu tư ra nước ngoài khoảng 238% trong đoạn 2000-2005.
5 - Lĩnh vực đầu tư
Xu hướng chung của thế giới trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư là chuyển từ việc đầu tư khai thác các nguồn lực tự nhiên sang công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất, có sự chuyển dịch các ngành có hàm lượng lao động cao từ những nước có nền kinh tế phát triển kinh tế cao hơn sang những nước khác (mà mô hình”đàn ngỗng bay” ở Châu á là một ví dụ điển hình). Những nước ở nhóm trên bắt đầu thu hút FDI vào những ngành đòi hỏi sử dụng lao động có trình độ cao. ở các nước như Hàn Quốc, Indonesia và Thái Lan thì ngành chế tạo chiếm trên 50% vốn đầu tư thu hút được và các ngành dịch vụ cũng chiếm gần 50% trong giai đoạn 1999 – 2004.
6 - Đầu tư với hiệu quả xã hội
Vấn đề FDI hiện nay thường được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế-xã hội. Khi xem xét hiệu quả FDI, các nước tiếp nhận đầu tư thường gắn với việc xem xét các chỉ tiêu như tạo vốn, tạo việc làm, thu hút công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an ninh và trật tự xã hội...
Phần II
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam thời gian qua
I – chủ trương và chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.Chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Nhà nước ta.
1.1 Cơ cấu đầu tư
Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động thu hút FDI, bởi vì nó có tác động to lớn đến quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
1.1.1 – Cơ cấu ngành nghề:
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đăng ký 1999-2008
Năm
Chỉ tiêu
1999-2001
2002-2005
2006-2008
CN và XâY DÙNG
41,47 %
52,74 %
49,66 %
N-L-N Nghiệp
21,64 %
4,13 %
2,14 %
Dịch vụ
36,899 %
43,13 %
48,2 %
Đầu tư nước ngoài trong các năm qua đã đúng hướng mục tiêu ban đầu: tập trung chủ yếu vào công nghiệp và xây dựng với 1421 dự án và số vốn đăng ký là 18,2 tỷ USD. Các ngành dịch vụ có 613 dự án với 15,632 tỷ USD. Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thu hút 313 dự án, số vốn là 2084 tỷ USD. Nhìn chung quy mô đầu tư bình quân cho một dự án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ so với các lĩnh vực khác, trong đó nhỏ nhất là ngành thuỷ sản, chỉ khoảng 3 triệu USD/dự án. Ngành công nghiệp và xây dựng có quy mô đầu tư trung bình là 12 triệu USD/dự án trong đó lớn nhất là các dự án thăm dò và khai thác dầu khí. Các ngành dịch vụ thương mại có quy mô đầu tư cao nhất, hơn 25 triệu USD/dự án tập trung phần lớn vào lĩnh vực xây khách sạn, văn phòng, các dự án xây dựng hạ tầng, KCN, KCX...
1.1.2 – Cơ cấu lãnh thổ:
Phân tích trên cơ sở thống kê số liệu cho thấy cơ cấu FDI theo vùng lãnh thỗ không những không thực hiện được ý muốn chủ quan của Việt Nam là làm xích lại gần nhau hơn về trình độ và tộc độ phát triển giữa các vùng mà trái lại còn bị dãn xa hơn. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, sự thuận lợi giao thông thuỷ bộ, hàng không, sự năng động trong tư duy kinh doanh, đã tạo lực hấp dẫn FDI mạnh nhất: chiếm 57% về số dự án (1378 dự án), 48% về số vốn đăng ký (17,3 tỷ USD) và 43% về số vốn thực hiện (6,5 tỷ USD). Tỷ trọng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN ở vùng kinh tế này trong tổng doanh thu của khu vực có vốn ĐTNN trong cả nước có xu hướng tăng, từ 48,5% (năm 2006) lên 66,6% năm 2008, đặc biệt giá trị xuất khẩu chiếm tới 84%. Tp.HCM hiện vẫn đứng đầu trong vùng, tiếp đó là Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu.
