Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế: ... Ebook Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

doc51 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1627 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Toàn cầu hoá là xu thế phát triển khách quan, là đặc điểm nổi trội của hoạt đông kinh tế quốc tế hiện nay. Do được thừa hưởng những thành tựu tiên tiến của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất quốc tế đã có những bước thay đổi cách mạng, mà hệ quả trực tiếp của nó là làm xuất hiện kinh tế tri thức. Đến lượt mình, sự phát triển của lực lượng sản xuất trên thế giới đã đưa lại những thay đổi mới trong tương quan kinh tế thế giới và những thay đổi này mang tính chất quốc tế trong các quan hệ kinh tế giữa các nước. Từ đây, tính toàn cầu hoá trong hoạt động kinh tế của các nước trên thế giới là một tất yếu. Các nước muốn phát triển nền kinh tế của mình, không thể không tính đến tính toàn cầu của nền kinh tế quốc tế... Việt Nam tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng không nằm ngoài tính khách quan của xu thế hội nhập thế giới. Tuy nhiên để hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta vừa đứng trước những cơ hội lớn lại vừa đứng trước những thách thức lớn như vốn; sức ép cạnh tranh; thể chế chính sách và việc cải cách hành chính quốc gia; hạn chế về khoa học công nghệ... trong đó các yếu tố về nguồn nhân lực đóng vai trò cực kỳ quan trọng, là một trong những thách thức lớn nhất trong quá trình hội nhập của nước ta. Thực vậy, trong thời đại ngày nay khi mà khoa học và công nghệ đã có những bước nhảy vọt, kinh tế tri thức sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá trình phát triển. Với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra con người đang ngày càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong tiến trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì nước ta phải có được một nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng được ác yêu cầu của trình độ phát triển của thế giới, của thời đại. Đặc biệt trong bối cảnh khi mà nền kinh tế nước ta còn nghèo thì nguồn nhân lực đóng vai trò then chốt cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nhằm làm sáng tỏ hơn thực trạng nguồn nhân lực nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, em mạnh dạn nghiên cứu đề tai: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”. EM xin chân thành cảm ơn cô giáo Vũ Thị Thìn và các anh chị, cô chú bác trong Ban Phát triển nguồn nhân lực và Các vấn đề xã hội đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu. Đề tài được chia làm 3 phần: Phần I: Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và hội nhập kinh tế quốc tế. Phần II: Nguồn nhân lực nước ta trong quá trình hội nhập. Cơ hội và thách thức. Phần III: Một số vấn đề nâng cáo chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế. PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC 1. Khái niệm về NNL. NNL là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh. NNL được xem xét trên giác độ là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, nó bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết hoặc dị tật bẩm sinh). Với tư cách là một yếu tổ của sự phát triển kinh tế - xã hội NNL là khả năng lao động của xã hội, theo nghĩa hẹp thì đó là nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. NNL còn thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy vào quá trình lao động. Theo cách hiểu này, NNL bao gồm những người từ giới hạn dưới tuổi lao động trở lên (ở nước ta là tròn 15 tuổi) Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô NNL, song đều nhất trí với nhau đó là NNL nói lên khả năng lao động của xã hội. NNL được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số lượng NNL được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng NNL. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng NNL càng lớn và ngược lại. Về chất lượng, NNL được xem xét trên các mặt trình độ văn hoá, trình độ sức khoẻ, trình độ chuyên môn, năng lực phẩm chất... 2. Phân loại NNL. 2.1. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành. + NNL có sẵn trong dân số. Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc. + NNL tham gia vào hoạt động kinh tế. Là số người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế và văn hoá của xã hội. + NNL dự trữ. Bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, nhưng vì các lý do khác nhau, họ chưa có công ăn việc làm ngoài xã hội. 2.2. Căn cứ vào vai trò của từng bộ phận NNL tham gia vào nền sản xuất. + Bộ phận lao động chính. Là bộ phận nhân lực nằm trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động. + Bộ phận nguồn lao động phụ. Là bộ phân dân cư nằm ngoài độ tuổi lao động có thể và cần phải tham gia vào nền sản xuất. 2.3. Căn cứ vào trạng thái có việc làm hay không. + Lực lượng lao động. Bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp song đang có nhu cầu tìm việc làm. + Nguồn lao động. Bao gồm những người thuộc lực lượng lao động và những người thất nghiệp song không có nhu cầu tìm việc làm(1): Gi¸o tr×nh Kinh tÕ Lao ®éng 1). II. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ. 1. Khái niệm về hội nhập kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây nhưng đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có ý kiến cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Có ý kiến lại cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bổ dần các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước. Tuy vậy, khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư vào các hoạt đông kinh tế đối ngoại khác (2): Gi¸o tr×nh Kinh tÕ Quèc tÕ 2). 2. Tính khách quan của Hội nhập kinh tế quốc tế. Trước đây, tính chất xã hội hoá của quá trình sản xuất chủ yếu mới lan toả bên trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắnc các quá trình sản xuất, kinh doanh riêng rẽ với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm xuất hiện phổ biến các loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia. Qua đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã có sự thay đổi đáng kể, dần hình thành vốn lớn cho sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. Tình hình này càng đòi hỏi sự tham gia ngày càng lớn của chính phủ các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bởi lẽ, các quốc gia này là những quốc gia có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lý v.v. Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho tính chất xã hội hoá của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan toả sang các quốc gia khu vực và thế giới nói chung và mặt khác, tự do hoá thương mại cũng đang trở thành xu hướng twts yếu và được xem là nhân tố qun trọng thuc đẩy buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của mọi quốc gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới theo định hướng phát triển của mình đều điều chỉnh các chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dõ bỏ các rào cản thương mại, tạo điều kinệ tho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hoá tiêu dùng giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn.(3) Theo Giáo trình Kinh tế Quốc tế. Hội nhập kinh tế là tất yếu bởi lẽ bất kỳ một quốc gia nào dù giàu có, phát triển đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của chính mình. Đặc biệt trong thời đại ngày nay khi mà hoạt động của các quốc gia không còn bó hẹp trong ranh giới lãnh thổ của mình mà vươn rộng ra nhiều nước khác trên thế giới. Khi trình độ phát triển càng cao thì nền kinh tế càng phụ thuộc với mức độ nhiều hơn vào thị trường thế giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật. Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng chính sự tụt hậu của mình, ngược lại những nước vội vã không phát huy nội lực, không chủ động hội nhập cũng đã bị trả giá. Bởi vậy, để hội nhập có hiệu quả, cần phải có quan điểm nhận thức đúng dắn, nhất quán, cơ chế chính sách phù hợp tận dụng tốt cơ hội, không bỏ lỡ thời có, giảm thách thức, hạn chế ruỷ ro trong quá trình phát triển tiến lên của mình. Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tất yếu và tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động va hợp tác quốc tế. Hội nhập kinh tế sẽ giúp chúng ta thu nhận tri thức, khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, tạo sức ép để các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, mở rộng thị trường ra nước ngoài, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. III. VAI TRÒ CỦA NNL ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ. Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế giữa các khu vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình hình đo đã dẫn đến sự quốc tế hoá kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hội sâu sắc mang tính toàn cầu và đang đi đến thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang nổi lên là khu vực kinh tế năng động nhất. Nếu trước đây, sự phát triển của một quốc gia chủ yếu phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn thì ngày nay quan niệm đó đã thay đổi. Theo các lý thuyết gần đây, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững cần dựa vào ba yếu tố cơ bản là áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó yếu tố và cũng là động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người. Theo tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), nhóm