Một số tiềm năng hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội

Lời nói đầu Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, trong tiến trình hội nhập sâu và rộng với thế giới bên ngoài. Hà Nội là thủ đô của cả nước, là đô thị lớn cũng đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ. Trong quá trình đó, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng được chuyển dịch từ trọng tâm là sản xuất lương thực, thực phẩm sang sản xuất thực phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao, chất lượng cao, an toàn và bảo vệ môi trường và

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số tiềm năng hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo cảnh quan, phát triển theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái. Trong những năm qua Đảng và Chính phủ đã quan tâm đặc biệt đến Thủ đô Hà Nội. Nghị quyết 15 NQ/TW của Bộ Chính trị, Pháp lệnh thủ đô Hà Nội đã đặt ra nhiệm vụ xây dựng Thủ đô, trong đó yêu cầu Hà Nội đi đầu trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Thành uỷ, HĐND, UBND đã chỉ đạo nghiên cứu ban hành các chương trình, kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn như: Chương trình 06/CTr-TU, chương trình 12/CTr-TU... Trong bối cảnh đó việc đánh giá, nhận thức đúng vai trò, tác dụng của các tiềm năng phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng là rất quan trọng và cần thiết đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là kinh tế trang trại, vì kinh tế trang trại là hình thức sản xuất nông nghiệp hướng tới sản xuất hàng hoá, là hình thức sản xuất chủ đạo của một nền nông nghiệp hiện đại mà Đảng và nhà nước đã và đang hướng tới. Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài: “Một số tiềm năng hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội”. Để có thể có được đề án như hôm nay ngoài sự tìm tòi tra cứu tài liệu tham khảo cùng kiến thức bản thân tích luỹ được trong quá trình học tập tại khoa Kinh tế NN&PTNT, em còn được sự tư vấn, hướng dẫn và gợi ý tận tình của cô Minh, giảng viên của khoa. Mặc dù vậy, bài viết đề án của em vẫn còn nhiều hạn chế và khiếm khuyết. Em mong được sự chỉ bảo của các thầy cô để cho bài viết hoàn chỉnh hơn cũng như em có thể hoàn thiện hơn trong việc viết bài trong kỳ thực tập sắp tới. Em xin chân thành cảm ơn! I.LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI: 1.Khái niệm, vị trí, vai trò của kinh tế trang trại: a.Khái niệm kinh tế trang trại và các đặc trưng: *Khái niệm kinh tế trang trại: Hiện nay, trong các tài liệu nghiên cứu, trang trại và kinh tế trang trại được nhìn nhận dưới nhiều quan điểm khác nhau, nhưng chúng đều có những điểm chung như sau: Trang trại là một cơ sở sản xuất- kinh doanh hàng hoá trong nông, lâm, ngư nghiệp. Có nguồn gốc hình thành và phát triển từ kinh tế nông hộ nhưng ở vào giai đoạn có trình độ tổ chức quản lý sản xuất hàng hoá cao hơn. Khai thác và sử dụng các nguồn lực kinh tế ở địa phương (đất đai, vốn, lao động, ứng dụng khoa học công nghệ). Hoạt động sản xuất- kinh doanh luôn gắn liền với nền kinh tế thị trường. Nguồn gốc sở hữu của trang trại thuộc thành phần kinh tế tư nhân là chủ yếu, song do sự tác động của kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế nên nó ngày càng mở rộng ra nhiều hình thức sở hữu, từ một thành phần kinh tế đến nhiều thành phần kinh tế. Ngoài ra, lĩnh vực hoạt động của trang trại không chỉ bó hẹp trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mà còn mở rộng thêm một số hoạt động kinh doanh dịch vụ hỗ trợ các yếu tố đầu vào, đầu ra và các hoạt động chế biến nhằm tăng thu nhập. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, có thể nói khái niệm về trang trại như sau: “Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ngư nghiệp có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung tương đối lớn, với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.” *Đặc trưng của kinh tế trang trại là những khác biệt giữa kinh tế trang trại so với các hình thức kinh tế khác trong nông-lâm-ngư nghiệp: Mục đích của kinh tế trang trại là sản xuất nông phẩm theo nhu cầu của thị trường. Mục đích của hộ nông dân là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính họ về các loại nông sản. Quy mô của trang trại có sự khác biệt so với các hộ sản xuất tự cấp, tự túc của hộ nông dân, nó có quy mô tương đối lớn, và trình độ sản xuất hàng hoá cao. Sản xuất hàng hoá là điểm khác biệt cơ bản của kinh tế trang trại so với các hình thức sản xuất nông nghiệp trước đây và cũng là nhân tố quyết định các đặc trưng khác của kinh tế trang trại. Tư liệu sản xuất trong trại trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ. Nói chung trong trại trại, các tư liệu thuộc quyền sở hữu của người chủ trang trại, những tư liệu đi thuê, mượn không thuộc quyền sở hữu thì người chủ trang trại lại được quyền sử dụng trong thời gian thuê mượn. Trong trang trại, các yếu tố sản xuất, trước hết là ruộng đất, tiền vốn được tập trung trước hết cho yêu cầu phát triển sản xuất nông sản hàng hoá. Sản xuất hàng hoá yêu cầu các yếu tố sản xuất được tập trung tới một mức độ nhất định thì mới có thể thoát khỏi tự túc, tự cấp. Tuy nhiên, tuỳ theo phương hướng sản xuất và điều kiện cụ thể của từng vùng mà mức độ tập trung các yếu tố sản xuất cũng khác nhau. Trang trại có cách thức tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất tiến bộ dựa trên cơ sở sản xuất ngày càng đi vào chuyên môn hoá, thâm canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, từng bước thực hiện kế hoạch và ngày càng gắn với thị trường. Việc thâm canh, chuyên môn hoá càng được các trang ftrại coi trọng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời các hoạt động của trang trại ngày càng xuất phát từ nhu cầu thị trường về nông sản phẩm và hướng vào đáp ứng nhu cầu thị trường. Chủ trang trại là người có ý chí, có khả năng tổ chức quản lý, có kinh nghiệm tổ chức sản xuất và hiểu biết nhất định về sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, phần lớn các tố chất đó nói chung chưa hội đủ ở người chủ trang trại khi mới thành lập trang trại mà đều phải trải qua một quá trình nhất định gắn liền với việc tạo lập, xây dựng và phát triển trang trại. b.Vai trò, vị trí của kinh tế trang trại: *Ở nước ta hiện nay, mặc dù mới phát triển trong những năm gần đây nhưng kinh tế trang trại đã thể hiện là một hình thức sản xuất có vị trí quan trọng và đã thể hiện vai trò tích cực cả về mặt kinh tế và xã hội: Về kinh tế, trên nhiều vùng trang trại đã góp phần phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, khắc phục dần tình trạng sản xuất phân tán, manh mún. Phát triển kinh tế trang trại ở nước ta bước đầu đã đóng vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nông thôn do đã biết khai thác và hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn. Về mặt xã hội, phát triển kinh tế trang trại góp phần tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập cho lao động trong nông thôn. Mặt khác, phát triển kinh tế trang trại còn thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn, làm gương cho các hộ nông dân về cách thức tổ chức quản lý sản xuất góp phần vào việc thay đổi diện mạo nông thôn ở nhiều nơi. Về mặt môi trường, nhìn chung phát triển kinh tế trang trại có tác dụng bảo vệ môi trường. Các chủ trang trại có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trường: đất đai, nguồn nước, bảo vệ rừng do sản xuất tự chủ và vì lợi ích thiết thực của họ. 2.Chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế trang trại: *Mốc quan trọng có ý nghĩa to lớn là Nghị quyết số 10/NQ-TƯ ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết 10 khoán sản phẩm đến hộ và nhóm hộ xã viên; diện thích giao khoán cho hộ ổn định đến 15 năm; mức khoán ổn định 5 năm và chỉ sửa đổi mức khoán khi điều kiện vật chất-kỹ thuật đã thay đổi; phần sản phẩm vượt khoán thuộc về hộ nông dân, hộ nông dân có toàn quyền sử dụng hoặc bán nơi nào có lợi. *Hội nghị BCH Trung ương lần 6 (khóa VI) tháng 3-1989 đã chính thức xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. *Nghị quyết hội nghị BCH Trung ương lần 5 (khóa VII) ghi rõ: “Nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, tư nhân trong nông, lâm, ngư nghiệp...”