Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hải Dương

Lời nói đầu Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, tỉnh Hải Dương đã bước đầu đạt được những thành tựu khá quan trọng: tốc độ phát triển kinh tế khá cao, đời sống nhân dân được cải thiện từng bước, nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa đã đem lại những nét mới cho kinh tế tỉnh. Trong thời gian qua, lãnh đạo tỉnh đã thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ trong việc sắp xếp, đổi mới các DNNN, khuyến khích doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển t

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rên mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề. Thời gian qua, Chi nhánh NHCT Hải Dương đã có những đóng góp cụ thể, tích cực trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, được lãnh đạo tỉnh đánh giá là một nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế toàn tỉnh. Nguồn vốn của chi nhánh đã thực sự góp phần quan trọng giúp các doanh nghiệp trên địa bàn khắc phục khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư cho SX-KD. Từ năm 1998-2002, cơ cấu nguồn vốn cho vay của chi nhánh đã có sự thay đổi theo hướng tăng tỉ trọng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mở rộng cho vay đối với DNNN làm ăn có hiệu quả. Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Hải Dương, em thấy hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn một số tồn tại cần khắc phục để hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể mở rộng hơn nữa, tương xứng với tiềm năng phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại địa phương cũng như khả năng cho vay của chi nhánh. Ngoài ra, việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh của chi nhánh trong thời gian tới là một đòi hỏi cấp thiết đặt ra cho chi nhánh trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vì vậy, em quyết định chọn đề tài : Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh NHCT Hải Dương. Để nhận rõ được những tồn tại trong việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, em đã kết hợp thu thập số liệu, xử lí số liệu, phân tích số liệu thực tế và phân tích lí thuyết để từ đó đưa ra những giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh. Đề tài được chia thành 3 chương: Chương I: Hoạt động cho vay và vai trò của hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh của chi nhánh NHCT Hải Dương. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hải Dương. Hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn cô Vũ Thị Ngà- Giám đốc Chi nhánh NHCT Hải Dương, anh Lê Văn Nhuận- Trưởng phòng Kinh doanh NHCT Hải Dương, cùng toàn thể cán bộ tín dụng tại phòng Kinh doanh của Chi nhánh NHCT Hải Dương, Thầy giáo Lục Diệu Toán- Vụ trưởng Vụ Tài chính- Kế toán Bộ Khoa học- Công nghệ, giáo viên hướng dẫn, các thày cô giáo khoa Ngân hàng-Tài chính trường Đại học KTQD Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Hải Dương, ngày 07 tháng 05 năm 2003 Sinh viên Đoàn Mạnh Vinh. Chương I Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường 1.1. tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 1.1.1.khái niệm tín dụng ngân hàng: Tín dụng được hiểu chung là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của lẫn nhau một cách tạm thời, dựa trên nguyên tắc hoàn trả lãi và gốc vay và sự tin tưởng. Tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. Tín dụng được hiểu theo nghĩa trên bao gồm khá nhiều loại hình khác nhau nhưng để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, chuyên đề này sẽ đi sâu nghiên cứu một hình thức tín dụng duy nhất đó là tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng (từ đây được gọi tắt là tín dụng) là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay tiền vừa là người cho vay tiền. Các chủ thể ở đây bao gồm có: Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân, các quỹ tín dụng, các ngân hàng khác. Đối tượng của tín dụng là tiền tệ. Tín dụng đáp ứng được hầu hết nhu cầu vốn của các chủ thể mà nó phục vụ. Chu kì vận động của tín dụng ngắn thông qua phương trình T-T’ (Tiền- Tiền). Tín dụng không bị giới hạn về chiều vận động, về quy mô- nó có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau để cho vay. Tín dụng có khả năng thích ứng cao với nhiều nhu cầu khác nhau về vốn. 1.1.2.Sự cần thiết của tín dụng : Đối với khách hàng của NHTM: Khách hàng của NHTM luôn cần tới nghiệp vụ tín dụng của NHTM để khắc phục sự chênh lệch về thời gian cũng như quy mô các nguồn vốn của mình. Khi các khách hàng của NHTM có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi do khách hàng trả tiền trước, được chậm trả đối với hàng hoá đầu vào, chưa đến kì thanh toán các khoản nợ... họ sẽ cần đến nghiệp vụ tín dụng như một biện pháp giúp mang lại sự an toàn và một mức lãi suất nhất định cho nguồn vốn đó. Việc gửi khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vào NHTM sẽ giúp cho khách hàng yên tâm về sự an toàn của vốn, đồng thời mang lại cho họ khoản lãi suất tiền gửi tại NHTM. Ngược lại, khi khách hàng của NHTM lâm vào tình trạng thiếu vốn do chưa thu được tiền hàng, phải đặt tiền trước để mua nguyên liệu đầu vào, phát sinh một số khoản chi ngoài dự toán... tín dụng của NHTM sẽ giúp họ có được giải pháp tốt để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời, duy trì hoạt động ổn định. Đây chính là một nguồn tài trợ phổ biến trong mọi nền kinh tế. Đối với nền kinh tế : Nền kinh tế nào cũng cần có tín dụng của NHTM để có thể hoạt động một cách liên tục. Nếu thiếu tín dụng, nền kinh tế sẽ mất đi một kênh dẫn vốn quan trọng trong nền kinh tế. Một số lượng lớn các chủ thể trong nền kinh tế sẽ bị thừa vốn, không tận dụng hết trong khi đó một bộ phận khác sẽ không có vốn để có thể tiếp tục hoạt động do bị thiếu vốn. Tín dụng giúp luân chuyển một cách kinh tế nhất các nguồn vốn từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn. Tín dụng còn giúp cho nền kinh tế có được một cơ cấu kinh tế hợp lí do thay đổi cơ cấu nguồn vốn đầu tư vào từng ngành, từng lĩnh vực. 1.1.3.Chức năng của tín dụng: Có hai chức năng cơ bản nhất của tín dụng đó là: huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi và cho vay đối với những nhu cầu về vốn; giúp kiểm soát bằng tiền đối với các hoạt động kinh tế. Huy động và tập trung những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho vay: Những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi có thể bao gồm: tiền tiết kiệm của dân cư, tiền mặt tại quỹ của doanh nghiệp do chưa phải thanh toán tiền hàng, tiết kiệm của chính phủ (tại một thời điểm nào đó), mức tăng trong nguồn vốn huy động của TCTD khác... Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đó khi được tập trung tại NHTM sẽ được cung cấp cho các nhu cầu vốn như: cung cấp cho các doanh nghiệp để ứng trước tiền hàng, cho vay các khoản chi tiêu của chính phủ, cho vay các hoạt động mua sắm của dân cư, bù đắp sự thiếu hụt trong nguồn vốn của các TCTD. Kiểm soát bằng tiền đối với các hoạt động kinh tế: Sử dụng tiền tệ để xây dựng thành các chỉ tiêu, các thước đo để tiến hành quản lí hoạt động của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo 2 chỉ tiêu: việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp là có hiệu quả; hợp pháp và hợp lệ. Do đối tượng của tín dụng là tiền tệ vì vậy thông qua tiền tệ tín dụng có thể thực hiện chức năng kiểm soát của mình. Quan hệ tín dụng dựa trên nguyên tắc của sự hoàn trả lãi và gốc món vay nên thông qua đó, các TCTD có thể thực hiện kiểm tra việc sử dụng vốn của đối tượng vay vốn. Ngược lại, các TCTD cũng sẽ bị các chủ thể khác trong nền kinh tế kiểm tra việc sử dụng vốn mà các TCTD huy động được. 1.2.Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. 1.2.1.Doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Hiện nay, Việt Nam bao gồm các thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên nếu chia theo hình thức sở hữu thì nền kinh tế Việt Nam bao gồm 2 loại hình doanh nghiệp chính: doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp nhà nước: DNNN là loại hình doanh nghiệp dựa trên sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất là chủ yếu, bao gồm các đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc về Nhà nước hoặc Nhà nước chiếm một phần khống chế. Kinh tế quốc doanh được xác định là TPKT đóng vai trò chủ đạo; làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề về xã hội, mở đường, hướng dẫn, liên kết hỗ trợ các TPKT khác cùng tồn tại và phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lí vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Bao gồm toàn bộ những đơn vị kinh tế manh hình thức sở hữu phi Nhà nước về tư liệu sản xuất, những đơn vị kinh tế này dựa trên cơ sở do tư nhân (bao gồm 1 hoặc 1 tập thể các cá nhân) bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức, nhằm mục đích chủ yếu là lợi nhuận và chịu sự chi phối của các chủ đầu tư. Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này rất đa dạng, tạo ra các TPKT khác nhau như kinh tế cá thể, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân và được tổ chức dưới hình thức: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh, hợp tác xã, cá nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hộ gia đình... 1.2.2.Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với sự phát triển kinh tế. Trong hơn 10 năm qua, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự đồng tình hưởng ứng nhiệt tình của nhân dân, doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước; đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm; cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam .... Nghiên cứu hoạt động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong mối quan hệ với khu vực kinh tế quốc doanh, ta sẽ thấy rõ vai trò quan trọng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Cụ thể là : Thứ nhất, doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và ổn định trong tổng sản phẩm quốc nội (khoảng 50% GDP ), tạo lên nguồn tài chính cho Nhà nước nhằm phục vụ nhiều mục tiêu kinh tế- xã hội quan trọng. Thứ hai, trong những năm qua, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bên cạnh khối DNNN đã thiết lập một nền kinh tế sôi động hơn, sự cạnh tranh trở lên quyết liệt hơn, thị trường hàng hoá phong phú, chất lượng cao, góp phần không nhỏ vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế 7% trong vài năm qua. Thứ ba, doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần tập trung vốn của xã hội tạo cơ sở vật chất ban đầu cho nền kinh tế, sự hình thành doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện tập trung những bộ phận kinh tế nhỏ lẻ trở thành các hợp tác xã, các doanh nghiệp. Thứ tư, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một khu vực kinh tế có tiềm năng lớn của đất nước. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam mới được khôi phục và còn ở trình độ phát triển thấp nên có nhiều khả năng chưa được khai thác, còn nằm ở dưới dạng tiềm năng. Thứ năm, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có nhiều đóng góp vào quá trình lành mạnh hoá hoạt động kinh tế. Bởi các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường gắn liền với sự quản lí trực tiếp của chủ sở hữu, nên trong các quyết định quản trị có sự cân nhắc cẩn thận, cũng như sự ổn định trong nội bộ,ít có hiện tượng quan liêu, cửa quyền. Thứ sáu, doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp một phần đáng kể trong việc tăng cường thu cho Ngân sách Nhà nước. Thuế là nguồn thu chính của Ngân sách Nhà nước, nguồn này sẽ được dùng cho lợi ích chung của quốc gia. Thứ bảy, mục đích chính của các nhà doanh nghiệp thuộc doanh nghiệp ngoài quốc doanh là lợi ích kinh tế, tuy nhiên sự hình thành và phát triển của nó đã tạo ra không ít những lợi ích xã hội và một trong những tác động đó là sự góp phần đáng kể của nó vào việc giải quyết công ăn việc làm. Thứ tám, doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, tăng tỉ trọng dịch vụ, công nghiệp nhẹ trong tổng GDP cả nước, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, thúc đẩy cạnh tranh, tăng thêm số lượng công nhân và doanh Việt Nam. Cuối cùng, một vai trò đặc biệt của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với riêng ngành Ngân hàng, đó là doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang trở thành một trong những thị trường vốn tín dụng rộng lớn, đầy tiềm năng. Với sự phát triển ngày càng mạnh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì nhu cầu về vốn sẽ ngày càng tăng, như vậy tạo thị trường có tiềm năng lớn cho các nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng như huy động tiền gửi, cho vay, thanh toán... Tuy nhiên, trên thực tế thật đáng tiếc là các NHTM hiện nay còn ngần ngại khi lựa chọn doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm khách hàng, đặc biệt là trong hoạt động cho vay . 1.2.3.Đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phân bố không đều trên các vùng và các ngành kinh tế. Trên 70 % số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn như : Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai... Trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các NH cổ phần còn hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô SX-KD nhỏ hẹp. Phần nhiều các doanh nghiệp được thành lập mang tính tự phát, đa số hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, khách sạn ( chiếm 50-70%); trong lĩnh vực công nghiệp chiếm 10-20%; trong lĩnh vực xây dựng chiếm 2-6%; trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở, khai thác và phân phối điện... chiếm từ 0,5-1%; còn lại là trong lĩnh vực tài chính, tín dụng. Cơ sở sản xuất cuả đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều bị phân tán, manh mún, thường phải sử dụng đất ở, nhà ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng SX-KD; cùng với tình trạng trang thiết bị kĩ thuật lạc hậu nên cơ sở sản xuất của doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường gây ô nhiễm, gây ra những khiếu kiện, làm cho doanh nghiệp khó mở rộng SX-KD. Khả năng tài chính còn yếu. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì vốn sử dụng vào SX-KD của 1 hộ phi nông nghiệp là 29,78 triệu đồng; của 1 trang trại là 94 triệu đồng; của 1 doanh nghiệp phi nông nghiệp là 3,7 tỉ đồng. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn tại các NHTM và vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước tại Quỹ hỗ trợ phát triển còn ít và chiếm tỉ trọng thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển SX-KD. Thiếu thông tin về sản phẩm, giá cả, nhu cầu thị hiếu thị trường. Mặc dù là khối kinh tế năng động, phản ứng nhanh nhạy với sự thay đổi của thị trường nhưng do nền kinh tế của Việt Nam còn thiếu nhiều yếu tố của 1 nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh trong đó có vấn đề về thông tin thị trường nên sự nắm bắt thông tin của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Thị trường hẹp, bấp bênh, nhiều rủi ro. Đây là điều dễ nhận thấy ở các doanh nghiệp như DNTN, Cty TNHH, HTX, kinh tế hộ... Hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mua nguyên vật liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra ngay tại thị trường địa phương và dựa vào mạng lưới quan hệ cá nhân.. 1.2.4. Xu hướng phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Qua nghiên cứu hoạt động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nghiên cứu tình hình thị trường, tình hình kinh tế Việt Nam những năm qua và định hướng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới... chúng ta có thể nhận định một số xu hướng phát triển chính của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong thời gian tới như sau: Chính sách mở cửa nền kinh tế, chính sách tạo điều kiện bình đẳng giữa các TPKT sẽ tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng. Trong điều kiện tiếp xúc với thị trường bên ngoài với kĩ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến, mô hình tổ chức và phương pháp quản lí mới, hiện đại... thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ có nhiều ưu thế hơn vì đây được coi là khu vực kinh tế năng động nhất trong nền kinh tế. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang có những chuyển biến mạnh mẽ, góp phần ngày càng lớn vào sự phát triển của đất nước nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của TPKT này, nhiều khi sự phát triển còn mang tính tự phát, vì vậy trong thời gian tới, doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần được hướng dẫn, tạo điều kiện để phát triển đúng hướng, có hiệu quả. Đặc biệt, một xu hướng mang tính chất vừa là cơ hội vừa là thách thức cho hệ thống Ngân hàng đó là, trong thời gian tới doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ cần một khối lượng lớn vốn tín dụng cả trong ngắn hạn cũng như tín dụng dài hạn.Trong thời gian tới, buôn bán dịch vụ, thương mại, sản xuất của doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ phát triển mạnh, đây sẽ là một đối tượng khách hàng quan trọng trong tương lai gần của hệ thống NHTM. 1.2.5.Đường lối của Đảng trong phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các TPKT kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế cá thể, tiểu chủ được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất không bị pháp luật cấm" ... Nghị quyết Đại hội IX cũng đề ra một số nhiệm vụ, chủ trương chính sách chủ yếu trong thời kì tới như sau để phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh : Thứ nhất, thống nhất các quan điểm chỉ đạo phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà cụ thể hơn là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh là chiến lược lâu dài trong chiến lược phát triển chung của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Thứ hai, tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lí xã hội cho sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thời gian tới sẽ sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các TPKT. Sửa đổi, bổ sung một số quy định theo hướng vừa tạo thuận lợi vừa chặt chẽ trong cấp đăng kí kinh doanh, theo yêu cầu "một cửa- một dấu" , nghiên cứu, rà soát lại, bãi bỏ những giấy phép, chứng chỉ hành nghề không cần thiết, gây khó khăn cho đăng kí kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp. Làm tốt công tác phổ biến tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cổ vũ và biểu dương kịp thời những doanh nhân, đơn vị sản xuất, kinh doanh làm ăn có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước, bảo đảm lợi ích cuả người lao động.... Thứ ba, sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách bảo đảm sự bình đẳng giữa các TPKT về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát triển. Chú trọng tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một số chính sách sẽ được sửa đổi bổ sung là: Chính sách đất đai; chính sách tài chính, tín dụng; chính sách lao động- tiền lương; chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ; chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại... Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lí Nhà nước. Xác định rõ chức năng quản lí Nhà nước đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính phủ giao cho một cơ quan làm đầu mối ở TƯ, UBND các tỉnh giao cho một cơ quan đầu mối ở địa phương để phối hợp theo dõi, tổng hợp tình hình, phát hiện và đề xuất những biện pháp tháo gỡ khó khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội doanh nghiệp với việc phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các cấp uỷ đảng có trách nhiệm quán triệt và phổ biến sâu rộng trong Đảng và nhân dân về quan điểm của Đảng đối với sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoàn thiện về công tác tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.3.Cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Mặc dù từ đầu chuyên đề, tín dụng vẫn được nhắc đến bao gồm cả hai hoạt động là huy động vốn và cho vay của các chủ thể kinh tế. Nhưng để phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thiện chuyên đề, từ đây em xin đề cập đến tín dụng ngân hàng trên góc độ việc NHTM cho vay đối với các chủ thể trong nền kinh tế mà cụ thể là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.3.1.Cho vay và mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh được hiểu là hoạt động mà các NHTM cung cấp cho khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng 1 khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh được hiểu là quá trình mà các NHTM tìm kiếm các cơ hội và các nguồn lực trong nền kinh tế để tiến hành cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng nhiều với quy mô ngày càng tăng. Trong tình hình hiện nay thì việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang trở thành vấn đề rất cấp bách đối với hệ thống Ngân hàng khi mà Nhà nước ta đang đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN, giảm số lượng doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo sự bình đẳng giữa kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sửa đổi và ban hành mới hàng loạt cơ chế chính sách hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.3.2. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Thông qua nghiên cứu hoạt động cho vay cuả NHTM và nghiên cứu tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ta có thể thấy nguồn vốn của các NHTM đã và đang là nguồn quan trọng cung cấp lượng vốn khá lớn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh : Thứ nhất, món vay từ NH đảm bảo cho quá trình hoạt động SX-KD của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh diễn ra liên tục và mở rộng quy mô hoạt động. NH có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho doanh nghiệp với thời hạn có thể từ vài ngày đến nhiều năm theo yêu cầu của doanh nghiệp, làm cho quá trình SX-KD cuả doanh nghiệp không bị ngưng trệ. Hơn nữa, khi doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường, cải tiến trang thiết bị kĩ thuật... thì sự giúp đỡ về vốn của NH lúc đó là cần thiết. Thứ hai, món vay từ NH góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Với một nguyên tắc cơ bản khi đi vay là người vay phải trả gốc và lãi vay trong một thời gian nhất định, nếu để quá hạn không trả được vốn vay thì doanh nghiệp phải chịu tổn thất về kinh tế do phạt lãi quá hạn và mất lòng tin của NH. Do đó doanh nghiệp phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ quay vòng vốn, làm ăn có lãi để khi hết thời hạn vay có thể chi trả lãi, gốc và những chi phí khác. Khi vay vốn, NH cho vay yêu cầu khách hàng phải thực hiện sử dụng vốn vay đúng mục đích và NH sẽ thực hiện giám sát quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Thêm vào đó, để thu hồi vốn và thu được lãi vay, đôi khi NH còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Hoạt động cho vay của NH không phải là việc rải đều vốn cho tất cả các khách hàng có nhu cầu mà chủ yếu tập trung cho những khách hàng làm ăn có hiệu quả nhằm tránh rủi ro cho NH. Chính vì vậy muốn tăng vốn, các doanh nghiệp không thể chỉ đi vay bừa bãi mà không chịu trách nhiệm về việc sử dụng vốn vay. Đây là một động lực thúc đẩy doanh nghiệp luôn cố gắng làm ăn có hiệu quả hơn. Thứ ba, món vay từ NH góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp. Hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự có để sản xuất kinh doanh vì không những làm hạn chế khả năng mở rộng sản xuất mà còn làm tăng chi phí vốn. Ngày nay, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường ưa thích sử dụng vốn vay hơn vì ba lí do là: thứ nhất, việc sử dụng vốn vay để kinh doanh giúp chủ sở hữu chuyển một phần rủi ro trong sản xuất cho NH; thứ hai, đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì bằng việc vay vốn chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền điều hành doanh nghiệp; cuối cùng, chi phí trả lãi vay được tính trong chi phí hợp lí, hợp lệ khi tính thuế thu nhập, do đó doanh nghiệp được hưởng một phần tiết kiệm từ thuế. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá cao dễ dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán, phá sản. Do vậy, doanh nghiệp phải xác định một cơ cấu vốn tối ưu để vừa vận dụng vốn vay có hiệu quả nhưng phải tránh được rủi ro trong thanh toán. Thứ tư, quan hệ cho vay giữa NH và doanh nghiệp ngoài quốc doanh càng phát triển lâu dài thì cũng tạo điều kiện để phát triển các mối quan hệ khác như quan hệ trong hoạt động thanh toán, bảo lãnh... NH là tổ chức trung gian của nền kinh tế, do vậy mà NH có rất nhiều mối quan hệ với nhiều ngành nghề trên nhiều lĩnh vực, nhiều TPKT khác nhau. Thông qua quan hệ tín dụng, NH có thể cung cấp, tư vấn cho khách hàng vay vốn nhiều thông tin bổ ích hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Tóm lại, tín dụng NH đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho các TPKT ngoài quốc doanh, tạo cơ sở vật chất cho các thành phần này đủ điều kiện liên doanh hợp tác kinh tế với các tổ chức kinh tế nước ngoài và các tổ chức kinh tế lớn hơn, khai thác lợi thế của họ về kinh nghiệm sản xuất, quản lí, khoa học công nghệ, kĩ thuật. 1.3.3.Nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng chúng ta có thể khái quát thành những nhóm nhân tố chính sau đây: Nhân tố khách quan: được hiểu là nhóm nhân tố thuộc về môi trường bên ngoài hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh hay đơn giản hơn thì nó là những nhân tố thuộc về môi trường bên ngoài so với các NHTM và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhóm nhân tố này bao gồm: *Môi trường pháp lí: đây chính là các cơ chế chính sách, luật, quy định... của Nhà nước nhằm tác động, điều chỉnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh của các NHTM. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế thì môi trường pháp lí về hoạt động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, tạo điều kiện phát triển không ngừng cho doanh nghiệp. Nếu như trước đây, chế độ cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh được quy định trong Quyết định số 18/NH- QĐ ngày 27/04/1988 của Thống đốc NHNN Việt Nam thì nay đã không có sự phân biệt giữa khu vực kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001, quy định việc cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không phân biệt khách hàng thuộc TPKT nào, thuộc Nhà nước hay không thuộc Nhà nước. Điều này thể hiện chủ trương, quan điểm của Đảng: mọi TPKT trong nền kinh tế thị trường đều có quyền tự do kinh doanh nhưng phải đảm bảo việc tuân thủ pháp luật. *Môi trường kinh tế: đây là môi trường sống của doanh nghiệp, bao gồm các yếu tố như giá cả, cung- cầu, sự cạnh tranh... Những yếu tố này luôn thay đổi và có nhiều tác động tới cả các NHTM và cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đây chính là nhân tố thể hiện sự phát triển, ổn định hay biến động của nền kinh tế. Tình trạng của nền kinh tế (phát triển hay suy thoái) luôn có ảnh hưởng tới nhu cầu vay vốn NH, ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Sau hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế đất nước đã có những chuyển biến mạnh mẽ, mọi TPKT được khuyến khích phát triển bình đẳng với kinh tế Nhà nước. Nền kinh tế mở cửa giao lưu với bên ngoài đã phần nào giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với khoa học và công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lí khoa học... góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Trong suốt thời gian đổi mới, nền kinh tế luôn trong xu hướng tăng trưởng khá, hàng hoá phong phú đa dạng, cung cầu có sự chuyển biến theo các quy luật của kinh tế thị trường. Cùng với sự đổi mới nền kinh tế đất nước, Nhà nước ta cũng đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình cổ phần hoá các DNNN, điều này đồng nghĩa với việc làm giảm số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn, tăng số lượng các doanh nghiệp dân doanh, Nhà nước sẽ không còn là “ bầu sữa “ cho các DNNN của mình nữa. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự tìm cách huy động vốn trong khuôn khổ pháp luật không cấm. Đây chính là cơ hội tốt cho các NHTM trong việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng. *Môi trường xã hội: đây là nhân tố thể hiện sự nhận thức, quan điểm của xã hội về các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nó thể hiện tâm lí xã hội, sự ủng hộ hoặc phản đối sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Có thể nói trong thời gian qua, nhận thức cuả xã hội đã có nhiều thay đổi trong quan điểm về sự tồn tại của các TPKT ngoài quốc doanh. Hiện nay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhận được nhiều sự ủng hộ lớn lao do sự phát triển của nó mang lại cho nền kinh tế những điều mà từ lâu kinh tế Nhà nước không mang lại được. Sự năng động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh chính là phần cốt lõi quyết định sự năng động của nền kinh tế và chính sự năng động này giúp chúng ta phần nào yên tâm hơn khi bước vào tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Đây cũng là khu vực kinh tế không chỉ được Đảng, Nhà nước ta và toàn dân quan tâm mà còn cả hệ thống NH. Hệ thống NH đã có những thay đổi theo hướng coi trọng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, điều mà các NH thực hiện rất hạn chế trong thời kì bắt đầu đổi mới. Nhân tố chủ quan: đây chính là những nhân tố nằm trong hai đối tượng chính của hoạt động cho vay._. doanh nghiệp ngoài quốc doanh đó là: các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các NHTM. *Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Đây chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (90% doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp ngoài quốc doanh ), có quy mô vốn nhỏ, số lượng lao động không lớn. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề, nhu cầu vốn tuy nhỏ đối với từng đơn vị nhưng lại rất lớn đối với nền kinh tế. Tuy nhiên khu vực này lại hạn chế về khả năng tích luỹ vốn, ít có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. Đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng công nghệ cũ, chất lượng sản phẩm thấp, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm... như vậy nhu cầu đổi mới trang thiết bị để tiến lên bán tự động và tự động hoá của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn, đòi hỏi một lượng lớn vốn đầu tư, đặc biệt khi chúng ta đang phải nhanh chóng cải thiện và tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước để có thể đứng vững và phát triển trước những thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn thiếu các phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả để từ đó có thể thuyết phục các cán bộ tín dụng trong việc xét duyệt các đơn xin vay. Trình độ quản lí của các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn yếu kém, điều đó có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và đôi khi những tổn thất của Ngân hàng là xuất phát từ phía người sử dụng vốn khi người vay vốn dùng vốn sai mục đích, làm ăn phi pháp, biển thủ vốn vay, không muốn trả nợ NH... gây khó khăn cho việc thu nợ cuả NH. *Đối với NHTM: có thể nhận thấy một số nhân tố bên trong NHTM có ảnh hưởng tới hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh như sau: Đội ngũ cán bộ tín dụng NH: Đây là lực lượng trực tiếp tiếp xúc và cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Dưới con mắt của khách hàng thì cán bộ tín dụng chính là hình ảnh của NH vì vậy phong cách giao tiếp với khách hàng là một yếu tố quan trọng trong việc thu hút khách hàng mới cho NH. Hoạt động của đội ngũ này quyết định mức dư nợ tín dụng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bởi trình độ của đội ngũ này là yếu tố quan trọng đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ một cách nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong mọi tình huống. Trong điều kiện cạnh tranh của hệ thống NHTM đang có xu hướng tăng như hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ tín dụng phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cường công tác tiếp xúc với khách hàng để tìm hiểu, và đáp ứng nhu cầu vay vốn của từng đối tượng khách hàng cụ thể từ đó góp phần mở rộng cho vay đối với mọi TPKT, đặc biệt là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn vốn của NHTM: đây là nhân tố quyết định đến khả năng cho vay của NH bởi NH là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực “ đi vay để cho vay“ . Quy mô của nguồn, chi phí của nguồn, thời hạn, tính lỏng của nguồn... sẽ là những yếu tố mà NH phải xem xét khi quyết định cho vay một khách hàng nào đó. Hoạt động cho vay phụ thuộc chặt chẽ vào hoạt động huy động vốn, vì vậy mà hai hoạt động này phải luôn đi song song với nhau, hỗ trợ nhau hay. NH phải biết kết hợp hai hoạt động này để nâng cao hiệu quả hoạt động của NH. Dự đoán trong thời gian tới nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn trong khi nguồn ngắn hạn đang chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn của các NHTM. Điều này đòi hỏi các NHTM phải có chính sách thu hút vốn hợp lí về cả quy mô và cơ cấu các nguồn vốn, tránh tình trạng dùng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn như hiện nay. Chính sách cho vay của các NHTM: Nhân tố này bao gồm hạn mức cho vay, kì hạn các khoản vay, lãi suất các khoản vay, các loại cho vay... Chính sách cho vay đối với từng đối tượng khách hàng có ảnh hưởng trực tiếp tới nhu cầu vay, mức vay, thời hạn vay... của từng khách hàng. Chính sách cho vay được các NHTM xây dựng phù hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện kinh doanh, mục tiêu kinh doanh trong từng thời kì mà NH có những chính sách cho vay cụ thể từ đó quy định hoạt động cho vay của từng cán bộ tín dụng, quyết định chính sách cạnh tranh của từng NHTM. Có thể thấy sự thay đổi trong chính sách cho vay của NHTM sẽ có những ảnh hưởng tới hoạt động SX-KD của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Quy trình cho vay: Là tập hợp những nội dung, kĩ thuật, nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc món vay. Quy trình cho vay bao gồm các bước: lập hồ sơ đề nghị cho vay, phân tích tín dụng( phân tích tài chính và phi tài chính), ra quyết định cho vay, giải ngân, giám sát, thu nợ và thanh lí hợp đồng tín dụng. Đây là các bước không thể thiếu trong quá trình cho vay của NHTM, chúng đảm bảo cho hoạt động cho vay của NH có thể tiến hành một cách thuận lợi, tránh được những rủi ro cho các NHTM, đảm bảo cho món vay được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả... Điều này rất quan trọng đối với hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh bởi chúng có chu kì sản xuất thường xuyên thay đổi. Vì một lí do nào đó doanh nghiệp có thể chưa trả được nợ hay chưa có nguồn trả nợ... Nếu NH không có quy trình cho vay cụ thể, chi tiết và được thực hiện nghiêm túc sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu nợ của NH. Cở sở vật chất, trang thiết bị của NHTM: là yếu tố không chỉ gây ảnh hưởng tới hoạt động cho vay của NH mà con ảnh hưởng tới các mặt hoạt động khác của NH. Trang thiết bị hiện đại có thể giúp NH thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng, chính xác như việc ứng dụng tin học vào quản lí khách hàng. Ngoài ra trang thiết bị của NH còn là một nhân tố chiếm lòng tin của khách hàng từ đó thu hút thêm nhiều khách hàng mới cho NH. 1.3.4. Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng. Có thể nhận thấy là hiện nay, đã không còn sự phân biệt giữa kinh tế Nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quy định về hoạt động cho vay của các TCTD. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN Việt Nam đã cho thấy điều đó. Khách hàng của TCTD: là đối tượng vay vốn tại các TCTD, bao gồm: các pháp nhân và cá nhân Việt nam (DNNN, HTX, Cty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh); các cá nhân và pháp nhân nước ngoài. Có thể thấy, khách hàng của các TCTD giờ đây đã không có sự phân biệt giữa các TPKT, trong hay ngoài Nhà nước, các TPKT được nhìn nhận một cách bình đẳng trong hoạt động cho vay của các TCTD. Điều kiện vay vốn: khách hàng có đủ các điều kiện sau đây được vay vốn tại các TCTD: Có đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt nam. Để được vay vốn, đơn vị xin vay phải gửi đến NH đơn xin vay, luận chứng kinh tế kĩ thuật và dự toán đã được thẩm định và cấp trên phê duyệt và các báo cáo tài chính của mình trong một vài năm trước. Ngoài ra họ phải gửi đến NH bản tính toán hiệu quả của dự án, có tính toán đầy đủ các số tiền xinvay, các nguồn trả nợ và lệnh trả nợ. NH cho vay sẽ xem xét kỹ các tài liệu nhằm đánh giá đầy đủ khả năng của đơn vị vay vốn trước khi quyết định cho vay. Việc đánh giá sẽ được thể hiện trên các mặt: tình hình tài chính của doanh nghiệp ở hiện tại và tương lai; khả năng sinh lợi của dự án; dự toán các luồng tiền; thẩm định chi tiết về thị trường sản phẩm mà dự án sẽ cung cấp; thẩm định về số lượng, giá cả và khả năng cạnh tranh của dự án. Thời hạn cho vay: là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách hàng. TCTD và khách hàng căn cứ vào chu kỳ SX-KD, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của TCTD để thoả thuận về thời hạn cho vay. Đối với các pháp nhân Việt nam và nước ngoài, thời hạn cho vay không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép hoạt động tại Việt nam. Thời hạn cho vay ngắn hoặc dài hơn quá nhiều so với thời gian khấu hao, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, không phù hợp với chu kỳ SX-KD của doanh nghiệp đều ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng và mang lại rủi ro tín dụng cho NH. Thời hạn cho vay thường bao gồm thời gian ân hạn (nếu có) và thời hạn trả nợ. Thời gian ân hạn được tính tương xứng với thời gian xây dựng công trình, thời gian lắp đặt máy móc và sản xuất thử. Thời gian trả nợ: tuỳ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị vay, tuỳ thuộc vào khả năng thu nhập của bên vay mà hai bên thoả thuận kỳ hạn trả nợ và số tiền trả nợ từng kỳ. Lãi suất cho vay: là giá cả của món vay và phải đảm bảo bù đắp được chi phí huy động, chi phí lợi tức mong đợi và khả năng rủi ro mất vốn, được lấy làm căn cứ tính mức lãi mà khách hàng phải trả cho TCTD khi món vay hết hạn. Mức lãi suất cho vay do TCTD và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của NHNN Việt nam. Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do TCTD ấn định và thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng. Lãi suất cho vay hiện nay không còn sự phân biệt giữa cho vay DNNN và cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đã tạo sự bình đẳng nhất định trong quan hệ cho vay của các TCTD đối với các TPKT. Điều này là một dẫn chứng cụ thể nhất cho quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho cả doanh nghiệp ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế Nhà nước. Thẩm định dự án đầu tư và phương án SX-KD: dự án đầu tư, phương án SX-KD là tập hợp những đề xuất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả tương ứng thu được trong một thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để SX-KD, dịch vụ, đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống. Muốn xem xét dự án có đủ tin cậy để cho vay hay không thì NH phải tiến hành thẩm định dự án đầu tư mà cơ sở của thẩm định dự án đầu tư là hồ sơ vay vốn của chủ doanh nghiệp. Khi tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn, NH cần chú ý thẩm định 2 nội dung: thẩm định chủ đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. Trong khâu thẩm định, NH cần nắm chắc phương diện tài chính của dự án nhằm xác định được đầy đủ hiệu quả của dự án thể hiện trên các chỉ tiêu: khả năng sinh lời, thời gian hoàn vốn và điểm hoà vốn. Thẩm định chủ đầu tư Mục đích của việc thẩm định chủ đầu tư là để xem xét chủ đầu tư có nguyện vọng vay cũng như khả năng trả nợ cho NH hay không. Khi thẩm định chủ đầu tư, NH cần xem xét các vấn đề sau đây: Xem xét về tư cách pháp nhân của chủ đầu tư để có thể biết chủ đầu tư có khả năng chịu trách nhiệm trước pháp luật hay không. Phân tích về uy tín của chủ đầu tư nhằm thấy được địa vị của chủ đầu tư. Uy tín của chủ đầu tư rất quan trọng vì những người chủ đầu tư có uy tín lớn thì họ sẵn sàng tìm mọi cách để trả nợ NH. Phân tích năng lực tài chính của chủ đầu tư nhằm thấy được khả năng cân đối các nguồn tiền của chủ đầu tư có thể sử dụng được khi cần thiết. Sau khi xem xét, phân tích khả năng tài chính, NH cần xem xét đến khả năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, sự tín nhiệm và năng lực sản xuất. Thẩm định dự án đầu tư Sau khi tiến hành thẩm định chủ đầu tư, NH tiến hành thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định phương diện thị trường: bước thẩm định này rất quan trọng đối với dự án sản xuất sản phẩm mới, mở rộng thị trường sản phẩm. Nghiên cứu thị trường nhằm giúp NH thấy được xu thế tương lai của sản phẩm mà dự án sản xuất ra, sản phẩm sản xuất ra có được thị trường chấp nhận hay không. Nghiên cứu khả năng tiêu thụ sản phẩm cùng loại trên thị trường trong thời gian qua, các hợp đồng bao tiêu sản phẩm cùng các văn bản giao dịch về sản phẩm như đơn đặt hàng, biên bản đàm phán... Nghiên cứu khả năng cạnh tranh: nghiên cứu các nhà sản xuất và sản phẩm nhập khẩu cùngloại, đồng thời đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm qua nghiên cứu thị trường. Thẩm định phương diện kĩ thuật: phân tích quy mô của dự án và công nghệ trang thiết bị nhằm thấy được sự phù hợp của dự án với sự tiêu thụ sản phẩm cũng như sử dụng trang thiết bị hợp lí. Thẩm định khả năng cung cấp nguyên liệu và các yếu tố đầu vào khác. Thẩm định phương diện tổ chức, quản lí thực hiện và vận hành dự án để có thể chọn được đơn vị thiết kế, thi công làm việc có hiệu quả nhất. Thẩm định tài chính dự án đầu tư: cán bộ tín dụng tiến hành phân tích các chỉ tiêu về mặt tài chính của dự án xin vay bao gồm khả năng trả nợ, sản lượng hoà vốn, điểm hoà vốn, NPV, IRR. Phân tích các trường hợp rủi ro có thể xảy ra đối với dự án: trường hợp sản lượng giảm, chi phí biến đổi tăng, các thay đổi về chính sách kinh tế của Nhà nước .... Các biện pháp bảo đảm tiền vay: Cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho NH nhưng cũng là lĩnh vực thường xuyên xuất hiện rủi ro mất vốn của NH. Mặc dù hoàn trả tín dụng không phải là mục đích kinh doanh của NH nhưng nó là cơ sở quan trọng nhất để thực hiện các mục tiêu kinh doanh của NH. Để đảm bảo thu hồi được nợ, NH phải xem xét thận trọng uy tín và năng lực của khách hàng từ đó áp dụng các phương pháp cho vay thích hợp. Những khách hàng được đánh giá là tốt, như có phẩm chất tốt trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, chấp hành tốt các hợp đồng tín dụng trong quá khứ và có triển vọng phát triển trong tương lai thì NH có thể cho vay đến một mức nào đó mà không cần tài sản bảo đảm. Ngược lại, nếu khách hàng không đạt được các tiêu chuẩn đó thì để hạn chế rủi ro buộc NH phải cho vay có bảo đảm. Bảo đảm tín dụng là thiết lập những cơ sở pháp lí để có thêm một nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất. Trong cho vay kinh doanh, nguồn thu thứ nhất là doanh thu đối với cho vay vốn lưu động hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và dài hạn để hình thành các tài sản cố định. Nguồn thu nợ thứ hai bao gồm giá trị tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Bảo đảm tín dụng được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nhìn chung có thể chia làm hai loại: bảo đảm đối vật và bảo đảm đối nhân. Bảo đảm đối vật bao gồm 2 hình thức chính là thế chấp và cầm cố. Đây là hình thức bảo đảm tín dụng trong đó NH đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không có khả năng trả nợ. Bảo đảm đối nhân là sự cam kết của một hoặc nhiều người về việc trả nợ NH thay cho khách hàng vay vốn khi người này không trả được nợ. Trong bảo đảm đối nhân có 3 chủ thể liên quan với nhau là: người đi vay, NH, người bảo lãnh. Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất đây không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên trong thời gian qua, các NHTM nước ta vẫn xếp bảo đảm tiền vay vào vị trí số một. Tư duy này đã dẫn đến việc xuất hiện hàng loạt các rủi ro trong cho vay của NH do dự án đầu tư không có hiệu quả, công tác định giá và xử lí tài sản thế chấp còn nhiều bất cập. Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 đã thực sự thay đổi, hoàn thiện về tư duy đảm bảo nợ: “Bảo đảm nợ chỉ là một giải pháp phòng ngừa nhằm tránh rủi ro khi người vay mất khả năng thanh toán chứ không phải là điều kiện tiên quyết để cấp tín dụng. Việc thẩm định phương án kinh doanh và thẩm định khách hàng trở thành tiêu chuẩn số một để quyết định đầu tư chứ không lệ thuộc chủ yếu vào tài sản cầm cố thế chấp, bảo lãnh“. Chính tư duy mới này đã tạo ra sự bình đẳng giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình vay vốn của NH. 1.3.5.một số Hạn chế và xu hướng hoàn thiện cơ chế cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN đã có sự thay đổi đáng kể trong cơ chế cho vay của các TCTD đối với khách hàng, đã thực sự tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong hoạt động vay vốn tại các TCTD. Thời gian tới, cơ chế cho vay cần hoàn thiện hơn nữa để thực sự trở thành một công cụ huy động vốn có hiệu quả của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những hạn chế của chính sách cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay: Thủ tục vay vốn còn phiền hà do không đủ tài sản thế chấp, độ tin cậy của doanh nghiệp đối với NH còn thấp, do những quy định chặt chẽ và phiền hà trong việc vay vốn. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay vẫn đang gặp nhiều rắc rối trong thủ tục mua đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nhiều trường hợp sự rắc rối phiền toái về thủ tục đất đai đã làm mất cơ hội đầu tư, SX-KD của doanh nghiệp. Việc xử lí tài sản thế chấp rất khó khăn, ngoài ra có xu hướng hình sự hoá quan hệ vay vốn, điều này dường như xuất phát từ dư âm của các vụ lừa đảo trong lĩnh vực NH liên quan đến việc cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do những hạn chế và khó khăn trong việc vay vốn NH nên phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải vay vốn từ các nguồn không chính thức (hay còn gọi là vay từ thị trường “ chợ đen ") với lãi suất cao, lượng vốn vay nhỏ lẻ và không ổn định. Đổi mới chính sách kinh tế vừa là một quá trình vừa tìm tòi, thử nghiệm, vừa sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, do đó việc tiếp tục đổi mới chính sách kinh tế mà cụ thể là chính sách cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một sự cần thiết khách quan. Để phát huy tối đa nội lực của đất nước, trong đó có lực lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh đòi hỏi chính sách cho đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải được đổi mới một cách tích cực, thiết thực, có hiệu lực và hiệu quả hơn nữa theo các hướng sau. Đa dạng hoá các hình thức cho vay vốn thực hiện lãi suất linh hoạt, thay đổi định mức và thời hạn cho vay, mở rộng các hình thức cho vay tín chấp, vay bảo lãnh. Xây dựng quan hệ bạn hàng giữa NHTM với doanh nghiệp khắc phục cơ chế “xin-cho" cửa quyền. Xác định rõ hướng cạnh tranh lành mạnh của các NHTM, tạo tâm lí chủ động, tự giác tìm kiếm bạn hàng là các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, không kể là trong hay ngoài khu vực Nhà nước. Cải tiến thu tục cho vay, giảm thiểu sự phiền hà nhưng vẫn bảo đảm an toàn vốn. Tài sản có thể thế chấp là đất đai và nhà cửa thì lại chậm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, nên các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về thế chấp. Hơn nữa cần bổ sung quy định giá đất thế chấp quyền sử dụng đất do hai bên thoả thuận. Tin tưởng rằng, với những đổi mới cần thiết và phù hợp trong cơ chế cho vay của các TCTD đối với khách hàng, đặc biệt là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong thời gian tới, khu vực kinh tế này sẽ phát triển hơn nữa, đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Chương II thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh của chi nhánh NHCT Hải Dương 2.1. Khái quát về Chi nhánh NHCT Hải Dương : 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển: Chi nhánh NHCT Hải Dương (Chi nhánh NHCT Hải Hưng trước đây) được thành lập từ tháng 8 năm 1988, trên cơ sở chuyển từ NHNN tỉnh Hải Hưng theo Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Chủ tịch HĐBT về việc chuyển hệ thống Ngân hàng sang hạch toán kinh doanh và hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp. Từ 8/1988, chi nhánh NHCT Hải Dương là một NHTM Nhà nước, thực hiện chế độ hạch toán phụ thuộc đặt dưới sự chỉ đạo của NHCT Việt Nam.Từ khi thành lập đến hết năm 1996 là Chi nhánh NHCT Hải Hưng, có 2 chi nhánh phụ thuộc là Chi nhánh NHCT Hưng Yên và Chi nhánh NHCT Nhị Chiểu. Ngày 17/12/1996, theo Quyết định số 12/HĐQT-QĐ của Chủ tịch HĐQT NHCT Việt Nam, chi nhánh NHCT Hải Dương được thành lập trên cơ sở giải thể chi nhánh NHCT Hải Hưng từ 31/12/1996, chi nhánh NHCT Hải Dương bắt đầu đi vào hoạt động từ 1/1/1997 với 01 chi nhánh phụ thuộc là chi nhánh NHCT Nhị Chiểu. Chi nhánh NHCT Hải Dương có 09 phòng ban trực thuộc trong đó có 07 phòng nghiệp vụ và 02 phòng giao dịch, chi nhánh có 151 cán bộ công nhân viên chủ yếu đã qua đào tạo từ trung cấp Ngân hàng trở lên, có 32% CBCNV có trình độ Đại học và tương đương, có 20% cán bộ đang theo học Đại học còn lại là trình độ trung cấp. Gần 15 năm qua, cùng với sự vận động của nền kinh tế, chi nhánh NHCT Hải Dương đã có nhiều cố gắng nỗ lực, không ngừng phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: Huy động và sử dụng vốn đều phát triển và mở rộng. Ghi nhận công lao đóng góp của chi nhánh NHCT Hải Dương trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế- xã hội cũng như trong các công tác khác của địa phương, chi nhánh NHCT Hải Dương đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng 01 Huân chương lao động hạng 3 và 01 Huân chương chiến công hạng 3. 2.1.2.Cơ cấu tổ chức hoạt động của Chi nhánh NHCT Hải Dương : 2.1.2.1.Phòng kinh doanh. Tham mưu cho Giám đốc xây dựng các biện pháp để thực hiện chính sách chủ trương của NHCT Việt Nam về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Tham mưu cho Giám đốc về chỉ đạo điều hành nghiệp vụ tín dụng (bao gồm các nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn), về cơ cấu đầu tư, lãi suất cho vay đối với từng TPKT, thực hiện kinh doanh đúng hướng và có lãi. Nghiên cứu phân tích tình hình kinh tế địa phương, giúp cho Giám đốc xây dựng chương trình kế hoạch hoạt động kinh doanh của chi nhánh, mục tiêu tín dụng của chi nhánh cho phù hợp với yêu cầu của NHCT Việt Nam. Dự thảo các báo cáo sơ kết tổng kết quý, 6 tháng và năm của chi nhánh báo cáo NHCT Việt Nam , UBND Tỉnh Hải Dương, NHNN tỉnh Hải Dương và giúp Giám đốc xây dựng kế hoạch công tác quý, 6 tháng và năm của chi nhánh. Giúp Giám đốc phát hiện những vướng mắc, trở ngại từ đó đề xuất, kiến nghị phương án xử lí, điều chỉnh và bổ sung để hoàn thiện cơ chế cho vay của chi nhánh. Giúp Giám đốc về công tác pháp chế của chi nhánhvà thực hiện nghiệp vụ hoạt động thông tin tín dụng. Thực hiện nghiệp vụ cho vay đối với các thành phần kinh tế theo Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mở tài khoản cho vay, theo dõi hợp đồng tín dụng và tính lãi theo định kỳ. Thông báo lãi suất huy động và cho vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. Thẩm định và xem xét về bảo lãnh đối với những dự án có mức ký quỹ dưới 100%, chịu trách nhiệm theo dõi quản lý thu hồi vốn sau đó chuyển cho các phòng nghiệp vụ liên quan để phát hành thư bảo lãnh trong và ngoài nước. Đề xuất kế hoạch và chuẩn bị nội dung tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng khi thấy cần thiết. Phối hợp với các phòng xây dựng kế hoạch vốn theo quý và năm. Làm một số công tác khác do Giám đốc giao. 2.1.2.2. Phòng kế toán- tài chính. Tham mưu cho Giám đốc chỉ đạo, quản lí, điều hành các nghiệp vụ về kế toán, thanh toán tài chính của chi nhánh theo chế độ và pháp luật hiện hành, tổ chức công tác hạch toán kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ Ngân hàng của chi nhánh. Nhận yêu cầu chuyển tiền từ các giao dịch viên, kiểm tra tính pháp lý và xử lý các cầu khác có liên quan đến nghiệp chuyển tiền của khách hàng. Quản lý toàn bộ các tài khoản khách hàng và các tài khoản nội bộ trong và ngoài bảng tổng kết tài sản (các tài sản nội và ngoại bảng). Nhận và phân loại các báo cáo phân loại chứng từ, bảng kê, liệt kê để chấm và đối chiếu tài khoản. Sau khi kiểm tra, đối chiếu và tính lãi theo định kỳ cho khách hàng trên các tài khoản tiền gửi, tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu ... đến cho bộ phận quản lý khách hàng để trả cho khách hàng. Kiểm tra, quản lý các món tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, trái phiếu, kỳ phiếu đồng ngoại tệ và đồng Việt Nam của chi nhánh tại NHCT Việt Nam, tại các tổ chức tín dụng khác và tại kho bạc nhà nước. Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, cân đối (tháng, năm ) theo quy định. Lập báo cáo gửi NHNN và các cơ quan quản lí Nhà nước theo chế độ hiện hành. Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến chi tiêu nội bộ và các nghiệp vụ khác có liên quan. Phối hợp với các phòng nghiệp vụ quản lý, giám sát công tác điều chuyển vốn giữa chi nhánh và NHCT Việt Nam. Mở tài khoản theo dõi quản lý tài chính, TSCĐ, công cụ lao động kiểm tra, tính toán số thuế phải nộp theo định kỳ. Quản lý thu nhập và chi phí của chi nhánh . Thực hiện một số nghiệp vụ khác do Giám đốc giao. 2.1.2.3.Phòng thanh toán quốc tế. Tham mưu cho Giám đốc tổ chức, chỉ đạo và điều hành hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Tham mưu cho Giám đốc cụ thể hoá chủ trương, chính sách, chế độ, thể lệ, quy định của Nhà nước và của ngành về quản lí, kinh doanh ngoại tệ thành các hướng dẫn thực hiện về hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của khách hàng, bao gồm nghiệp vụ L/C và nhờ kèm chứng từ. Phát hành thư bảo lãnh đối với nước ngoài kể cả việc mở và thanh toán L/C trả chậm. Thực hiện việc chuyển tiền đi nước ngoài của khách hàng, thực hiện việc chi trả kiều hối cho khách hàng có thân nhân đang làm ăn ở nước ngoài. Thực hiện việc mua bán ngoại tệ và thông báo tỉ giá mua bán ngoại tệ trong ngày cho khách hàng đến giao dịch. Tổ chức công tác thống kê, báo cáo kinh doanh ngoại tệ, giúp Giám đốc nắm vững tình hình để chỉ đạo, điều hành nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ đạt hiệu quả kinh tế. Thực hiện một số nghiệp vụ khác do Giám đốc giao. 2.1.2.4.Phòng hành chính và tổ chức cán bộ. a. Phòng tổ chức cán bộ: Tham mưu cho Giám đốc trong việc bố trí điều động, bổ nhiệm miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, tiếp nhận, tuyển dụng cán bộ thuộc diện quản lý của chi nhánh theo quy định của NHCT Việt Nam. Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ hàng năm và theo đó triển khai thực hiện kế hoạch phát triển cán bộ. Tham mưu, giúp việc cho giám đốc trong việc xây dựng quy hoạch cán bộ theo yêu cầu của NHCT Việt Nam, NHNN Tỉnh và Tỉnh uỷ Hải Dương. Hàng năm tiến hành nhận xét, đánh giá, phân loại cán bộ theo quy định của NHCT Việt Nam. Thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ công nhân viên trong cơ quan. Lưu giữ, quản lý hồ sơ cán bộ theo chế độ quy định. Thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ và công tác quân sự của chính quyền. Thường trực công tác thi đua khen thưởng của cơ quan. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. b.Phòng hành chính quản trị. Tham mưu cho Giám đốc về những vấn đề chung của công tác hành chính, quản trị, xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản, vật liệu,thực hiện hợp đồng về điện nước, điện thoại , sửa chữa và xây dựng của cơ quan. Trực tiếp quản lý con dấu của cơ quan, thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu giữ, in ấn, telex, fax.Quản lý tài liệu mật và bảo quản thực hiện lưu trữ tại kho. Quản lý, bảo quản tài sản chi nhánh, ôtô, kho vật liệu dự trữ của cơ quan theo đúng chế độ qui định. Thực hiện công tác lễ tân, công vụ phục vụ các hoạt động của cơ quan. Thực hiện công tác bảo vệ cơ quan (có phối hợp với các phòng liên quan và các ngành nội chính). Quản lý quỹ chi tiêu nội bộ của cơ quan. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 2.1.2.5.Phòng Tiền tệ-Ngân quỹ. Tham mưu cho Giám đốc thống nhất chỉ đạo, điều hành về công tác tiền tệ và quản lí an toàn kho quỹ của chi nhánh. Thu chi tiền đồng Việt Nam và ngân phiếu thanh toán. Thu chi các loại ngoại tệ ;tiền mặt, séc du lịch, giám định tiền thật tiền giả. Giúp Giám đốc xây dựng mức tồn quỹ nghiệp vụ, quản lý kho quỹ tiền và quỹ nghiệp vụ, tài sản tài chính, chứng từ có giá. Thực hiện chế độ báo cáo về hoạt động thu chi tiền mặt VNĐ, ngoại tệ, ngân phiếu và séc. Định kì theo quy định tiến hành phân tích các chỉ tiêu chất lượng về tiền tệ, giải trình các nguyên nhân gây biến động, đề xuất các biện pháp khai thác các nguồn thu và những vấn đề cần quản lí trong khâu chi tiêu tiền mặt, sơ kết, tổng kết công tác kho quỹ, bảo đảm an toàn kho quỹ. Xử lý các loại tiền mặt thanh toán đã hết hạn hoặc không đủ tiêu chuẩn lưu thông. Thực hiện một số nghiệp vụ khác do Giám đốc giao. 2.1.2.6.Phòng Kiểm tra-Kiểm soát. Lập kế hoạch định kỳ hoặc đột xuất về kiểm tra, kiểm toán nội bộ trình Giám đốc duyệt và tiến hành kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy trình thực hiện nghiệp vụ, hoạt động kinh doanh và quy chế an toàn trong kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật về ngân hàng và quy định của Ngân hàng nhà nước, điều lệ tổ chức và các quy định nội bộ của NHCT Việt Nam. Đánh giá mức độ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh và kiến nghị các biện pháp nâng cao khả năng an toàn trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Giúp Giám đốc thực hiện công tác kiểm toán nội bộ theo quy chế kiểm toán nội bộ đối với DNNN do Bộ Tài chính ban hành. Giúp Giám đốc trong công tác giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động nghiệp vụ và cán bộ của chi nhánh. Kiến nghị, bổ sung, chỉnh sửa các văn bản quy định của NHCT Việt Nam nếu phát hiện các sơ hở, bất hợp lý dẫn đến không an toàn cho hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Làm đầu mối phối hợp với các đoàn thanh tra, các cơ quan pháp luật, cơ quan kiểm toán trong việc thanh tra, kiểm tra , kiểm toán đối với các hoạt động của chi nhánh. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 2.1.2.7.Phòng nguồn vốn: Tham mưu cho Giám đốc về nghiệp vụ tạo nguồn vốn bao gồm vốn huy động tiền gửi trong dân cư và các doanh nghiệp, vốn vay NHNN và các TCTD trong địa bàn đảm bảo đủ nguồn vốn để phát triển hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Hải Dương. Giúp Giám đốc nắm vững tình hình biến động nguồn vốn bao gồm khối lượng, kết cấu nguồn vốn tại chi nhánh, nhận định khả năng tăng hoặc giảm từng loại nguồn vốn, đảm bảo huy động nguồn vốn với chi phí thấp nhất. Nghiên cứu về lãi suất huy động vốn giúp cho Giám đốc điều chỉnh lãi suất một cách hợp lí, năng động và hiệu quả khi điều kiện cho phép. Tham mưu cho Giám đốc có kế hoạch thực hiện các hình thức huy động vốn (khối lượng vốn huy động, lãi suất, thời gian và địa điểm huy động) đạt hiệu quả kinh tế. Giúp Giám đốc chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ kiểm tra nguồn tiền gửi tiết kiệm của chi nhánh. Giúp Giám đốc sơ kết, tổng kết công tác nguồn vốn theo định kì theo quy định của NHCT Việt Nam. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 2.1.2.8.Phòng giao dịch: Chi nhánh NHCT Hải Dươn._. nghiệp Sao Đỏ, các khu vui chơi giải trí...Đây là các khu tập trung đông khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có nhu cầu vay vốn lớn, có uy tín trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong hoạt động vay vốn tại ngân hàng nói riêng. Với ưu thế của chi nhánh trong việc cho vay đối với các ngành công nghiệp và thương mại thì việc mở rộng thêm các phòng giao dịch tại các khu kinh tế phát triển là một yêu cầu cấp bách hiện nay. Mở thêm các phòng giao dịch tại các khu kinh tế phát triển, các khu công nghiệp không chỉ giúp chi nhánh có thể đáp ứng nhanh hơn các nhu cầu vốn của khách hàng mà còn tạo ra một hướng mới cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh. Với quy mô ban đầu có thể chỉ là một phòng giao dịch ngoại tệ từ đó có thể giúp chi nhánh tạo hình ảnh tốt của mình đối với khách hàng, giới thiệu các hoạt động khác của ngân hàng mà chi nhánh cung cấp. Nếu khách hàng có nhu cầu vay vốn, với quy mô vốn nhỏ thì phòng giao dịch có thể trực tiếp cho vay, quy mô lớn hơn và cần thẩm định kĩ khách hàng thì có thể chuyển về hội sở chính của chi nhánh để tiến hành thẩm định và cho vay. 3.2.6. Đổi mới cơ chế cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu đặt ra đối với cơ chế cho vay là phải gọn nhẹ, linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của từng TPKT, từng loại hình doanh nghiệp, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro. Vì vậy, việc thường xuyên đổi mới hoàn thiện cơ chế cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất cần thiết. a.Thủ tục cho vay: Trên thực tế, khách hàng đã phàn nàn về sự rắc rối, nhiêu khê của thủ tục vay vốn. Trong khi đó, những thủ tục đó vẫn không làm giảm rủi ro tín dụng mà thậm chí còn hạn chế việc khách hàng đến vay vốn tại ngân hàng. Trong phạm vi hoạt động, chi nhánh nên có một số giải pháp cụ thể như sau để giải quyết vấn đề này: Rút ngắn thời gian xét duyệt vốn vay: Khách hàng vay vốn luôn mong muốn được vay nhanh chóng, vì vậy cán bộ tín dụng cần hoàn tất thủ tục, hồ sơ vay vốn trong thời gian ngắn nhất nhưng phải đảm bảo yếu tố đúng, đủ. Chi nhánh có thể phối hợp với phòng công chứng của Thành phố để chứng nhận giấy tờ vừa chính xác vừa đảm bảo thời gian nhanh chóng. Tạo sự đơn giản, dễ hiểu về thủ tục cho vay phù hợp với trình độ của mọi đối tượng khách hàng. Cán bộ tín dụng cần hướng dẫn khách hàng về những giấy tờ cần thiết một cách rõ ràng, để họ hiểu và thông cảm với những khó khăn của ngân hàng. Đối với người vay là hộ tư nhân cá thể, các giấy tờ cần đơn giản hoá, dễ hiểu và in thành mẫu chung. Tuy nhiên, không phải vì đơn giản hoá thủ tục mà bỏ qua những thủ tục cần thiết. Ví dụ, để giảm thiểu rủi ro pháp lí, ngân hàng cần xem xét kĩ địa vị pháp lí của người đại diện vay vốn của doanh nghiệp hay hộ sản xuất. Đặc biệt đối với hộ gia đình không phải là một pháp nhân hay một cá nhân mà chỉ là một chủ thể đặc biệt trong các quan hệ dân sự theo Bộ Luật dân sự Việt nam. Sự không phân biệt rõ ràng địa vị pháp lí của cá nhân và hộ gia đình có thể dẫn đến việc kí kết các hợp đồng tín dụng sơ hở, thiếu căn cứ pháp lí. Vì vậy, khi có tranh chấp giữa ngân hàng và khách hàng là hộ sản xuất thường xảy ra trường hợp phán quyết chỉ thi hành cưỡng chế được tài sản cá nhân mà không thể cưỡng chế tài sản chung cả hộ. Như vậy một điều kiện vay vốn tưởng rất đơn giản nhưng lại ẩn chứa nhiều rủi ro nếu như không nhận thức đúng các quy định của pháp luật. b.Cơ chế bảo đảm: Chi nhánh nên kết hợp nhiều hình thức đảm bảo khác nhau để giải quyết được các nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Có thể phân định một số dạng cụ thể sau: Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp cho phần còn lại thì yêu cầu doanh nghiệp thực hiện bảo đảm dư nợ theo yêu cầu. Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho phần còn lại thì yêu cầu doanh nghiệp dùng tài sản hình thành bằng vốn vay tiếp tục bảo đảm cho phần nợ vay còn lại. Đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện để thực hiện như hai loại trên thì chi nhánh phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay bằng vốn thông qua hội đồng tín dụng, trong đó có các chuyên gia tư vấn theo chuyên môn, yêu cầu để quyết định có cho vay hay không và cho vay ở mức bao nhiêu. Chi nhánh cần tăng cường khâu quản lí, kiểm tra thường xuyên đối với những tài sản thế chấp, cầm cố để có những biện pháp chấn chỉnh và xử lí kịp thời để tránh trường hợp doanh nghiệp dùng một tài sản thế chấp đi vay nhiều NHTM cùng lúc. Để hoạt động này có hiệu quả, chi nhánh cần có sự phối hợp chặt trẽ với các chi nhánh ngân hàng khác, chính quyền địa phương và những cơ quan Nhà nước có chức năng trong việc thẩm tra, giám sát tài sản của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Phát triển nhiều hình thức bảo đảm bằng các chứng từ có giá. Đây cũng là một loại tài sản đem thế chấp nhưng nó là một tài sản đặc biệt. Đây là loại tài sản có khả năng sinh lời, tất nhiên là vẫn còn nhiều yếu tố rủi ro vì những tác động kinh tế khác. Tuy nhiên trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt nam chưa phát triển thì loại giấy tờ có giá có tính ổn định cao và chứa đựng ít rủi ro nhất là trái phiếu Chính phủ, chi nhánh nên mở rộng hình thức bảo đảm bằng loại tài sản này. Bên cạnh đó, chi nhánh nên nghiên cứu tìm hiểu và phát triển các hình thức bảo đảm khác bằng các khoản phải thu, hàng tồn kho, các hợp đồng, bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh... Các hình thức này đòi hỏi nhiều thủ tục hành chính và sự giám sát thường xuyên. Mỗi hình thức bảo đảm đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, việc sử dụng chúng một cách tổng hợp và linh hoạt để chúng bù đắp và bổ sung cho nhau thì sẽ tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay được vốn mà ngân hàng vẫn bảo toàn được vốn. 3.2.7. Củng cố hơn nữa đội ngũ cán bộ tín dụng. Con người luôn là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị và trong hoạt động cho vay nói riêng. Toàn bộ những quyết định cho vay, tiến trình thực hiện cho vay, thu hồi nợ... đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Chi nhánh NHCT Hải Dương có đa số đội ngũ cán bộ có trình độ trung cấp, cao đẳng và đại học được đào tạo qua các trường lớp cả chính quy và tại chức về ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế do tính chất phức tạp của kinh tế thị trường, sự phức tạp và khó khăn của công tác cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì đội ngũ cán bộ hiện nay chưa thể đáp ứng kịp thời và đầy đủ các yêu cầu mới phát sinh. Vì vậy, chi nhánh cần thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ để theo kịp yêu cầu cập nhật của nền kinh tế hiện đại. Trong thời gian tới công tác tổ chức cán bộ cần tập trung vào một số nội dung sau đây: Điều quan trọng nhất của chi nhánh hiện nay là phải nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng. Đội ngũ cán bộ tín dụng cần được trang bị những kiến thức và những hiểu biết cơ bản để nâng cao khả năng phân tích và thẩm định dự án đầu tư. Những hiểu biết về dòng tiền, về tài chính doanh nghiệp… là rất cần thiết để cán bộ tín dụng có thể đọc, phân tích và tư vấn cho khách hàng của mình trong việc lập các dự án vay vốn tại ngân hàng. Chi nhánh cần xây dựng và thực hiện tốt các chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo từng giai đoạn 5 năm. Đây là chương trình quan trọng có tính chất kim chỉ nam cho hoạt động tổ chức cán bộ của chi nhánh. Tại chi nhánh hiện nay chưa có chiến lược cho công tác cán bộ cụ thể, chưa có kế hoạch về kiểm tra, đánh giá cán bộ, đào tạo cán bộ, đề bạt cán bộ, quy hoạch cán bộ... Trong thời gian tới, chi nhánh cần một chiến lược tổ chức cán bộ cụ thể để nâng tỉ trọng cán bộ có trình độ đại học và tương đương lên 50%, đào tạo sau đại học cho một số cán bộ chủ chốt thuộc các phòng ban quan trọng của chi nhánh. Chi nhánh cần dựa trên tình hình thực tế tại chi nhánh để xác định kế hoạch, chính sách đào tạo đúng đắn và thiết thực. Kế hoạch đào tạo phải tính đến tính chuyên sâu trong công tác nghiệp vụ của mỗi cán bộ, thường mỗi cán bộ phụ trách 1 công việc cụ thể nên kế hoạch đào tạo và tổ chức cán bộ cần tính đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cụ thể cho từng phòng ban. Các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, trao đổi nghiệp vụ giữa các phòng ban cần phải được chi nhánh tổ chức thường xuyên hơn nữa theo định kì hàng quí. Ngoài ra chi nhánh cũng cần thường xuyên tổ chức cho CBCNV trong ngân hàng đi thăm quan, học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng trong cùng địa bàn, cùng hệ thống kết hợp với tập huấn thường xuyên để hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ của từng cán bộ, từng phòng ban. Cán bộ tín dụng tại chi nhánh cần được đào tạo và nâng cao trình độ cũng như kiến thức về các ngành, các lĩnh vực khác- cụ thể ở đây là 2 lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp- 2 lĩnh vực được chi nhánh xem là đối tượng khách hàng chủ yếu trong thời gian tới. Hoạt động SX-KD của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là vô cùng đa dạng và phong phú vì vậy trong cho vay đối với khu vực này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức kinh tế, kĩ thuật về nhiều ngành nghề để có thể thẩm định thật tốt các dự án SX-KD của khách hàng. 3.2.8. Tổ chức tốt mạng lưới thu thập thông tin, xử lí thông tin và phân tích thông tin. Vai trò của thông tin trong mọi hoạt động ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong công tác cho vay của ngân hàng, thông tin có vai trò giúp giảm bớt rủi ro cho ngân hàng, đảm bảo món cho vay có hiệu quả. Gần đây chi nhánh đã có những quan tâm nhất định đối với công tác thu thập, xử lí và phân tích thông tin nhưng theo em trong thời gian tới chi nhánh cần thực hiện một số việc sau: Chi nhánh nên bổ sung thêm một số nguồn thu thập thông tin như: báo, tạp chí, mạng nội bộ, mạng internet, các cơ quan quản lí ngành và quản lí địa phương đối với các doanh nghiệp ( như sở Kế hoạch và đầu tư). Chi nhánh cần tìm hiểu kĩ các thông tin về hoạt động của khách hàng qua các bạn hàng, đối tác của khách hàng vay. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn có một lượng bạn hàng và đối tác rất đông đảo, khai thác thông tin từ các đối tượng này cũng sẽ cho ngân hàng những thông tin cần thiết cho hoạt động cho vay của chi nhánh. Đây là việc ngân hàng có thể làm được vì chi nhánh có lượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh tương đối đông đảo, ở mọi lĩnh vực khác nhau, là đối tượng tốt để chi nhánh có thể thu thập thông tin. Công tác khai thác thông tin cũng cần có sự thay đổi trong nhận thức. Chi nhánh nên tập trung vào những thông tin cần thiết và có ích cho quá trình xử lí, chi nhánh nên bỏ qua một số thông tin không cần thiết hay những thông tin đã có từ những món vay trước đó. Điều này giúp chi nhánh tránh được sự sa đà vào các thông tin không cần thiết, giành thời gian cho các thông tin cần thiết khác để phục vụ cho món vay. Công tác xử lí thông tin cần được tiến hành theo các mảng về thị trường, giá cả, chính sách phát triển của địa phương... Công tác phân tích thông tin cần được giao cho các cán bộ tín dụng có kinh nghiệm và có những hiểu biết nhất định về từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Việc làm này sẽ giúp cho việc phân tích thông tin được tổ chức một cách chuyên nghiệp hơn, mang lại kết luận chính xác hơn. 3.2.9. Tăng cường công tác kiểm tra thanh tra và kiểm soát món vay. Nâng cao vai trò công tác thanh tra, kiểm soát là công việc rất quan trọng để đảm bảo chất lượng cho vay, do đó khi ngân hàng mở rộng đầu tư tín dụng thì vai trò của công tác thanh tra, kiểm soát phải được nâng lên ở mức tương ứng. Trong quá trình kiểm tra, giám sát món vay, ngân hàng phải thường xuyên đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng. Nếu phát hiện khách hàng thông tin sai sự thật, vi phạm... thì ngân hàng phải thực hiện xử lí theo quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, việc giám sát món vay lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng, trình độ và từng điều kiện cụ thể của từng cán bộ tín dụng. Nhất là trong điều kiện hiện nay, báo cáo số liệu của khách hàng ngoài quốc doanh thường có độ tin cậy không cao, ngoài vòng kiểm soát của cơ chế hiện hành thì việc giải quyết vấn đề khách hàng thông tin sai sự thật một cách hữu hiệu còn nhiều lúng túng. Để tăng cường hiệu quả của việc giám sát vốn vay của ngân hàng, trong thời gian tới chi nhánh cần có chương trình giám sát riêng trong đó các cán bộ tín dụng cho vay và theo dõi, giám sát khách hàng của lẫn nhau. Từ đó tăng tính khách quan của hoạt động kiểm soát món vay, tăng tính tự chịu trách nhiệm trong cho vay của từng cán bộ tín dụng. 3.3.Một số kiến nghị: Thúc đẩy hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh không chỉ căn cứ vào các yếu tố bên trong là bản thân chi nhánh mà trong thời gian tới NHCT Việt nam, Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan quản lí Nhà nước và bản thân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần có sự phối hợp trong một số hoạt động để các giải pháp đề ra phía trên có thể mang lại hiệu quả trong thực tế. Xuất phát từ vai trò, chức năng của từng cơ quan, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau để phần nào tạo môi trường thuận lợi hơn cho hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của chi nhánh. 3.3.1. Đối với NHCT Việt Nam: Thứ nhất, để đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, đề nghị NHCT Việt nam nghiên cứu hướng dẫn các chi nhánh khi cho vay các doanh nghiệp chỉ cần lập bảng kê chứng từ hàng tháng, tuỳ theo số lượng chứng từ phát sinh, có xác nhận của kế toán trưởng và thủ trưởng đơn vị là cơ sở pháp lí để ngân hàng giải quyết cho vay vốn. Trong thời gian tới NHCT Việt nam cần tiếp thu ý kiến của các chi nhánh và của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trực tiếp vay vốn tại các chi nhánh, các cơ sở của NHCT để có hướng sửa đổi thủ tục hồ sơ cho hợp lí. Theo em, một số loại giấy tờ mà nội dung của nó có sự trùng hợp, NHCT có thể xem xét để gộp vào để giảm số lượng giấy tờ, chứng từ trong hồ sơ xin vay. Thứ hai, hỗ trợ chi nhánh NHCT Hải Dương về mặt kinh phí trong công tác đào tạo nghiệp vụ, kiến thức chuyên môn của cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Trong thời gian tới, việc đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ tín dụng cần tập trung vào các kĩ năng tiếp thị, khả năng tìm kiếm khách hàng mới, kĩ năng tìm hiểu khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là kĩ năng trong việc duy trì khách hàng cũ là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Thứ ba, phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin tín dụng, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp các chi nhánh phòng ngừa rủi ro một cách tốt nhất. NHCT Việt nam cần tổ chức những cuộc trao đổi thông tin, kinh nghiệm giữa các chi nhánh trong việc mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ tư, NHCT nên có biện pháp giúp đỡ các chi nhánh trong việc tổ chức các buổi hội thảo, buổi tiếp xúc giữa ngân hàng và các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh để giới thiệu thêm cho các doanh nghiệp về hình ảnh của ngân hàng, giải quyết các khó khăn của doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Thứ năm, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các hoạt động của chi nhánh và đội ngũ nhân sự. 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước: Thứ nhất, trong khuôn khổ các quy định về kinh tế, tài chính, tín dụng vấn đề thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các TPKT còn khá nhiều hạn chế. Điều đó được thể hiện trong chính sách tín dụng của hệ thống ngân hàng. Trong Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, chúng ta chưa có một chính sách tín dụng cụ thể cho các TPKT ngoài quốc doanh mà chỉ có chính sách tín dụng với DNNN. Các quy định về điều kiện vay vốn còn quá cứng nhắc và còn phân biệt đối xử như về tài sản thế chấp. Vì vậy để mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và để phù hợp với xu hướng phát triển các TPKT ngoài quốc doanh hiện nay, thiết nghĩ Ngân hàng Nhà nước nên xây dựng một chính sách tín dụng cụ thể đối với đối tượng khách hàng này. Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước cần phải đưa ra những biện pháp cải tổ triệt để thủ tục hành chính, giảm bớt thủ tục nhất là thủ tục cho vay. Hướng cải cách là kết hợp nhiều yếu tố cần thiết (loại bỏ những yếu tố không phục vụ cho mục đích thu thập, khảo sát...) trong một yêu cầu. Những vấn đề mà các quy định pháp luật hoặc định chế khác đã nêu cụ thể thì không nên đưa vào (ví dụ: đơn xin vay và giấy nhận nợ chỉ gộp vào trong một mẫu biểu). Việc ban hành hệ thống văn bản phải tạo ra một hành lang pháp lí thông thoáng, đồng bộ và linh hoạt, đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần rà soát lại các văn bản đã ban hành để chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Thứ ba, hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng Việt nam bao gồm trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và phòng thông tin tín dụng của các NHTM được hình thành và đang đi vào hoạt động được mấy năm, bước đầu đạt được những kết quả đáng phấn khởi. Tuy nhiên, những thông tin do bộ phận thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước cung cấp vẫn chưa đáp ứng được cả về số lượng lẫn chất lượng, thiếu tin cậy, đó là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Vì vậy, đề nghị Ngân hàng Nhà nước cần sớm có giải pháp để hoạt động của trung tâm này phát huy hiệu qủa. Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước cần chủ động tích cực tham mưu, tư vấn cho Chính phủ để sớm hình thành quỹ bảo lãnh các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể để giúp các NHTM tham gia thị trường tài chính, phát triển hình thức cho vay chiết khấu các giấy tờ có giá giải quyết khó khăn về vốn cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 3.3.3. Đối với Cơ quan quản lí Nhà nước: Thứ nhất, cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đòi hỏi phải có tài sản thế chấp, có giấy tờ hợp pháp của các cấp có thẩm quyền ra quyết định. Nhưng hiện nay, luật về sở hữu tài sản chưa rõ ràng, đầy đủ. Phần lớn doanh nghiệp hoặc các cá thể ngoài quốc doanh hiện đang xây dựng bằng vốn tự có của mình và chỉ chuyển nhượng bằng giấy viết tay do chính quyền sở tại xác nhận. Do đó, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hải Dương và các cấp chính quyền cần có các biện pháp rút ngắn thời gian làm thủ tục cho các trường hợp đã và đang chờ làm thủ tục chứng nhận quyền sử dụng đất để người sử dụng có đủ bộ giấy tờ hợp pháp khi đi vay. Thứ hai, cần sớm thiết lập các định chế hỗ trợ phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh như thành lập quỹ hỗ trợ, hiệp hội các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, khuyến khích đầu tư công nghệ hiện đại bằng chính sách ưu đãi trung và dài hạn, miễn giảm thuế, đảm bảo đầu tư... Thứ ba, hàng năm tỉnh nên kết hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư tổ chức các buổi hội thảo, buổi nói chuyện chuyên đề để phát hiện những khó khăn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong hoạt động SX-KD, đồng thời giới thiệu chính sách phát triển của tỉnh. Thứ tư, hàng quý UBND tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, trường Cao đẳng kinh tế, chi cục thuế, Sở Tài chinh-Vật giá, các ban ngành có liên quan nên tổ chức bồi dưỡng kiến thức, tập huấn về nghiệp vụ cho các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới thành lập trên địa bàn. Các nội dung tập huấn nên tập trung vào công tác tìm hiểu thị trường, tìm kiếm khách hàng mới, kiến thức về pháp luật, kiến thức về nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp... điều này vừa giúp cho các cơ quan ban ngành trong tỉnh có sự liên kết nhất định với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vừa giúp cho các cơ quan quản lí có điều kiện quản lí các doanh nghiệp trên địa bàn đồng thời cũng giúp cho các chủ doanh nghiệp có được kiến thức cơ bản về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ năm, các cơ quan quản lí Nhà nước cần có sự phối hợp với các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn để có thể trực tiếp tư vấn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có những thông tin cần thiết trong việc lựa chọn nguồn vốn đầu tư cho mỗi doanh nghiệp sao cho có lợi nhất. Thứ sáu, các cơ quan của tỉnh cần quan tâm hỗ trợ về các mặt chuyển giao công nghệ, tiếp xúc với các đối tác nước ngoài hoạt động kinh doanh tại địa phương...