Nghệ thuật tiểu thuyết cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell

Tài liệu Nghệ thuật tiểu thuyết cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell: ... Ebook Nghệ thuật tiểu thuyết cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell

pdf135 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2819 | Lượt tải: 6download
Tóm tắt tài liệu Nghệ thuật tiểu thuyết cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________ Ngô Như Quỳnh NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CUỐN THEO CHIỀU GIÓ CỦA MARGARET MITCHELL LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________ Ngô Như Quỳnh NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CUỐN THEO CHIỀU GIÓ CỦA MARGARET MITCHELL Chuyên ngành : Văn học nước ngoài Mã số : 66 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ ANH THẢO Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 LỜI CẢM ƠN Công trình này đã hoàn thành trong sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ của những người mà tôi hằng kính trọng. Xin được cảm ơn cô Anh Thảo – người đã tận tình lắng nghe và hướng dẫn tôi theo suốt quá trình lên ý tưởng và viết Luận văn, cảm ơn Thư viện ĐH Sư Phạm TPHCM đã hỗ trợ tôi về nguồn tư liệu, cảm ơn thầy cô, gia đình và bạn bè đã động viên tinh thần để tôi hoàn thành tốt công việc và học tập, đặc biệt là Luận văn này. Dù đã rất cố gắng nhưng với nhiều yếu tố chi phối, Luận văn chắc chắn còn không ít thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô và bè bạn. Xin trân trọng cảm ơn! TPHCM, tháng 12/2009 Ngô Như Quỳnh MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN ........................ 19 1.1. Tình huống ............................................................................................... 20 1.1.1. Tình huống làm hoán đổi vai trò................................................... 20 1.1.2. Tình huống ước mơ bị thực tế hủy hoại ....................................... 26 1.1.3. Tình huống hiểu lầm thay đổi số phận.......................................... 27 1.1.4. Tình huống trở về.......................................................................... 33 1.1.5. Tình huống kết hôn ứng phó......................................................... 34 1.2. Chi tiết ..................................................................................................... 38 1.2.1. Chi tiết biểu tượng ........................................................................ 39 1.2.1.1. Cánh cửa đóng (closed door) và những bí mật................ 39 1.2.1.2. Giấc mơ sương mù........................................................... 46 1.2.1.3. Chiếc áo cooc –se của Scarlett......................................... 48 1.2.2. Chi tiết đối lập trong sự thống nhất .............................................. 51 1.2.2.1. Sự chia cắt nhưng thống nhất của đất nước trong chiến tranh ...................................................................... 51 1.2.2.2. Sự đối lập nhưng thống nhất trong tính cách Ashley và Rhett ........................................................................... 51 1.2.2.3. Sự dung hòa những đối nghịch trong tính cách Scarlett ............................................................................ 52 1.3. Kiểu kết thúc ............................................................................................ 53 Chương 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ............................. 59 2.1. Thế giới nhân vật...................................................................................... 59 2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 62 2.2.1. Qua miêu tả ngoại hình ................................................................ 62 2.2.2. Qua miêu tả cử chỉ hành động ...................................................... 68 2.2.3. Qua miêu tả tính cách ................................................................... 70 2.2.4. Qua khắc họa nội tâm ................................................................... 77 2.3. Thành công của M.Mitchell với kiểu nhân vật “lệch chuẩn” .................. 85 2.3.1. Scarlett .......................................................................................... 85 2.3.2. Rhett .............................................................................................. 89 Chương 3: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT............................................... 95 3.1. Trần thuật khách quan vô nhân xưng....................................................... 96 3.2. Trần thuật nửa trực tiếp.......................................................................... 100 3.3. Trần thuật bộc lộ tình cảm bằng trữ tình ngoại đề ................................. 104 KẾT LUẬN .................................................................................................. 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 119 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 126 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Năm 1936, sự ra đời đột ngột của một cuốn tiểu thuyết từ một tác giả gần như vô danh trong giới tiểu thuyết – Margaret Mitchell, với cái tên tựa đề tác phẩm nghe khá nên thơ lấy ý từ câu thành ngữ nổi tiếng của người Mỹ, “Gone with the wind”, tức “Cuốn theo chiều gió”, đã lập tức tạo nên niềm hứng khởi tột độ cho độc giả Mỹ. Họ đón nhận cuốn tiểu thuyết với đủ mọi cảm xúc say mê, bồi hồi, và cả chê bai, dè bỉu, nhưng sẵn sàng thâu đêm suốt sáng theo đuổi cho kì hết câu chuyện chỉ để biết kết cục của nó ra sao. Một năm sau, tác phẩm tiếp tục làm một phát “chỉ thiên” vào những độc giả còn ngờ vực về sức hút của nó với việc đoạt giải thưởng Pulitzer, giải tiểu thuyết xuất sắc nhất của Hiệp hội phát hành sách Hoa Kỳ năm 1937 (giờ là Giải thưởng sách toàn quốc), rồi huy chương kỷ niệm Carl Bohnengerger của Hiệp hội Thư viện Florida, và huy chương vàng của Cộng đồng Nam New York. Đến lúc cuốn tiểu thuyết được chuyển thể thành phim vào 1939, để lại