1.2 Hình thức đầu tư và các đối tác đầu tư
1.2.1 – Hình thức đầu tư:
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 29/12/1987. Từ khi được ban hành đến nay, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi năm lần vào các năm 1990, 1992, 1996 , 2000 và năm 2002. Các văn bản hướng dẫn thi hành có tới hơn 150 bản, quan trọng nhất là Nghị định 12/CP, 36/CP. Công văn số 1894/KTTH ngày 17/4/1997 và các văn bản khác quy định các tổ chứ, cá nhân nước ngoài được đầu tư trực tiếp vào Việt Nam dưới các hình thức sau đây:
- Doanh nghiệp liên doanh;
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài;
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh;
Ngoài ra còn có hình thức ký hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT) với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Nhìn chung hình thức đầu tư được chính phủ khuyến khích nhất là hình thức Liên doanh. chiếm 49,1% dự án và hơn 66,1% vốn đầu tư.. Tuy nhiên từ năm 2000 trở lại đây, trong hoạt động FDI hình thức liên doanh không còn được các nhà đầu tư ưa chuộng nữa, số các dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài có xu hướng gia tăng. Một số liên doanh đang hoạt động cũng muốn chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.2.2 – Đối tác đầu tư:
Thời kỳ đầu khi mới thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty nhỏ, thậm chí cả công ty môi giới đầu tư vào Việt Nam. Phần lớn các dự án do các công ty thuộc khu vực Đông á Thái Bình Dương và Tây Bắc Âu thực hiện. Tính đến năm 2008, hơn 20 nước đầu tư vào Việt Nam bao gồm: Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Hồng Kông, Malaysia, Pháp, Thái Lan Mỹ...
2.Tình hình cấp giấy phép đầu tư
Sau khi ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam, năm đầu tiên thực hiện (1988) đã có 37 dự án FDI vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 371,8 triệu USD. Đây là kết quả bước đầu có ý nghĩa hết sức to lớn vượt lên trên cả những lợi ích về mặt kinh tế. Qua hơn 20 năm từ 1988 – 2008, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã tăng lên 3488 dự án nâng tổng số vốn đầu tư lên hơn một tỷ đô la.
Tính đến hết năm 2008, Việt Nam đã thu hút được 3337 dự án có vốn FDI với tổng số vốn đang ký (kể cả tăng vốn) là 42,7 tỷ USD. Nếu trừ đi 40 dự án hết hạn (489 triệu USD) va 561 dự án giải thể trước thời hạn (6,5 tỷ USD), thì còn 2347 dự án còn hiệu lực (35,88 tỷ USD). Trong đó có 1607 dự án đã triển khai với tổng số vốn thực hiện 15,2 tỷ USD, gồm 1127 dự án đã đi vào hoạt động có doanh thu và 480 dự án đang xây dựng cơ bản.
II - Đánh giá chung tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1.Những thành tựu
Qua hai mươi năm thực hiện Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam (1989 – 2009), chúng ta đã thu được một số kết quả đáng kể: số lượng vốn FDI ngày càng tăng, tốc độ trung bình hàng năm tăng 50%, quy mô các dự án FDI ngày càng lớn, cơ cấu đầu tư tập trung chủ yếu vào các ngành dầu khí, công nghiệp và dịch vụ. Các nước lớn như Mỹ, Nhật và một số nước Tây Âu đã đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Những kết quả trên đã phần nào chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn và chính sách thu hút, sử dụng vốn FDI của Việt Nam là đúng và phù hợp. Sự gia tăng nhanh dòng vốn FDI có tác dụng mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế trên tất cả các phương diện: ổn định, tăng trưởng, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, mở rộng và làm vững chắc hơn quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường sức cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, tạo đà và thế cho những bước tiến lớn hơn của giai đoạn tiếp theo.
1.1. – FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực tiễn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn 20 năm qua cho thấy những đóng góp của khu vực FDI trong GDP và xuất nhập khẩu, hoạt động đầu tư nước ngoài đang tạo ra những tiền đề cho việc tăng nguồn thu ngân sách, làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.
FDI đóng góp phần quan trọng trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP của các năm từ 2001 – 2007 bình quân là 7,5%/năm, tạo ra nguồn thu quan trọng cho ngân sách từ 228 triệu USD năm 2004 lên 415 triệu USD năm 2007, chiếm gần 15,4% tổng thu ngân sách hàng năm (không kể nguồn thu từ dầu khí).