. *Tháng 7-1993, luật đất đai mới được ban hành thay thế luật đất đai năm 1988: Ruộng đất được giao cho hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài. Người sử dụng đất có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất trong thời hạn được giao. Việc này đã tạo điều kiện cơ bản để kinh tế hộ chuyển sang một bước phát triển mới. *Tháng 11-1998, hội nghị Bộ Chính trị về nông nghiệp, nông thôn đã đề ra chủ trương khuyến khích các cá nhân, các hộ nông dân phát triển trang trại kể cả trang trại tư nhân có quy mô lớn. *Ngày 2-2-2000, Chính phủ ra nghị quyết 03/2000/NQ-CP về kinh tế trang trại nêu rõ: Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả khu vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; tạo việc làm, tăng thu nhập; khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo, phân bố lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới. Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất hình thành trang trại gắn liền với quá trình phân công lại lao động trong nông thôn, từng bước chuyển lao động sang các lĩnh vực phi nông nghiệp, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông thôn. 3.Xu hướng hình thành và phát triển kinh tế trang trại: a.Xu hướng hình thành: *Tùy điều kiện cụ thể từng nơi mà trang trại có thể được hình thành theo một trong các xu hướng chủ yếu sau: Các hộ nông dân đi xây dựng kinh tế mới hoặc các hộ nông dân địa phương được giao đất sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp với quy mô đủ lớn lập thành các trang trại nuôi trồng gia súc, thủy sản… Các hộ nông dân tập trung ruộng đất qua hình thức chuyển nhượng, trao đổi để có thể liền khoảnh, liền thửa, có quy mô ruộng đất đủ lớn tiến hành sản xuất theo hình thức trang trại. Đây là xu hướng phổ biến hiện nay, và đang là một trong những chủ trương của Đảng và nhà nước trong chiến lược cải cách ruộng đất. Các tổ chức, cá nhân nhận thầu diện tích đất của nhà nước lập trang trại chăn nuôi, nuôi trồng… Một số ít người ở thành thị về nông thôn nhận chuyển nhượng đất, thuê đất lập trang trại. b.Xu hướng phát triển: *Nhìn chung các trang trại ở nước ta sẽ phát triển theo xu hướng sau: Tích tụ và tập trung sản xuất: Sau khi hình thành các trang trại vẫn tiếp tục quá trình tích tụ nhằm tập trung sản xuất nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Quá trình này chủ yếu là tích tụ vốn, đầu tư thâm canh, ứng dụng khoa học công nghệ và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Chuyên môn hóa sản xuất: Do trang trại là sản xuất hàng hóa nên chuyên môn hóa là điều kiện cần thiết, là xu hướng phát triển của kinh tế trang trại. Tuy nhiên chuyên môn hóa phải kết hợp với đa dạng hóa nhằm sử dụng đầy đủ các điều kiện nguồn lực sản xuất của trang trại, hạn chế tối đa những rủi do có thể xáy ra: biến động thị trường, thiên tai, dịch bệnh… Nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh sản xuất: Để trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa và nâng cao hiệu quả sản xuất đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh sản xuất. Đồng thời đây cũng là điều kiện cần thiết để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Hợp tác và cạnh tranh: Trong quá trình sản xuất kinh doanh các trang trại cũng phải hợp tác với các trang trại khác, các đơn vị sản xuất kinh doanh khác để cùng nhau giải quyết vấn đề mà một trang trại thì không thể làm được hoặc giả quyết kém hiệu quả. Đồng thời các trang trại cũng phải cạnh tranh với các trang trại kinh doanh cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực sản xuất với mình để đảm bảo hàng hóa của mình sản xuất ra có thể tiêu thụ hết, muốn vậy phải không ngừng nâng cao năng suất,chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất. 4.Một số nhân tố hình thành và phát triển kinh tế trang trại: a.Các tiềm năng về điều kiện tự nhiên: *Vị trí địa lý: Hà Nội nằm giữa trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, giáp với Thái Nguyên ở phía Bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông và đông nam, giáp Vĩnh Phúc ở phía tây, Hà Tây ở phía nam. Dạng địa hình chủ yếu của Hà Nội là đồng bằng được bồi đắp bởi các dòng sông với các bãi bồi đại, bãi bồi cao và các bậc thềm. Xen giữa các bãi bồi đại và các bãi bồi cao còn có các vùng trũng với các hồ, đầm (dấu vết của các lòng sông cổ) .  Phần lớn diện tích Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với độ cao trung bình từ 15m đến 20m so với mặt biển.  Còn lại chỉ có khu vực đồi núi ở phía bắc và phía tây bắc của huyện Sóc Sơn thuộc rìa phía nam  của dãy núi Tam Đảo có độ cao từ 20m đến hơn 400m, đỉnh Chân Chim cao nhất là 462m. *Khí hậu: Khí hậu Hà Nội là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít. Nằm trong vùng nhiệt đới, Hà Nội quanh năm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời  dồi dào và có nhiệt độ cao. Do chịu ảnh hưởng của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn.        • Trung bình hằng năm, nhiệt độ không khí 23,6oC, độ ẩm 79%, lượng mưa 1245 mm.       • Mỗi năm có khoảng 114 ngày mưa. Hà Nội có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Sự luân chuyển của các mùa làm cho khí hậu Hà Nội thêm phong phú, đa dạng và có những nét riêng.        • Từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa hè: nóng và thi thoảng có mưa rào.        • Từ tháng 9 đến tháng 11 là mùa thu. Thời tiết khô ráo, trời cao, xanh ngắt, gió mát, nắng vàng.        • Từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau là mùa đông: Thời tiết lạnh, khô ráo.        • Từ tháng 2 đến tháng 4 là mùa xuân: Cây cối xanh tốt với hàng ngàn loài hoa khoe sắc.  • Nhiệt độ thấp nhất là 2,70C (tháng 1/1955).  • Nhiệt độ cao nhất: 42,80C(tháng 5/1926). *Sông ngòi: Hà Nội là thành phố gắn liền với những dòng sông, trong đó sông Hồng là lớn nhất. Sông Hồng bắt đầu từ dãy Ngụy Sơn (Trung Quốc), ở độ cao 1776m, chảy theo hướng tây bắc - đông nam vào Việt Nam từ Lào Cai và chảy ra vịnh Bắc Bộ. Sông Hồng chảy qua Hà Nội dài khoảng 30 km. Đê sông Hồng được đắp từ năm 1108, đoạn từ Nghi Tàm đến Thanh Trì, gọi là đê Cơ Xá. Ngày nay sông Hồng ở Việt Nam có 1267 km đê ở cả hai bên tả, hữu ngạn. Độ cao mặt đê tại Hà Nội là 14 m so với mặt nước biển.       Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình 100 triệu tấn/năm. