LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn mười năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã mang một bộ mặt hoàn toàn mới. Trên khắp mọi miền đất nước, những nhà máy xí nghiệp khu công nghiệp cùng những toà nhà cao tầng hiện đại đang mọc lên ngày càng mạnh mẽ như sức phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế. Cùng với công cuộc “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của đất nước và nỗ lực của chính phủ để thu hút đầu tư và khuyến khích phát triển, nhiều ngành công nghiệp mới đã ra đời và không ngừng mở rộng quy
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh Doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty Bảo Minh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mô sản xuất. Đời sống nhân dân đều đã được nâng cao, số đầu các loại xe cơ giới cũng vì đó tăng nhanh một cách chóng mặt cùng với yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên có một điều dễ nhận thấy đó là hạ tằng cơ sở đường xá ở nước ta còn rất kém phát triển, còn nhiều tuyến đường chật hẹp kém chất lượng. Mật độ dân số ngày càng tăng cùng với ý thức tham gia giao thông của người dân còn rất kém là những lý do mà tai nạn giao thông đang là vấn đề nhức nhối trong những năm vừa qua.
Cùng với việc nâng cao hạ tầng cơ sở giao thông trong những năm tới thì việc nâng cao ý thức tham gia giao thông của người dân là vấn đề mà nhà nước ta đang rất quan tâm giảI quyết. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là một biện pháp vừa bảo vệ quyền lợi của người tham gia giao thông lại vừa nâng cao ý thức của người tham gia giao thông một cách hữu hiệu. Tuy nhiên hiện nay hàng năm số xe tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự ngày càng tăng nhưng tỷ lệ so với số xe tham gia lưu thông trên thực tế vẫn còn thấp. Điều này đang khuyến khích những công ty bảo hiểm nâng cao thị phần của mình đối với nghiệp vụ này. Sự cạnh tranh này diễn ra rất gay gắt làm cho thị trường trở nên sôI động.
Đầu năm 2006 một hoạt động gây được sự chú ý của thị trường đó là chương trình khuyến mãI “HáI lộc đầu xuân” của công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh. Điều này cho thấy sự quyết tâm của lãnh đạo công ty trong chiến lược kinh doanh của mình trong nghiệp vụ bảo hiểm này.
Sau một thời gian thực tập tại công ty Bảo Minh Hà Nội là một công ty con của công ty cổ phần Bảo Minh và trong thời gian thực hiện chương trình khuyến mãI của công ty đã kích thích tôI tìm hiểu nghiên cứu về nghiệp vụ này tại công ty. Đó chính là lý do mà tôI đã chọn đề tài “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty Bảo Minh Hà Nội”.
Do kiến thức thực tế còn có hạn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của các thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em cũng xin được cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú anh chị trong phòng khai thác số 3 công ty Bảo Minh Hà Nội, đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo TS Mạc Văn Tiến đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15/4/2006
Sinh viên thực hiện
Đào Duy Cảnh
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
I. NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA.
1. Khái niệm trách nhiệm dân sự .
Trước tiên ta đI tìm hiểu về thuật ngữ “trách nhiệm dân sự ”. Theo bộ luật dân sự Việt Nam thì trách nhiệm dân sự là sự phát sinh trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Mỗi người đều có quyền và nghĩa vụ dân sự riêng của mình. Theo đó mỗi người có nghĩa vụ không xâm phạm quyền dân sự của người khác mà pháp luật đã quy định và ngược lại người khác cũng không được xâm phạm quyền dân sự của mỗi người. Nếu một người xâm phạm đến quyền dân sự của người khác thì họ sẽ phải có trách nhiệm với người có quyền dân sự mà anh ta vừa xâm phạm. Trách nhiệm ở đây thường là trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại mà anh ta đã gây ra. Pháp luật bảo vệ người có quyền dân sự trong trường hợp này và người có trách nhiệm phải bồi thường cho người có quyền. Nó được thể hiện là một trách nhiệm bắt buộc phải thực hiện và được coi là biện pháp cưỡng chế người có trách nhiệm phải thực hiện. Vậy ta có thể hiểu thuật ngữ trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bắt buộc phải bồi thường thiệt hại của người gây ra thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với người bị thiệt hại, và trách nhiệm này được luật pháp bảo vệ.
2. Bảo hiểm trách nhiệm.
Trong cuộc sống, mọi người dân mọi tổ chức luôn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành động của mình. Theo nguyên tắc thì một người khi gây ra thiệt hại cho một người khác thì phải chịu trách nhiệm với những việc mình đã gây ra.
Nhìn chung trong thực tế rất dễ phát sinh trách nhiệm dân sự đối với mỗi cá nhân và tổ chức. Đối với mỗi cá nhân có rất nhiều nguyên nhân làm phát sinh trách nhiệm pháp lý. Đơn cử một người nuôI vât nuôI, nhưng con vật đó của anh ta cắn người gây hậu quả hay phá hoại tài sản của người khác thì anh ta phải có trách nhiệm đền bù thiệt hại mà vật nuôI của anh ta đã gây ra cho xã hội. Một người láI xe, xe ôtô của anh ta gây tai nạn làm thiệt hại về tài sản và tính mạng của người khác thì tất yếu anh ta phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Cũng giống như trường hợp của người láI xe thì những người làm công tác chuyên môn như bác sĩ, luật sư, đầu bếp… cũng phải chịu trách nhiệm đối với công việc của mình.
Đối với các tập thể, ngoài những trách nhiệm mà các cá nhân trong tập thể phải chịu thì cũng có rất nhiều lý do phát sinh trách nhiệm trong tập thể. Các tập thể phải chịu trách nhiệm với những việc làm của tập thể mình khi nó ảnh hưởng tới xã hội. Ví dụ một doanh nghiệp khi thảI các chất thảI ra môI trường nó làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của người khác hoặc ảnh hưởng tới việc làm ăn của các doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp đó phải chịu trách nhiệm với thiệt hại mà doanh nghiệp mình đã gây ra… Ngoài ra doanh nghiệp đó cũng phải có trách nhiệm đối với cán bộ công nhân viên của mình. Chủ lao động phải có trách nhiệm bồi thường về chi phí y tế bồi dưỡng đối với người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp, hay tai nạn lao động trong quá trình lao động tại doanh nghiệp mình.
Khi các trách nhiệm pháp lý phát sinh thì nó tất yếu dẫn đến thiệt hại về tài chính cho các cá nhân hay các tổ chức đặc biệt là các doanh nghiệp. Và những trách nhiệm đó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy bảo hiểm trách nhiệm đã ra đời để hỗ trợ cho các doanh nghiệp các cá nhân. Các doanh nghiệp cần phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm để khi phát sinh trách nhiệm pháp lý họ sẽ được các công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại về trách nhiệm dân sự.
3. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Trước hết ta cần biết xe cơ giới là tất cả các loại xe có động cơ lưu thông trên đường bộ. Như vậy có thể thấy loại xe này rất dễ gây phát sinh trách nhiệm dân sự trong khi lưu thông trên đường. Khi xe gây ra tai nạn thì tất yếu nảy sinh trách nhiệm dân sự. Khi đó chủ xe hay trong một số trường hợp là người điều khiển xe là người phải thực hiện trách nhiềm bồi thường cho người mà anh ta gây tai nạn. Đó có thể là trách nhiệm đền bù về tài sản, thu nhập bị giảm sút do tai nạn thậm trí là tinh thần của người bị tai nạn.
Về nguyên tắc người có quyền sở hữu đối với phương tiện được gọi là chủ xe. Nhìn chung họ là những người đứng tên trên giấy đăng kí xe. Thông thường người điều khiển xe là chủ xe. Tuy nhiên trong một số trường hợp người điều khiển xe không phải là chủ xe. Đó có thể là người nhà của chủ xe hoặc có thể là người đI thuê xe hoặc là người làm công ăn lương theo một hợp đồng lao động(láI xe cho một công ty hay một doanh nghiệp vận tải…). Khi có tai nạn xẩy ra thì người chịu trách nhiệm bồi thường thông thường là chủ xe mặc dù có thể họ không phải là người trực tiếp điều khiển xe. Trường hợp xe được giao quyền sử dụng khai thác xe cho người khác( trường hợp thuê xe) thì người phải chịu trách nhiệm đối với pháp luật trong trường hợp này là người thuê xe. Để xem xét kĩ hơn về trách nhiệm của người phải chịu khi tai nạn xảy ra, ta xem xét những trường hợp đặc biệt mà pháp luật đã quy định:
- Người láI xe do chủ xe thuê mướn trong hợp đồng lao động gây tai nạn trong trường hợp anh ta dùng xe vào việc riêng tức là ngoài giờ lao động hay không làm theo nhiệm vụ công tác… thì trường hợp này pháp luật quy định người bồi thường vẫn là chủ xe nhưng chủ xe vẫn được quyền đòi trách nhiệm của người láI xe.