Trước năm 1990, xuất nhập khẩu của Việt Nam chỉ đạt dưới 2 tỷ USD, cán cân thanh toán thường xuyên bị thâm hụt. Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, thu hút vốn FDI thì hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng.
1.2 – FDI góp phần đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ trong nước.
Trước đây, các máy móc thiết bị công nghệ của Việt Nam phần lớn đều do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ viện trợ. Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã thì nguồn viện trợ này không còn nữa. Với sự xuất hiện của FDI, mặc dù quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, chưa được như mong muốn song hầu hết những công nghệ này đều hiện đại hơn những gì mà Việt Nam hiện nay đang có. Nhờ đó đã tiết kiệm được chi phí triển khai, năng lực sản xuất trong nước được nâng cao, tạo ra các sản phẩm mới với chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ nhanh chóng về công nghệ và thương mại, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiêu biẻu là sự phát triển đáng kích lệ của ngành bưu chính viễn thông, du lịch và khách sạn, ngành tài chính tiền tệ, ngân hàng. Nếu không có sự tham gia của bên nước ngoài, Việt Nam khó có thể thực hiện các dự án thăm dò và khai thác đàu khí, xây dựng trạm vệ tinh viễn thông. Thông qua chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI, Việt Nam tận dụng được các ưu thế về giáo dục và lao động, cho phép bố trí, sắp xếp lại lực lượng lao động, bố trí lại cơ cấu kinh tế. Các doanh nghiệp trong nước phải phấn đấu vươn lên cạnh tranh với các doanh nghiệp khác ở trong nước và cả ở nước ngoài.
1.3 – Nhờ hoạt động FDI, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới quan trọng :
Nền kinh tế của Việt Nam đã bị tàn phá nặng nề qua nhiều năm đất nước chiến tranh. Các ngành kinh tế mới khôi phục còn rất non trẻ so với trình độ chung của thế giới. Việt Nam chưa có điều kiện để phát triển các ngành như dầu khí, lắp ráp ôtô, xe máy, điện tử viễn thông, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất sợi và kéo sợi.... nếu không có sự hỗ trợ từ nước ngoài thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.4 – Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mang lại công ăn việc làm cho nhiều lao động Việt Nam, nâng cao trình độ và mang lại thu nhập cho người lao động.
Việt Nam với ưu thế có lực lượng lao động dồi dào, người lao động cần cù, chăm chỉ, giá lao động lại rẻ mạt nhưng lại bất lợi ở chỗ trình độ người lao động nhìn chung còn thấp. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã khai thác những lợi thế và khắc phục những bất lợi về lao động cho Việt Nam. Năm 2000, các doanh nghiệp FDI đã thu hút được 5000 lao động trực tiếp làm việc trong các công đoạn sản xuất. Năm 2004 đã tạo ra 65.000 chỗ làm việc thường xuyên và hết năm 2008 đã thu hút được trên gần một triệu lao động Việt Nam. Điều đáng mừng là đội ngũ lao động Việt Nam qua làm việc ở các liên doanh đã được rèn luyện ngày một trưởng thành, tiếp thu được những tiến bộ thế giới cả về trình độ kỹ thuật và năng lực quản lý mà nếu chỉ công tác trong nước, không có sự cọ sát, tiếp cận với các đối tác nước ngoài thì không bao giờ có thể tiếp cận được. Thu nhập của người lao động cũng được cải thiện đáng kể, nâng cao đời sống.
2.Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ nhưng bên cạnh đó cũng còn rất nhiều điểm hạn chế.
2.1 – Việc thẩm định các dự án FDI còn nhiều hạn chế:
Thông qua việc thẩm định dự án đầu tư quốc tế, các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được mức độ phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung. Kết quả của việc thẩm định dự án FDI là căn cứ để các cấp có thẩm quyền ra quyết định cấp giấy phép đầu tư. Thực tế Việt Nam hiện nay hoạt động thẩm định này vẫn gặp rất nhiều vướng mắc. Nguyên nhân của tình trạng này là do Việt Nam thiếu vốn và công nghệ trang bị cho người thẩm định, bản thân người thẩm định lại chưa được qua đào tạo. Có trường hợp người thẩm định móc ngoặc với người cung cấp để nâng cao giá trị thiết bị, công nghệ làm lợi bất hợp pháp cho phía nước ngoài gây thua thiệt cho phía Việt Nam. Hậu quả của những sai sót trong quá trình thẩm định này là các công nghệ, thiết bị được nhập khẩu vào Việt Nam không được như mong muốn. Nhiều trường hợp là những công nghệ đã cũ, lạc hậu nên sản phẩm sản xuất ra bị giảm khả năng cạnh tranh.