gây kì tích thắng 8 giải Academy Awards, thì độc giả mới thôi ngỡ ngàng trước cuốn tiểu thuyết có một không hai này [73, tr.34]. Tuy thế, trước thực tế là không ít tác phẩm khi ra đời “gióng trống khua chiêng” nhưng sau đó lặng yên không kèn trống và bị vất vào nhà kho, nên không riêng những độc giả khó tính mà ngay cả những độc giả cuồng tín, cũng đã lo ngại việc một cuốn tiểu thuyết mà nổi lên nhanh chóng, ồn ào và gây hiệu ứng với tốc độ tên lửa như “Cuốn theo chiều gió”, có thể rồi một thời gian sẽ bị những hiện tượng khác che mờ trong sớm muộn. Đặc biệt là khi có không ít những bài phê bình phân tích của các cây bút sắc sảo nghiêng về trường phái “mổ xẻ’ đã không hề nương tay khi công kích tác phẩm này, rằng nó là một tác phẩm xoàng xĩnh, dễ đọc, và chỉ “dụ dỗ” nổi những bà nội trợ dễ dãi. Ấy là chưa kể đến hàng loạt hạt sạn xung quanh vấn đề phân biệt chủng tộc và tính lãng mạn thái quá trong hư cấu lịch sử. Nhưng đến lúc này, 70 năm có lẽ đã trôi qua, cùng lúc hàng loạt tác phẩm xuất sắc khác đã ra đời, tính cả những cuốn hậu, làm mới “Cuốn theo chiều gió”, nhưng không tác phẩm nào hạ gục ngôi vị của nó, ít ra là về con số xuất bản, chuyển ngữ, và sự yêu mến trong lòng độc giả từ nước Mỹ đến ngoài biên giới. Nhân đó, mới nhắc lại những kì tích đáng khâm phục mà cuốn tiểu thuyết dày 1024 trang bản tiếng Anh (bản của Nhà xuất bản Avon) này làm được. “Cuốn theo chiều gió” đã tự tạo ra lịch sử ngay khi được xuất bản, khi doanh số của nó phá vỡ mọi kỷ lục ở Nhà xuất bản lừng danh Macmillan. Trong vòng một tháng họ đã in 200 ngàn cuốn, trong 2 tháng bán được 6000 cuốn một ngày, trong 6 tháng, 1 triệu cuốn đã bị “Cuốn theo chiều gió”. Tháng 8 năm 1936, 2 nhà in và 2 xưởng đóng sách làm việc cả ngày lẫn đêm. Người ta làm một phép toán và kết luận: “Cuốn theo chiều gió” sẽ vượt cao hơn cả Manhattan, và cao gấp 50 lần toà Empire State nếu tất cả các cuốn sách bán được chồng lên nhau, và nếu chúng được xếp nối đuôi nhau thì chúng sẽ bao vòng quanh xích đạo gần 3 lần, như thể chứng tỏ “Cuốn theo chiều gió” vòng quanh thế giới như thế nào [73, tr.34]. “Cuốn theo chiều gió” cũng từng “làm mưa làm gió” sau đó ở châu Âu hậu chiến. Hitler cấm cuốn này khi chiếm đóng châu Âu vì Scarlett là một biểu tượng nguy hiểm của sự kháng cự. Ngày nay, “Cuốn theo chiều gió” đã thành một hiện tượng toàn cầu, đã bán hơn 30 triệu bản và 200 ấn bản đã được phát hành ở 40 nước. Cuốn sách (và cả phim) tiếp tục được đón nhận rộng rãi ở châu Âu, đồng thời cũng được gieo trên những mảnh đất văn hoá màu mỡ với những ấn bản tiếng nước ngoài đã được xuất bản ở những nơi có thị trường sách tương đối nhỏ, như Czechoslovakia, Bugari, Etiopia, Latvia, và cả Việt Nam. Với những con số đáng kinh ngạc như thế, “Cuốn theo chiều gió” đã trở thành huyền thoại trong lịch sử ngành xuất bản, tiểu thuyết Mỹ bán chạy nhất mọi thời đại. Hàng loạt nhà phê bình văn chương và những cây bút nổi tiếng của các báo lớn đua nhau lao vào cuộc để lý giải sức hút của tác phẩm có doanh số kỷ lục 50.000 bản một ngày này. Nhiều lí do được đưa ra để rồi kết luận chung vẫn chỉ là ở dạng giả thuyết. Điều đó cũng không có gì đáng ngạc nhiên, vì chính Margaret Mitchell, người trong cuộc, cũng bị choáng ngợp bởi kì tích của đứa con tinh thần mình viết nên. Bà thật sự bất ngờ và sau đó là hỗn loạn trước tiếng tăm của “Cuốn theo chiều gió”. Bà bị bao vây, cuộc sống riêng tư của bà bị những kẻ xâm phạm tàn phá, người lạ mặt gọi điện liên miên, gửi những thư từ kỳ quặc, lôi bà vào những vụ kiện tụng, lấy tên tiểu thuyết đặt tên cho một trò thoát y… Vào tháng 8 năm 1936, Margaret Mitchell đã viết cho Harold Latham, người đàn ông khiến nàng thành công: “How did you know six months ago that “Gone with the wind” would be a success…? I do not see how you anticipated the enomous sales which have been so unexpected and bewildering to me” (“Làm sao mà sáu tháng trước ngài có thể biết được “Cuốn theo chiều gió” sẽ thành công như thế?... Tôi không hiểu được làm sao ngài có thể dự đoán được một doanh số khổng lồ như vậy trong khi đối với tôi nó thật sự quá bất ngờ và khó hiểu”) [48, tr.3]. Sự thành công của “Cuốn theo chiều gió” về mặt doanh thu xuất bản và tiếng tăm, lại còn đi kèm với một hoàn cảnh sáng tác khá đậm tính giai thoại của tác giả: viết để giải khuây những ngày bị bệnh, viết trên cơ sở những kí ức thời cha ông để lại và từ những kiến thức bà có từ thời còn làm báo cộng thêm quá trình tra cứu tư liệu, càng làm cho tác phẩm trở nên kinh điển. Với tất cả kì tích đó, chúng ta hãy khoan vội bàn về hai phạm trù khen chê từ những cây bút phê bình rất giàu kinh nghiệm và sắc sảo trên toàn thế giới, để khẳng định chắc chắn một điều: “Cuốn theo chiều gió” là một tác phẩm có sức hấp dẫn đặc biệt. Không ai phủ nhận được điều đó. Do vậy, việc nghiên cứu về điều gì, yếu tố nào đã làm nên cái hay đó, chính là vấn đề cốt lõi mà chúng tôi theo đuổi. Chúng tôi đã quyết định bắt tay vào đề tài “Nghệ thuật tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió” từ nguyên cớ ấy – cho điều chính mình say mê mà không hề để hội chứng “bầy đàn” hay best-seller ảnh hưởng, và cho điều đáng được dành thời gian để nghiên cứu một cách có “đầu đũa” chứ không chỉ là một vài bài cảm nhận đơn thuần. Đề tài cũng là sự thỏa mãn cá nhân trong quá trình tra cứu tư liệu, khi điểm qua số lượng công trình nghiên cứu ít ỏi tại Việt Nam về “Cuốn theo chiều gió” và nhận thấy: chưa có tác phẩm nào bàn một cách cụ thể về vấn đề này. Quá trình chuyên sâu tra cứu, thống kê, nghiên cứu, phân tích cũng giúp chúng tôi vận dụng những kĩ năng đã được học trong chương trình Cao học để ứng dụng, và làm cơ sở tư liệu cho những công trình cao hơn, cũng như cho công việc giảng dạy trong tương lai. 2. Lịch sử vấn đề Đối với một tác phẩm nổi tiếng mang tầm vóc toàn cầu như “Cuốn theo chiều gió”, số lượng tác phẩm nghiên cứu phê bình về nó là nhiều không đếm xuể. Nhất là từ sau khi bộ phim được chuyển thể thành phim vào 1939, cùng với việc thu hút một lượng lớn