- Trường hợp chủ xe cho mượn xe. Trường hợp này người mượn xe để sử dụng sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên trường hợp người chủ xe cho mượn cả láI xe thì người phải chịu trách nhiệm trước pháp luật sẽ là chủ xe chứ không phải là người đI mượn xe. Pháp luật cũng không can dự vào việc người đI mượn xe có đứng ra bồi thường cho người bị hại hay hỗ trợ chủ xe bồi thường thiệt hại hay không.
- Tai nạn xảy ra khi xe lưu thông không được sự cho phép của chủ xe. Khi đó người điều khiển xe sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này. Tuy nhiên trường hợp chủ xe có lỗi trong việc để người khác chiếm dụng xe như quên khoá xe.. trong trường hợp này người chủ xe cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường.
- Tai nạn do người ở tuổi vị thành niên gây ra. Theo luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, cha mẹ hoặc người đỡ đầu của trẻ sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của đứa trẻ mà mình nuôI dạy. Điều 611 của bộ luật dân sự cũng qui định: trẻ chưa đủ tuổi 15 thì cha mẹ hoặc người đỡ đầu sẽ phải bồi thường. Trong trường hợp người tuổi từ 15 đến 18 gây thiệt hại thì sẽ phải bồi thường bằng tài sản của mình. Nếu tài sản không đủ để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cũng giống như các loại bảo hiểm trách nhiệm khác. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là việc chuyển giao trách nhiệm bồi thường cho công ty bảo hiểm. Người mua bảo hiểm nộp phí bảo hiểm cho công ty bảo hiểm, đổi lại công ty bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người bị thiệt hại một phần thiệt hại do tai nạn gây ra đồng thời sẽ giảI quyết phần trách nhiệm pháp lý với người mua bảo hiểm trước pháp luật.
Trên thế giới bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường được thực hiện một cách bắt buộc đối với các loại xe lưu thông trên đường. Tại Việt Nam bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng được thực hiện bắt buộc với tất cả các loại xe cơ giới nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia giao thông.
Là một bộ phận trong bảo hiểm trách nhiệm nên bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cũng mang một số đặc điểm đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm:
3.1 Đối tượng bảo hiểm mang tính trưu tượng
Đối tượng bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm là phần trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại, do đó rất trừu tượng. Hơn nữa, trách nhiệm đó là bao nhiêu cũng không xác định được ngay lúc tham gia bảo hiểm. Thông thường trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có đủ ba điều kiện sau:
▪ Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba
▪ Có hành vi trái pháp luật của cá nhân hay của tổ chức
▪ Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của cá nhân hay của tổ chức và thiệt hại của bên thứ ba
Mức độ thiệt hại do trách nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn toàn do sự phán xử của toà án. Thông thường, thiệt hại này được tính dựa trên mức độ lỗi của người gây ra thiệt hại và thiệt hại của bên thứ ba. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có những trường hợp toà án sẽ không căn cứ vàp mức độ lỗi để phán sử, mà căn cứ vào khả năng tài chính của người gây ra thiệt hại. Những trường hợp này thườn hay gặp ở các nước áp dụng hệ thống luật gọi theo tên tiến Anh là common law, ví dụ như ở nước Mỹ
3.2 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường được thực hiện dưới hình thức bắt buộc.
Bảo hiểm trách nhiệm, ngoài việc đảm bảo ổn định tài chính cho người được bảo hiểm, còn có mục đích khác là bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân, bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. Do vậy, loại hình bảo hiểm này thường được thực hiện theo hình thức bắt buộc. Nhìn chung, các bảo hiểm trách nhiệm thực hiện bắt buộc có liên quan đến ba nhóm hoạt động chủ yếu sau:
▪ Những hoạt động có nguy cơ gây tổn thất cho nhiều nạn nhân trong cùng một sự cố (kinh doanh vận chuyển hành khách, sử dụng gas lỏng)
▪ Những hoạt động mà chỉ cần có một sơ xuất nhỏ cũng có thể dẫn đến thiệt haịo trầm trọng về người (hoạt động của bác sĩ, sử dụng các dược phẩm)
▪ Những hoạt động cung cấp dịch vụ trí tuệ có thể gây thiệt hại lớn vè tài chính (môi guới bảo hiểm, tư vấn pháp luật)
Dưới đây là một số loại hình bảo hiểm trách nhiệm được thực hiện bắt buộc ở một số nước trên thế giới
Bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc ở một số nước trên thế giới
Nước
Các loại hình bảo hiểm bắt buộc
Pháp
- Bảo hiểm trách nhiệm của kiến trúc sư, luật sư, củ thầu xây dựng, kiển toán, đại lý bảo hiểm, đại lý du lịch, công chứng viên
- Bảo hiểm trách nhiệm của cửa hàng dược phẩm
- Bảo hiểm trách nhiệm đối với hoạt động truyền máu, hoạt động nghiên cứu y sinh
Đức
- Bảo hiểm trách nhiệm của kiến trúc sư, công chứng viên, thám tử
- Bảo hiểm trách nhiệm đối với hoạt động tư vấn thuế, kiểm toán, chế biến thực phẩm
Indonesia
- Bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe đối với thương tật và chết gây ra cho bên thứ ba
- Chương trình bồi thường cho người lao động gồm cả hưu trí và sức khoẻ
Macao
- Bảo hiểm trách nhiệm của chỉ xe đối với bên thứ ba
- Bảo hiểm bồi thường cho người lao động
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của đại lý du lịch
- Bảo hiểm trách nhiệm công cộng trong việc quảng cáo bằng đèn nê-ông
Nguồn: Điều tiết và kiểm soát bảo hiểm ở châu Á OECD. 1999
Bảo hiểm bắt buộc về trách nhiệm dân sự ở Châu Âu. Nguyễn Ngọc Định, Nguyễn Tiến Hùng. Tạp chí Tài chính tháng 11/1999.
Ở Việt Nam, Luật kinh doanh Bảo hiểm ban hành ngày 22/12/2000 đã nêu các bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc bao gồm:
▪ Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, bảo hiểm TNDS của người vận chuyển hàng không đối với hành khách;
▪ Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật;
▪ Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
3.3. Có thể áp dụng giới hạn trách nhiệm hoặc không.
Bởi vì thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh chưa thể xác định được ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm và thiệt hại đó có thể là rất lớn. Bởi vậy, để nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm thường đua ra giới hạn trách nhiệm, tức là các mức bồi thường tối đa của bảo hiểm (số tiền bảo hiểm ). Nói cách khác, thiệt hại trách nhiệm dân sự có thể rất lớn nhưng công ty bảo hiểm không bồi thường toàn bộ thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh đó mà chỉ khống chế trong phạm vi số tiền bảo hiểm.
Hạn mức trách nhiệm được áp dụng trong hầu hêt các nghiệp vụ bảo hiểm TNDS: Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm TNDS của chủ sử dụng lao động với người lao động, Trách nhiệm của chủ hãng vận chuyển đối với hành khách, hàng hoá… Nhưng cũng có một số nghiệp vụ bảo hiểm TNDS không áp dụng giới hạn trách nhiệm (thiệt hại TNDS phát sinh bao nhiêu, công ty bảo hiểm bồi thường bấy nhiêu), ví dụ như nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ tàu.
II. SỰ CẦN THIẾT VÀ TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA.
1. Sự cần thiết của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Từ xa xưa đến nay, trong bất kì một thời kì lịch sử cũng như trên bất kì một quốc gia nào, giao thông đều có một vai trò vô cùng quan trọng. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội và sự tiến bộ của xã hội nói chung. Có thể nói ở đâu kinh tế phát triển thì ở đó giao thông cũng rất phát triển và ở đâu muốn phát triển kinh tế xã hội thì ưu tiên hàng đầu bao giờ cũng phải là giao thông. Ta có thể thấy tầm quan trọng của giao thông vận tảI nếu ví nền kinh tế của một quốc gia là một cơ thể thì giao thông là mạch máu chính yếu để cơ thể tồn tại và phát triển được.