2.2 – Quá trình triển khai các dự án FDI tại Việt Nam thời gian qua diễn ra tương đối chậm chạp.
Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục hành chính quá rườm rà, phức tạp. Thủ tục đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thu hút FDI. Đối với Việt Nam, thủ tục đầu tư đã và đang là vấn đề trở ngại lớn cho việc thu hút đầu tư. Theo các nhà đầu tư Đài Loan đánh giá, thủ tục đầu tư Việt Nam “quá rườm rà, gây lãng phí thời gian” mà đối với bất kỳ nhà đầu tư nào bao giờ “thời gian cũng là vàng bạc”. Còn trong con mắt các nhà đầu tư Nhật, dù thủ tục hành chính của Việt Nam đã được cải tiến trong những năm gần đây nhưng vẫn chưa được đánh giá cao. Họ cho rằng nhiều quy định chưa hợp lý khiến công việc kinh doanh của họ gặp khó khăn.
Sự chậm trễ trong việc triển khai các dự án còn do nguyên nhân các bên liên doanh không thực hiện đúng tiến độ góp vốn. Điều này có thể do một trong các bên liên doanh không đủ năng lực tài chính như đã khai báo, các công ty nước ngoài và Việt Nam khi đã trên bờ vực phá sản tìm kiếm liên doanh như là một cứu cánh vì vậy sự đổ vữ của liên doanh là điều dễ lý giải. Thậm chí có trường hợp đối tác bị phá sản trước khi dự án được cấp giấy phép đầu tư.
Một nguyên nhân nữa là do hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam tuy đã được cải thiện nhưng còn yếu kém gây khó khăn cho việc triển khai các dự án FDI. Sự quá tải và lạc hậu của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc cung cấp điện, nước là những đặc điểm nổi bật của cơ sở hạ tầng Việt Nam cụ thể:
Giao thông vận tải: Hệ thống này cả về đường sắt, đường không, đường bộ đều lạc hậu, không đồng bộ. So với yêu cầu của nền kinh tế thì sự phát triển của giao thông vận tải còn chậm chạp, và là trở nhại lớn đối với khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhất là các vùng sâu, xa.
Dịch vụ thông tin liên lạc: Việt Nam tuy đã có những tiến bộ vượt bậc trong những năm gần đây. Tuy nhiên nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của các hoạt động kinh tế hiện thời nhất thu hút vốn FDI. Hơn nữa phí bưu chính viễn thông hiện nay còn đang ở mức quá cao so với khu vực và trên thế giới, đồng thời khu vực FDI hiện còn phải chịu mức giá cao hơn khu vực trong nước. Điều này gây bất bình đối với các nhà đầu tư và làm cho chi phí hoạt động tăng cao gây khó khăn rất nhiều cho các dự án FDI.
Hệ thống thoát nước và hệ thống cung cấp điện: Đã được xây dựng từ lâu tuy ngành chủ quan đã cố gắng cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hoạt động FDI.
2.3 – Về vấn đề thu hút lao động và đào tạo tay nghề :
Các nhà đầu tư thường gặp khó khăn trong việc tìm được lao động đúng yêu cầu mong muốn. Lý do vì Việt Nam thiếu các lao động lành nghề. Các kỹ sư giỏi có thể đảm đương công việc một cách hiệu quả còn thiếu. Kỹ sư mới ra trường lại nặng về lý thuyết, không theo kịp với công nghệ tiên tiến. Hơn thế, lao động sau khi được cử đi đào tạo tay nghề hoặc là quay trở lại tiếp tục làm việc ở công ty hoặc bị công ty khác mua mất hoặc ở lại nước học nghề kiếm việc khác. Bên cạnh đó, quyền lợi của người lao động nhiều khi không được bảo vệ vì sự thiếu kinh nghiệm của các cán bộ Việt Nam trong khi đối tác lại là rất am hiểu và từng trải gây thua thiệt cho phía Việt Nam. Ngoài ra, sự phối hợp giữa Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư với các bộ ngành liên quan và các tỉnh chưa chặt chẽ, chưa hợp lý nên chưa giải quyết tốt được mối quan hệ giữa lợi ích của các địa phương và lợi ích chung của đất nước.