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp cá giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ. b.Các tiềm năng về kinh tế- xã hội: Có nhiều tiềm năng thúc đẩy việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại như: đất đai, vốn, nguồn nhân lực, hệ thống cơ chế chính sách, hệ thống cơ sở hạ tầng, khoa học-kỹ thuật…nhưng ở đây em chỉ xem xét một số tiềm năng dưới đây: *Tiềm năng đất đai: Đất đai là nguồn lực quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành và phát triển của kinh tế trang trại. Mục đích chủ yếu của trang trại là sản xuất hàng hóa, trang trại hoạt động sản xuất tập trung với quy mô ruộng đất và các yếu tố khác là tương đối lớn vì vậy đối với trang trại đất đai có vai trò hết sức quan trọng. Vai trò của chúng được thể hiện trên các mặt: -Đất đai hoạt động với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt tham gia vào quá trình sản xuất, nhất là các sản phẩm của ngành trồng trọt. Nó không chỉ quyết định quy mô của trang trại như thế nào mà còn quyết định trang trại kinh doanh loại sản phẩm nào, chất lượng ra sao. Các trang trại chăn nuôi tuy cần ít diện tích đất đai hơn nhưng cũng cần có diện tích quy hoạch bãi chăn thả, trồng trọt để làm thức ăn cho gia súc. -Đất đai còn là chỗ dựa, địa điểm tổ chức xây dựng các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp, hoặc các công trình phục vụ cho quá trình hậu sản xuất nông nghiệp như làm xưởng chế biến, nhà kho… Đất đai có một số đặc điểm cơ bản sau: -Đất đai là sản phẩm của tự nhiên đồng thời là sản phẩm của xã hội: Đất đai là sản phẩm của tự nhiên vì đất đai có trước con người, đất đai được sử dụng vào trong các ngành và trong đời sống xã hội là sản phẩm của quá trình biến đổi lý hóa và các tác động tự nhiên. Đất đai là sản phẩm của xã hội vì con người đã khai phá, chiếm hữu đất đai, dùng đất đai vào hoạt động sản xuất nông nghiệp tạo ra của cải. Trong quá trình đó con người làm giảm độ màu mỡ của chúng. Đất đai hiện tại là sự kết tinh sức lao động của nhiều thế hệ qua quá trình canh tác, cải tạo và sử dụng chúng. -Đất đai có hạn về số lượng và khả năng tái tạo của đất đai là không có giới hạn: Đất đai có vị trí cố định và có hạn về số lượng, vì nó là lớp bề mặt của vỏ trái đất. Đất đai có hạn về mặt số lượng đối với mỗi cơ sở kinh doanh, mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Tuy nhiên, do có khả năng tái tạo nên đất đai có sự biến động về chất lượng mặc dù thường xuyên được sử dụng phục vụ các mục đích khác nhau của con người. Khả năng tái tạo của đất thể hiện ở độ phì của đất. Đây là yếu tố quyết định đến chất lượng đất, nó là tổng hợp các điều kiện đảm bảo cho cây sinh trưởng và phát triển. -Chất lượng đất đai không đồng nhất và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên của từng vùng: Chất lượng của đất phụ thuộc vào độ phì của đất, độ phì của đất phị thuộc vào nguồn gốc của đất và khả năng tái tạo đất đai của con người khi sử dụng. Những nhân tố trên không đồng nhất với nhau nếu xét trên phạm vi toàn thế giới, trong mỗi quốc gia hay trong mỗi vùng. Ngoài ra, sự biến động và khai thác độ phì phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng vùng, điều kiện tự nhiên các mùa khác nhau thì khác nhau đồng thời chúng cũng khác nhau theo từng vùng. *Tiềm năng về vốn: Khái niệm về vốn của trang trại: -Vốn sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền giá trị của tất cả các yếu tố sản xuất được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh trang trại. Vốn là yếu tố xuất hiện đầu tiên và các yếu tố khác trên cơ sở đó mới xuất hiện được và quá trình sản xuất kinh doanh mới có thể thực hiện được. Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn được vận động theo quá trình lưu thông và quay trở lại quá trình sản xuất tiếp theo. Do đó về phương diện tài, quản lý vốn trong sản xuất kinh doanh thực chất là quá trình quản lý tiền vốn sao cho nó mang lại hiệu quả và hiệu xuất sinh lời cao nhất. -Vốn của trang trại có thể tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau, trong đó hình thái dễ nhận biết nhất của vốn là tiền mặt được sử dụng làm tiền vốn trong kinh doanh. Tuy nhiên, phần lớn vốn của trang trại tồn tại dưới các hình thái hiện vật. Đó là giá trị của các tư liệu sản xuất sử dụng trong sản xuất kinh doanh của trang trại như: bất động sản, nhà xưởng, giá trị các sản phẩm đang trong quá trình sản xuất dở dang. Ngoài ra vốn còn có thể là các sản phẩm sau khi thu hoạch đang trong quá trình dự trữ, bảo quản hoặc sản phẩm đang trong quá trình tiêu thụ. Những đặc điểm của vốn: -Trong sự cấu thàn vốn cố định, ngoài những tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật còn có cả những tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học như cây lâu năm, súc vật làm việc, súc vật sinh sản. Trên cơ sở tính quy luật sinh học, các tư liệu lao động này thay đổi giá trị sử dụng của mình khác với các tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật. -Sự tác động của vốn sản xuất vào quá trình sản xuất và hiệu quả kinh doanh không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua đất, cây trồng, vật nuôi. Cơ cấu và chất lường của vốn sản xuất phải phù hợp với yêu cầu từng loại đất đai, từng đối tượng sản xuất là sinh vật. -Chu kỳ sản xuất dài và tính thời vụ trong nông nghiệp, một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển vốn chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn cố định, tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kế trong thời gian tương đối dài của vốn lưu động và làm cho vốn ứ đọng, mặt khác tạo ra sự cần thiết về khả năng tập trung hóa cao về phương tiện kỹ thuật trên một lao động nông nghiệp so với công nghiệp. -Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào nhiều điều kiện tự nhiên nên việc sử dụng vốn gặp nhiều rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn. -Một bộ phận sản phẩm của trang trại không qua lĩnh vực lưu thông mà được chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân trang trại, do vậy vòng tuần hoàn vốn được chia làm vòng tuần hoàn đầy đủ và vòng tuần hoàn không đầy đủ. *Tiềm năng về lao động: Lao động là hoạt động có mục đích của con người thông qua công cụ lao động tác động đến đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng thành của cải vật chất cần thiết cho nhu cầu của con người. Từ khái niệm trên, ta có thể thấy vai trò quan trọng của lao động: -Lao động là điều kiện chủ yếu cần thiết cho nhu cầu của con người, là cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong bất cứ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng đều có lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Sản xuất kinh doanh không thể tiến hành được nếu thiếu đối tượng lao động và tư liệu lao động, tuy nhiên, nếu không có lao động của con người thì cũng không thể phát huy được tác dụng của tư liệu sản xuất. Thông thường chủ trang trại thường phân biệt lao động trong trang trại gồm hai mặt: -Về số lượng, nguồn lao động trong trang trại là tổng số người có khả năng lao động thực sự tham gia lao động trực tiếp hoặc gián tiếp vào các hoạt động sản xuất của trang trại. Nếu nhìn nhận theo khía cạnh độ tuổi có lao động trong độ tuổi và lao động ngoài độ tuổi lao động, theo khía cạnh trình độ chuyên môn có lao động kỹ thuật và lao động giản đơn. -Về chất lượng, nhuông lao động trong trang trại cũng được hiểu theo nhiều khía cạnh. Ở khía cạnh cá nhân, chất lượng nguồn lao động thể hiện ở phẩm chất, sức khỏe, kỹ năng… của người lao động. Ở khía cạnh tập thể, chất lượng nguồn lao động thể hiện ở trình độ hợp tác lao động, sự hợp tác của các cá nhân với toàn tập thể trong quá trình lao động đạt hiệu quả cao. Lao động trong trang trại gắn chặt với đất đai, điều kiện tự nhiên và cây trồng vật nuôi, công cụ lao động… vì vậy lao động trong trang trại cũng có những đặc điểm nhất định: -Trình độ, kỹ năng, nhận thức của người lao động trong trang trại nói chung là còn thấp. Đặc biết đối với những trang trại ở trung du, miền núi, vùng đồng bằng xa trung tâm. Lao động thuê ngoài chủ yếu là lao động thủ công, thậm chí nhiều chủ trang trại cũng có trình độ văn hóa và kiến thức kỹ thuật rất thấp. -Địa điểm lao động của người lao động trong các trang trại thường phân tán do sản xuất nông nghiệp có địa bàn không gian rộng, thậm chí nhiều trang trại còn có những khu đất cách xa nhau. -Ở nước ta hiện nay, trang trại gia đình chiếm tỷ trọng lớn, vì vậy trang trại vẫn sử dụng lao động gia đình là chính ngoài ra còn thuê thêm nột số lao động thường xuyên hoặc thời vụ, những người được thuê mướn chủ yếu là người địa phương có quen biết hoặc có quan hệ họ hàng với chủ trang trại, do đó đây không phải