Cùng với sự phát triển giao thông vận tảI cũng như sự phát triển kinh tế nói chung trong những năm vừa qua Việt Nam đang từng bước phát triển cơ sở hạ tầng giao thông và hoàn thiện hệ thống giao thông của nước nhà. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7% mỗi năm cùng với sự tăng với tốc độ chóng mặt của các loại xe cơ giới cộng với sự gia tăng không đều với hệ thông đường giao thông đã đặt ra rất nhiều vấn đề bất cập đối với giao thông nước nhà. Có thể nói tai nạn giao thông cũng đang là một vấn đề vô cùng nhức nhối đối với các nhà quản lý. Cho dù Đảng và Nhà Nước có rất nhiều biện pháp mạnh cũng như các biện pháp tuyên truyền để tăng cường ý thức của người tham gia giao thông nhưng hàng ngày vẫn có hàng trăm vụ tai nạn giao thông lớn nhỏ làm chết bình quân 60 mỗi ngày và bị thương hàng trăm người. Nếu tính một năm thì con số này lại còn lớn hơn rất nhiều. Riêng năm 2002 xảy ra 27.134 vụ làm chết 12.800 người và bị thương 30.733 người. Năm 2003 số vụ tai nạn xảy ra là 19.852 vụ làm chết 11.319 người. Có thể nói năm 2003 số vụ tai nạn giao thông đã giảm hẳn cả về số vụ và số người chết cũng như bị thương. Năm 2004 số vụ tai nạn giao thông có giảm khoảng còn 14.725 vụ, số người chết là 10.658 người, số người bị thương là 18.954 người.Có được đIều này là do các cấp đã đẩy mạnh tăng cường các biện pháp làm giảm tai nạn giao thông. Tuy nhiên đến năm 2005 là năm mà số vụ tai nạn giao thông lại có dấu hiệu tăng nhanh trở lại. Trong năm này số vụ tai nạn xảy ra là 20.365 tăng 5.640 vụ so với năm 2004, làm chết 12.023 người tăng 1.365 người, bị thương 17.568 người. Đó là vấn đề đáng báo động với tình hình an toàn giao thông hiện nay. Ta có thể khái quát tình trạng tai nạn giao thông trong nước trong những năm vừa qua theo bảng báo cáo sau:
*Bảng 1. Tình hình tai nạn giao thông ở Việt Nam: từ 1999-2004.
Năm
Số vụ
Số người chết
Số người bị thương
2000
22.486
7.500
25.400
2001
25.040
10.477
29.188
2002
27.134
12.800
30.733
2003
19.852
11.319
20.400
2004
14.725
10.658
18.954
2005
20.365
12.023
17.568
(Nguồn: Tạp chí Bảo Hiểm năm 2005.)
Có thể thấy tai nạn giao thông là một vấn đề không chỉ còn là vấn đề của bất cứ một ngành một cấp nào nữa mà là vấn đề của toàn xã hội và đã trở thành một hiểm hoạ đối với cuộc sống của người dân và sự ổn định của mỗi quốc gia. Trước tình hình đó Đảng và Nhà Nước ta đã có rất nhiều biện pháp thực hiện nhằm hạn chế tai nạn giao thông như:
- Đẩy mạnh tuyên truyền về luật lệ an toàn giao thông để đánh mạnh vào ý thức tham gia giao thông của người dân trên các phương tiện thông tin đại chúng như chương trình “tôI yêu Việt Nam’ …
- Tổ chức tập huấn láI xe an toàn
- Bắt buộc đội mũ bảo hiểm trên các đường quốc lộ
- Thực hiện thi và cấp bằng láI xe một cách nghiêm chỉnh
- Cương quyết sử lý đối với các loại xe đã quá thời gian sử dụng, xe chở quá số người quy định, quá khổ, quá tải…
Tất cả các biện pháp trên nếu được thực hiện một cách thường xuyên và nghiêm chỉnh thì tai nạn giao thông cũng sẽ được hạn chế gia tăng một cách khá hữu hiệu. Tuy nhiên trong điều kiện đường xá còn kém phát triển, ý thức của người tham gia giao thông chưa thể thay đổi một sớm một chiều, đặc biệt là sự gia tăng một cách nhanh chóng của các loại xe cơ giới tham gia giao thông thì tai nạn giao thông vẫn còn là một mối lo thường trực và nó là một yếu tố đem đến thiệt hại lớn hàng năm cả về người và của.
Tai nạn giao thông một khi đã xảy ra thì thường mang đến những hậu quả rất lớn lao đối với mỗi cá nhân và mỗi doanh nghiệp. Nó có thể trực tiếp hay gián tiếp mang đến thiệt hại cho người tham gia giao thông. Người chủ phương tiện khi gây ra tai nạn thường phải đối mặt với trách nhiệm người bị tai nạn trước pháp luật. Phần lớn các vụ tai nạn nghiêm trọng chủ xe không có đủ khả năng tài chính để bồi thường cho người bị tai nạn. Có những láI xe khi gây ra tai nạn nghiêm trọng hay bỏ chạy hoặc bỏ trốn để trốn tránh trách nhiệm. Người bị tai nạn hoặc người nhà của họ khi tai nạn xảy ra cũng không có một nguồn tài chính nào đủ lớn để bù đắp những mất mát mà gia đình họ vừa phải gánh chịu.
Vấn đề là phải có một nguồn tài chính đủ lớn sẵn sàng giảI quyết những vấn đề phát sinh khi tai nạn giao thông xảy ra luôn là mối quan tâm lo lắng của người tham gia giao thông. Để đáp ứng nhu cầu đó, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba đã ra đời. Nó là một yêu cầu tất yếu khách quan để bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia giao thông và hạn chế một cách tối thiểu hậu quả của các vụ tai nạn giao thông đối với cuộc sống sinh hoạt cũng như làm ăn của người dân. Và hầu hết các quốc gia đã phát triển nghiệp vụ bảo hiểm này từ loại hình tự nguyện sang bắt buộc để bảo vệ quyền lợi của người tham gia giao thông.
3. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Tai nạn giao thông luôn là một thảm hoạ đối với mỗi gia đình mỗi
doanh nghiệp. Ngoài những thiệt hại những mất mát mà nó mang lại, việc giảI quyết những hậu quả mà tai nạn giao thông để lại luôn làm người ta đau đầu. Các tranh chấp giữa các bên về trách nhiệm và nghĩa vụ sau tai nạn thường kéo dài và mang lại nhiều vấn đề. Với sự có mặt của bảo hiểm trách nhiệm dân sự những phiền toáI này phần nào được giảI quyết. Ta có thể thấy được tác dụng rất lớn của bảo hiểm trách nhiệm dân sự không chỉ đối với người bị nạn và gia đình của họ mà còn đối với cả chủ xe và cho cả xã hội.
- Đối với chủ xe: bảo hiểm trách nhiệm dân sự tạo sự thoảI máI yên tâm cho người điều khiển xe khi các phương tiện tham gia giao thông. Khi có tai nạn xảy ra, đã có nhà bảo hiểm giảI quyết các vấn đề phát sinh trước pháp luật đồng thời hạn chế những thiệt hại về kinh tế cho người chủ xe. Việc mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng xe cũng thêm một lần nhắc nhở họ tham gia giao thông phải có ý thức trong việc hạn chế ngăn ngừa tai nạn.
- Đối với người thứ ba: Công ty bảo hiểm thay mặt chủ xe bồi thường cho người thứ ba những thiệt hại về tài chính một cách nhanh chóng và kịp thời để hỗ trợ và động viên họ trước tai nạn. Những hành động kịp thời đó sẽ giúp họ nhanh chóng ổn định về mặt tài chính cũng như tinh thần. Ngoài ra việc nhà bảo hiểm thay mặt cho chủ xe bồi thường cho người bị nạn sẽ tránh bớt căng thẳng giữa người nhà nạn nhân với người gây tai nạn.