2.4 – Thiếu sự quản lý về vĩ mô:
Những công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị không đồng bộ được chuyển giao qua hoạt động FDI là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường. Vấn đề xử lý các chất thải chưa được quan tâm đúng mức đã và đang huỷ hoại môi trường sinh tái và ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động.
Phần III
NHữNG BIệN PHáP CHủ YếU ĐẩY MạNH THU HúT FDI TạI VIệT NAM
I – Những phương hướng và triển vọng thu hút FDI trong thời gian tới
1 - Bối cảnh thu hút FDI
Trong tình hình các quốc gia đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế thì vô hình chung việc thu hút vốn đầu tư cũng gặp rất nhiều những khó khăn.Các chính sách, biện pháp của Chính phủ Việt Nam ban hành năm 2002 và một số năm sau đó ban hành nhằm mang đến cho chủ đẫu tư những thuận lợi ,môi trường đầu tư sẽ từng bước có những tác động tích cực tháo gỡ khó khăn của các nhà đầu tư. Đặc biệt chủ trương đa dạng hoá hình thức đầu tư, cũng như mở rộng các lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngoài có khả năng hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Tuy nhiên năm nay Việt Nam cũng đứng trước những thách thức lớn là phải khắc phục điểm yếu về môi trường đầu tư như thủ tục hành chính phức tạp, các loại chí phí cao hơn so với dự kiến cũng sẽ vẫn làm cho các nhà đầu tư nước ngoài e ngại.
2 - Định hướng thu hút đầu tư giai đoạn 2004 – 2008
Thứ nhất, để thu hút đầu tư nước ngoài có hiệu quả thật sự, bảo đảm quản lý thuận lợi, khai thác cơ sở hạ tầng hiện có, trước mắt vẫn cần tập trung thu hút đầu tư vào ba vùng kinh tế trọng điểm. Có thể phải chấp nhận phương án "phát triển mất cân đối" trong thời gian đầu tư để tạo sự cân đối sau nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh trong thời gian ngắn hạn. Ba vùng kinh tế trọng điểm làm "đầu tàu" cho cả nền kinh tế, nhưng không phát triển độc lập mà liên kết với các vùng kinh tế khác thông qua các thị trường hàng hoá, lao động, nguyên liệu...từ đó thúc đẩy và "kéo" các vùng này cùng phát triển.
Thứ hai, khuyến khích mạnh mẽ đầu tư vào lĩnh vực chế biến khoáng sản, nông-lâm sản, gắn với vùng nguyên liệu, trồng rừng và trồng cây công nghiệp lâu năm, nhằm khai thác tiềm năng, khắc phục sự chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ.
Thứ ba, thu hút hơn nữa đầu tư vào các khu công nghiệp hiện có và coi khu công nghiệp là hạt nhân trong các chuỗi quy hoạch đô thị sẽ được hình thành trong tương lai, với kết cấu hạ tầng có chất lượng cao, gắn với các khu dân cư, khu thương mại và các loại hình dịch vụ khác.
II – Một số kiến nghị đối với Nhà Nước và các cơ quan liên quan
1 – Đổi mới bộ máy quản lý, cải cách thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính là vấn đề được các nhà đầu tư phàn nàn nhiều nhất khi tiến hành đầu tư vào Việt Nam hiện nay. Hệ thống quản lý của Việt Nam còn nhiều chồng chéo, có quá nhiều khâu, nhiều thủ tục trong quá trình cấp phép và quản lý hoạt động đầu tư. Đổi mới bộ máy quản lý, cải cách thủ tục hành chính được coi là một giải pháp mở đường cho hoạt động FDI. Chỉ có tinh giảm bộ máy hành chính, phân công rõ trách nhiệm, quyền hạn mới giảm bớt được ách tắc, nâng cao được hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước nói chung và đối với hoạt động FDI nói riêng.