là mối quan hệ chủ thợ và bị chi phối nhiều bởi tình cảm cá nhân. *Tiềm năng về cơ chế chính sách: Có nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau về cơ chế chính sách: “chính sách là một hệ thống quan điểm, chủ trương, biện pháo và quản lý được thể chế hóa bằng pháp luật của nhà nước để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước”. Ở đây, chính sách nông nghiệp nông thôn được hiểu là tổng thể các biện pháp kinh tế và nhung biện pháp khác của nhà nước tác động đến nông nghiệp nông thôn và các ngành, các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến nông nghiệp, nông thôn nhằm đạt được những mục tiêu nhất định với những điều kiện nhất định trong một thời gian xác định. Hệ thống chính sách nông nghiệp, nông thôn có vai trò hết sức quan trọng trong quản lý nhà nước về nông nghiệp nông thôn và được thể hiện trên các mặt sau: -Tạo lập các môi trường pháp lý và kinh tế khuyến khích nông nghiệp, nông thôn phát triển phù hợp với mục tiêu phát triển của nông nghiệp, nông thôn qua từng giai đoạn. - Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn đúng đắn là động lực thúc đẩy và khơi dậy mọi tiềm năng các chủ thể sản xuất kinh doanh cũng như huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như vốn, khoa học công nghệ, đất đai và lao động... trong nông nghiệp, nông thôn. -Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn có tác động thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, nông thôn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như ở Hà Nội. -Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn có tác động trực tiếp đến người sản xuất, điều chỉnh cơ cấu sản xuất, khai thác tiềm năng đất đai, lao động và điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phát triển nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng nông thôn theo hướng hiện đại. -Điều tiết, hạn chế sự phát triển không phù hợp; xóa bỏ những xu hướng phát triển mang tính tiêu cực trong ngành, ở những địa phương trong những thời điểm nhất định. -Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện cho sự phát triển sản xuất hàng hoá và các thành phần kinh tế, nâng cao đời sống của nông dân. -Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn làm cơ sở cho các biện pháp khác được thực thi có hiệu quả. -Phát huy vai trò dân chủ, kết hợp giữa phát triển nông nghiệp với kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Như vậy, chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn có vai trò rất quan trọng, là yếu tố bao trùm có tác động mạnh mẽ và đảm bảo sự thành công của các chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và kinh tế xã hội nói chung. Sản xuất nông nghiệp nói chung và trang trại nói riêng được tiến hành trên một không gian rộng lớn, phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện tự nhiên, do đó các đặc điểm của chính sách phát triển trang trại cũng chịu sự chi phối của các đặc điểm nông nghiệp, nông thôn: -Các chính sách đối với trang trại thường mang tính hỗ trợ là chủ yếu. Bởi vì sản xuất trang trại nói riêng, sản xuất nông nghiệp nói chung có điền kiện sản xuất khó khăn hơn các ngành, lĩnh vực khác. Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp vừa tạo ra các sản phẩm hữu hình vừa tạo ra các sản phẩm vô hình là những sản phẩm chưa được sự bù đắp chi phí của xã hội hoặc sự bù đắp chi phí chưa thỏa đáng. -Các chính sách nông nghiệp, nông thôn có tính vùng, tính khu vực rõ rệt. Điều này đòi hỏi trong phát triển kinh tế trang trại ở các vùng khác nhau phải có những chính sách hỗ trợ tương úng. -Đôi khi một chính sách nông nghiệp có cả tính kinh tế và tính phi kinh tế. Bởi vì nông thôn có cả những vấn đề kinh tế và xã hội đan xen, hòa quyện vào với nhau, trong đó những vấn đề xã hội rất bức xúc và cớ nhiều điểm đặc thù. -Tổ chức triển khai văn bản chính sách phụ thuộc vào các đặc điểm tâm lý, tập quán của người nông dân, của nguồn lao động trong nông thôn. Người nông dân do tập quán canh tác đã tạo ra tâm lý thực dụng, vì vậy các chính sách tác động phải có những biện pháp tổ chức thích hợp thì mới mang lại hiệu quả như mong muốn. *Tiềm năng về khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ là tập hợp từ bao gồm 2 phạm trù khoa học khác nhau: - Khoa học theo nghĩa chung nhất (như mọi người đều thống nhất) là hệ thống những kiến thức, hiểu biết của con người về quy luật vận động và phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy. -Công nghệ là sự chuyển hoá những tri thức của khoa học thành các phương thức và phương pháp sản xuất, vật chất hoá những tri thức khoa học vào trong các công cụ lao động, đối tượng lao động, trong quy trình công nghệ hoặc kết tinh lại thành kỹ năng nhằm chuyển hoá các nguồn lực thành một loại sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó phục vụ nhu cầu con người. Đối với nông nghiệp, nông thôn khoa học công nghệ thể hiện vai trò của mình một cách rõ nét hơn: - Khoa học công nghệ cho phép con người hiểu biết ngày càng rõ hơn các quy luật của tự nhiên, từ quy luật của thời tiết khí hậu, quy luật hình thành và vận động của đất đai, đến các quy luật về đồng hoá và dị hoá, về sinh trưởng và phát triển của cây trồng vật nuôi.… Nhờ đó nông nghiệp có những tác động phù hợp với quy luật sinh học của sản xuất nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. Hiểu biết các quy luật tự nhiên, đặc biệt là các quy luật thời tiết, khí hậu con người còn có thể né tránh và khắc phục những tác động tiêu cực, khai thác những tác động tích cực để kinh doanh nông nghiệp ngày càng hiệu quả nhưng không tác động xấu đến môi trường sống. -Khoa học và công nghệ với nội dung chế tạo các công cụ sản xuất đã tạo ra các điều kiện vật chất để nông nghiệp, nông thôn có thể nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất đồng thời làm thay đổi phương thức lao động, tạo những điều kiện đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phân công lao động nông nghiệp, nông thôn... Đặc điểm của khoa học công nghệ nông nghiệp, nông thôn: -Khoa học công nghệ nông nghiệp, nông thôn khá phức tạp và đa dạng. Nông nghiệp, nông thôn là ngành sản xuất vật chất đa dạng và phức tạp do đối tượng sản xuất là những cơ thể sống, lại đa dạng về chủng loại với chu kỳ sản xuất và các đặc tính kinh tế-kỹ thuật không giống nhau. -Khoa học và công nghệ nông nghiệp, nông thôn có tính vùng và tính địa phương: Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên có tính vùng rõ nét. Do đó không thể có một quy trình công nghệ chung cho tất cả các vùng. Hơn nũa việc đổi mới khoa học công nghệ cũng chịu ảnh hưởng của tập quán sản xuất và sinh sống của mỗi dân tộc, mỗi địa phương khác nhau đòi hỏi khoa học công nghệ cũng phải phù hợp. -Đối tượng áp dụng khoa học và công nghệ nông nghiệp, nông thôn là nông dân, bộ phận dân cử có thu nhập thấp: Trong bất cứ thời điểm phát triển nào thì nông dân vẫn là bộ phận dân cư có thu nhập thấp trong xã hội. Hơn nữa ngành nông nghiệp là ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp, rủi ro cao hơn so với các ngành kinh tế khác. Do đó, việc áp dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất còn nhiều khó khăn và bất cập. - Tính đa dạng của các loại hình công nghệ trong nông nghiệp: Xét mối quan hệ tiến bộ khoa học- công nghệ, có hai loại hình công nghệ. Một loại gọi là công nghệ thâm canh nhằm nâng cao năng suất sinh vật và năng suất kinh tế trên mỗi đơn vị diện tích. Loại thứ hai gọi là công nghệ cơ giới hoá và tự động hoá, chủ yếu nhằm nâng cao hiệu suất công việc tiết kiệm thời gian lao động trong mỗi khâu công việc, giảm bớt hao phí lao động sống. Lựa chọn sự kết hợp hai loại công nghệ nói trên như thế nào là tuỳ thuộc mỗi giai đoạn phát triển của ngành nông nghiệp ở từng vùng khác nhau để đáp ứng nhu cầu xã hội; nhu cầu rút bớt lao động nông nghiệp để phát triển các ngành dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn; vấn đề giải quyết việc làm và thu nhập… *Tiềm năng về công nghiệp hóa._.