yếu tố lao động là một trong 8 nhóm yếu tố quan trọng nhất quyết định năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Con người vừa là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần vừa la mục tiêu, đối tượng hướng tới của qúa trình phát triển, là trung tâm của sự phát triển. Thực tế đã chứng minh được vai trò quyết định đó của con người trong phát triển kinh tế. Trước đây, Nhật Bản là một nước khan hiếm tài nguyên, chịu sự khắc nghiệt của tự nhiên, nghèo nàn và lạc hậu, chỉ nhờ sức mạnh nguồn nhân lực đáng khâm phục của mình, nước Nhật đã vươn lên thành một cường quốc kinh tế trên thế giới. Nền kinh tế ngày nay là nền kinh tế tri thức, là nền kinh tế dựa trên cơ sở của công nghệ thông tin hiện đại, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... Để có được tri thức cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển khoa học công nghê, đặc biệt là công nghệ thông tin; đồng thời phải đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo hay nói cách khác phải đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Suy cho cùng, tri thức là hệ quả tất yếu, của sự phát triển nguồn nhân lực. Các nước muốn phát triển nền kinh tế tri thức cần phải đầu tư cho phát triển con người mà cốt lõi là phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đầu tư phát triển nhân tài. Để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, để đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, hiêu quả kinh tế -xã hội cao thì nước ta cần phải có một đội ngũ nguồn nhân lực đủ mạnh, đủ khả năng đáp ứng được các yêu cầu mà nền kinh tế khu vực và thế giới và thực tiễn của đất nước đòi hỏi. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ vai trò quyết định của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là yếu tố quan trọng đối với sự nghiệp phát triển lực lượng sản xuất và tốc độ tăng trưởng kinh tế để Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền kinh tế quốc tế. Nước ta vẫn còn đang là một nước nông nghiệp, rõ ràng chúng ta không thể xấy dựng và phát triển nền kinh tế tri thức như các nước công nghiệp phát triển. Để tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được thực hiện tốt, cần phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục tiêu và động lực phát triển, con người có vai trò to lớn không những trong đời sống kinh tế mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm, nâng cao chât lượng con người, không chỉ với tư cách là người lao động sản xuất, mà với tư cách là công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng nhân loại... không thể hội nhập kinh tế quốc tế nếu không có đội ngũ đông đảo những công nhân lành nghề, những nhà khoa học kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệ tháo vát, những nhà lãnh đạo, quản lý tận tụy, biết nhìn xa trông rộng. PHẦN II NGUỒN NHÂN LỰC NƯỚC TA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC I. XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI Hiện nay, xu thế hội nhập trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và trên diện rộng, hàng loạt các tổ chức hiệp hội, các khu mậu dịch tự do, liên minh, liên kết được ra đời. Điển hình phải kể đến đó là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bao gồm các quốc gia Đông Nam Á (Inđonexia, Singapore, Thái Lan, Brunei, Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma và Đôngtimo), Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Liên minh Châu Âu (EU) gồm có 11 quốc gia ở Châu Âu, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) gồm có 21 quốc gia ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) gồm 146 nước thành viên trên toàn thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB),... II. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ Ở VIỆT NAM 1. Tiến trình hội nhập ở Việt Nam Trong những năm qua, nước ta đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 167 nước, đã trở thành thành viên của các tổ chức hợp tác quốc tế, tài chính khu vực và trên thế giới như ASEAN, APEC, ASEM và đang hoàn tất quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việc chủ động thực hiện chính sách hội nhập kinh tế và xử lý tốt các mối quan hệ tài chính - tiền tệ với đối tác nước ngoài đã làm gia tăng kim ngạch xuất khẩu, thu hút đáng kể vốn và công nghệ bên ngoài cho đầu tư phát triển, cải thiện tình trạng nợ nước ngoài, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Tới hôm nay chúng ta có đủ căn cứ để hài lòng về những thành công đã gặt hái được trong 5 năm qua. Những mục tiêu kinh tế đề ra cho 5 năm đã đạt được, có những mặt còn vượt cả dự kiến. Tốc độ tăng trưởng GDP trong 5 năm bình quân đạt 7,5%/năm, riêng trong năm 2005 đạt mức kỷ lục trong 9 năm qua là 8,5%. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống 20,7%, tỷ trọng ngành công nghiệp tăng lên 41% trong tổng GDP. Tích luỹ tiêu dùng, thu chi ngân sách, cán cân thanh toán quốc tế cơ bản ổn định đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng của nền kinh tế. Tổng đầu tư toàn xã hội tăng nhanh và đạt 37,5% so với GDP. Hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến quan trọng. Quan hệ quốc tế được mở rộng, các cam kết quốc tế được triển khai thực hiện tốt. Nguồn vốn ODA và FDI liên tục tăng. Thị trường xuất khẩu được duy trì và mở rộng, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh và đạt 17%/năm. Cùng với phát triển kinh tế, 5 năm qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong lĩnh vực xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao; tạo thêm nhiều việc làm mới, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được thành tựu nổi bật, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Những thành tựu đó thật đáng trân trọng nếu tính rằng trong 5 năm qua Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó nổi lên là thiên tai nặng nề liên tiếp xảy ra; giá cả trên thế giới biến động phức tạp; dịch bệnh, nhất là dịch cúm gia cầm diễn ra nghiêm trọng. Quá trình toàn cầu hoá đã thúc đẩy cuộc chạy đua phát triển nguồn nhân lực tại các quốc gia, khu vực trên thế giới về khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế. Đối với nước ta, phát triển nguồn nhân lực để thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước và tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới (APEC, AFTA, WTO...), thực hiện các Hiệp định hợp tác kinh tế song phương (Việt - Mỹ...) đang là nhu cầu hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá, tăng tốc. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế, vấn đề phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng xu thế chuyển sang nền kinh tế tri thức đang được các nước ưu tiên. Trong đó, lao động tri thức được coi là vốn nhân lực đóng vai trò hàng đầu của sự phát triển kinh tế, với các đặc trưng sau: + Sự chuyển dịch của lực lượng lao động từ khu vực công nghiệp sang hoạt động trong khu vực dịch vụ yêu cầu nhiều kiến thức (Knowledge-intensive), thí dụ như: đào tạo công nghệ, thiết kế chế tạo kỹ thuật, kinh doanh bất động sản, công nghệ thông tin, viễn thông, ngân hàng và tài chính, kế toán, bảo hiểm, tư vấn R&D, tư vấn pháp luật, quản lý và xử lý môi trường, nghiên cứu thị trường, thông tấn và báo chí, cung ứng lao động... + Gia tăng nhanh chóng các tài sản vô hình (vốn trí tuệ) so với các tài sản vật chất. Các nguồn lực đó bao gồm: vốn con người (kiến thức chung, kiến thức riêng), vốn tổ chức (chuẩn mực và hướng dẫn, hệ thống tổ chức và quản lý, cơ sở dữ liệu, văn hoá tập thể, thoả thuận hợp tác...), vốn công nghệ (bằng sáng chế, bí mật thương mại, bản thiết kế công nghiệp...), vốn quan hệ (danh tiếng, thương hiệu, các quan hệ dài hạn....). + Gia tăng đóng góp của kiến thức vào tăng trưởng kinh tế . + Lợi thế khả năng tìm việc làm và tiền công cao của lao động có kỹ năng và đặc biệt là lao động có chuyên môn kỹ thuật cao. Quá trình toàn cầu hoá phát triển, các thị trường được mở rộng, tự do hoá thương mại và đầu tư nước ngoài tạo ra sức ép cạnh tranh ngày càng cao đối với mỗi nền kinh tế, doanh nghiệp. Tính cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp có tác động kích thích phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, trong nền kinh tế Việt Nam tính cạnh tranh còn thấp, khu vực kinh tế tư nhân đa số là doanh nghiệp nhỏ có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 87,2% tổng số doanh nghiệp, công nghệ lạc hậu, trong đó số doanh nghiệp máy móc thiết bị không đảm bảo an toàn lao động và sản xuất ra sản phẩm chất lượng thấp chiếm 26,4%, khả năng mở rộng thị trường yếu, một số ngành sản xuất kinh doanh còn mang tính độc quyền và được tiếp cận các nguồn lực thuận lợi hơn... đã hạn chế đến kích thích học tập, đào tạo, học nghề nâng cao trình độ của người lao động và suy cho cùng là hạn chế đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Quá trình toàn cầu hoá có đặc trưng của sự phát triển và tăng cường vai trò của các tổ chức kinh tế và thương mại (WTO-Tổ chức thương mại quốc tế, APEC, WB-Ngân hàng thế giới, các khối kinh tế khu vực ASEAN, EC...) đã dẫn đến mở rộng và thay đổi các thông lệ quốc tế về đầu tư, thương mại và lao động. Nước ta tham gia dòng chảy toàn cầu hoá cũng có sự thay đổi, điều chỉnh pháp luật liên quan tới đầu tư, thương mại, lao động. Trong đó, có sự thay đổi chính sách phát triển nguồn nhân lực và chính sách liên quan đến phát triển nguồn nhân lực như: xã hội hoá giáo dục, đào tạo tự do lựa chọn ngành nghề đào tạo của người lao động, khuyến khích sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật, tiền lương/tiền công đối với lao động chuyên môn kỹ thuật, tín dụng đào tạo và dạy nghề cho các đối tượng tài năng của đất nước, bảo hiểm xã hội đối với người lao động, đổi mới đầu tư cho giáo dục và đào tạo... Bước vào năm 2006, Việt Nam tiến vào thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện hơn và sâu rộng hơn. Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết của AFTA, thực hiện hầu hết các cam kết chủ yếu của Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, bắt đầu thực hiện các cam kết của khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc, theo đó hàng rào bảo hộ đã giảm thiểu đáng kể, đồng thời Việt Nam cũng sẽ có khả năng khai mở thị trường lớn hơn với AFTA, Trung Quốc, Mỹ và các quốc gia thành viên WTO. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thành lập ngày 1/1/1995 ban đầu có 130 nước thành viên đến nay đã lên đến 146 thành viên trong đó có đến hai phần ba là nước đang và kém phát triển. Đây là tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu, chiếm hơn 90% thương mại thế giới.(4) Theo www.mpi.gov.vn Nhận định rõ sự cần thiết tham gia tổ chức WTO, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định lại “ Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của Việt Nam và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương... tiến tới gia nhập WTO”. Thực hiện chủ trương nêu trên, năm 1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. Gia nhập WTO đã tạo ra cho Việt Nam rất nhiều cơ hội mới. Trong đó, Trước hết có thể mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu. Trong lịch sử phát triển của mình, hệ thống GATT, sau này là WTO, đã thực hiện nhiều vòng đàm phán để tự do hóa thương mại hàng hóa và thương mại du lịch quốc tế. Mức độ tự do hóa mà các Thành viên WTO đạt được cho tới nay là khá sâu rộng. Khi ra nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hóa này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hóa của ta, vì vậy, sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế.   Do có điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là nông nghiệp và dệt may. Đây là 2 ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xóa bỏ dần các rào cản thương mại. Thí dụ, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may phải được xóa bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này. Đối với thương mại hàng nông sản, các Thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam.   Thứ hai là Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rõ ràng về quyết tâm cải cách của ta, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị trường của các Thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch, theo đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.   Thứ ba, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước, bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng dần khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình, nhờ đó góp phần nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế.   Thứ tư là sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Môi trường thương mại quốc tế, sau nhiều nỗ lực của WTO đã trở nên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế doanh nghiệp của ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình, núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá...Tranh chấp thương mại là điều khó tránh mà phần thua thiệt thường rơi về phía ta, bởi ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, bảo đảm sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. 2. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. 2.1. Thuận lợi. a. Về nội lực. Khung pháp luật, thể chế chính sách được đổi mới liên tục. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng, cho đến nay Việt Nam đã làm được một số việc quan trọng. Trong đó, phải kể đến việc Quốc hội vừa thông qua hàng loạt đạo luật cực kỳ quan trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh và cho phù hợp với các cam kết quốc tế như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật các công cụ chuyển nhượng, Luật Giao dịch điện tử... và cả những luật có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường kinh doanh như Luật phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Bảo vệ môi trường... Đồng thời, Quốc hội còn cho ý kiến để thông qua tại kỳ họp sau các Luật Hàng không dân dụng, Công nghệ thông tin, Kinh doanh bất động sản, Bảo hiểm xã hội... Bên cạnh đó, công cuộc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã được đẩy mạnh, hệ thống ngân hàng thương mại đã được chấn chỉnh, sắp xếp lại, thị trường chứng khoán đã hoạt động. Việc quan trọng nhất là các