độc giả, hàng loạt bài nghiên cứu, đánh giá về tác phẩm cũng ra đời. Theo đánh giá bước đầu của chúng tôi thì dư luận khen hay chê, tâng bốc hay lên án các khía cạnh trong tác phẩm cũng khá phong phú. Vì đây là tác phẩm văn học nước ngoài, nên chúng tôi sẽ xem xét lịch sử vấn đề dưới hai điểm nhìn: của những tác giả nước ngoài và tác giả trong nước. 2.1. Các công trình, bài nghiên cứu, bài báo của các tác giả nước ngoài “Khai sinh” trên đất Mỹ để rồi vượt biên giới đi khắp năm châu, nếu dùng một con số chính xác để thống kê số lượng tài liệu nghiên cứu về “Cuốn theo chiều gió” e là một việc không tưởng. Do vậy, những tác phẩm tiếng Anh chúng tôi đề cập dưới đây chỉ là một phần nhỏ trong nguồn tư liệu về “Cuốn theo chiều gió” mà chúng tôi có được, và đồng thời giúp ích chúng tôi trong việc tiếp cận cuốn tiểu thuyết lừng danh này dưới góc độ khoa học. 2.1.1. Trước hết, liên quan đến tầm ảnh hưởng sâu rộng của Cuốn theo chiều gió, không thể không chú ý đến những tác phẩm viết tiếp “Cuốn theo chiều gió” Nổi tiếng có thể kể đến là phần hậu “Scarlett” của Alexandra Ripley (1991) và Rhett Butler’People (tạm dịch là “Người của Rhett Butler”) của Donald McCaig (2007). Đây là 2 tác phẩm được viết dưới sự ủy thác của chính tác giả Margaret Mitchell, tuy thành công nhất định về mặt doanh thu nhưng đáng tiếc, cả hai tác phẩm đều đi ngược lại với mong muốn của Margaret Mitchell. Cả hai tiểu thuyết gia miền Nam nổi tiếng giàu kinh nghiệm này đều xoay sở để làm mờ đục đi tính cách nhân vật, một phần là để tránh đi vấn đề chính trị còn nhiều bàn cãi của tác phẩm gốc. Trong “Scarlett”, câu chuyện được chuyển thẳng đến Iceland, cách xa khỏi những năm Tái thiết đầy bạo động chủng tộc của miền Nam, trong khi ở “Người của Rhett Butler” thì nhân vật Rhett Butler trở thành một người đấu tranh về quyền lợi chủng tộc không chê vào đâu được, một người bảo vệ dũng cảm của phụ nữ hoạn nạn và người tán thành nền giáo dục cho người da đen. Anne Edwards, người viết tiểu sử Margaret Mitchell đầu tiên, đã viết phần tiếp theo, “Tara”. Tác phẩm đã bị người hâm mộ Margaret Mitchell tẩy chay. Năm 1995, Emma Tennant, nhà văn người Anh duy nhất được trao quyền, đã viết ra phần hậu tuân thủ đàng hoàng các luật lệ của Quỹ di sản Margaret Mitchell về việc né tránh các vấn đề chính trị và chủng tộc nhạy cảm. Phản ứng của những nhà biên tập viên người Mỹ là tức giận trước sự không đủ tính miền Nam, không có độ nhạy cảm của người Mỹ. Bản thảo này cũng bị cấm không được đọc hay thảo luận công khai. Vài năm trước khi cuốn sách của Donald McCaig được viết, tiểu thuyết gia miền Nam Pat Conroy được mời để kể câu chuyện từ góc nhìn của Rhett. Tác phẩm song hành hiện đã bị bỏ dang dở này có lẽ sẽ giết chết Scarlett O’Hara với “cái chết trong văn chương đáng ghi nhớ nhất từ khi Anna Karenina quăng mình trước xe lửa” [91]. Năm 2001, hai năm sau khi Quỹ di sản Margaret Mitchell kiện thành công nhà văn Pháp Régine Desforges đạo văn “Cuốn theo chiều gió”, họ tiếp tục với tác phẩm The Wind Done Gone (tạm dịch là “Ngọn gió đã đi”) của nhà văn Mỹ - Phi Alice Randall, kết tội nó đã đạo văn trắng trợn chủ đề và nhân vật của Margaret Mitchell, và được chấp thuận. Cuốn “Ngọn gió đã đi” đã viết nhiều chi tiết kinh khủng: nhân vật chính, Cynara, từng là một nô lệ máu lai, con gái của người địa chủ da trắng (Gerald O’Hara) và bà vú, vì vậy là chị em cùng cha với “Other” – tên của Randall đặt cho Scarlett. Như Pat Conroy đã dự tính, Randall cũng giết chết “Other”, và vì thế Cynara cưới người đàn ông goá vợ “R” (Rhett) – nhưng quan hệ của họ bị lụi tàn bởi những bí mật trong gia đình về tình dục dị chủng. Sự trào phúng của Randall đã thể hiện một góc nhìn không mấy lãng mạn về những bí mật về chủng tộc và tình dục của miền Nam và sự đạo đức giả. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết đã kết thúc có hậu, với khu đồn điền được truyền lại, dù là từ một “R” giờ đã điên loạn, cho người quản gia da đen của ông – và tất cả những thành viên gia đình bất kể chủng tộc đều được chôn chung một chỗ. Nhà phê bình Marjorie Garber đã nói rằng cuốn tiểu thuyết có thể là một “sự trả đũa văn hoá”, cất tiếng nói cho phụ nữ và nô lệ bị bắt phải im lặng [91]. 2.1.2. So sánh “Cuốn theo chiều gió” với các tác phẩm khác cũng là một khía cạnh được các nhà phê bình chú ý So sánh thú vị nhất là của tác giả Harriett Hawkins và bài viết với nhan đề ấn tượng “The sins of Scarlett” (tạm dịch là “Tội lỗi của Scarlett”) đem lên bàn cân 2 tác phẩm “Cuốn theo chiều gió” và phần hậu “Scarlett” của A.Ripley. Bài viết này đã thẳng tay chỉ trích mạnh mẽ cách xây dựng một nhân vật Scarlett mới quá khác lạ, đến mức phủ nhận nhân vật Scarlett vốn đã được yêu thích của Margaret Mitchell. Việc Ripley làm cho nàng Scarlett bỗng chốc yêu thích con trẻ, thích làm mẹ, biết bất bình với tầng lớp bị áp bức của Iceland là một điều gì đó không tưởng. Tác giả không ngần ngại gọi việc “biến hóa” nàng Scarlett thành mẫu tính cách mới này là cách giết chết Scarlett một cách nhanh nhất, và đó là một tội lỗi không thể mặc xác được. “As Margaret Mitchell reminds us, what people think they want and what they really want are two different things. People do tend to believe fashionable fictions, not only because they want them to be true, but because it is the fashion to believe them. This is why, regrettably, we have to give a damn about the sins of Scarlett.” (Như Margaret Mitchell đã nhắc chúng ta, cái mà người ta nghĩ người ta muốn và cái mà người ta thật sự muốn là hai thứ khác nhau. Người ta có xu hướng tin vào tiểu thuyết thời thượng, không chỉ vì người ta muốn nó thành hiện thực, mà còn bởi vì tin như thế là thời thượng. Đó là lý do vì sao mà chúng ta không được mặc xác những tội lỗi của Scarlett, thật đáng tiếc) [50]. Bài viết của Chris Vials với nhan đề “Erskine Caldwell’s Challenge to Gone with the Wind and Dialectical Realism” (tạm dịch “Thách thức của Erskine Caldwell với “Cuốn theo chiều gió” và Chủ nghĩa hiện thực biện chứng”) đã làm