Một số giải pháp nhằm thu hút FDI cho phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay, với xu hướng chung của nền kinh tế thế giới là toàn cầu hóa, quốc tế hóa, đòi hỏi mỗi quốc gia phải chủ động trong việc hội nhập quốc tế, nhằm phát huy những tiềm năng sẵn có, tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài. Nguồn vốn FDI là một nguồn lực hết sức quan trọng không chỉ đối với các nước đang phát triển mà cả các nước công nghiệp phát triển. Đối với Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế - x

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thu hút FDI cho phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã hội: Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao, đời sống nhân dân ngày một cải thiện, tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên, với trình độ phát triển kinh tế chưa cao, khả năng tích lũy vốn còn hạn chế thì bên cạnh nguồn vốn trong nước, nguồn vốn FDI là một nhân tố quan trọng và tích cực, tạo ra “cú huých” mạnh mẽ đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Nhận thức đúng đắn về vai trò của nguồn vốn này, trong những năm gần đây Việt Nam đã tập trung đẩy mạnh việc tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm khai thác một cách có hiệu quả nguồn lực trong nước, tiếp nhận khoa học công nghệ mới, học hỏi kinh nghiệm, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính phủ đã tiến hành nhiều biện pháp để cải thiện môi trường đầu tư, đồng thời quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm, các KCN, KCX, để tập trung thu hút FDI. Vùng KTTĐ Bắc Bộ là một trong ba vùng KTTĐ của cả nước. Trong những năm qua, Vùng đã có những động thái tích cực trong công tác thu hút FDI. Song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và hạn chế trong chính sách thu hút FDI: hiệu quả chưa cao, số lượng vốn thu hút còn chưa tương xứng với tiềm năng của vùng.. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng KTTĐ Bắc Bộ, đánh giá kết quả đạt được và các hạn chế của khu vực FDI, phân tích những tác động của hoạt động này tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của Vùng, không những giúp chúng ta có được sự hình dung đầy đủ về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vùng mà còn góp phần cung cấp những hiểu biết để đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động này cũng như những ảnh hưởng tích cực của nó tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của Vùng. Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài : “ Một số giải pháp nhằm thu hút FDI cho phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ”. Em xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Ngọc Linh, đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án môn học này. Chương I: Tổng quan về vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và FDI. Sự cần thiết phải thu hút vốn FDI vào phát triển kinh tế của vùng. I. Tổng quan về vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 1. Đặc điểm vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ gồm 8 tỉnh và thành phố: Bắc Ninh, Hà Nội (hạt nhân của vùng), Hà Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Ninh, và Vĩnh Phúc. Đây là trung tâm kinh tế năng động và là một đầu tàu kinh tế quan trọng của miền Bắc và của cả nước Việt Nam. Vùng có tổng diện tích 15.277 km2, bằng 4,64% diện tích cả nước. Nguồn nhân lực chiếm khoảng 16,34% dân số cả nước, trong đó Hà Nội là thành phố đông dân nhất, trên 3 triệu người. Vùng có rất nhiều lợi thế về cơ sở hạ tầng vật chất, các khu công nghiệp và tài nguyên thiên nhiên phong phú. Cụ thể như: Về giao thông: Các đầu mối giao thông của vùng kinh tế: Hàng không có sân bay Nội Bài, sân bay Cát Bi (quốc tế dự bị cho Nội Bài) và tương lai là sân bay ở Quảng Ninh có công suất 3,5 triệu khách/năm. Đường bộ: Quốc lộ 1A, quốc lộ 5, đường cao tốc Pháp Vân - Ninh Bình, đường cao tốc