- Đối với xã hội: việc các doanh nghiệp bảo hiểm giúp ổn định cho người tham gia giao thông trong sau khi tai nạn giao thông xảy ra đã góp phần rất lớn làm ổn định nền kinh tế và ổn định đời sống cho nhân dân. Ngoài ra một ý nghĩa rất quan trọng nữa của bảo hiểm trách nhiệm dân sự đó là một doanh nghiệp muốn kinh doanh có lãI thì công tác đề phòng hạn chế của doanh nghiệp luôn được quan tâm. Điều đó buộc doanh nghiệp phải có những biện pháp làm giảm tai nạn giao thông càng nhiều càng tốt. Vô hình chung những biện pháp đó sẽ giúp cho xã hội giảm được đáng kể các vụ tai nạn giao thông và hậu quả mà nó mang lại. Ngoài ra các doanh nghiệp còn mang lại cho ngân sách Nhà Nước một nguồn lợi không hề nhỏ hàng năm qua thuế.
4. Cơ sở của việc thực hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Như ta đã biết, nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba đã ra đời khá sớm trên thế giới. Nghiệp vụ này đã phát triển tương đối mạnh vào thế kỉ 18, 19 của thế kỉ trước ở những nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật… và đã được áp dụng bắt buộc từ những năm 40.
Những tác dụng to lớn của bảo hiểm trách nhiệm dân sự là rất rõ ràng và cần thiết đối với người tham gia giao thông. Tuy nhiên để được thực hiện bắt buộc thì không phải bao giờ cũng là việc tất nhiên. Bởi xưa nay người ta vẫn cho rằng bảo hiểm là loại hình dịch vụ tự nguyện của người dân, ai muốn tham gia thì đóng phí, còn người không muốn tham gia thì cũng không ép như bất kì một loại hình dịch vụ nào khác.
Tuy nhiên, có thể thấy hậu quả của tai nạn giao thông là vô cùng lớn đối với xã hội. Nó không chỉ ảnh hưởng tới người thứ ba mà còn là thảm hoạ đối với người chủ phương tiện. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự trước hết bảo vệ lợi ích của người bị nạn và gia đình họ. Nó cũng giúp người chủ xe cơ giới đối phó với trách nhiệm phải bồi thường cho gia đình người bị nạn và khắc phục hậu quả của vụ tai nạn. Vì vậy việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự không phải là chỉ vì lợi ích của người tham gia bảo hiểm mà còn vì lợi ích của toàn xã hội. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự cần phải được thực hiện một cách bắt buộc.
Không chỉ dừng lại ở việc bắt người chủ phương tiện phải tham gia một cách bắt buộc, luật pháp Việt Nam còn quy định các doanh nghiệp bảo hiểm phải chấp nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe theo đúng quy tắc , biểu phí và mức trách nhiệm được Bộ Tài Chính quy định không được phép thấp hơn. Doanh nghiệp cũng có thể tăng mức trách nhiệm dân sự theo yêu cầu của chủ xe.
Tư những cơ sở đó, ngày 10/3/1988 nghị định số 30/HĐBT đã quy định tất cả các loại xe cơ giới hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đều phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giơI đối với người thứ ba tại công ty bảo hiểm. Ngày 25/02/2003 bộ trưởng Bộ Tài Chính đã ban hành quyết định số 23/2003/QĐ -BTC thay thế nghị định trước để phù hợp với sự phát triển của đất nước.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA.
1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
1.1. Đối tượng bảo hiểm.
Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, người tham gia bảo hiểm thường là chủ phương tiện hoặc người đại diện cho một tổ chức một doanh nghiệp nào đó. Tuy nhiên đối tượng được bảo hiểm trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự lại chính là phần trách nhiệm dân sự của chủ xe. Đó là trách nhiệm bồi thường của chủ xe đối với người thứ ba là người mà anh ta gây thiệt hại khi chiếc xe của anh ta gây ra tai nạn. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự không chịu trách nhiệm với thiệt hại về mặt vật chất cũng như về mặt tính mạng sức khoẻ của chủ sử dụng xe. Hiện nay đối với một số trường hợp, công ty bảo hiểm có bán kèm theo bảo hiểm trách nhiệm dân sự có bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe, thì loại hình bảo hiểm này hoàn toàn tách khỏi bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Người tham gia loại bảo hiểm này là tự nguyện nếu có nhu cầu tham gia thì phải nộp thêm phí bảo hiểm.
Đối tượng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự không được xác định trước mà sẽ phát sinh sau khi tai nạn giao thông xảy ra. Đối tượng được bảo hiểm của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba có thể là sức khoẻ, tính mạng, tài sản… của người bị tai nạn. Các trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm trách nhiệm dân sự chỉ phát sinh khi có những điều kiện sau:
- Một là: có thiệt hại về tài sản tính mạng hay sức khoẻ của người thứ ba.
- Hai là: chủ xe hay láI xe phải có những hành vi tráI pháp luật có thể do vô tình hay cố ý láI xe vi phạm luật an toàn giao thông hay một số quy định khác của Nhà Nước
- Ba là: phải có mỗi quan hệ nhân quả giữa hành vi tráI pháp luật của chủ xe hoặc láI xe đối với những thiệt hại của người thứ ba. Có những hành vi tráI pháp luật nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại nhưng nó lại là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn thì cũng được coi là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật với thiệt hại thực tế. Có thể lấy ví dụ trường hợp một ôtô đang chạy nhanh trên đường thì có một chiếc xe máy chạy ngựơc chiều vào đường của chiếc xe ôtô. Người láI xe do bất ngờ và phải tránh chiếc xe máy đã đánh tay láI sang lề đường và không may gây tai nạn cho chiếc xe đạp đI bên đường. Như vậy nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn là lỗi của chiếc xe máy nhưng hành động của chiếc xe ôtô chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn cho người điều khiển xe đạp. vì thế hành vi của người láI xe ôtô đối với người đI xe đạp và thiệt hại về phía người đI xe đạp được coi là có mối quan hệ nhân quả với nhau.
- Bốn là: người điều khiển xe gây tai nạn phải là người có lỗi.
Trên thực tế không phải bao giờ người láI xe cũng là người có lỗi. Thường thì lỗi không chỉ thuộc về riêng một bên nào mà còn có thể do rất nhiều nguyên nhân khác mà người tham gia giao thông không thể lường trước được. Vì vậy khi tai nạn xảy ra thì trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm sẽ phát sinh khi 3 điều kiện đầu xảy ra.
2.2. Phạm vi bảo hiểm
Công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm cho các rủi ro mang tính bất ngờ và không lường trước được và có làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Đó là những thiệt hại sau:
- Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba;
- Thiệt hại về tài sản, hàng hoá& của bên thứ ba;
- Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập;
- Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn chế thiệt hại,; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả các biện pháp không mang lại hiệu quả);
- Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.
Công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh TNDS trong các trường hợp sau:
- Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại.
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ.
- Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ như:
+ Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường;
+ Lái xe không có bằng lái hoặc bằng bị tịch thu, bằng không hợp lệ;
+ Lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như: Rượu, bia, ma tuý…
+ Xe trở chất cháy, chất nổ trái phép;
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa;
+ Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải;
+ Xe không có hệ thống lái bên phải.
- Thiệt hại do chiến tranh, bạo động.
- Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh.
- Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.
- Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thoả thuận khác.
Ngoài ra, công ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như vàng, bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, thi cốt.
2. Số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong hợp đồng bảo hiểm thể hiện giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm. Trong bất kỳ trường hợp nào thì số tiền bồi thường, chi trả cao nhất của người bảo hiểm cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm.
Do đặc trưng riêng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ ba đó là đối tượng bảo hiểm kh._.ông thể xác định được trước nên đồng nghĩa với việc không thể xác định được thiệt hại của đối tượng bảo hiểm. Vì vậy Bộ Tài Chính đã quy định hạn mức trách nhiệm tối thiểu về người và của cho mỗi một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Doanh nghiệp chỉ có thể đưa ra hạn mức cao hơn mà không thể đưa ra hạn mức thấp hơn để bảo vệ cho quyền lợi của người tham gia giao thông. Thông thường thì hạn mức trách nhiệm cao hay thấp phụ thuộc vào nhu cầu bảo hiểm và loại xe… nhà bảo hiểm chỉ trả tối đa là số tiền đã quy định trong hạn mức, nếu thiệt hại cao hơn người gặp bảo hiểm sẽ phải tự mình gánh chịu.
3. Phí bảo hiểm và phương pháp tính phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là một điều kiện bắt buộc để bất kì một cá nhân một tổ chức nào muốn tham gia bảo hiểm đều phải thực hiện. Bởi vì đó cũng là điều kiện sống còn của mỗi một doanh nghiệp bảo hiểm nào. Mức phí như thế nào cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại, lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp. Thường thì đối với mỗi một loại xe sẽ có một mức phí khác nhau. Phí bảo hiểm thường có hai phần:
- Phần phí thuần: phần phí thu được dùng cho bồi thường tai nạn xảy ra.