một cuộc so sánh giữa “Cuốn theo chiều gió” và God’s Little Acre (tạm dịch là “Đồng cỏ nhỏ của Chúa”). Bài viết phân tích và so sánh hai tác phẩm để thấy được xu hướng chính trị của hai tác giả. Margaret Mitchell và Caldwell viết từ hai tư tưởng chính trị đối lập trong khoảng thời gian từ thập niên 1930 và 1940, và vị trí chính trị của họ cho nhau biết chân dung của chính mình trong tác phẩm. Hình ảnh về miền Nam mà Caldwell xây dựng cho dân chúng cả nước giữ một ngụ ý chính trị khác hoàn toàn với “Cuốn theo chiều gió”. Bối cảnh của tác phẩm “Cuốn theo chiều gió” đã cho những độc giả thời kỳ khủng hoảng một quá khứ thiên đường để nhìn về. Tác phẩm khắc hoạ người Mỹ da đen như những người đơn giản và yếu ớt, và người Mỹ da trắng nghèo như là những kẻ xảo nguyệt. Tác phẩm đã xem xét lại cả quá khứ của chế độ nô lệ và sự cần kíp một tầng lớp chủ nô cầm lái trong hiện tại. Tiểu thuyết Đồng cỏ nhỏ của Chúa, ngược lại, đã tránh né tầng lớp chủ nô để tập trung sự chú ý vào những người da trắng nghèo cố gắng chạy ăn từng bữa ở vùng thôn quê đang héo tàn của Georgia và những thị trấn kiệt quệ của miền Nam Carolina trong thời kỳ Đại khủng hoảng. Quan niệm của Caldwell về miền Nam đã trái ngược hẳn với Margaret Mitchell [71]. So sánh “Cuốn theo chiều gió” và “Absalom, Absalom!” của W.Faulkner, thì có nhiều bài viết sắc sảo, có thể kể đến như: bài viết “What else could a southern gentleman do?”: Quentin Compson, Rhett Butler, and Miscegenation” (tạm dịch là “Một quý ông miền Nam còn có thể làm gì khác?”: Quentin Compson, Rhett Butler,và sự pha trộn chủng tộc) của Ben Railton; hay “The Frontier Plantation: Failed Innocence in Gone with the Wind and Absalom, Absalom!” (tạm dịch “Đồn điền miền khai hoang: Sự trong trắng bị đánh mất trong “Cuốn theo chiều gió” và Absalom, Absalom!”) của Matthew Roberts Martin. Bài viết của Ben Railton chú trọng vào 2 nhân vật Rhett và Quentin, về xu hướng chính trị và sự phát triển tính cách. Sự phát triển tính cách của nhân vật Quentin Compson từ một cậu bé miền Nam ngoan ngoãn trở thành một sinh viên Harvard bắt đầu nghi ngại đến một tâm hồn già cỗi và dày vò, đã song hành với sự phát triển về sự hiểu biết của anh đối với vai trò trung tâm của sự pha trộn chủng tộc đối với văn hoá miền Nam và tội lỗi của người da trắng miền Nam khi chối bỏ sự tồn tại của nó. Tương tự, nhân vật Rhett Butler đã phát triển từ một kẻ hay chỉ trích, đầy cay độc và chỉ quan tâm đến bản thân của miền Nam cũ trở thành một quý ông miền Nam hoài cổ là do chính sự phát triển ý thức về những khả năng và những hiểm nguy kéo theo từ sự pha trộn chủng tộc ở miền Nam trong công cuộc Tái thiết [64]. Khi Quentin Compson chối bỏ sự căm ghét của anh với vùng đất đầy những kẻ đạo đức giả, sự xâm lăng và định kiến, thì Rhett đã nhận ra được toàn bộ sự kinh hoàng của miền Nam trong công cuộc Tái thiết, và bắt đầu hiểu đúng giá trị của lối sống của miền Nam cũ và sự hoàn hảo của nó. Anh đã nhận ra rằng điều mà anh thực sự muốn là “cuộc sống yên bình đường hoàng mà những người dịu dàng đã sống trong những ngày đẹp đẽ ôn hoà đã qua” [92]. Anh biết rõ rằng những ngày cũ đã ra đi, và anh có thể cũng đã biết, trong trong góc nào của tiềm thức rằng, chúng tuy lỗi thời thật, nhưng chúng đã tốt hơn nhiều cái cuộc sống của công cuộc Tái thiết này. Và vì thế, anh đi “săn tìm những thị trấn cổ xưa và những đất nước cổ xưa, nơi mà những ngày cũ vẫn còn nương nán lại” [92]. Sự hiểu biết của Quentin đã đẩy anh khỏi miền Nam xa hơn, trong khi của Rhett đã đưa anh lại gần hơn. Trọng tâm của bài viết Martin là hai huyền thoại tranh đấu với nhau: huyền thoại miền Nam của “đồn điền địa đàng”, một nơi của cái đẹp và bình yên tuyệt đối và huyền thoại chung của nước Mỹ về “tự lập tự cường” ở vùng khai hoang. Cả hai, theo Martin, là huyền thoại của sự trong trắng, và cả hai tiểu thuyết đã đập vỡ cái trong trắng đó, mang hai huyền thoại đó đến với nhau và cho thấy sự xung khắc căn bản của chúng. Martin đã tập trung vào thảo luận hai nhân vật đã cố gắng sống qua những huyền thoại trong trắng đó là Scarlett O’Hara và Thomas Sutpen [55]. 2.1.3. Chiếm một con số khá lớn là những tài liệu chuyên sâu nghiên cứu về tác giả Margaret Mitchell và tác phẩm “Cuốn theo chiều gió” của bà, có thể kể tên vài tác phẩm tiêu biểu như: Trước hết là cuốn sách nổi tiếng về tác giả Margaret Mitchell của Anne Edwards “Road to Tara: the life of Margaret Mitchell” (tạm dịch “Đường về Tara: cuộc đời của Margaret Mitchell”). Trong tác phẩm này, Edwards đã cặn kẽ miêu tả những bất an và mặc cảm thua kém trong suốt cuộc đời của Margaret Mitchell, tuy nhiên tác giả đã không đi sâu vào giải thích tâm lý cho những điều đó. Cái giá cao phải trả cho tiếng tăm – mất đi sự riêng tư – và những mâu thuẫn về tiếng tăm và những gì nó đem lại đã trở thành nội dung chủ yếu của phần sau quyển sách. Tương tự với sự quyết tâm của Margaret Mitchell không viết thêm nữa và những cách bà cố dùng để thuyết phục bản thân là bà đằng nào cũng không có thời gian. Cuốn sách không có chú giải, và phần tham khảo thì sơ sài và không đầy đủ. Nhiều lần Edwards thâm nhập vào suy nghĩ của Margaret Mitchell mà không dựa trên một chứng cớ nào. Tuy nhiên, sự kiện và lời giải thích có vẻ thuyết phục. Trong cuốn “Tara Twenty Years Later” (tạm dịch “Tara 20 năm sau”), Robert bày tỏ: “I know of no other Civil War novel with as much ‘breadth’ in conception as Gone With the Wind. What it lacks in ‘depth’ and in ‘art’ it compensates for in the clarity and vitality of its presentation of the diverse and yet unified issues involved, in sustained narrative interest, and in the powerful simplicity of its structure. The conflict which it dramatizes is as old as history itself. It has been presented more skillfully before, and no doubt will be again. But it will never be done more excitingly or appealingly than it is here.” (“Tôi chưa thấy tiểu thuyết nào về nội chuyến mà phóng khoáng trong quan niệm như “Cuốn theo chiều gió”. Điều nó thiếu ở chiều sâu và