Láng - Hòa Lạc, đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài và tương lai gần là đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường cao tốc Hà Nội - Quảng Ninh. Cảng: Cảng Hải Phòng và cảng Cái Lân là một trong những cụm cảng nước sâu hàng đầu cả nước. Trong tương lai gần, một dự án lớn với tổng vốn đầu tư lên đến 15 tỷ USD phát triển đô thị và cảng container hàng đầu khu vực và châu Á tại Quảng Ninh do các tổng công ty và tập đoàn trong nước (ban đầu là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Vinashin) với năng lực lên đến 100 triệu tấn/năm, có thể đón tàu có tải trọng trên 100.000 tấn cập cảng. Về các khu công nghiệp: Tại khu vực này tập trung các khu công nghiệp lớn tầm cỡ, thu hút nhiều dự án lớn như: khu công nghiệp Thăng Long, khu công nghiệp Sài Đồng, khu công nghiệp Quế Võ, khu công nghiệp Nomura, khu công nghiệp Đình Vũ... Các ngành công nghiệp chủ chốt: sản xuất xi măng, đóng tàu (Hải Phòng và Quảng Ninh), ô tô, xe máy (Vĩnh Phúc, Hải Dương), luyện cán thép (Thái Nguyên). Về năng lượng Vùng kinh tế này là một trong những trung tâm năng lượng hàng đầu của cả nước, là nơi sản xuất và xuất khẩu than đá (Quảng Ninh), nhiệt điện (Uông Bí và Phả Lại tại Quảng Ninh). Về du lịch Khu vực này tập trung nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh vào bậc nhất cả nước với Hà Nội là trung tâm. Các dự án sân gôn, khu nghỉ mát đẳng cấp quốc tế đã và đang được đầu tư xây dựng, đặc biệt là tại khu vực xung quanh di sản thế giới Vịnh Hạ Long Vai trò của vùng KTTĐ Bắc Bộ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước. Vùng chỉ chiếm 4,6% diện tích và khoảng 15,7% dân số cả nước, nhưng đóng góp tới 15% GDP, 25% giá trị sản xuất công nghiệp, 15% kim ngạch xuất khẩu, 28% thu ngân sách và 23% thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước. II. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) Đầu tư nước ngoài là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Tùy thuộc vào điều kiện của từng nước về điều kiện lịch sử, trình độ phát triển sản xuất mà mỗi quốc gia có những cách nhìn nhận khác nhau về hoạt động đầu tư nước ngoài. Theo Luật đầu tư của Việt Nam năm 2005 quy định: Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư. Xét về bản chất, đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức xuất khẩu cao hơn của xuất khẩu hàng hóa. Xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa luôn bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong chiến lược xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn lớn hiện nay. Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng trào lưu có tính quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu hiện nay. 1. Khái niệm về nguồn vốn FDI Gần đây, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều tổ chức kinh tế quốc tế đưa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về FDI, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động tự do thương mại và đầu tư quốc tế, phân loại và sử dụng trong công tác thống kê. Chungs ta chỉ lấy định nghĩa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) về FDI làm định nghĩa chính thức cho nguồn vốn này: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". Hiện nay ở Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài tồn tại dưới 3 hình thức chủ yếu, đó là: - Doanh nghiệp liên doanh - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài - Hợp đồng hợp tác kinh doanh Và 3 phương thức đầu tư thường sử dụng là: - Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT) - Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh (BTO) - Hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT) Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài còn có thể đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất dưới các hình thức trên theo Luật đầu tư đã quy đinh. Đặc điểm và vai trò của FDI trong quá trình phát