- Phần phụ phí: là khoản phí cần thiết để cơ quan bảo hiểm đảm bảo cho các khoản chi trong hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm (bao gồm: chi hoa hồng; chi quản lý hành chính; chi đề phòng hạn chế tổn thất; chi thuế nhà nước)
Phí bảo hiểm tính cho mỗi đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện (thường tính theo năm) là:
P = f + d (1)
Trong đó: P – Phí bảo hiểm / đầu phương tiện
f – Phí thuần
d – Phụ phí (được qui định là tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng phí bảo hiểm).
Phần phí thuần (f) được xác định theo công thức:
(2)
Trong đó:
Si - Số vụ tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bảo hiểm bồi thường trong năm i.
Ti - Số tiền bồi thường bình quân 1 vụ tai nạn có phát sinh TNDS trong năm i.
Ci - Số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm TNDS trong năm i.
n - Số năm thống kê, thường từ 3 – 5 năm, i = (1,n)
Như vậy, f thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ n năm cho mỗi đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong thời kỳ đó.
Đây là cách tính phí bảo hiểm cho các phương tiện thông dụng trên cơ sở quy luật số đông. Đối với các phương tiện không thông dụng, mức độ rủi ro lớn hơn như xe kéo rơmoóc, xe trở hàng nặng… thì tính thêm tỷ lệ phụ phí so với mức phí cơ bản. Ở Việt Nam hiện nay thường cộng thêm 30% mức phí cơ bản.
Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới một năm), thời gian tham gia bảo hiểm được tính tròn tháng và phí bảo hiểm được xác định như sau:
Pngắn hạn = (3)
Hoặc:
Pngắn hạn = Pnăm × Tỷ lệ phí ngắn hạn theo tháng
Trường hợp đã đóng phí (tham gia bảo hiểm) cả năm, nhưng vào một thời điểm nào đó phương tiện không hoạt động nữa hoặc chuyển quyền sở hữu mà không chuyển quyền bảo hiểm thì chủ phương tiện sẽ được hoàn phí bảo hiểm tương ứng với số thời gian còn lại của năm (làm tròn tháng) nếu trước đó chủ phương tiện chưa có khiếu nại và được bảo hiểm bồi thường.
Số phí hoàn lại được xác định như sau:
Phoàn lại = (4)
Nộp phí bảo hiểm là trách nhiệm của chủ phương tiện. Tuỳ theo số lượng phương tiện, công ty bảo hiểm sẽ quy định thời gian, số lần nộp và mức phí tương ứng có xét giảm phí theo tỷ lệ tổn thất và giảm phí theo số lượng phương tiện tham gia bảo hiểm (tối đa thường giảm 20%). Nếu không thực hiện đúng quy định sẽ bị phạt. Ví dụ:
+ Chậm từ 01 đến 02 tháng phải nộp thêm 100% mức phí cơ bản.
+ Chậm từ 02 đến 04 tháng phải nộp thêm 200% mức phí cơ bản.
+ Chậm từ 04 tháng trở lên nộp thêm 300% mức phí cơ bản…
+ Hoặc huỷ hợp đồng bảo hiểm.
4. Hợp đồng bảo hiểm.
Bộ luật kinh doanh bảo hiểm đã ghi rất rõ hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một hợp đồng bảo hiểm nên nó cũng giống như một hợp đồng bảo hiểm khác ở những đặc trưng mà chỉ hợp đồng bảo hiểm mới có. Thông thường một hợp đồng bảo hiểm thường có những nội dung sau:
-Đối tượng bảo hiểm
- Hạn mức trách nhiệm
- Rủi ro đựơc bảo hiểm
- Rủi ro loại trừ
- Phí bảo hiểm
- Thời hạn bảo hiểm
- Thời hạn phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường
Tuy nhiên nó cũng có những đặc điểm riêng có xuất phát từ những đặc thù của mình như:
- Nhà bảo hiểm chỉ bồi thường khi người thứ ba là người bị nạn yêu cầu bảo hiểm.
- Hợp đồng bảo hiểm này chỉ có giới hạn trong phạm vi trách nhiệm bồi thường về mặt kinh tế, không chịu các trách nhiệm khác của người tham gia bảo hiểm trước pháp luật như trách nhiệm hành chính trách nhiệm hình sự..
- Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có quy định về hạn mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm đối với mỗi vụ tai nạn và mỗi đối tượng được hưởng bảo hiểm. Ví dụ Bộ Tài Chính quy định hạn mức tối đa đối với vụ tai nạn đối với người là 30 triệu đồng/người/ vụ và tài sản cũng là 30 triệu đồng/ tài sản/ vụ.
Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia trong hợp đồng bảo hiểm như sau:
- Đối với láI xe hoặc người chủ xe phải có nghĩa vụ khai báo nhanh chóng chính xác trung thực kịp thời nhất về vụ tai nạn xảy ra. Khi tai nạn xảy ra họ có quyền được hưởng tiền bồi thường. Ngoài ra người chủ xe còn có những quyền như đòi bồi thường nếu chưa thấy thoả đáng, quyền bổ xung sửa đổi các điều khoản trong hợp đồng và các quyền khác trước pháp luật
- Nhà bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm, có quyền yêu cầu người tham gia bảo hiểm thực hiện những biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất. Nhà bảo hiểm cũng có nghĩa vụ giảI thích các điều khoản trong hợp đồng và tất nhiên là có nghĩa vụ bồi thường các khoản bồi thường nếu có những sự kiện bảo hiểm xảy ra.
5. Giám định tổn thất và bồi thường.
Khâu giám định và bồi thường là một khâu rất quan trọng đối với bất kì một nghiệp vụ bảo hiểm nào. Đây cũng là một khâu rất phức tạp và thường hay xảy ra những tranh chấp giữa những nhà bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Điều này cũng dễ hiểu vì người tham gia bảo hiểm lúc đó mới gặp phải một cú sốc nặng về tinh thần cũng như thể xác, cộng thêm sự hiểu biết có hạn về bảo hiểm. Vì vậy đối với những nhà bảo hiểm thì việc phải hiểu rõ luật pháp và giảI quyết thấu đáo và kịp thời nhất đối với những người tham gia bảo hiểm là một yếu tố rất quan trọng đối với uy tín của nhà bảo hiểm với khách hàng.
Về nguyên tắc thì mất mát về người thì không bao giờ có thể tính toán đựơc hết giá trị của nó. Tuy nhiên để đánh giá mức độ thiệt hại của người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm sẽ tính mức độ nghiêm trọng của vụ tai nạn bằng các chi phí có liên quan để có được mức chi trả bồi thường một cách hợp lý nhất. Tổn thất của người thứ ba thường bao gồm:
Thiệt hại về tài sản: Tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại; thiệt hại liên quan đến việc sử dụng tài sản và các chi phí hợp lý khác để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
Thiệt hại về tài sản lưu động được xác định theo giá trị thực tế (giá thị trường) tại thời điểm tổn thất còn đối với tài sản cố định, khi xác định giá trị thiệt hại phải tính đến khấu hao. Cụ thể:
Giá trị thiệt hại = Giá trị mua mới (nguyên giá) - Mức khấu hao
Thiệt hại về con người : bao gồm thiệt hại về sức khỏe và thiệt hại về tính mạng.
Thiệt hại về sức khỏe bao gồm:
+ Các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút như: chi phí cấp cứu, tiền hao phí vật chất và các chi phí y tế khác (thuốc men, dịch chuyền, chi phí chiếu chụp X-quang…).
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc bệnh nhân (nếu có theo yêu cầu của bác sỹ trong trường hợp bệnh nhân nguy kịch) và khoản tiền cấp dưỡng cho người mà bệnh nhân có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
+ Khoản thu nhập bị mất hoặc giảm sút của người đó. Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa mức thu nhập trước và sau khi điều trị do tai nạn của người thứ ba. Thu nhập bị mất được xác định trong trường hợp bệnh nhân điều trị nội trú do hậu quả của tai nạn. Nếu không xác định được mức thu nhập này, sẽ căn cứ vào mức lương tối thiểu hiện hành. Khoản thiệt hại về thu nhập này không bao gồm những thu nhập do làm ăn phi pháp mà có.
+ Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần.