doanh nghiệp cần ra sức đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm giá thành. Về đầu tư nước ngoài. Khung pháp luật cũng được đổi mới liên tục và ngày càng phù hợp hơn, thông thoáng hơn và được đánh giá là có sức hấp dẫn hơn. Nhiều lĩnh vực và hình thức đa dạng mở ra cho các nhà đầu tư nước ngoài cho phép đầu tư theo công ty cổ phần, niêm yết trên thị trường chứng khoán... Một ví dụ điển hình ở tỉnh Quảng Ninh, trong những năm qua, với chủ trương chủ động hội nhập, Đảng bộ tỉnh đã đề ra những chính sách thông thoáng nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2002 đã thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Tính đến ngày 31-12-2002, trên địa bàn tỉnh có 50 dự án và 9 chi nhánh vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động, với tổng số vốn đăng ký là 357 triệu USD, vốn thực hiện là 195 triệu USD. Các dự án đầu tư FDI đã có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh: đóng góp 25,6% giá trị sản xuất công nghiệp, 33,8% doanh thu du lịch, 19,5% kim ngạch xuất khẩu, 12% nguồn thu ngân sách, 15,5% GDP.(5) Nguồn www.moi.gov.vn Nhờ chính sách cải cách đổi mới phát triển kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực đã được nâng cao nhiều. Trình độ học vấn và dân trí của nguồn nhân lực Việt Nam là khá cao. Tỷ lệ mù chữ của lực lượng lao động cả nước là 5,01%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 3,28%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học là 19,7%; so với thời điểm 1/4/2003 tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở tăng 2,6%; tốt nghiệp phổ thông trung học tăng 1,4%. Công tác nghiên cứu khoa học cũng được chú trọng. Chúng ta cũng đã phát triển được một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đông đảo. Nhiều nhà kinh tế, nhiều cán bộ khoa học của Việt Nam cũng đã tiếp thu và tiếp cận được với nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới; nhiều công nhân, lao động Việt Nam thông qua xuất khẩu lao động và các chuyên gia nước ngoài đã có điều kiện tiếp cận được với những máy móc thiết bị hiện đại và tác phong lao động công nghiệp. Qua đó chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng đã được nâng cao hơn. Một trong những thuận lợi nữa của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là có được sự ổn định về chính trị và xã hội; cùng với lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào và tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng. b. Về ngoại lực. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang được sự ủng hộ từ nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là một thuận lợi rất lơn mà Việt Nam cần được khai thác tốt. Trong những năm qua Việt Nam đã có được bước tiến lớn trong quá trình ký kết đàm phán song phương và đa phương. Chương trình “HẬU WTO” đang được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và ủng hộ, đặc biệt quá trình đàm phán với Hoa Kỳ xoay quanh vấn đề gia nhập WTO đang có những dấu hiêu khả quan. Một thuận lợi khác nữa cho Việt Nam đó là chúng ta đang trong môi trường kinh doanh thuận lợi, các quốc gia cùng hợp tác bình đẳng trên cơ sở cùng có lợi. Vì thế chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận với các thành tựu khoa học trên thế giới. Thực tế cho thấy chỉ trong vòng vài năm qua, công nghệ thông tin của Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Năm 2003 có thể đánh giá là năm thành công của công nghệ thông tin. Với giá trị sản lượng phần mềm là 120 triệu USD, tăng 41% so với năm 2002 (38% cho thị trường nội địa và 50% cho thị trường nước ngoài), số nhân lực phần mềm tăng gấp rưỡi, năng suất phần mềm ở ngưỡng 10.000 USD/người/năm. Giá trị xuất khẩu phần cứng cũng tăng 27%, đạt con số 700 triệu USD. So với năm 2002 số nhân sự làm phần mềm của Việt Nam năm 2003 tăng từ 8.000 lên 12.000 người, tạo ra giá trị sản phẩm/dịch vụ khoảng 120 triệu USD, trong đó gia công/xuất khẩu 30 triệu USD, còn lại là phục vụ thị trường trong nước. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, giá trị phần mềm nhập khẩu qua đường chính ngạch rất thấp, chỉ khoảng 7-10 triệu USD trong năm 2003. Năng suất lập trình viên năm 2003 ở ngưỡng 10.000 USD/người/năm(6): Nguồn www.vietnamnet.vn . 2.2. Khó khăn. Về công tác quản lý. Mặc dù đã có những cải cách đáng kể nhưng vẫn còn nhiều bất cập trong công tác quản lý. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ hội nhập. Đội ngũ đông nhưng không mạnh, không đồng bộ, vừa thừa vừa thiếu; trình độ, kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ quản lý thị trường. Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước thuộc các bộ, các ngà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32391.doc
Tài liệu liên quan