-hiện đại hóa nông thôn: Công nghiệp hoá (CNH) nông nghiệp, nông thôn là một quá trình với nội dung chủ yếu là: -Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn (thực hiện các cuộc cách mạng về cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, điện khí hoá...) tạo các điều kiện nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm trong nông nghiệp, khai thác hợp lý các nguồn lực. -Phát triển các công nghiệp chế biến để công nghiệp hoá các sản phẩm nông nghiệp vừa khắc phục các hạn chế về đặc điểm sinh học của sản xuất nông nghiệp, vừa nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm. Phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ nâng cao đời sống vật chất tinh thần ở nông thôn. Giai đoạn tiếp theo của quá trình CNH là thực hiện đại hóa (HĐH). Thực chất HĐH là CNH ở trình độ cao hơn, là quá trình xây dựng và phát triển các ngành kinh tế trên cơ sở áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, trong điều kiện tiến bộ khoa học và công nghệ diễn ra đồng bộ, toàn diện, nhanh chóng và sâu sắc ở tất cả các yếu tố của công nghệ như: Công cụ lao động, năng lượng, vật liệu, phương pháp công nghệ ở tất cả các ngành của nền kinh tế cũng như trong nông nghiệp, nông thôn. Trong điều kiện mới, ngày nay CNH ở nhiều nước đã gắn chặt với HĐH và trở thành quá trình CNH, HĐH. Vì vậy, trong nội dung của CNH có chứa đựng những yếu tố của HĐH, thực hiện CNH đồng thời với HĐH nền kinh tế. Từ những khái niệm cơ bản về khoa học công nghệ và về CNH, HĐH nền kinh tế cũng như nông nghiệp, nông thôn chúng ta có thể thấy rõ, vị trí và vai trò của khoa học công nghệ trong CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. *Tiềm năng về đô thị hóa nông thôn: Đô thị hoá có nghĩa và phạm vi rất rộng, có thể nêu ra một số khía cạnh của đô thị hoá sau: -Đô thị hoá đó là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hóa là một quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị. Đồng thời phát triển các vùng đô thị hiện có theo chiều sâu. -Đô thị hóa là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác động đến đô thị hóa cũng thay đổi và xã hội sẽ phát triển trong điều kiện mới mà biểu hiện tập trung là sự thay đổi cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động. -Đô thị hóa nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật, là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho nông thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…). Thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững. -Đô thị hóa ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của Thành phố do kết quả phát triển công nghiệp và cơ sở hạ tầng, tạo ra các cụm đô thị, liên đô thị… góp phần đẩy nhanh đô thị hóa nông thôn. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa -Điều kiện tự nhiên: Trong thời kỳ kinh tế chưa phát triển mạnh mẽ thì đô thị hóa phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Những yếu tố tự nhiên như địa hình, tính chất thổ nhưỡng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của đô thị hoá. Nếu trong điều kiện của 2-3 thập kỷ trước, Hà Nội khó có thể có những khu đô thị cao tầng mọc lên trong điều kiện thổ nhưỡng của Hà Nội. -Trình độ phát triển kinh tế, điều kiện xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất là điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là tiền đề cho đô thị hóa. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong khu vực nông nghiệp của nền kinh tế sẽ tạo ra quá trình đô thị hóa nông thôn. -Văn hóa dân tộc: Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng của mình và nền văn hóa đó có ảnh hưởng đến tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội… nói chung và hình thái đô thị nói riêng. Một số tiêu chí cơ bản đánh giá trình độ đô thị hóa: -Các chỉ tiêu định lượng: Các chỉ tiêu đô thị/1 người: Diện tích cây xanh, diện tích đất đường giao thông, diện tích các công trình công công, diện tích nhà, nước, điện… GDP (hoặc giá trị sản xuất)/1 người. Trình độ dân trí. Số giường bệnh / 1.000 dân. Các công trình văn hóa /1.000 dân. Tổng số máy điện thoại /1000 dân. -Các chỉ tiêu định tính: Chất lượng hạ tầng kỹ thuật; chất lượng hạ tầng xã hội; trình độ văn minh đô thị, kiến trúc đô thị, môi trường… II.THỰC TRẠNG CÁC TIỀM NĂNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HÀ NỘI: 1.Quá trình hình thành kinh tế trang trại ở Hà Nội: Cùng với cả nước, Hà Nội đã tích cực triển khai các nghị quyết của Đảng và Chính phủ như Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5/4/1988, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VI của Ban chấp hành trung ương khóa VI tháng 3/1989 và nghị quyết số 03/2000/NQ-CP của Chính phủ ngày 2/2/2000. Thành ủy Hà Nội đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành như chỉ thị 12/CT-TW, đối với từng đơn vị sản xuất nông nghiệp. Các chính sách này đã đáp ứng nhu cầu trực tiếp, tạo ra động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ nông nghiệp, nông thôn phát triển trong đó có kinh tế trang trại. Năm 1992 Thành ủy đã xây dựng chương trình 06 về phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới, trong đó tập trung chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp hướng xây dựng vùng chuyên canh gắn với cơ sở chế biến, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển, phát triển ngành nghề nông thôn. Tiếp sau đó là Chương trình 12 về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội với nhiều nội dung quan trọng, trong đó có phát triển kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác xã. Đến năm 2001, Hà Nội vẫn tiếp tục thực hiện nghị quyết 03/2000/NQ-CP của chính phủ về phát triển trang trại. Nhờ đó đã tạo ra xung lực mới cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển góp vào thắng lợi của nền nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội nói chung trong những năm đổi mới. Theo số liệu tổng hợp của Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội, đến năm 2005, Hà Nội có 401 trang trại (kể cả một số xã nay đã trở thành phường của 2 quận mới Long Biên, Hoàng Mai). Trong số đó có 104 trang trại trồng trọt (chiếm 25,93%), 127 trang trại thuỷ sản (chiếm 34,67%), 158 trang trại chăn nuôi (chiếm 39,40%), 12 trang trại sản xuất dịch vụ khác (chiếm 2,99%). 2.Thực trạng các tiềm năng của kinh tế trang trại ở Hà Nội: a.Thực trạng tiềm năng đất đai của trang trại: Ngoại thành Hà Nội có quy đất nông nghiệp hạn hẹp và ngày càng bị thu hẹp do tác động của đô thị hoá. Vì vậy, đất đai không được coi là thế mạnh của phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội. Qua điều tra khảo sát, thực trạng đất đai được xem xét trên các khía cạnh sau : -Quy mô đất đai của trang trại: Bình quân chung các trang trại điều tra, mỗi trang trại có 35.792,9 m2 đất tự nhiên, trong đó, đất thổ cư 14,78%, đất canh tác 40,38%, đất chăn nuôi 1,93%, diện tích mặt nước 41,34% và đất kinh doanh tổng hợp 11,64%. Tuy nhiên, quy mô diện tích bình quân của trang trại ở các huyện và theo phương hướng kinh doanh khác nhau cũng chênh lệch nhau, tuy không lớn. -Xét theo huyện: Sóc Sơn là huyện có diện tích bình quân 1 trang trại lớn nhất. Bình quân diện tích của trang trại Sóc Sơn là 41.551,6 m2, trong khi ở các huyện khác bình quân diện tích đất của trang trại đạt khoảng 35.000m2. -Xét theo phương hướng kinh doanh: Nhóm trang trại có hướng sản xuất, kinh doanh chính là trồng trọt có tỉ trọng đất nông nghiệp là chủ yếu. Ngược lại, nhóm trang trại lâm nghiệp thì tỉ trọng đất lâm nghiệp cao, được