Thiệt hại về tính mạng của người thứ ba bao gồm:
+ Chi phí hợp lý cho việc cho việc chăm sóc, cứu chữa người thứ ba trước khi chết (xác định tương tự như ở phần thiệt hại về sức khoẻ).
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng người thứ ba (những chi phí do thủ tục sẽ không được thanh toán).
+ Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải nuôi dưỡng (vợ, chồng, con cái…đặc biệt trong trường hợp mà người thứ ba là người lao động chính trong gia đình). Khoản tiền trợ cấp này được xác định tùy theo quy định của mỗi quốc gia, tuy nhiên sẽ được tăng thêm nếu hoàn cảnh gia đình thực sự khó khăn.
Như vậy, toàn bộ thiệt hại thực tế của bên thứ ba được tính như sau:
Thiệt hại thực tế = thiệt hại về tài sản + thiệt hại về người
(của bên thứ ba)
Việc xác định số tiền bồi thường được dựa trên hai yếu tố đó là:
- Thiệt hại thực tế của bên thứ ba;
- Mức độ lỗi của chủ xe trong vụ tai nạn.
Được tính theo công thức:
STBT = (Lỗi của chủ xe) x (Thiệt hại của bên thứ ba)
Trên thực tế, nếu người thứ ba là người không có thu nhập từ lao động (trẻ em chưa đến tuổi lao động, người tàn tật không có khả năn lao động… ); hoặc có thu nhập thấp thuộc các đối tượng chính sách của Nhà nước bị chết, nhưng gia đình nạn nhân không được hưởng các khhoản mất, giảm thu nhập do khi còn sống người này không phải nuôi dưỡng người khác… thì một khoản tiền bồi thường sẽ được trả trên tinh thần nhân đạo.
Trong trường hợp có cả lỗi của người khác gây thiệt hại cho bên thứ ba thì:
Số tiền ﴾Lỗi của Lỗi Thiệt hại của
Bồi thường = chủ xe + khác﴿ x bên thứ 3
Sau khi bồi thường, công ty bảo hiểm được quyền đòi lại người khác số thiệt hại do họ gây ra theo mức độ lỗi của họ.
Số tiền bồi thường của nhà bảo hiểm sẽ không quá thiệt hại thực tế của người bị nạn và sẽ không quá hạn mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm.
6. Giải quyết tranh chấp.
Trong bất kỳ một hợp đồng bảo hiểm nào đều quy định quyền được khiếu nại của nhà bảo hiểm cũng như người tham gia bảo hiểm nếu như có một bên nào đó vi phạm một trong các điều khoản trong hợp đồng. Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự Bộ Tài Chính đã có quy định về giảI quyết tranh chấp trong các hợp đồng bảo hiểm như sau:
- Thời hạn yêu cầu đòi bồi thường của chủ xe cơ giới là 1 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn. Trừ những trường hợp đặc biệt đã được quy định thì sau một năm kể từ ngày tai nạn xảy ra nếu bên tham gia bảo hiểm không yêu cầu bồi thường thì sẽ tước quyền đòi bồi thường đối với doanh nghiệp bảo hiểm.
- Đối với doanh nghiệp bảo hiểm thời hạn chi trả bồi thường là 15 ngày kể từ ngày nhà bảo hiểm nhận được hồ sơ hợp lệ yêu cầu bồi thường. Thời hạn cho việc xác minh hồ sơ không quá 30 ngày.
- Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường thì phải thông báo cho bên tham gia bảo hiểm bằng văn bản về lý do từ chối bồi thường trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đựơc hồ sơ yêu cầu đòi bồi thường
- Người yêu cầu bồi thường có thể khiếu nại về việc bồi thường của nhà bảo hiểm. Thời hạn là 3 năm kể từ ngày nhà bảo hiểm giảI quyết bồi thường hoặc từ chối bồi thường
- Trường hợp người thứ ba hay hành khách theo hợp đồng vận chuyển bị thiệt hại về người và tài sản do xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm gây ra khiếu nại trực tiếp đòi doanh nghiệp bảo hiểm đó bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm liên hệ với chủ xe cơ giới để giải quyết bồi thường theo đúng các quy định.
Mọi khiếu nại của hai bên đều được giảI quyết tại toà án theo quy định của pháp luật.
7. Các chỉ tiêu đánh giá về kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
7.1. Các chỉ tiêu đánh giá về kết quả kinh doanh:
Thông thường kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp thường được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu đó là doanh thu và lợi nhuận. Để đánh giá chính xác về kết quả hoạt động của một nghiệp vụ bảo hiểm cũng như một doanh nghiệp bảo hiểm nhất định người ta thường sử dụng nhiều chỉ tiêu đánh giá khác xung quanh lợi nhuận, doanh thu và chi phí.
Lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm được tính như sau:
LNtrước thuế = DT - CF
LNsau thuế = LNtrước thuế - TTN
Với: - LN: Lợi nhuận
DT: Doanh thu
CF: Chi phí
Trong đó, tổng chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm là toàn bộ các khoản chi phục vụ cho toàn quá trình hoạt động kinh doanh trong vòng một năm.
Các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận cũng được tính riêng cho từng loại nghiệp vụ. Nhưng khi tính toán cần chú ý: những khoản chi nào có liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ phải được tính trực tiếp cho nghiệp vụ đó (như phí bảo hiểm , chi bồi thường, & ); những khoản thu, chi gián tiếp (chi quản lý doanh ghiệp, thu nhập đầu tư & ) phải được phân bổ theo tỷ lệ giữa doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ so với tổng doanh thu phí bảo hiểm nói chung.
7.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh:
Thông thường để đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp bảo hiểm người ta thường đánh giá tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí. Để đánh giá hiệu quả kinh tế của một nghiệp vụ bảo hiểm người ta cũng đánh giá các tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với chí phí của nghiệp vụ đó. Ta có các tỷ số:
H= (5)
H= (6)
Trong đó: H ,H : Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tính theo doanh thu và lợi nhuận.
D : Doanh thu trong kỳ
L : Lợi nhuận thu được trong kỳ.
C : Tổng chi phí chi ra trong kỳ.
Chỉ tiêu (1) nói lên: cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Chỉ tiêu (2) phản ánh: cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm .
+ Chỉ tiêu hiệu quả xã hội
Ðứng trên góc độ xã hội, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm được thể hiện qua hai chỉ tiêu sau:
H= (7)
H= (8)
Trong đó:
H : Hiệu quả xã hội của doanh nghiệp bảo hiểm
C : Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong kỳ.
Kbt Số khách hàng được bồi thường trong kỳ.
Ktg Số khách hàng được tham gia bảo hiểm trong kỳ.
Chỉ tiêu (7) phản ánh: cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ đã thu hút được bao nhiêu khách hàng ham gia bảo hiểm .
Chỉ tiêu (8) nói lên : cùng với một đồng chi phí đó đã góp phần giải quyết khắc phục hậu quả cho bao nhiêu khách hàng gặp rủi ro trong kỳ nghiên cứu.
Nếu xem xét ở từng mặt, từng khâu và từng nghiệp vụ bảo hiểm có thể tính được các chỉ tiêu hiệu quả khác để phục vụ cho quá trình đánh giá và phát triển hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, tất cả các chỉ tiêu hiệu quả đều phải đảm bảo nguyên tắc khi xây dựng là: mỗi chỉ tiêu phải phản ánh được trình độ sử dụng loại chi phí nào đó trong việc tạo những kết quả nhất định.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tốt phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của từng loại hình nghiệp vụ bảo hiểm . Do vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh của từng nghiệp vụ sẽ làm cho hiệu quả kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp bảo hiểm tăng lên, đáp ứng nhu cầu kinh tế- xã hội, giúp doanh nghiệp bảo hiểm tồn tại và phát triển, cạnh tranh được với các doanh nghiệp bảo hiểm khác.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KHAI THÁC NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI.
I. VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BẢO MINH
1. Tổng công ty cổ phần Bảo Minh.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh ( goi tắt là Bảo Minh ) tiền thân là Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh , chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam - được thành lập theo Quyết định số 1146TC/QĐ/TCCB ngày 28/11/1994 và được phép hoạt động theo Giấy chứng nhân đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm số 04TC/GCN ngày 20/12/1994 của Bộ Tài Chính.