triển kinh tế 2.1. Đặc điểm của FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về lãi lỗ và mục đích chính của nhà đầu tư là tối đa hóa lợi nhuận ở các nước tiếp nhận đầu tư thông qua di chuyển vốn (bằng tiền và tài sản, công nghệ và trình độ quản lý của nhà đầu tư nước ngoài) từ nước đi đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư. Đây là đặc điểm cơ bản nhất và cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc hình thành nên hoạt động FDI giữa các quốc gia. Ngoài ra, FDI còn mang các đặc trưng sau: - Các chủ đầu tư thực hiện đầu tư trên nước sở tại phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật nước đó đề ra - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường lớn, thời gian sử dụng dài, tương đối ổn định, ít có khả năng rút về nhanh do các quy định ở nước nhận đầu tư nhằm tránh gây biến động vốn trong nước - Tỷ lệ vốn góp sẽ quyết định việc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ đầu tư. Tùy theo luật của từng nước mà quyền giữa hai bên trong nước và ngoài nước khác nhau. - Do hoạt động FDI phần lớn vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận nên chủ đầu tư tập trung vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đem lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư. Cũng chính vì lý do trên mà thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ quản lý, hiện đại hóa công nghệ và nâng cao trình độ, tay nghề cho người công nhân ở các nước này. 2.2. Vai trò của FDI 2.2.1. Đối với các nước đầu tư Thứ nhất: Tối đa hóa lợi nhuận Dễ nhận thấy rằng, một nguyên nhân quan trọng làm xúc tiến việc đầu tư ra nước ngoài của ông trùm tư bản và các tập đoàn xuyên quốc gia là sự chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hoá lợi nhuận.Ở các nước tiếp nhận đầu tư hầu hết là những nước đang phát triển hoặc kém phát triển, có tài nguyên thiên nhiên dồi dào, dân số trẻ, tiền công lao động rẻ mạt…Do đó chi phí sản xuất thấp, giá bán sản phẩm ở những nước đó lại cao, điều này đã giúp cho các nước chủ đầu tư thu được siêu lợi nhuận. Đó chính là việc tối đa hóa hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra. Thứ hai: Giảm thiểu rủi ro Thực tế cho thấy rằng, đầu tư vào nhiều lĩnh vực và vào nhiều nước chính là một biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu rủi ro. Ngoài việc đầu tư trong nước, các nhà đầu tư cũng không ngừng đầu tư ra nước ngoài để giảm rủi ro do môi trường kinh doanh trong nước không ổn định. Thứ ba: Vươn đến vị trí độc quyền trên toàn thế giới Thứ tư: Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng du thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu. Thứ năm: Khai thác chuyên gia và công nghệ Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electroincs, việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy. Thứ sáu:Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự. Đối với các nước tiếp nhận đầu tư Các nước tiếp nhận đầu tư đều là những nước đang phát triển hoặc kém phát triển nên rất hạn chế về mọi mặt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước. Nên thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được nhiều kết quả như: Thứ nhất: Bổ sung cho nguồn vốn trong nước Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI. Thứ hai: Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. Thứ ba: Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Thứ tư: Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ năm: Nguồn thu ngân sách lớn Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006. III. Mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư FDI với phát triển kinh tế của vùng 1.Tác động của FDI tới phát triển kinh tế của vùng 1.1. Tác động tích cực Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa học công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và năng suất lao động tại nước tiếp nhận đầu tư. FDI còn góp phần tạo ra sự tăng trưởng về mặt kinh tế theo hướng bền vững, giúp cho nước tiếp nhận đầu tư huy động mọi nguồn lực sản xuất( vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ). Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có vai trò bổ sung vốn cho quá trình phát triển. Để có sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải có vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, dây chuyền công nghệ, đào tạo lực lượng lao động chất lượng cao…Trong khi các nước đang phát triển thì nguồn vốn đầu tư trong nước luôn trong tình trạng khan hiếm. Do đó, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng để có thể đạt được mục tiêu trên. Hơn nữa, việc huy động và sử dụng vốn FDI không đẩy các nước tiếp nhận đầu tư vào tình trạng nợ quốc tế hay phải chịu sự ràng buộc về các điều kiện chính trị - xã hội của các nước đầu tư. Đây rõ ràng là những ưu điểm của FDI so với hình thức đầu tư nước ngoài khác. Một tác động nữa cần phải kể đến đó là FDI góp phần nâng cao chất lượng lao động và phát triển nguồn nhân lực. Đây là một yếu tố rất cần thiết đối với tăng trưởng kinh tế. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện nâng cao năng lực, kỹ năng lao động và nhất là học hỏi về trình độ quản lý và tư duy về quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. 1.2. Tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động rất tích cực đối với quá trình phát triển kinh tế thì trong một số trường hợp khác, FDI cũng gây ra không ít tác động tiêu cực. Về vấn đề ô nhiễm môi trường, các nhà kinh tế học đều cho rằng tốc độ gây ô nhiễm môi trường tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là các nước đang phát triển. Sự tăng trưởng các nước này chủ yếu dựa vào khai thác và bán tài nguyên. Do vậy, tốc độ tăng trưởng cao sẽ phải sử dụng, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và những chất thải từ hoạt động sản xuất là nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường. Hoạt động FDI chủ yếu được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và những chất thải nếu không được xử lý và kiểm soát chặt chẽ sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường. Hơn nữa, hoạt động FDI ảnh hưởng tới quá trình phát triển đó là vấn đề nhập công nghệ thấp. Trên thực tế, với rất nhiều lợi ích mà các nước đầu tư nhận được khi chuyển giao các công nghệ lạc hậu như: đem lại nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu công nghệ, việc chuyển giao công nghệ cũ lạc hậu có thể kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm…trong khi các nước tiếp nhận đầu tư đang tự biến mình thành những bãi rác thải công nghệ. Mặt khác, hoạt động này là nguy cơ mất cân đối về cơ cấu kinh tế ( cơ cấu ngành và vùng kinh tế). Do FDI chỉ tập trung vào những lĩnh vực dễ sinh lời như công nghiệp và dịch vụ, các khu công nghiệp có điều kiện sản xuất thuận lợi, các thành phố lớn….do vậy làm cho khoảng cách về thu nhập giữa những nhóm dân cư ở các khu vực này ngày càng gia tăng. Hoạt động đầu tư FDI có thể gây ra những tiêu cực về mặt xã hội. Nó có thể làm hủy hoại các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc. Với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, các giá trị đạo đức sẽ không được chú ý đến và bị xâm phạm, xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực như hoạt động kinh doanh không trung thực, lừa đảo… Ngoài những hạn chế trên, hoạt động này có thể gây ra sự bất ổn về kinh tế - tài chính đối với nước tiếp nhận đầu tư. Trong nhiều trường hợp, vốn FDI quá lớn sẽ dẫn đến lạm phát và ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ quốc gia. Tác động của phát triển kinh tế tới việc thu hút FDI Phát triển kinh tế và thu hút FDI là hai quá trình độc lập và hoàn toàn khác nhau về mục đích, nhưng giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau. Như chúng ta đã biết, quá trình phát triển kinh tế, trước hết