thể hiện qua bảng 1. -Nguồn gốc đất đai của trang trại: Nguồn gốc các loại đất để phát triển trang trại rất đa dạng: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp do Nhà nước giao, cho thuê theo quy định hiện hành; đất công nhân viên, hộ nông dân nhận khoán, thầu của lâm trường hay thuê của tư nhân, đất chuyển đổi, chuyển nhượng. Bảng 1: Bình quân diện tích đất của trang trại năm 2005 ĐVT: m2 Chỉ tiêu Đất tự nhiên Trong đó Đất thổ cư Đất canh tác Đất chăn nuôi D. tích mặt nước NTTS Đất KVDV tổng hợp 1. Tổng số 35.792,9 5291,3 14451,6 689,3 14796,5 4165,7 2. Theo hướng kinh doanh chính 35.792,9 5.291,3 14.451,6 689,3 14.796,5 41.165,7 - Trồng trọt 35.918,2 12821,5 12994,4 346,4 7515,6 18.359,7 - Chăn nuôi 30.562 3518,5 18217,1 760,1 7951,7 114,6 - NTTS 4.2928 2.799,6 11.782,4 854,7 2.7442 54,2 - Sản xuất, DV tổng hợp khác 5516,8 750,8 1264 1200 3.490 - b.Thực trang tiềm năng vốn của trang trại ở Hà Nội: Vốn cho phát triển kinh tế trang trại của Hà Nội có nhiều thuận lợi hơn các địa phương khác, do các trang trại có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn. Nguồn vốn của bản thân các chủ trang trại cũng có nhiều tiềm năng hơn các chủ trang trại ở nơi khác. Bình quân 1 trang trại có số vốn là 272 triệu đồng vốn. Trong đó, vốn tự có chiếm sấp xỉ 80%, khoảng 20% là vốn vay. Vốn vay dựa vào nhiều nguồn rất đa dạng, trong đó vay từ ngân hàng chiếm tỷ trọng khá lớn khoảng 39%, từ các nguồn như: dự án (15%), khác (43%). Bảng 2: Tổng hợp vốn của trang trại ở Hà Nội năm 2005 Đơn vị: triệu đồng Loại hình Số trang trại điều tra Tổng cộng Bình quân 1 trang trại Trồng trọt 49 9459.2 193.04 Chăn nuôi 97 25842.9 266.42 NTTS 161 40254 250.02 Tổng hợp 62 21879.9 352.90 Lâm nghiệp 32 11623.9 363.25 Tổng cộng 401 109060 272.65 (Nguồn: Báo cáo thực trạng phát triển kinh tế trang trại Hà nội.) Trung bình vốn vay của mỗi trang trại là 54,4 triệu đồng. Vốn vay được chia thành những loại sau: - Phân loại vốn vay theo nguồn gốc: Vay từ ngân hàng: Tổng số tiền vay là 3.350,5 triệu đồng chiếm 33% số vốn vay bình quân mỗi trang trại vay từ ngân hàng 7,65 triệu đồng/năm. Vay từ các HTX tín dụng: Tổng số tiền vay là 248 triệu đồng chiếm 2,46%. Vay dự án: Tổng số tiền vay là 743,5 triệu đồng chiếm 7,39%. Vay khác: Tổng số tiền là 5.722,7 triệu đồng chiếm 56,86%. Vốn vay chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn, đứng thứ 2 sau vốn tự có nhưng qua khảo sát cho thấy sự phân bố không đồng đều, gây mất cân bằng trong việc phát triển trang trại sản xuất nông sản hàng hoá giữa các vùng. Huyện Sóc Sơn là một huyện nghèo nhưng vốn huy động rất thấp, chỉ chiếm 8,5%. - Phân loại vốn vay theo thời gian: Chủ yếu là vốn vay ngắn hạn (54%), tỷ lệ vốn trung hạn và dài hạn chiếm ít (19% và 27%). c.Thực trang tiềm năng lao động của trang trại ở Hà nội: *Chủ trang trại: Trong tổng số các trang trại được khảo sát thì có 82,14% số chủ trang trại là nam giới. Độ tuổi bình quân của chủ trang trại tương đối trẻ. Số chủ trang trại từ 50 tuổi trở lên chỉ chiếm 28,57%. Các chủ trang trại ở Hà Nội xuất thân từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Trong đó chủ yếu là nông dân thuần tuý (chiếm 78,57%). Số chủ trang trại hiện đang là cán bộ cấp xã là 7,14%. Các loại khác (bộ đội, công an xuất ngũ, cán bộ, công nhân hưu trí công chức và công nhân đang làm việc…) chỉ chiếm từ 5% trở xuống. Về chuyên môn, nghiệp vụ, đa số chủ trang trại chưa qua đào tạo (chiếm 71,43%). Phần còn lại chủ yếu có trình độ công nhân kỹ thuật. *Lao động của trang trại: Tính bình quân, mỗi trang trại có 5,2 khẩu, trong đó có 2 lao động. Riêng ở huyện Từ Liêm là 5 khẩu, 3 lao động còn lại các huyện khác đạt xấp xỉ mức bình quân chung. Mức sử dụng thời gian lao động ở trang trại hiện nay đạt thấp, tính chung chỉ sử dụng 68,24% thời gian làm việc bình quân. Xem xét ở từng huyện, mức sử dụng thời gian lao động của trang trại cao nhất là huyện Gia Lâm và Thanh Trì đạt khoảng 76%, thấp nhất là ở huyện Sóc Sơn đạt 60%. *Thuê mướn lao động: Hầu hết các trang trại có thuê thêm lao động thường xuyên và thời vụ. Tính bình quân mỗi trang trại thuê thêm 5 lao động (1,7 lao động thường xuyên và 3,3 lao động thời vụ/mỗi năm). Tiền công thuê lao động thường xuyên bình quân 455 ngàn đồng/tháng, thuê lao động thời vụ bình quân khoảng 22,7 ngàn đồng /ngày. có một số điểm đáng lưu ý sau đây: Các chủ trang trại của mọi loại hình trang trại đều thuê thêm lao động thời vụ, lao động kỹ thuật đã qua đào tạo và chưa qua đào tạo. Chỉ có trang trại của các chủ trang trại là công chức đương chức là không thuê thêm lao động đã qua đào tạo. Các trang trại của nông dân có thuê thêm lao động thời vụ đã qua đào tạo chiếm 51% số lao động thuê thời vụ. Theo ngành nghề kinh doanh chủ yếu thì việc thuê lao động đã qua đào tạo của các chủ trang trại cũng khác nhau. Đối với lao động thuê thường xuyên, có 25% số người được thuê có chuyên môn về trồng trọt, 15% số người có chuyên môn về chăn nuôi, 60% số người có chuyên môn về nuôi trồng thuỷ sản. Đối với lao động thuê thời vụ, chủ yếu là những người có chuyên môn về chăn nuôi và trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản. d. Thực trang ảnh hưởng của cơ chế chính sách đến phát triển kinh tế trang trại ở Hà nội: *Trong những năm đổi mới, cùng với cả nước Hà Nội đã có nhiều chuyển biến trong cơ chế chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung, kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác xã nói riêng. -Chương trình 06/CTr-TU của Thành uỷ Hà Nội nhiệm kỳ XI, đã nhấn mạnh: “Đổi mới tổ chức, cải tiến quản lý hợp tác xã, giảm cán bộ quản lý hợp tác xã, đồng thời nâng cao chất lượng cán bộ và cải tiến cơ bản phương pháp quản lý và điều hành… Khuyến khích thành lập các hợp tác xã, các tổ sản xuất, các hình thức hợp tác theo ngành hoặc chuyên khâu theo nguyên tắc liên kết tự nguyện. Sắp xếp lại các đơn vị quốc doanh, tách chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ thực vật và thú y ra khỏi các công ty dịch vụ cây trồng và vật nuôi huyện; củng cố các cơ sở sản xuất giống cây trồng và gia súc; giải thể những đơn vị sản xuất kinh doanh không có hiệu quả; cổ phần hoá một số đơn vị quốc doanh hoặc thành lập công ty theo luật công ty. Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân mượn đất, thuê đất và cơ sở vật chất để phát triển sản xuất, chế biến nông sản, thực phẩm, dịch vụ. Khôi phục và phát triển sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở nông thôn, duy trì các làng nghề thủ công truyền thống”. -Kế hoạch thực hiện Nghị quyết TW 5 của UBND thành phố đã đề ra “Đổi mới quản lý các tổ chức hiện có, phát triển mạnh mẽ kinh tế nhiều thành phần, trong đó đổi mới kinh tế, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên. Kiên trì nguyên tắc đa dạng hoá sản xuất: từng hộ xã viên có thể tham gia thêm các hình thức hợp tác khác theo công đoạn, theo khâu hoặc theo ngành nghề sản xuất khác. Phát triển mạnh mẽ các hình thức tổ chức sản xuất khác, như doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ hợp liên kết sản xuất theo hình thức tự nguyện. Khuyến khích những hộ có vốn kể cả ở nội thành đầu tư thuê đất mở mang lập nghiệp ở nông thôn. Khuyến khích tổ chức khuyến nông tự nguyện…”. -Chương trình 12/CTr-TU của Thành uỷ khoá XIII đã xác định tiếp tục “Củng cố quan hệ sản xuất định hướng XHCN phù hợp với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích các thành phần kinh tế, tập trung phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại nông hộ, tiến hành giao đất, giao rừng, chuyển đổi thửa đất để tạo điều kiện cho nông dân yên tâm đầu tư và phát triển sản xuất hàng hoá. Tăng cường phát triển kinh tế hợp tác với loại hình phong phú. Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ công ích”. *Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành bằng cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn: -Để tạo điều kiện cho các hộ gia đình nông dân chủ động sản xuất, thành phố đã cơ bản giao xong đất ổn định, lâu dài và cấp giấy chứng nhận ở những vùng ổn định sản xuất nông nghiệp, được 171.371 giấy. Trong nông thôn, đã có 9.962 hộ cá thể chuyên hoặc hộ nông nghiệp kiêm hoạt động tiểu thủ công nghiệp. -Ngoài ra, thành phố cũng đã khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển, đã có 17 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, 14 tổ hợp tác đứng ra sản xuất-kinh doanh tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn. -Mặc dù đất đai chật hẹp, đã có 483 trang trại nông nghiệp với đa dạng loại hình chăn nuôi, trồng trọt, thuỷ sản…phát triển, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn về thực phẩm cho Hà Nội. *Tác động của chính sách đến việc hình thành của trang trại: - Ở Hà Nội, cơ chế chính sách đã tác động rất mạnh mẽ đến sự hình thành của các trang trại. Sự tác động của Nhà nước có vai trò to lớn đối với sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại ở Hà Nội thông qua các chương trình phát triển kinh tế, đặc biệt là các chính sách có liên quan đến giao đất, giao rừng (đối với sự hình thành các trang trại lâm nghiệp và trồng cây ăn quả ở Sóc Sơn) ; các chính sách triển khai các văn bản pháp luật về đất đai (đối với sự hình thành các trang trại nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây ăn quả ở 4 huyện còn lại và một số trang trại ở các xã đồng bằng của Sóc Sơn; các chính sách về vốn, về giống tạo, các chương trình Sind hoá đàn bó, nạc hoá đàn lợn, chăn nuôi bò sữa, chăn nuôi gia cầm tập trung đã hình thành nên các trang trại chăn nuôi ở vùng ngoại thành. *Tác động tới việc phát triển của trang trại: Môi trường pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại ở Hà Nội phát triển. Được thể hiện qua các điểm sau: -Thừa nhận địa vị pháp lý của kinh tế trang trại theo đúng bản chất vốn có của nó là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở, một bộ phận hợp thành của hệ thống nông nghiệp. Tiếp theo, điều có ý nghĩa quan trọng là bằng các văn bản pháp quy, quy định rõ khung khổ pháp lý phù hợp cho các trang trại hoạt động, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển. -Định hướng cho sự phát triển kinh tế trang trại thông qua quy hoạch phát triển và ban hành các chính sách kinh tế- xã hội. -Khuyến khích kinh tế trang trại thông qua sử dụng các đòn bẩy kinh tế và phát triển các hình thức liên kết kinh tế phục vụ cho kinh tế trang trại phát triển. -Hỗ trợ nguồn lực cho sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại như hỗ trợ vốn, phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ kinh phí đào tạo chủ trang trại, hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật… *Tuy nhiên không chỉ có các ảnh hưởng tích cực, bản thân cơ chế chính sách vẫn còn những tiêu cực tới kinh tế trang trại: -Các chính sách chậm được ban hành. Nhiều chính sách của Nhà nước chưa được, hoặc không đủ điều kiện để đưa vào cuộc sống trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. -Việc triển khai thực hiện các chính sách còn nhiều hạn chế.Có chính sách đã ban hành nhưng không thể triển khai được đã làm ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế trang trại. e.Thực trang tiềm năng khoa học công nghệ của trang trại ở Hà nội: *Do xác định được tiềm năng lớn về khoa học và công nghệ nông nghiệp có thể khai thác, chuyển giao và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất, Hà Nội đã ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện cho các hoạt động ngiên cứu chuyển giao và ứng dụng khoa học và công nghệ. -Nhờ có chính sách trợ giá để duy trì các loại giống gốc, hay các loại giống mới, cũng như đầu tư cho hoạt động khuyến nông nên hàng năm các đơn vị sản xuất giống Hà Nội đã cung ứng trên 5.000 con lợn giống; 20.000 - 25.000 liều tinh dịch lợn ngoại; 150 - 200 bò sữa giống; 250 tấn lúa lai; 350 tấn lúa nguyên chủng và hàng ngàn tấn lúa cấp 1; Từ 4 - 5 triệu giống gia cầm; 20 tấn hạt giống rau và 5 - 10 vạn hoa các loại; 28.000 tấn phân hoá học. Đặc biệt đã làm tốt công tác khuyến nông, tập huấn được hơn 28.000 nông dân, dùng Quỹ khuyến nông cho vay 80 hộ nông dân trong thâm canh thuỷ sản, chăn nuôi, trồng hoa cây cảnh, rau an toàn và chế biến nông sản... Vì vậy, đã tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, giá trị thu được trên diện tích đất nông nghiệp đều tăng. Những chính sách trên đã tạo điều kiện để khoa học và công nghệ thực sự là nhân tố mới tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp của các huyện ngoại thành Hà Nội. -Dưới tác động của chính sách, nông dân đã áp dụng mạnh mẽ các giống mới, như lúa lai; ngô lai; các loại rau cao cấp: súp lơ, dưa chuột bao tử, ớt ngọt, cải bao, cải bó xôi trồng quanh năm; các giống hoa mới; cây ăn quả đặc sản bưởi Diễn, cam Canh... Đồng thời đã áp dụng công nghệ mới trong trồng hoa, rau, như trồng trong nhà lưới, che phủ nilon, dùng phân bón và thuốc trừ sâu vi sinh...trồng được nhiều loại rau trái vụ chất lượng cao nên cho giá trị cao hơn. Đặc biệt là rau an toàn được phát triển mạnh đảm bảo rau có chất lượng cao, không gây độc cho người tiêu dùng và làm sạch môi trường. Đã hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung về hoa, rau, và các trang trại phát triển. -Hà Nội đã đưa mạnh các giống lợn lai ngoại 3 máu, 4 máu có tỷ lệ nạc cao nên đến nay đã có 60% tổng đàn đạt tỷ lệ nạc cao (48 - 55% nạc). Tích cực Sind hoá đàn bò vừa lấy thịt và làm bò cái nền tạo bò sữa, thay thế đàn bò sữa kém chất lượng bằng các giống F1, F2, F3 cho năng suất sữa cao hơn, đạt bình quân 12 lít/ ngày. Các giống gà siêu thịt, siêu trứng; ngan Pháp... được chuyển giao mạnh vào sản xuất. Đặc biệt, trong thuỷ sản đã đưa các loại chất lượng và năng suất cao tôm càng xanh, cá chim trắng và cá rô phi đơn tính... nuôi trồng nên đã nâng cao hiệu quả rõ nét. Đã hình thành các vùng sản xuất tập trung bò sữa, lợn nạc, thuỷ sản ở tất cả các huyện ngoại thành. -Hiện nay, Hà Nội đã đầu tư xây dựng khu sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao: (Công ty giống cây trồng Hà Nội); đang triển khai xây dựng Xí nghiệp lợn giống ông bà (thuộc công ty Giống Gia súc Hà Nội); đang chỉ đạo xây dựng để phê duyệt các dự án kỹ thuật cao tại công ty Tam Thiên Mẫu…. *Tuy nhiên, chính sách khuyến khích chuyển giao và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ở Hà Nội còn tản mạn, chưa tập trung vào những cây - con mũi nhọn có lợi thế, như: hoa - cây cảnh, rau an toàn, bò sữa, lợn nạc, thuỷ sản. Trong đó, chưa đầu tư thích đáng vào xây dựng hệ thống giống chất lượng cao về hoa, rau, bò sữa, thuỷ sản để nâng cao giá trị và hàm lượng chất xám trong sản phẩm, phát huy lợi thế nông nghiệp Thủ đô. Mặt khác, chính sách chưa quan tâm đến khuyến khích chuyển giao và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, hiệu quả sản xuất... Đặc biệt, Hà Nội chưa có trung tâm nông nghiệp công nghệ cao một cách đồng bộ, đủ tiềm lực sản xuất để cung cấp cho thị trường khối lượng lớn sản phẩm chất lượng cao về hoa, cây cảnh, các giống thuỷ sản, gia súc... đáp ứng nhu cầu trong thành phố, các tỉnh bạn và có xuất khẩu. Công nghệ sản xuất cơ bản vẫn còn lạc hậu, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học để tạo giống cây trồng, vật nuôi, bảo quản và chế biến sau thu hoạch…Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong nông nghiệp, nông thôn còn có mặt hạn chế nên năng suất lao động và chất lượng của nhiều loại nông sản còn thấp, chưa đủ sức mạnh cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới. Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới trong nông nghiệp còn chưa có tính hệ thống, đồng bộ trong quá trình sản xuất. Các cơ sở sản xuất giống cây trồng, lợn nạc, gà, bò sữa, thuỷ sản tuy đã được nâng cấp nhưng quy mô còn bé, thiếu tính đồng bộ thành hệ thống giống và hiện đại. Với điều kiện canh tác manh mún hiện nay ở các nông hộ, việc áp dụng các công nghệ cao, như công nghệ tưới phun, tưới nhỏ giọt, mô hình trồng cây trong nhà lưới quanh năm, chủ động điều tiết tiểu môi trường… để tạo ra sản phẩm chất lượng cao là rất khó khăn. Do vậy, nhiều sản phẩm như hoa, cây ăn quả chất lượng còn hạn chế, diện tích rau canh tác theo quy trình kỹ thuật an toàn còn chưa đáp ứng so nhu cầu thị trường đề ra. *Nhìn chung, việc áp dụng khoa học công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều bất cập. Việc áp dụng, cập nhập giống mới được tiến hành nhiều nhất trong thuỷ sản. Trong trồng trọt, chăn nuôi mức độ áp dụng thấp hơn. Đó là do các giống mới trong trồng trọt, chăn nuôi hiện nay có hiệu quả tương đương nhau, chưa xuất hiện những giống mới thực sự nổi bật. Có thể ví dụ đối với hoa các loại. Trong vài năm gần đây, các trang trại trồng hoa ở Tây Tựu vẫn tập trung ở một số loại hoa nhất định, chưa xuất hiện những giống mới có tính chất đột phá. -Các khâu khác còn thấp hơn. Trong đó thấp nhất là phân bón hoá học, thuốc trừ sâu và thuốc thú y. Đây là những khâu cần phải có tỷ lệ khoa học công nghệ mới cao hơn. f.Thực trang tiềm năng công nghiệp hóa-hiện đại hóa của trang trại ở Hà nội: Mặc dù sản xuất nông nghiệp Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, nhưng trình độ về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) mới chỉ bắt đầu ở một số lĩnh vực như về giống cây trồng, vật nuôi. Hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ tưới, tiêu, đã thu được hiệu quả rất rõ rệt, bước đầu cho thấy xu hướng vận động đúng đắn, phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, theo hướng sản xuất hàng hoá có chất lượng cao. *Thực hiện tập trung hoá, và chuyên môn hoá cho các loại sản phẩm nông nghiệp chủ yếu của Hà Nội đó là: thâm canh rau xanh, hoa, quả, lúa, ngô chăn nuôi: lợn, gà, bò, bò sữa, và cá. -Đã hình thành ngày càng nhiều các khu vực tập trung sản xuất chuyên cây, chuyên con như vùng trồng rau ở Văn Đức - Gia Lâm, Nam Hồng - Bắc Hồng - Đông Anh; Vùng trồng hoa Tây Tựu - Từ Liêm, Uy Nỗ, Xuân Nội - Đông Anh; Vùng cây ăn quả tập trung ở 12 xã của Đông Anh, 3 xã của Từ Liêm và 9 xã vùng gò đồi của Sóc Sơn…. Vùng chăn nuôi lợn nái ở: Việt Hùng, Cổ Loa, Dục Tú, Nam Hồng (Đông Anh), vùng Trung Màu, Phù Đồng, Yên Thường (Gia Lâm). Vùng chăn nuôi bò sữa ở Phù Đổng - Gia Lâm, nuôi thả cá ở các xã vùng trũng Đông Mỹ, Đại áng của Thanh Trì.... -Các vùng sản xuất tập trung được đầu tư theo hướng hiện đại hóa từ hệ thống giao thông nội đồng, thuỷ lợi, hệ thống tưới tiêu, nhà lưới… Tuy nhiên do đặc thù của sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội là đất canh tác ít, dân số nông nghiệp đông, sản xuất phân tán, manh mún diễn ra từ nhiều năm, do đó quá trình tập trung hoá, và chuyên môn hoá trong sản xuất nông nghiệp Hà Nội có tính đặc thù riêng. Và xu hướng phát triển chủ yếu là tập trung đầu tư tăng giá trị sản phẩm trên đơn vị sản xuất. *Thực hiện thuỷ lợi hoá, kiên cố hoá các hệ thống công trình thuỷ lợi: -Hệ thống thủy lợi được đầu tư củng cố, phát triển, phục vụ ngày càng tốt hơn cho nền sản xuất nông nghiệp thâm canh. Hiện nay trên địa bàn 5 huyện ngoại thành và 2 quận mới đang quản lý 418 trạm gồm 664 máy bơm tưới các loại có công suất từ 1000 - 81000 m3/h. -Hệ thống thuỷ lợi đảm bảo 74% diện tích được tưới và 40% diện tích được tiêu chủ động (có nhiều hồ chứa lớn nhỏ và 1.247 km kênh mương cấp I và cấp II thực hiện nhiệm vụ tưới cho 35.033 ha, tiêu 19050 ha phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh xã hội). -Quá trình thuỷ lợi hoá được mở rộng trong những năm gần đây, khi Nhà nước có chủ trương bê tông hoá kênh mương. Tỷ lệ cứng hóa đạt 100% với kênh loại I, 47% đối với kênh loại II và 26% đối với kênh loại III. *Quá trình cơ giới hoá trong nông nghiệp: -Cơ khí hóa trong nông nghiệp Hà Nội nhìn chung diễn ra chậm. Hiện nay đã có 45% diện tích đất được sử dụng máy, tưới chủ động đạt 70%, khâu thu hoạch lúa gần 100% được cơ khí hóa. Khâu vận chuyển đạt 40%, trong đó máy kéo lớn trên 12 CV trung bình mới có 0,24 cái/100 ha đất, máy kéo nhỏ dưới 12 CV trung bình 2,28 cái/100 ha đất canh tác. Xe ô tô vận tải, công nông có 8,41 cái/100 ha đất canh tác. Máy bơm nước có 433,2 cái/100 ha đất canh tác. Những công việc còn lại như : gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch chủ yếu làm thủ công. -Nguyên nhân của tình trạng cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp còn thấp là do: Đa số có qui mô sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún. Nền sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển và trình độ nhận thức về khoa học công nghệ còn thấp. Mức sống của đa số hộ nông dân còn nghèo, dư thừa lao động và đa số chưa có khả năng đầu tư vào trang thiết bị cơ giới phục vụ cho sản xuất. *Việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp tương đối rộng rãi và bước đầu đem lại hiệu quả cụ thể -Trong khâu giống cây trồng, vật nuôi : 100% giống được chọn lọc, bồi dục tốt, trong đó tỷ lệ giống ưu thế lai, với ngô đạt 60%, gà : 79%, lợn : 100%, trong đó lợn nạc tỷ lệ cao đạt 50%, bò sữa 80%... -Các kỹ thuật tiên tiến trong thâm canh cây trồng vật nuôi được áp dụng rộng rãi, như kỹ thuật bón phân, thức ăn tổng hợp, phòng trừ dịch, bệnh, kỹ thuật tưới nước, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau, hoa có chất lượng cao v.v... đã góp phần tăng năng suất, sản lượng, và giá trị sản phẩm. *Hạn chế của lĩnh vực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội ở chỗ : -Chưa có tính hệ thống, và thiếu tính liên hoàn trong cả quá trình của sản xuất. -Lĩnh vực bảo quản và chế biến sau thu hoạch chưa phát triển. -Tập quán sản xuất truyền thống, kinh nghiệm còn quá phổ biến, trong khi các mô hình sản xuất tiên tiến với các công nghệ mới, theo xu hướng áp dụng công nghiệp trong nông nghiệp lại chưa có, đã hạn chế rất lớn tới hiệu quả và qui mô sản xuất nông nghiệp. g.Thực trạng ảnh hưởng của yếu tố đô thị hóa đến kinh tế trang trại ở Hà Nội: *Nhìn chung, sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tới kinh tế trang trại tập trung trên các mặt: mất đất, mở rộng thị trường, cải thiện cơ sở hạ tầng và ô nhiễm môi trường. -Mất đất và ô nhiễm môi trường đã ảnh hưởng xấu đến quá trình sản xuất của trang trại. Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất của trang trại, còn môi trường thì ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm nông nghiệp, đây là vấn đề đang được người tiêu dùng quan tâm nhất hiện nay. -Việc mở rộng thị trường và cải tạo cơ sở hạ tầng sẽ đem lại hiệu quả tốt cho kinh tế trang trại nếu biết tận dụng những lợi thế mà nó mang lại. Nó làm cho việc giao thương buôn bán, tiêu thụ hàng hóa trở nên thuận lợi, do đó vấn đề đầu ra của người sản xuất không những được giải quyết mà người sản xuất thậm chí còn thu được lợi nhuận lớn hơn trước. *Nhìn chung, quá trình đô thị hóa nông nghiệp đem lại những lợi ích sau đây: -Quá trình đô thị hóa đã thúc đẩy người sản xuất chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và buộc phải tính đến lợi thế so sánh giữa các hoạt động sản xuất trên diện tích đất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp. -Đô thị hóa phát triển cũng đòi hỏi phải nâng cao sản lượng cũng như chất lượng nguồn thực phẩm cung cấp từ ngoại thành cho đô thị mà vấn đề an toàn sản phẩm nông ngh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36055.doc
Tài liệu liên quan