Bảo Minh được thành lập năm 1994 nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành bảo hiểm Việt Nam trong cơ chế thị trường, khi mà nền kinh tế đất nước đang hoà nhập dần vào kinh tế khu vực và thế giới . Điều này cũng thể hiện chủ trương của Nhà nước trong việc xoá bỏ sự độc quyền và mở rộng nhiều loại hình kinh doanh bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Năm 2004, vinh dự được Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính lựa chọn là doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước đầu tiên hoạt động hết sức có hiệu quả để thực hiện cổ phần hoá, Công ty Bảo hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh đã được chuyển đổi thành Tổng công ty cổ phần Bảo Minh (gọi tắt là Bảo Minh) với số vốn điều lệ 1.100 tỷ đồng, hoạt động đa ngành trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và đầu tư tài chính. Bảo Minh chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/10/2004 theo Giấy phép thành lập và hoạt động số 27GK/KDBH do Bộ Tài chính cấp. Sự chuyển đổi này không chỉ đánh dấu một bước ngoặt trên con đường phát triển của Bảo Minh mà còn là một bước chuyển mình của ngành bảo hiểm Việt Nam, thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam đưa ngành bảo hiểm Việt Nam hoà nhập với thị trường bảo hiểm các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nhìn lại khoảng thời gian hơn 10 năm hoạt động kể từ khi được thành lập, Bảo Minh hoàn toàn có quyền tự hào về những gì mà Bảo Minh nói chung và đội ngũ cán bộ, viên chức của Bảo Minh nói riêng đã đạt được. Bảo Minh liên tục phát triển không những về qui mô tổ chức, thị phần mà còn nâng cao hình ảnh, uy tín của mình trong một thị trường bảo hiểm năng động bao gồm nhiều công ty kinh doanh bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài nước, trong đó có 5 công ty bảo hiểm nhân thọ, 15 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 6 công ty môi giới bảo hiểm và 1 công ty tái bảo hiểm. Mạng lưới các công ty thành viên và văn phòng đại diện bảo hiểm của Bảo Minh đã được đặt tại 42 tỉnh thành trong cả nước. Bảo Minh đã sớm thành lập và tham gia điều hành 2 liên doanh, gồm 1 công ty liên doanh bảo hiểm phi nhân thọ là Công ty Bảo hiểm liên hiệp (UIC) và 1 công ty bảo hiểm nhân thọ là Công ty Bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh - CMG. Các sản phẩm bảo hiểm Bảo Minh đang cung cấp trên thị trường tương đối đa dạng và không ngừng được cải tiến, thuộc 3 loại hình bảo hiểm: tài sản, con người và trách nhiệm dân sự.
Bảo Minh là doanh nghiệp bảo hiểm đầu tiên tại Việt Nam được cấp Chứng chỉ Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 và cũng là doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên áp dụng giải pháp phần mềm tích hợp doanh nghiệp (ERP) thuộc hàng tiên tiến nhất trên thế giới của hãng SAP. Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển Bảo Minh đã vinh dự được Chủ tịch nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng ba (11/1999) và Huân chương Lao động Hạng hai (10/2004)
Trong những năm tới, sát cánh cùng Bảo Minh vững bước vào hội nhập còn có 10 Tổng công ty lớn của Nhà nước, trong đó có những Tổng công ty là niềm tự hào của nền kinh tế Việt Nam như Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Lương thực Miền Nam, Tổng công ty Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Tổng công ty Thành An, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam, Tổng công ty Vật tư Nông nghiệp - Đây là những cổ đông sáng lập của Bảo Minh.
Năm 2004 là năm thành công toàn diện của Bảo Minh: chuyển đổi từ một doanh nghiệp Nhà nước thành Tổng công ty cổ phần; Bảo Minh đã thành công trong việc thực hiện mục tiêu kinh doanh hiệu quả và tăng trưởng. Tổng doanh thu phí bảo hiểm đạt 1.078,4 tỷ đồng phản ánh chất lượng quản lý kinh doanh và quản lý rủi ro của Tổng công ty không ngừng được cải tiến, nâng cao.
Bảo Minh đã tiến hành thành công Đại hội cổ đông thành lập Tổng công ty; đã hình thành được các bộ máy lãnh đạo của Tổng công ty gồm có: Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban điều hành. Với việc thành lập Tổng công ty, các chi nhánh của Bảo Minh đều đã được nâng cấp thành các công ty thành viên hạch toán phụ thuộc. Tổng công ty đã tiến hành chuẩn hoá Logo của Bảo Minh theo hướng thống nhất và ấn tượng; ban hành bộ Logo chuẩn và hướng dẫn sử dụng thống nhất trong toàn hệ thống nhằm một bước đẩy mạnh về việc xây dựng thương hiệu trên thị trường.
Tổng công ty đã cơ cấu lại bộ máy các phòng ban của trụ sở chính theo hướng chức năng nhiệm vụ rõ ràng; gắn chặt việc quản lý kinh doanh với kinh doanh trực tiếp và việc quản lý nghiệp vụ được cấu trúc theo hướng chuyên môn hoá của từng nhóm nghiệp vụ bảo hiểm. Cơ quan trụ sở của Tổng công ty và các công ty thành viên đã và đang được xây dựng và cải tạo theo hướng chính quy hiện đại với không gian mở nhằm tạo tác phong làm việc chính quy hiện đại.
Với nguyên tắc phát triển kinh doanh “Hiệu quả, tăng trưởng và đổi mới”, năm 2005 Bảo Minh tiếp tục thực hiện phương châm “Bảo Minh - tận tình phục vụ” nhằm mục tiêu phát triển bền vững, coi đó không chỉ là khẩu hiệu mà còn là trách nhiệm, lương tâm của người làm công tác bảo hiểm. Bảo Minh luôn trong tư thế sẵn sàng cho hội nhập khu vực và thế giới.
1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh.
Sau thời gian hơn 10 năm hoạt động và phát triển kinh doanh bảo hiểm, Bảo Minh đã có những thuận lợi, thành tựu và khó khăn sau:
a. Thuận lợi
Nghị định 100/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18/12/1993 về việc thành lập các Công ty cổ phần bảo hiểm, Công ty liên doanh bảo hiểm và Luật kinh doanh bảo hiểm đã phá vỡ sự độc quyền của Bảo Việt phi nhân thọ. Thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng hoạt động sôi nổi hơn bao giờ hết với sự tham gia của rất nhiều công ty bảo hiểm như Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC), Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), Công ty bảo hiểm bưu điện (PTI)… Mặt khác, môi trường kinh doanh thuận lợi hơn và có sự cạnh tranh bình đẳng hơn giữa các công ty bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó bao gồm cả Bảo Minh.
Kinh tế Việt Nam những năm gần đây nhìn chung ổn định, phát triển nhanh và bền vững, tốc độ GDP bình quân đạt trên 7%, đặc biệt năm 2005 vừa qua đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay 8,4%. Song song với nó là tình hình chính trị trong nước ngày càng ổn định. Cùng với sự phát triển đó, thu nhập của người dân ngày một tăng và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng ổn định và phát triển hơn. Nhu cầu về bảo hiểm tăng. Đây chính là điều kiện để Bảo Minh không những chỉ tồn tại mà còn phát triển và phát triển hơn nữa.
Một nền chính trị ổn định cùng một môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi đã đưa nước ta trở thành một trong những thị trường đầy tiềm năng đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó Bảo Minh một mặt thu hút vốn, học hỏi kinh nghiệm quản lý; mặt khác, Bảo Minh sẽ có những khách hàng lớn đến và mua những sản phẩm bảo hiểm của mình.
Bảo Minh là một Tổng công ty cổ phần bảo hiểm, chính vì vậy mà công ty có lợi thế là các cổ đông sáng lập đều là những tập đoàn kinh tế lớn, hỗ trợ rất nhiều cho Bảo Minh về vốn và đồng thời họ là những khách hàng lớn, quan trọng của Bảo Minh.
Với hơn 1000 nhân viên và 5000 đại lý, Bảo Minh có một đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ, năng động, sáng tạo và rất nhiệt tình đối với công việc. Họ chính là những nhân tố cơ bản giúp cho Bảo Minh có thể đứng vững trên thị trường bảo hiểm đầy sôi động và trở thành một trong những công ty bảo hiểm có uy tín ở Việt Nam.
b. Thành tựu
Với những thuận lợi trên, trong năm 2004, doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Minh đạt gần 1.100 tỷ đồng, tăng trên 3% so với năm 2003. Bảo Minh đã giải quyết bồi thường và trả tiền bảo hiểm cho hàng nghìn vụ tổn thất, với số tiền trên 317 tỷ đồng. Các vụ tổn thất điển hình được Bảo Minh bồi thường kịp thời là Công ty Bút bi Thiên Long 7 tỷ đồng, Xí nghiệp Giày Thượng Thăng 3,5 triệu USD, Công ty Pou Yeun 1,5 triệu USD, Công ty Phú Thịnh 7 tỷ đồng.