để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển mạnh hơn, huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển. Cuối cùng, trong thời gian tới các cơ quan quản lí Nhà nước trên địa bàn cần có sự quan tâm thích đáng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trên lĩnh vực Chế biến nông sản xuất khẩu trên địa bàn nhằm phục vụ chương trình chính sách phát triển kinh tế nông thôn tại địa phương đồng thời tạo thêm một kênh để ngân hàng cung cấp nguồn vốn ngoại tệ. 3.3.4. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Hoạt động cho vay có hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào người sử dụng vốn vay. Thời gian qua doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã chứng tỏ vai trò của mình đối với nền kinh tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp tự làm mất uy tín của mình, làm ăn lừa đảo, chụp giật, phát triển quá "nóng", làm ăn thua lỗ, phá sản, sử dụng vốn sai mục đích, không thực hiện theo chế độ kế toán hiện hành...Chính vì vậy gây ra cho ngân hàng không ít khó khăn trong việc thu hồi vốn, nợ quá hạn gia tăng, do đó ngân hàng thu hẹp phạm vi cho vay đối với khu vực kinh tế này. Vì vậy để hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt hiệu quả thì bản thân mỗi doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần rất nhiều cố gắng. Thứ nhất, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần xác định hướng làm ăn, cạnh tranh lành mạnh, tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mở rộng hoạt động để ngày càng phát triển. Thứ hai, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần nhận thức rõ vấn đề “ tiết kiệm thuế nhờ lãi suất ngân hàng “ trong quá trình hoạch toán kinh doanh và tìm kiếm nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Từ đó có các hoạt động tích cực, chủ động tìm kiếm các nguồn vốn của ngân hàng. Thứ ba, để có thêm các điều kiện thuận lợi trong việc vay vốn tại các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên đứng ra vận động UBND tỉnh hoặc tự đứng ra thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của tỉnh để có thể bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong hoạt động vay vốn của các doanh nghiệp nói riêng. Thứ tư, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần tích cực tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, hỗ trợ về thông tin, kiến thức và tư vấn cho các doanh nghiệp xây dựng các dự án vay vốn ngân hàng và giải quyết các khó khăn trong triển khai thực hiện các dự án vay vốn, ngoài ra các doanh nghiệp nên tạo thuận lợi cho các TCTD tìm hiểu và quyết định cho vay cũng như thực hiện kiểm tra, giám sát sau cho vay một cách kịp thời và có hiệu quả. Kết luận Qua nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hải Dương, ta nhận thấy sự chuyển biến tích cực đúng hướng của chi nhánh trong công cuộc đổi mới. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã góp phần cung ứng vốn, giúp các doanh nghiệp đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, thực hiện được các cơ hội đầu tư có lợi cho bản thân doanh nghiệp và cho nền kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được thì hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh cũng bộc lộ một số hạn chế và tồn tại nhất định, dẫn đến doanh số cho vay đối với khu vực này chưa tương xứng với tiềm năng thực tế của khu vực kinh tế này và khả năng cung ứng của chi nhánh. Để vững bước đi lên đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đòi hỏi Chi nhánh NHCT Hải Dương phải nỗ lực rất lớn trong việc giải quyết các vấn đề mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải được nâng lên thành một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển của chi nhánh. Bên cạnh những cố gắng nỗ lực của chi nhánh, cũng rất cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp có liên quan trên địa bàn tỉnh để tạo ra một hành lang vững chắc cho ngân hàng phát huy có hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong thời gian nghiên cứu, tìm hiểu không phải là dài, nội dung bài viết chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Là một sinh viên thực tập, với hiểu biết còn hạn chế, lại chưa có kinh nghiệm thực tế nên nếu bài viết còn có những vấn đề chưa được đề cập đến hoặc đề cập chưa được đầy đủ, xin kính mong các thầy cô giáo, các anh chị cán bộ tín dụng tại chi nhánh NHCT Hải Dương thông cảm và góp ý thêm. Về một số giải pháp và kiến nghị trong bài viết, do được trình bày dưới góc độ là những giải pháp để mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong thời gian tới, em mong rằng các giải pháp này sẽ có giá trị tham khảo đối với chi nhánh, phần nào đưa ra hướng giải quyết vần đề đã được đề tài đặt ra. Qua một số giải pháp đưa ra, em chỉ mong đóng góp một phần ý kiến của mình để có thể một phần nào đó giúp nâng cao hơn nữa hoạt động kinh doanh của chi nhánh để chi nhánh ngày càng phát triển để phục vụ tốt hơn nữa cho công cuộc đổi mới kinh tế tại tỉnh Hải Dương. Tài liệu tham khảo 1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính Frederic Miskin. 2. Ngân hàng thương mại Edward W.Reed & Edward K.Grill. 3. Tiền tệ, tín dụng ngân hàng Lê Văn Tư. 4. Quản trị ngân hàng thương mại Peter Rose. 5. Một số nghiệp vụ ngân hàng thương mại Nguyễn Văn Ngôn. 6. Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam Nxb Chính trị Quốc gia. 7. Báo cáo các chương trình và dự án thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải dương lần thứ 13 Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ. 8. Báo cáo tình hình kinh tế tỉnh Hải dương và phương hướng phát triển kinh tế tỉnh UBND tỉnh Hải dương. 9. Báo cáo tình hình phát triển kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua Ban kinh tế Tỉnh uỷ. 10. Quy trình nghiệp vụ cho vay của NHCT Việt Nam NHCT Việt Nam. 11. Các văn bản quy định nghiệp vụ cho vay của NHCT Việt Nam đối với khách hàng NHCT Việt Nam. 12. Các văn bản trong cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của chi nhánh NHCT Hải dương NHCT Hải dương. 13. Các báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Hải dương qua các năm (1999-2002) NHCT Hải dương. 14. Tạp chí Ngân hàng các năm 2001-2002. 15. Tạp chí Thông tin NHCT Việt Nam NHCT Việt Nam. 16. Luật Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng của Việt Nam. 17. Ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam Nguyễn Quốc Việt. 18. Cẩm nang quản lí tín dụng Ngân hàng Nxb Thống kê. 19. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại David Cox. 20. Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Đống Đa Sinh viên: Vũ Thị Cẩm Vân-NH 39B. Mục lục Lời nói đầu. 1 Chương1: Tín dụng và vai trò của tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường.......................................... 3 1.1.Tín dụng và vai trò tín dụng trong nền kinh tế thị trường. 3 1.1.1. Khái niệm tín dụng 3 1.1.2. Sự cần thiết của tín dụng 4 1.1.3. Chức năng của tín dụng 4 1.1.4.Vai trò của tín dụng 4 1.2.Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong sự phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam 5 1.2.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 5 1.2.2. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với sự phát triển kinh tế 6 1.2.3. Đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh 8 1.2.4. Xu hướng phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh 9 1.2.5. Đường lối của Đảng trong phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh 10 1.3.Cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 12 1.3.1. Cho vay và mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 12 1.3.2. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 13 1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 15 *Nhân tố khách quan 15 *Nhân tố chủ quan 17 1.3.4. Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng 19 1.3.5. Một số hạn chế và xu hướng hoàn thiện cơ chế cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 25 Chương 2:Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh của CN NHCT Hải Dương 27 2.1.Khái quát chung về CN NHCT Hải Dương 27 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển 27 2.1.2.Cơ cấu tổ chức của CN NHCT Hải Dương 28 2.1.3.Chức năng nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Chi nhánh NHCT Hải Dương 34 2.1.4.Tình hình hoạt động kinh doanh của CN NHCT Hải Dương trong thời gian gần đây 35 2.2.Thực trạng hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của CN NHCT Hải Dương 43 2.2.1.Những quy định về nghiệp vụ trong quá trình cấp xét tín dụng tại CN NHCT Hải Dương 43 2.2.2.Quy mô và cơ cấu cho vay đối với DN NQD 46 2.2.3.Một số thuận lợi và tồn tại trong cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh 54 2.2.3.1.Một số thuận lợi 54 2.2.3.2.Một số tồn tại 58 Chương 3:Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại CN NHCT Hải Dương 66 3.1.Phương hướng và nhiệm vụ công tác tín dụng năm 2003 của CN NHCT Hải Dương 66 3.2.Một số giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới 67 3.2.1. Tổng kết đánh giá chất lượng và hiệu quả của hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 67 3.2.2.Tích cực, chủ động hơn nữa trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh 68 3.2.3. Xác định tính chiến lược của chính sách cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của CN NHCT Hải Dương 69 3.2.4. Tăng cường công tác khách hàng, làm tốt chính sách khách hàng, có chính sách phân loại khách hàng theo hiệu quả hoạt động chứ không theo chủ sở hữu 70 3.2.5.Mở rộng mạng lưới hoạt động của chi nhánh 72 3.2.6. Đổi mới quy chế cho vay 73 3.2.7.Củng cố hơn nữa đội ngũ cán bộ tín dụng 75 3.2.8. Tổ chức tốt mạng lưới thu thập, xử lý và phân tích thông tin trong hoạt động tín dụng của CN NHCT Hải Dương 77 3.2.9. Tăng cường công tác kiểm tra thanh tra và kiểm soát nội bộ 78 3.3.Một số kiến nghị 78 3.3.1. Đối với NHCT Việt Nam 79 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước 80 3.3.3. Đối với cơ quan quản lí Nhà nước 81 3.3.4. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 83 Kết luận 84 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37027.doc
Tài liệu liên quan