nghệ thuật được đền bù bằng sự rõ ràng và sức sống của việc nó biểu lộ, trong việc duy trì thích thú tường thuật, và trong sự đơn giản cấu trúc đầy quyền năng của nó. Mâu thuẫn mà nó kịch tính hóa đã xưa như trái đất. Cả trước và sau “Cuốn theo chiều gió”, mâu thuẫn này đã được miêu tả rất tốt, nhưng không ở đâu mà nó được miêu tả hấp dẫn hơn ở truyện này” [65]. Gần gũi với chúng ta là bài viết của Mart Stewart, “Teaching Gone with the Wind in the Socialist Republic of VietNam” (tạm dịch là “Dạy “Cuốn theo chiều gió” ở Việt Nam”). Bài viết kể về những kinh nghiệm của tác giả có được trong khoảng thời gian tham dự học bổng Fullbright ở thành phố Hồ Chí Minh. Từ những buổi tổ chức thảo luận chuyên để cho sinh viên Việt Nam, tác giả đã rút ra những kết luận thú vị về tiếp nhận trên góc độc văn hóa. “Đối với đa số độc giả tham dự chuyên đề, các nhân vật của cuốn tiểu thuyết là sự hấp dẫn chính. Mặc dù họ nhận ra rằng những nhân vật đó đôi lúc mờ nhạt, và chỉ có Rhett và Scarlett có nhiều đất diễn hơn, họ chỉ ra cái mà họ cho là xu hướng chung của hành vi con người đã được đại diện bởi bộ tứ Scarlett, Melanie, Rhett và Ashley. Nhìn chung, thay vì ngợi ca đặc trưng của từng nhân vật một, những người tham dự hội thảo chuyên đề Hoa kỳ học của tôi tìm kiếm những tính chất có liên quan với nhau khi phân tích giọng văn và nhân vật trong truyện và tiểu thuyết. Họ nhận ra tố chất của những nhân vật chính mà tất cả độc giả đều nhận ra, nhưng họ hiểu những tố chất ấy dựa trên nền văn hoá của họ. Hành vi và phẩm chất của Scarlett được soi sáng bằng hành vi và phẩm chất của Melanie, và ngược lại, tương tự với Rhett và Ashley. Cả bốn người đều đại diện cho những sự kết hợp và trao đổi khác nhau của đạo đức và cả thói xấu căn bản của con người. Sự phân loại của họ là quen thuộc với hầu hết độc giả: Melanie là người phụ nữ hoàn hảo, hình tượng tiêu biểu của tình yêu vị tha và tấm lòng thương cảm dành cho người khác, người sẵn sàng chiến đấu vì người thân những dễ dàng bị khó khăn cản trở. Cô ấy là “người mà phụ nữ muốn trở thành”, một học trò của tôi đã nói vậy. Với độc giả, Scarlett là một “cô gái xấu”, ích kỷ, nhẫn tâm, không được giáo dục tốt, nhưng thực tế, mạnh mẽ đầy sức sống (trái ngược với sự thụ động của Melanie) và có khả năng vượt qua khó khăn bằng sự khôn ngoan và ý chí kiên cường; nàng chính là người mà “phụ nữ phải trở thành”. Ashley với những độc giả này là hình tượng của danh dự, sự can đảm, kết quả của một nền giáo dục tốt, có lý tưởng quý tộc, mặc dù anh cần Melanie để thể hiện những lý tưởng này với sự nhiệt tình và nhân đạo. Rhett, dĩ nhiên là một kẻ bất lương điển hình – dễ dàng thích nghi, lanh lợi, quyến rũ, vô liêm sĩ, mạnh mẽ, tinh ranh, nam tính, tự tin – một người nhìn thấy thế giới như nó vốn có chứ không theo cái mà anh muốn thấy. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất với những người đọc này lại là những nguyên tắc về cảm xúc mà những nhân vật trong “Cuốn theo chiều gió” biểu hiện phải được xem như toàn thể một xã hội hữu cơ nhằm đem lại cho nó ý nghĩa” [68]. Helen Taylor, một chuyên gia lỗi lạc về “Cuốn theo chiều gió” cũng có tài liệu về tác phẩm này là: “Scarlett’women: Gone with the wind and Its femail fans” (tạm dịch “Những phụ nữ của Scarlett: “Cuốn theo chiều gió” và giới nữ hâm mộ”). Trong công trình chuyên sâu này, bà thể hiện cái nhìn của một nhà phê bình uyên bác và am hiểu với những nhận định sâu sắc về giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật thể hiện của nó [70]. Bài viết “Gone With the Wind in American Culture” (tạm dịch “Cuốn theo chiều gió” trong văn hóa Mỹ”) của Darden Asbury Pyron tập hợp nhiều bài viết có giá trị khi nhìn nhận cuốn tiểu thuyết của Margaret Mitchell dưới nhiều góc độ khác nhau: chiến tranh, tình yêu, nữ quyền, vấn đề chủng tộc… Tác giả này cũng có nhiều bài viết như “Southern Daughter: The Life of Margaret Mitchell”; “Gone with the Wind and the Southern Cultural Awakening”…thể hiện quan điểm đánh giá sắc sảo và am hiểu về “Cuốn theo chiều gió” [63]. 2.1.4. Các đánh giá, nhận xét của những nhà phê bình uy tín trên các báo, tạp chí Mỹ thì cũng có nhiều ý kiến khen chê trái chiều. Những nhà phê bình chính của cả miền Bắc lẫn miền Nam đã phù hợp với hứng thú của cộng đồng về “Cuốn theo chiều gió”. J. Donald. Adams viết trên New York Times Book Review ngày 5/7/1936 rằng ““Cuốn theo chiều gió” là một trong những tiểu thuyết đầu tay nổi bật nhất từng được văn hào người Mỹ viết”, và tiếp tục “Nó là một, vâng là một trong những quyển tuyệt nhất về quyền năng tường thuật, tính dễ đọc mà chưa có một cuốn truyện nào trong nền tiểu thuyết Mỹ qua được” [73, tr.6]. Theo ý Henry Steele Commager, Jr. viết trong cuốn NewYork Herald Tribute Book ngày 5/7/1936, “câu truyện được kể với chân thật và đam mê, được soi sáng bởi sự thấy hiểu, được dệt bằng tư liệu lịch sử và sự tưởng tượng có sắp xếp, sẽ luôn luôn hấp dẫn” [73, tr.9]. Hai tác giả nổi tiếng miền Nam cũng khen ngợi cuốn sách. Ellen Glasgow cho rằng nó là “một bức họa can trường, lãng mạn mà không ủy mị, về một truyền thống và lối sống đã mất đi,” [73, tr.11] và mong nó “luôn được đọc và trân trọng”. Stephen Vincent Benet cũng nói “Margaret Mitchell đã viết một câu chuyện về chiến tranh và tái thiết vững vàng và sinh động hấp dẫn, với chi tiết thực tế và góc nhìn độc đáo, nó nên được đọc rộng rãi như nó đáng được”[73, tr.12]. Không phải nhà bình luận nào cũng cho rằng “Cuốn theo chiều gió” hấp dẫn, những lời ra tiếng vào không ngớt dành cho tác phẩm do quan niệm lịch sử không thống nhất của Margaret Mitchell. Geogre S.Schuyler viết vào 7/1937 là “Cuốn tiểu thuyết dày 1024 trang của Margaret Mitchell có thể đoạt giải Putlizer của người da trắng, nhưng nó cũng chỉ là một bài luận tuyên truyền chống đối người da đen, những người biết rõ lịch sử của đất nước” [73].Tờ New Republic tiếp tục phản đối “Cuốn theo chiều gió”, và Malcom Cowley cho rằng “Cuốn theo chiều gió” là “một bách khoa toàn thư về truyền thuyết di dân […] Nhưng mặc dù truyền thuyết này sai một phần, ngớ ngẩn một phần và xấu xa trong hiệu quả chung với xã hội miền Nam ngày nay, nó vẫ._.n còn giữ được những cảm xúc căn bản.” [42]. 