Năm 2004 cũng là năm hoạt động đầu tư kinh doanh tiền tệ đạt kết quả khả quan: Bảo Minh đã tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư vào sự phát triển chung của đất nước. Với tổng số vốn đầu tư tại thời điểm cuối năm là 918 tỷ đồng (tăng trưởng 58% so với năm 2003), hoạt động đầu tư đã thu lãi được gần 50 tỷ đồng.
Thị phần bảo hiểm phi nhân thọ của Bảo Minh cũng tăng lên đáng kể, chỉ đứng thứ 2 sau Bảo Việt phi nhân thọ.
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2004
Về công nghệ thông tin, Bảo Minh đã triển khai thành công dự án Hệ thống thông tin tài chính kế toán (FAST) trên nền giải pháp phần mềm SAP trong phạm vi toàn Tổng công ty nhằm đáp ứng các thay đổi về chuẩn mực kế toán theo yêu cầu của Nhà nước và theo các chuẩn mực quốc tế, chuẩn bị điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Trong công tác đào tạo, Bảo Minh đã đạt được một số kết quả nhất định: tổ chức 16 lớp học cho cán bộ nhân viên; 75 lớp đại lý với 1479 đại lý theo học và đã cấp chứng chỉ cho 1412 đại lý; hỗ trợ đào tạo trực tiếp 10 lớp với 494 lượt người tham gia.
Bảo Minh cũng rất quan tâm đến công tác đầu tư cơ sở vật chất: tập trung nguồn lực để đầu tư cơ sở vật chất cho trụ sở chính và các công ty thành viên. Ngoài việc thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, Bảo Minh tích cực tham gia vào công tác nhân đạo và hoạt động từ thiện xã hội. Bảo Minh đã chi hàng tỷ đồng để ủng hộ các Quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam, Quỹ ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam, ủng họ người tàn tật, Hội chữ thập đỏ.
c. Khó khăn
Ra đời trong hoàn cảnh thị trường bảo hiểm Việt Nam hoạt động rất sôi nổi, mạnh mẽ và cạnh tranh rất gay gắt, quyết liệt. Khó khăn chính đối với Bảo Minh hiện nay là làm thế nào có chiến lược kinh doanh hợp lý, thu hút thêm nhiều khách hàng trong khi đa số người dân, cơ quan doanh nghiệp đều tham gia bảo hiểm ở những công ty có kinh nghiệm lâu năm như Bảo Việt phi nhân thọ, PJICO.
Vấn đề tâm lý khách hàng mà công ty cần vượt qua là các khách hàng còn e ngại khi tham gia bảo hiểm tại các công ty thành viên vì họ chưa tin vào năng lực, trình độ hoạt động kinh doanh của loại hình doanh nghiệp cổ phần, cho rằng công tác giải quyết khiếu nại, bồi thường hay chậm trễ vì phải thông qua nhiều khâu, nhiều cấp.
Thêm vào đó là đội ngũ cán bộ nhân viên của Bảo Minh hầu hết là những người trẻ tuổi, còn ít kinh nghiệm thực tế.
2. Công ty Bảo Minh Hà Nội.
Ngay từ khi mới thành lập năm 1994 Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh đã thiết lập một chi nhánh tại Hà Nội . Cho đến năm 2004, khi Bảo Minh được cổ phần hoá thành Tổng công ty cổ phần Bảo Minh, chi nhánh Bảo Minh tại Hà Nội cũng được nâng cấp thành công ty thành viên với tên gọi là Công ty Bảo Minh Hà Nội . Sau hơn 10 năm kinh nghiệm hoạt động trong cơ chế thị trường cạnh tranh, uy tín của Bảo Minh nói chung và của Bảo Minh Hà Nội nói riêng đã dần dần được khẳng định trên thị trường bảo hiểm. Với đội ngũ cán bộ nhân viên đông đảo ngày càng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, sáng tạo, đoàn kết linh hoạt thích ứng với công việc. Đời sống của cán bộ nhân viên được nâng cao, tinh thần phấn khởi, hoạt động công ty ổn định tăng trưởng, doanh thu luôn vượt kế hoạch được giao.
Tuân theo cơ cấu tổ chức chung của Tổng công ty, đồng thời với những điều kiện hoàn cảnh riêng có, cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Bảo Minh Hà Nội được tổ chức như sau:
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI
PHÓ GIÁM ĐỐC
Phòng TKhai thác 10
Phòng Khai thác 9
Phòng Khai thác 8
Phòng Khai thác 7
Phòng Khai thác 6
Phòng Khai thác 5
Phòng Khai thác 4
Phòng Khai thác 3
Phòng Khai thác 2
PHÒNG PHH
PHÒNG QLĐL
PHÒNG TCHC
PHÒNG KTTV
PHÒNG ĐTƯ KTHÁC
PHÒNG HÀNG HẢI
Phòng Khai thác 1
PHÓ GIÁM ĐỐC
GIÁM ĐỐC
Trong đó các phòng khai thác phụ trách các khu vực khác nhau trong địa bàn thành phố Hà Nội đó là:
PKT 1: Q. Sóc sơn (chuẩn bị thành lập)
PKT 2: Q. Hoàn kiếm
PKT3 :Q. Hoàng Mai + Thanh Trì
PKT 4: Q. Thanh Xuân
PKT 5: Q. Ba Đình
PKT 6: Q. Đống Đa
PKT 7: Q. Hai Bà Trưng
PKT 8: Q. Long Biên + Gia Lâm
PKT 9: Q.Câu Giấy + Từ Liêm
PKT 10: Q. Tây Hồ (chuẩn bị thành lập)
Theo tổng kết sơ bộ về tình hình hoạt động kinh doanh trong năm 2005 vừa , Bảo Minh Hà Nội có doanh thu phí đạt 88 tỷ đồng ( tăng trưởng khoảng 10% so với năm 2004 là 80 tỷ đồng ) , trong đó nghiệp vụ đạt hiệu quả cao nhất là bảo hiểm tài sản .
Trong khi đó, chi phí của Bảo Minh Hà Nội bao gồm: chi bồi thường chiếm khoảng 35.2 tỷ ( tỷ lệ bồi thường khoảng 40% doanh thu ), chi quản lý chiếm 5%, chi hoa hồng là 12%.
Với những thành tích trên, năm vừa qua Bảo Minh Hà Nội nhân được nhiều sự khen thưởng của Tổng công ty, được công nhận là đợn vị kinh doanh tiên tiến trong năm .
II. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI.
Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là một nghiệp vụ rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một thị trường đang có sự cạnh tranh rất quyết liệt của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ bởi đây là một thị trường lớn với doanh thu hàng năm lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng. Việt Nam đang trên đà phát triển với tốc độ tăng trưởng cao hàng năm hứa hẹn sẽ là một thị trường màu mỡ của các công ty bảo hiểm trong thời gian tới trong đó không thể không kể tới mảnh đất của bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Bảo Minh chắc chẵn cũng không ngồi ngoài cuộc. Nắm lấy cơ hội này công ty Bảo Minh đang có một chiến lược lớn trong việc đẩy cao thị phần của mình trong nghiệp vụ bảo hiểm cơ bản này. Trong những tháng đầu năm 2006 chương trình khuyến mãI “ HáI lộc đầu xuân ” của Bảo Minh thực sự là một cuộc cách mạng mới của công ty và đã đưa thương hiệu Bảo Minh đến gần hơn với người dân. Thành công của “ HáI lộc đầu xuân ” đã đem lại cho Bảo Minh nói chung và Bảo Minh Hà Nội nói riêng một bước nhảy vọt trong thị trường bảo hiểm trách nhiệm dân sự và hứa hẹn sẽ gặt háI nhiều thành công trong những năm tới. Tuy nhiên nói vậy nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Bảo Minh đã hoàn thiện và không có những vấn đề cần khắc phục. Để đưa ra được những đánh giá chính xác nhất trước hết ta đI vào xem xét và nghiên cứu về mọi hoạt động trong công ty Bảo Minh Hà Nội thông qua ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32323.doc