Cụ thể Việt Nam cần đơn giản hoá quá trình xét duyệt, thẩm định dự án đầu tư theo định hướng tiến đến quy trình “một cửa”, “một đầu mối” và rút ngắn thời hạn xét duyệt. Trước kia, một dự án phải trải qua 12 đến 16 cửa xét duyệt. Thực trạng như vậy gây rất nhiều phiền phức cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư lần đầu tiên tiến hành đầu tư vào Việt Nam. Đến nay tuy chính phủ đã uỷ quyền cho các địa phương xét duyệt và cấp giấy phép cho các dự án FDI một cách thông thoáng hơn nhưng vẫn cần quy định cụ thể các mức vốn với từng loại hinhg dự án.
Cần rà soát lại các quy định rườm rà bất hợp lý, không cụ thể dễ tạo thành các kẽ hở cho tiêu cực đặc biệt là trong ngành xây dựng, xuất nhập khẩu, quản lý xuất nhập cảnh, cư trú và bảo vệ môi trường. Các cấp hành chính khi ra văn bản hướng dẫn cần thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2 – Cải thiện cơ sở hạ tầng
Việc cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng là công việc không dễ thực hiện ngay được trong điều kiện tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn rất nhỏ bé. Vì vậy, một mặt chúng ta cần huy động tối đa khả năng của mình, mặt khác cung cần tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức và chính phủ các nước thông qua nguồn vốn ODA. Cần tập trung nỗ lực để xây dựng các dự án khả thi có hiệu quả kinh tế để có thể rải ngân vốn ODA đạt yêu cầu đề ra. Khi chưa có đủ điều kiện phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thì nên tập trung dứt điểm những công trình then chốt của nền kinh tế.
3 – Hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư
Nhìn chung, cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đều đánh giá cao chính sách cũng như hoạt động của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua. Đặc biệt tại kỳ họp thứ 7, khoá X Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam cũng đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với một số nội dung chính sau đây:
Một là, luật sửa đổi một số quy định hiện hành để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghệp có vốn FDI theo hướng: cho phép doanh nghiệp có vốn FDI được mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại và bảo đảm cân đối ngoại tệ đối với một số dự án đặc biệt quan trọng; cho phép các doanh nghiệp có vốn FDI được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và được mở tài khoản ở nước ngoài; xác định rõ hơn trách nhiệm trong đền bù, giải phóng mặt bằng để triển khai nhanh dự án; áp dụng biện pháp bảo lãnh, bảo đảm đầu tư đối với các dơ án quan trọng và cho phép áp dụng luật nước ngoài phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Hai là, luật đã mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp có vốn FDI để xích gần hơn với quy định của luật Doanh nghiệp theo hướng: thu hẹp nguyên tắc nhất trí trong doanh nghiệp liên doanh; cho phép nhà đầu tư chủ động lựa chọn hình thức đầu tư và tổ chức lại doanh nghiệp, chủ động lập các quỹ doanh nghiệp, chuyển nhượng vốn; quy định rõ cơ chế liên quan đến giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp.
Ba là, để nâng cao hiệu lực pháp lý của các chính sách đã ban hành, Luật đã bổ sung quy định về miễn giảm thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản cố định và nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất; giảm thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; cho phép các dự án dầu tư nước ngoài được chuyển lỗ trong 5 năm; áp dụng các biện pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư khi luật pháp Việt Nam thay đổi gây thiệt hại lợi ích của họ.
Bốn là, Luật bổ sung các quy định cải tiến thủ tục đầu tư, nâng hiệu lực quản lý nhà nước đối với Đầu Tư Nước Ngoài theo hướng áp dụng từ bước chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư và giảm thời gian xét duyệt dự án; quy định rõ chế độ thanh tra, kiểm tra và quyền khiếu nại của doanh nghiệp; áp dụng chế độ khen thưởng và xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp có vốn FDI. Việc bổ sung và sửa đổi luật đầu tư nước ngoài đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút vốn FDI; xích gần hơn các Luật trong nước như Luật doanh nghiệp, Luật khuyến._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2649.doc