phải đảm bảo các mục tiêu về tăng trưởng, mức sống dân cư tăng lên, điều này làm tăng cầu cho nền kinh tế và tạo ra một thị trường lớn. Chính điều này chính là miếng mồi ngon cho các nhà đầu tư nước ngoài càng tích cực hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Kết hợp với điều kiện chính trị, xã hội ổn định, đây chính là một môi trường kinh doanh an toàn góp phần kích thích hoạt động này. Sự phát triển kinh tế, sẽ kéo theo sự phát triển của các yếu tố khác như: cơ sở hạ tầng, trình độ sản xuất, khoa học công nghệ, lực lượng lao động…đây là những điều kiện tốt tạo ra những lợi thế tương đối trong việ c thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. IV. Sự cần thiết thu hút vốn FDI cho phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ Đặc điểm của vùng KTTĐ Bắc Bộ là vùng có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước, có khả năng cung ứng cho cả nước nhiều sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp rất đa dạng và phong phú, là cửa ngõ đầu mối giao thông quốc tế nên một quốc gia càng có nhiều vùng KTTĐ thì càng tạo nên sự phân hóa, điều này tạo nên sự phân hóa giữa các vùng. Dưới đây là một số nguyên nhân cho sự cần thiết thu hút vốn FDI cho vùng KTTĐ Bắc bộ Thứ nhất,ngày nay vốn đầu tư là yếu tố quan trọng hàng đầu cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn vốn FDI ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng khối lượng vốn đầu tư. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển như nước ta, khi nguồn lực cho phát triển kinh tế còn khan hiếm thì phải có chính sách tập trung vào phát triển các vùng trọng điểm, thu hút vốn có trọng tâm không nên đầu tư dàn trải. Các nước phải ưu tiên phát triển các vùng này để tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của cả nước. Hơn nữa, theo quan điểm tăng trưởng nhanh “ để giải quyết tăng trưởng thì phải có các cực tăng trưởng”, vậy nên việc tập trung phát triển các vùng KTTĐ là rất cần thiết. Đặc biệt đối với nước ta, việc cơ cấu lại vùng KTTĐ, tập trung phát triển vùng KTTĐ là giải pháp tạo thế mạnh mang tính sống còn cho sự phát triển toàn diện toàn nền kinh tế. Thứ hai, như trên đã nêu trong tương lai vùng phải phát huy vai trò trở thành trung tâm công nghiệp – dịch vụ thương mại- khoa học kỹ thuật của cả nước nói chung và của miền Bắc nói riêng. Vậy nên mục tiêu đặt ra cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng là rất lớn. Để thực hiện mục tiêu đó thì vùng cần có lượng vốn đầu tư rất lớn. Thứ ba, hiện nay tình hình phát triển kinh tế của vùng còn nhiều bất cập, chưa đủ khả năng để thực hiện các mục tiêu ưu tiên đầu tư phát triển.Nguồn đầu tư vào vùng còn nhiều hạn chế, chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế của vùng. Một số mục tiêu ưu tiên do thiếu vốn nên không chưa được chú trọng đúng mưc, từ đó gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế vùng. Nếu có vốn đầu tư, vùng có thể tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi, khai thác các thế mạnh của vùng một cách tốt hơn, đồng thời cũng khắc phục được những hạn chế như giải quyết vấn đề phòng chống thiên tai dịch bệnh, đầu tư vào việc lập quy hoạch tốt hơn, hợp lý hơn… Tạo điều kiện tốt hơn để phát triển vùng, thực hiện tốt vai trò đầu tầu kinh tế - xã hội của mình và có khả năng lôi kéo các vùng lân cận phát triển. Xuất phát từ nhu cầu rất cấp bách về nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội và vai trò, vị trí quan trọng của vùng thì việc tăng cường huy động nguồn vốn đầu tư phát triển. Nhưng chỉ có nguồn vốn trong nước thì không đủ cho khả năng phát triển của vùng. Và ngày nay theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta sẽ tận dụng những lợi thế của vùng để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất cần thiết, góp phần làm tăng vốn đầu tư phát triển cho vùng . Chương II: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO VÙNG KTTĐ BẮC BỘ Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ Nhân tố thuận lợi Vị trí thuận lợi Vị trí địa lý Vùng KTTĐ Bắc Bộ có vị trí địa lý, chính trị đặc biệt. Vùng có thủ đô Hà Nội – trái tim của cả nước, đầu não chính trị hành chính quốc gia, là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế Mặt khác, vùng còn tiếp giáp với Trung Quốc, có mặt tiền hướng ra biển Đông, giáp vịnh Bắc Bộ, là tiền đồn phía bắc của cả nước. Phía Tây nam của vùng có phần tiếp giáp với Bắc Lào và Thái Lan, vì vậy mà vùng là đầu mối giao thương quan trọng,có thể phát triển giao thương cả đường biển, đường bộ, đường sắt, và đường hàng không. Vùng có phần tiếp giáp với biển, thích hợp để xây dựng các cảng biển. Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn FDI. Vùng KTTĐ Bắc Bộ có tiềm năng về du lịch, là nơi tập trung nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Tam Đảo, Tây Thiên ( Vĩnh Phúc), có vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của thế giới.Ven biển có nhiều khu du lịch, nghỉ mát với nhiều bãi tắm đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng)…Vùng còn tập trung nhiều kỳ quan thiên nhiên, nhiều công trình mang giá trị lịch sử như Thành Cổ Loa ở Sóc Sơn… Hàng năm vùng thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan và nghỉ mát. Do đó,vùng có tiềm năng lớn trong việc thu hút vốn đầu tư vào phát triển các ngành dịch vụ như du lịch, nhà hàng, khách sạn… Về khí hậu, vùng có đặc trưng khí hậu khác với các vùng khác là có mùa đông lạnh thích hợp cho việc nuôi trồng các loại rau quả để xuất khầu ra các vùng khác trong cả nước và ra nước ngoài. Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên thiên nhiên cũng là một nhân tố tác động trực tiếp đến tình hình thu hút vốn đầu tư của vùng. Vùng có nguồn tài nguyên dồi dào, trữ lượng lớn thì sẽ là lợi thế của vùng. Về tài nguyên đất đai, vùng KTTĐ Bắc Bộ chủ yếu là đất phù sa, thích hợp để trồng các loại cây ăn quả. Có dải đất chuyển tiếp giữa miền núi trung du Bắc Bộ và vùng đồng bằng sông Hồng, thuận tiện cho việc phân bố các khu công nghiệp, khu chế xuất. Về tài nguyên khoáng sản, tuy vùng không có sự đa dạng về chủng loại khoáng sản, song các mỏ khoáng sản ở vùng lại có trữ lượng lớn và là nguồn khoáng sản quan trọng của nước ta. Vùng có bể than lớn nhất cả nước ở Quảng Ninh với trữ lượng lớn chiếm đến 98% trữ lượng than của cả nước, có cao lanh ở Bắc Ninh là nguồn nguyên liệu để sản xuất gốm sứ, chiếm 40% trữ lượng cả nước. Đặc biệt, vùng còn có mỏ dầu khí với trữ lượng lớn ở ngoài khơi Hải Phòng vừa được phát hiện, làm phong phú thêm nguồn khoáng sản của vùng. Ngoài ra, còn có đá vôi là nguyên liệu cho công nghiệp chế biến vật liệu xây dựng, chiếm 20% trữ lượng cả nước. Tất cả khoáng sản trong vùng đã tạo tiền đề thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư phát triển vào vùng đặc biệt là vốn FDI. Điều kiện kinh tế xã hội 1.2.1. Dân số và nguồn nhân lực của vùng Nguồn nhân lực là yếu tố đầu vào quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của vùng. Nguồn nhân lực càng dồi dào, chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư đầu tư vào vùng. Vùng KTTĐ Bắc Bộ có thế mạnh nổi trội về nguồn nhân lực, tập trung lượng dân khá đông, nguồn nhân lực dồi dào. Vùng là nơi có nguồn nhân lực có trình độ cao nhất cả nước.. Số lao động đã qua đào tạo của vùng chiếm 35% lao động cả nước và tập trung nhiều nhất các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, cơ sở dạy nghề được coi là cao nhất trong 3 vùng KTTĐ, lao động của vùng được coi có trình độ cao hơn so với các vùng khác. Nguồn nhân lực của vùng chiếm khoảng 16.34% dân số cả nước. Trong đó, Hà Nội là thành phố đông dân nhất, trên 3 triệu dân. Tám tỉnh thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ có nguồn nhân lực dồi dào, năng suất lao động khá cao, chất lượng đào tạo nhân lực cao nhất cả nước. Đây là điều kiện thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, giúp vùng có khả năng thu hút vốn đầu tư FDI. Bảng 1: Cơ cấu lao động theo trình độ của 3 vùng KTTĐ Đơn vị: % Vùng KTTĐ Bắc Bộ Vùng KTTĐ Miền Trung Vùng KTTĐ phía Nam Cả nước Trung học chuyên nghiệp 23,4 6,6 12,6 100 Cao đẳng, ĐH và trên ĐH 30,5 8,5 22,6 100 1.2.2. Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng của vùng vừa thể hiện mức độ phát triển của vùng nhưng đồng thời cũng tác động đến khả năng thu hút vốn đầu tư Cơ sở hạ tầng bao gồm những yếu tố thuộc về tài sản vật chất như: đường sá, cầu cống, trường trạm, khu chế xuất, khu công nghiệp… phục vụ cho quá trình sản xuất Giao thông trong vùng rất phát triển. Vùng có sân bay quốc tế Nội Bài, Cát Bi, sân bay ở Quảng Nin; đường quốc lộ lớn: quốc lộ 1A, quốc lộ 5…các cảng biển lớn như: cảng Hải Phòng và cảng Cái Lân hoạt động với công suất lớn… giúp cho việc vận chuyển hàng hóa nhanh nhất và chi phí thấp nhất, làm giảm chi phí sản xuất cho các nhà sản xuất và tạo lợi nhuận lớn. 1.2.3 Bối cảnh quốc tế và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước Hiện nay xu thế mà các quốc gia đang hướng đến là hòa bình, ổn định, hợp tác để phát triển. Khu vực kinh tế châu Á – Thái Bình Dương là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do thương mại sẽ được đẩy mạnh, đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng được mở rộng. Xu thế này sẽ làm dịch chuyển nguồn vốn đầu tư từ nước này sang nước khác, từ vùng này sang vùng khác. Việc nước ta mở cửa hội nhập với nền kinh tế quốc tế mà đặc biệt là Việt Nam gia nhập WTO có tác động mạnh mẽ đến tình hình thu hút vốn đầu tư vào nước ta nói chung và vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng. Khi trở thành viên của WTO thì các khuôn khổ chính sách đầu tư sẽ có tính bền vững hơn, bên cạnh đó là một thị trường mở góp phần làm cho hệ thống chính sách cũng như luật pháp của nước ta phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Đây chính là điều mà các nhà đầu tư mong muốn và họ sẽ đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời việc gia nhập WTO cũng làm đa dạng hóa các nhà đầu tư vào vùng cũng như đa dạng hóa các ngành nghề, và lĩnh vực thu hút đầu tư vào vùng. Vùng sẽ thu hút đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng mà trước đây chưa khuyến khích các nhà đầu tư như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng 2. Nhân tố không thuận lợi Bên cạnh những nhân tố thuận lợi, vùng còn tồn tại những điểm hạn chế và chính những điều này đã làm hạn chế khả năng thu hút FDI vào phát triển kinh tế của vùng Thứ nhất, mặc dù vùng tập trung nguồn lao động khá đông, nhưng vẫn diễn ra tình trạng lao động thiếu tay nghề cao, phong cách và thói quen làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài. Người lao động vẫn chưa thực sự làm quen với tác phong công nghiệp, tư tưởng và phương thức làm việc vẫn mang nặng tư tưởng của nông dân. Thứ hai, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, thô sơ chưa xứng với yêu cầu phát triển của vùng.Vùng còn thiếu nhiều các đường cao tốc nối liền Hà Nội với các tỉnh lân cận. Ví dụ, 6 trục giao thông xuyên tâm của Hà Nội còn kém, chưa có trục nào là đường cao tốc, các cửa ngõ ra vào thành phố liên tục bị ùn tắc. Hệ thống cảng biển phục vụ xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế. Cảng Hải Phòng mỗi năm bốc xếp 14 triệu hàng hóa, đã đạt đến ngưỡng và hoạt động hết công suất. Trong tương lai, khi nhu cầu tăng lên hàng chục, hàng trăm triệu tấn mỗi năm thì hệ thống cảng biển hiện nay của vùng sẽ trở nên quá tải. Thứ ba, việc gia nhập WTO cũng có những tác động bất lợi tới khả năng thu hút vốn FDI vì nó đặt nền kinh tế trước sự cạnh tranh mạnh mẽ với các nước trong khu vực và các nước thành viên của._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5980.doc
Tài liệu liên quan