2.2. Các công trình, bài nghiên cứu, bài báo của các tác giả trong nước Dù “Cuốn theo chiều gió” là một tác phẩm nổi tiếng và phổ biến tại Việt Nam, nhưng những công trình nghiên cứu thì lại khá hạn chế. Trong quá trình thu thập tài liệu chúng tôi chỉ thấy có vài tác phẩm sau: Nguyễn Thị Tuyết Nga (2004), Khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa của Margaret Mitchell trong tác phẩm Cuốn theo chiều gió”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm TPHCM [28]. Phương Diễm Hương (2007), Chiến tranh Nam Bắc Mỹ trong tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió” của Margaret Mitchell, Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm TPHCM [19]. Hoàng Thị Hậu (2009), Dấu ấn thời đại trong tác phẩm Cuốn theo chiều gió” của Margaret Mitchell, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Văn hiến TPHCM [16]. Luận văn của tác giả Tuyết Nga tiếp cận tác phẩm ở phương diện khuynh hướng hiện thực, đi sâu vào lý giải sức ảnh hưởng từ thời đại và chính cuộc đời của Margaret Mitchell đã làm nên một “Cuốn theo chiều gió” đậm chất hiện thực. Phần chính của luận văn này đi lý giải những yếu tố làm nên khuynh hướng hiện thực của “Cuốn theo chiều gió”, bao gồm: nghệ thuật xây dựng cốt truyện, bối cảnh, xây dựng nhân vật điển hình cũng như làm rõ mối tương quan giữa hoàn cảnh điển hình và nhân vật điển hình. Nhìn chung công trình này bước đầu có nhiều gợi ý về nghệ thuật tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió”, nhưng hướng tiếp cận còn bao quát, chưa cụ thể, thiên hướng “kể chuyện” nhiều hơn là phân tích, làm rõ bằng luận cứ luận chứng. Luận văn của tác giả Diễm Hương thiên về nội dung, mà trọng tâm là về đề tài “Chiến tranh Nam Bắc Mỹ”. Tác giả đã dành thời gian điểm qua những nét chính trong cuộc đời tác giả, từ đó đi sâu khai thác sự thể hiện của chủ để “chiến tranh” trong tác phẩm qua sự thăng trầm của đời sống nhân vật dưới những biến chuyển của thời cuộc. Chương về nghệ thuật chỉ ở dạng khái quát, trong đó tác giả quan tâm đến bút pháp hiện thực, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhấn mạnh vào yếu tố tâm lí nhân vật, làm rõ bằng việc phân tích các nhân vật tiêu biểu của tác phẩm như Scarlett, Rhett. Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Hoàng Thị Hậu cũng đi theo con đường của các công trình trên, đi từ bối cảnh đất nước, cuộc đời tác giả, đến việc khẳng định yếu tố “thời đại” có vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự thành công của tác phẩm. Chương về nghệ thuật cũng đi khai thác một số yếu tố chính yếu như nghệ thuật xây dựng bối cảnh, nhân vật, trần thuật, nhưng còn ở mức độ chung chung, sơ lược, chưa đi sâu phân tích cụ thể. Dĩ nhiên còn có thể kể đến một số bài báo giấy và báo mạng có liên quan đến “Cuốn theo chiều gió”, nhưng các tác giả chỉ chủ yếu lướt qua đặc điểm cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Margaret Mitchell (như “Margaret Mitchell một tác phẩm đủ làm nên bất tử” của Lê Nguyễn; “Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và bộ phim Cuốn theo chiều gió”, cuộc nội chiến Nam – Bắc Mĩ của Phạm Văn Tuấn…), chỉ một vài bài có để cập đến nhân vật, nhưng chỉ mới tập trung vào nhân vật chính Scarlett (như “Vấn đề phụ nữ qua Cuốn theo chiều gió” của Đặng Thanh Lê, “Cuốn theo chiều gió và cô gái ba chìm bảy nổi trong bối cảnh nội chiến” của Hữu Ngọc…). Các diễn đàn trên internet về tác phẩm này khá phong phú, nhưng không chuyên sâu mà chủ yếu là các cảm nhận, đánh giá về nhận vật, cốt truyện, về sức hấp dẫn của tác phẩm này v.v… Vì tính chưa chính xác của thông tin nên chúng tôi không trích dẫn ở đây các nguồn tư liệu này. Với cái nhìn bao quát kể trên, chúng tôi nhận thấy tại Việt Nam vẫn chưa có một công trình nào khai thác đề tài “Nghệ thuật tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió”. Các đề tài chủ yếu xoay quanh nội dung, khuynh hướng sáng tác (chiến tranh, dấu ấn thời đại, tính hiện thực). Trong cả 3 công trình nghiên cứu chuyên về “Cuốn theo chiều gió” mà chúng tôi có đến thời điểm này, đều có 1 chương nói về nghệ thuật, nhưng do quy mô chỉ trong 1 chương, đồng thời chỉ để bổ sung cho phần chính của từng công trình, nên các chương này cũng được thực hiện một cách khái lược vào những nét cơ bản: nhân vật, không gian – thời gian, nghệ thuật kể chuyện v.v… Từ quá trình khảo cứu tư liệu, tiếp thu những điểm đóng góp của các tác giả, đồng thời nhận thấy những yếu tố còn bị “bỏ ngỏ” của việc nghiên cứu tác phẩm, chúng tôi đã quyết định đi vào khai thác đề tài “Nghệ thuật tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió”. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tác phẩm “Gone with the wind” tiếng Anh xuất bản tại nhà sách Avon, Mỹ và bản dịch “Cuốn theo chiều gió” của cả 2 tác giả Dương Tường (NXB Văn học 1987, đăng trên ebook) và Vũ Kim Thư (NXB Văn học, 2001). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Với đề tài “Nghệ thuật tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió” của Margaret Mitchell”, chúng tôi sẽ đi trực tiếp vào việc tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết trên các bình diện: - Nghệ thuật xây dựng cốt truyện - Nghệ thuật xây dựng nhân vật - Nghệ thuật trần thuật 4. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ giới hạn đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 4.1. Phương pháp tiếp cận lịch sử văn hóa 4.2. Phương pháp so sánh đối chiếu văn bản 4.3. Phương pháp phân tích tổng hợp 4.4. Phương pháp hệ thống 5. Đóng góp và bố cục luận văn Từ những nghiên cứu có tính chất cơ sở được đề cập trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những thành công của Margaret Mitchell trong nghệ thuật viết tiểu thuyết, cũng như góp phần lý giải cho sức hấp dẫn của tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió”. Luận văn ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội dung sẽ gồm 3 chương và phân bổ nội dung như sau: Chương 1: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật Chương 3: Nghệ thuật trần thuật Chương 1: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN Cốt truyện được hiểu là “hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất…trong tác phẩm tự sự” [14 tr70-71]. Hiểu một cách đơn giản, cốt truyện chính là toàn bộ các biến cố, sự kiện mà nhà văn kể ra, là cái mà người đọc có thể đem kể lại. Đồng thời khi hiểu theo cách này thì cốt truyện không chỉ là một dạng nội dung, mà bản thân nó là một yếu tố nghệ thuật có giá trị kiến tạo và quy định nghệ thuật của tác phẩm. Trong bài báo Thanh niên số phát hành tại Việt Nam ngày 11/1/2009 với nhan đề “Cuốn theo chiều gió đã cuốn tôi đi”, Tiến sĩ người Mỹ Jernifer Dickey đã khẳng định thành công lớn nhất của “Cuốn theo chiều gió” bên cạnh tuyến nhân vật là ở cốt truyện: “chính sức mạnh của cốt truyện đã làm cho việc nó viết dưới ngôn ngữ nào đã không còn quan trọng nữa”. Bản thân sự thu hút của tác phẩm với người đọc toàn thế giới ngay từ Mỹ sang châu Âu, rồi châu Á và khắp thế giới, từ lúc ra đời cho đến bây giờ là minh chứng rõ ràng nhất sự hấp dẫn của cốt truyện. Không thể không nhắc lại vài chi tiết quan trọng trong quá trình sáng tác của Margaret Mitchell (bắt đầu từ 1926). Đầu tiên, bà viết các chương một cách rời rạc, mãi đến khi giao kịch bản bà vẫn chưa viết… chương đầu. Càng thú vị hơn khi được biết đoạn đầu tiên chắp bút lại chính là đoạn cuối cùng của tác phẩm. Câu văn ở cuối truyện “Tomorrow is another day” cũng đã được chọn làm tiêu đề tác phẩm. Ấy thế nhưng khi hoàn tất và xuất bản (1936), kể cả độc giả kĩ tính nhất cũng khó thấy dấu hiệu ráp nối nào. Điều này tự thân cho thấy tính chặt chẽ của cốt truyện mà Margaret Mitchell đã chủ tâm tạo ra trong “Cuốn theo chiều gió”. Vậy điều gì làm nên điều kì diệu ấy? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi sẽ đi vào lý giải và phân tích những khía cạnh độc đáo nhất trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Margaret Mitchell mà theo chúng tôi là nắm giữ bí ẩn của sức hút từ cốt truyện, bao gồm: hệ thống tình huống, chi tiết và kiểu kết thúc truyện. 1.1. Tình huống Tình huống truyện là thời điểm một sự việc, một sự kiện xảy ra với nhân vật, đặt trong tình thế đó nhân vật buộc phải thể hiện thái độ, hành động và có giải pháp cụ thể. Tình huống được xây dựng không chỉ nhằm thúc đẩy phát triển hành động nhân vật mà còn đóng vai trò khơi nguồn, châm ngòi, lý giải nguyên cớ, nguồn cơn của những tâm trạng, những biến đổi vi diệu trong tâm hồn nhân vật. Đặt nhân vật vào một tình huống nào đó dưới dạng những điều kiện xúc tác để mô tả chiều sâu đời sống tâm linh con người, chớp lấy những khoảnh khắc đặc biệt để khắc họa tính cách, số phận, cuộc đời nhân vật là cách mà Margaret Mitchell đã làm và làm một cách hết sức uyển chuyển. Cùng với chi tiết, tình huống tạo cho mạch truyện một đường dây chặt chẽ với sự logic trước sau của sự kiện có liên quan tới số phận, tính cách nhân vật đặt trong bước đi của lịch sử. Dưới đây chúng tôi đi vào những tình huống được tác giả sử dụng lặp lại dưới dạng motip, như là một chủ đích trong việc bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, góp phần tạo nên sự thành công của cốt truyện. 1.1.1. Tình huống làm hoán đổi vai trò Có một điều mà khi đọc tác phẩm chúng tôi lấy làm thú vị, đó là sự đổi vai của các nhân vật trong tác phẩm. Từ hiện tượng nổi bật là việc người tình trong mộng suốt đời Scarlett theo đuổi và tôn thờ như một vị thánh với tâm hồn cao khiết, Ashley, bỗng chốc sau một biến cố - cái chết của Melanie - đã thành một đứa trẻ con không hơn không kém. Sự “biến hình” này của Ashley khiến cho Scarlett thức tỉnh ra tình yêu đầu đời của mình là một nhầm lẫn tai hại, đến mức nàng phủ nhận sạch trơn những mê say từng dày vò mình trước đó để khẳng định không nuối tiếc “Có đặt anh ta lên khay vàng cho không, mình cũng chẳng lấy! Nhưng dù sao mình vẫn nặng nợ với anh ta đến hết đời. Chừng nào mình còn sống, mình còn phải trông nom anh ta, lo cho anh ta khỏi chết đói, cho thiên hạ khỏi xúc phạm tình cảm của anh ta. Anh ta sẽ chỉ như một đứa con nữa bám lằng nhằng lấy váy mình. Mình đã mất người mình yêu và thay vào đấy là một đứa con nữa” [26, tr.662]. Ashley Wikes Nếu chỉ dừng ở đó thì tình huống trên chỉ là một hiện tượng đơn lẻ nhằm lý giải sự trưởng thành về tính cách của nhân vật Scarlett, đồng thời mở nút những điểm thắt đã được tác giả chủ định từ đầu. Nhưng nếu tinh ý độc giả có thể nhận thấy tình huống một người lớn mạnh mẽ có lúc trở thành một đứa đứa bé yếu ớt, thậm chí như một đứa con thơ hoặc ngược lại, không phải là hiện tượng cá biệt mà thành một hệ thống ở các nhân vật. Từ đó, chúng ta sẽ nhận ra sự lí thú cố tình mà Margaret Mitchell đã “cài đặt” vào trọn cuốn tiểu thuyết, tạo ra chất kết dính cho cốt truyện và sự thống nhất tư tưởng chủ đề. …khi trẻ con là người lớn Người phụ nữ trẻ con, thể hiện bởi nhân vật Melanie (nhân vật lúc đầu được dự tính là nữ chính của tác phẩm), lúc xuất hiện đã được giới thiệu là “một cô gái nhỏ nhắn, mảnh dẻ, một cô gái mang dáng vẻ của một đứa trẻ đang hoá trang trong bộ váy khổng lồ của bà mẹ”[92]. Nàng vẫn mãi là một cô bé nhỏ nhắn, ngực nhỏ, cơ thể khó thể sinh con nhưng nàng lại là người lớn mạnh mẽ nhất của cả tác phẩm, khi chính nàng là người chăm lo cho tất cả mọi người, những người lớn lẽ ra phải bảo vệ nàng – Ashley, Scarlett, và cả Rhett. Khẳng định vai trò của đứa trẻ - người lớn này, Margaret Mitchell đã để chính nhân vật vốn xem thường Melanie, Scarlett, phải thức nhận khi nhìn Melanie nằm trên giường bệnh: “Cô ấy giống mẹ, mọi người biết cô ấy đều bám vào cô ấy” [92]. Bản thân Scarlett, trong suốt cuốn tiểu thuyết, đã thao túng người khác để giữ vị trí hoặc là một đứa trẻ, hoặc là người mẹ. Tính cách trẻ con của nàng được thể hiện trong sự dựa dẫm vào Ellen, Mammy, Melanie, Will Benteen, Archie và dĩ nhiên, vào Rhett: “Là một người đàn ông và mạnh mẽ như Rhett thì tuyệt vời biết bao… Với Rhett bên canh, nàng không sợ gì cả.” [92]. Đồng thời, nàng cũng biết đàn ông nên sợ sức mạnh của nàng, vì nàng có thể khiến họ làm bất cứ điều gì nàng muốn. Nàng đã làm Charles Hamilton và Frank Kennedy phải cưới nàng, dù họ đều đã đính hôn người khác, nàng đã làm Ashley Wilkes phản bội Melanie bằng cách bắt anh tuyên bố tình yêu của mình, nàng làm cho Rhett Butler phải đánh mất sự điềm tĩnh mà anh đầy tự hào. Bằng thuật biến hình chỉ những người phụ nữ trong cổ tích mới có, nàng đã thay đổi hình ảnh của mình liên tục – từ một cô bé, đến một hoa khôi miền Nam thích vờ tán tỉnh, hay một nạn nhân bất hạnh của chiến tranh – vì chỉ như thế nàng mới có thể vượt qua khỏi những thăng trầm đã quét hết mọi điều chở che nàng và làm tan vỡ gia đình của nàng. Scarlett liên tục đóng những vai trò trái ngược nhau, vừa là trẻ con, vừa là người lớn, vừa là vợ, vừa là mẹ, để chăm lo cho người cha suy nhược, hai người em gái Careen và Suellen, cả gia đình của Ashley, cả bà vú, Pork, Dilcey và Prissy, cả dì Pittypat và thậm chí tất cả bả dì ở Charleston sẽ chết đói nếu không có nàng. Như Robinson Crusoe, nàng thật ra chỉ có một mình, vì khi nàng về Tara, mẹ nàng đã chết, em nàng bệnh tật, và cha nàng chỉ còn là “một ông già yếu ớt và suy nhược” [92]. Tuỳ vào hoàn cảnh, nàng đồng thời là một đứa trẻ và một người mẹ ở Tara, như Beau nhỏ đã sống nhờ vú Dilcey, nàng đã mệt mỏi ngả đầu vào bầu vú to lớn của Mammy, nhưng nàng không thể nghỉ ngơi ở đó thật lâu. Khi Ellen mất, Tara cần một người phụ nữ mạnh mẽ, và ngay cái đêm mà nàng trở về, nàng đã nắm giữ vai trò người mẹ cho cả Tara cho suốt phần còn lại của tác phẩm. …khi người lớn là trẻ con Cái chết của Melanie, cũng như của Ellen, đã làm lộ rõ chân tướng của những nhân vật khác, đặc biệt là những người chồng mà so với những người vợ của họ mới thực sự là những đứa trẻ. “Cuốn theo chiều gió” tạo ra sự ngạc nhiên cho độc giả khi khắc họa nét kinh hoàng ngơ ngác của những đứa trẻ mang trang phục của người lớn. Khó khăn cởi bỏ mặt nạ của những nhân vật ngơ ngác khóc lóc chạy tìm cha mẹ, đó là chân dung của những người cha trẻ con như Gerald O’Hara hay Ashley Wilkes. Gerald, người đàn ông ngay lúc xuất hiện đã “trông ông như một đứa bé ngồi lỏng lẻo trên lưng con vật dềnh dàng”, có tính khí “kiêu hãnh một cách trẻ con”; đến mức có lúc Scarlett luôn “nhìn ông với vẻ âu yếm tự tôn của một bà mẹ đối với những đứa con vênh váo” [92]. Cho nên khi không có Ellen, người lớn Gerald đã trở thành một đứa trẻ ngơ ngác, cần đến bàn tay chăm sóc ân cần như một người lớn thực thụ của con mình - Scarlett. “Giờ cha sẽ uống một ly nữa rồi con sẽ giúp cha lên lầu và vào giường ngủ” [92]. Nàng đã nói với cha nàng như thế, như Ellen đã từng, và như thể ông chỉ là một đứa trẻ. Hôn nhân trong tác phẩm đã bao gồm cả mối quan hệ giữa một đứa trẻ nam bất lực và một bậc phụ huynh nữ quyền năng. Ashley, chàng kị sỹ hào hoa, tài giỏi của Twelve Oak, mạnh mẽ và đầy cuốn hút trong mắt Scarlett, được tuyệt đối tin cậy và ngưỡng mộ bởi gia đình và cả hạt Clayton, đã trút bỏ lớp xiêm áo một người lớn để trở nên đáng thương lạ kì sau cái chết của Melanie. Ashley trở thành đứa trẻ ngơ ngác, tìm nơi Scarlett một chỗ dựa “Anh định đi tìm em, anh sắp sửa chạy đi tìm em – như một đứa bé tìm nguồn an ủi …” [26, tr.658]. Kể cả người đàn ông mạnh mẽ ngạo mạn, Rhett, cũng đã có lúc thành con trẻ trong tay người đàn bà trẻ con Melanie. Sau khi Scarlett sẩy thai, Melanie đã lọt vào phòng Rhett dễ dàng, đóng cửa lại và đón anh vào vòng tay, ôm anh như ôm một đứa trẻ với một bí mật không thể kiềm giữ nổi: “nàng liền bước nhanh vào phòng, nhẹ nhàng đóng cửa lại tới bên chàng. Tuy nàng chưa bao giờ thấy một người đàn ông khóc, nhưng nàng đã lau khô nước mắt của nhiều đứa bé. Khi nàng nhẹ nhàng đặt tay lên vai chàng, Rhett đột ngột ôm lấy chân nàng. Chưa kịp hiểu ra sao, nàng đã thấy mình ngồi trên giường và Rhett quì dưới sàn, đầu gục vào lòng nàng, cả hai cánh tay và hai bàn tay vừa ghì vừa níu lấy nàng như điên, làm nàng phát cáu. Nàng dịu dàng vuốt mái tóc đen, giọng vỗ về: “Thôi! Thôi! Thôi nào! Chị ấy sắp khỏe rồi mà” [26, tr.592]. Rhett – đứa trẻ, người chồng, người cha Nhưng Rhett chỉ là trẻ con trong bí mật duy nhất với Melanie, còn bản thân anh lại đảm nhiệm vai trò người chồng, thậm chí người cha của Scarlett. Chỉ với riêng Rhett, Scarlett mới nhỏ bé và cần che chở như tin cậy bờ vai người cha và thỏa sức bi bô, dù chỉ là trong vô thức. “Ôi, Scarlett, cô trẻ đến mức cô xiết trái tim tôi” [92]. Rhett đã kêu lên khi nàng nắm lấy cái nón xanh anh đã giật lấy từ nàng. Như một người cha nuông chiều con, anh sung sướng với sự trẻ trung của nàng, để nàng có mọi thứ nàng muốn. Trong tuần trăng mật, anh cười to khi nàng ăn no nê xúp mướp tây New Orleans, tôm, mì, và bản thân anh còn bón cho nàng “như thể nàng là một đứa trẻ” [92]. Anh mua cho nàng dép sa-tanh, đầm thêu kim tuyến, áo lót thêu tay, và khuyến khích nàng nói thẳng ra ý mình. Scarlett nói với anh rằng anh là người duy nhất “có thể chấp nhận sự thật từ một người phụ nữ… một người không mong tôi nói dối” [92]. 1.1.2. Tình huống ước mơ bị thực tế hủy hoại Những ước mơ không thực hiện được của chúng ta, Scarlett đã nuôi giữ chúng và chỉ ra rằng khi ước mơ thực hiện được có thể đem theo cái chết. Chính nàng đã làm cho giấc mơ của Rhett thành sự thật, ước mơ rằng một ngày nào đó nàng sẽ yêu anh. Nhưng đến lúc nàng yêu anh thật thì tình yêu bất tử của anh đã chết cùng với 2 đứa con của họ, Bonnie và đứa bé còn chưa tượng hình, chỉ còn sự mãnh liệt của khát khao lầm thời của họ kéo dài, và trở thành niềm nuối tiếc của chúng ta. Scarlett căm ghét Melanie vì nàng ta cứ điềm đạm thái quá, tốt bụng thái quá và được mọi người yêu quý thái quá. Nàng nhiều lần nguyền rủa Melanie và ước mơ cô ta chết quách đi để nàng đỡ phiền toái. Scarlett thậm chí ghét cả cái cách Melanie luôn yêu thương mình gần như mù quáng, khi luôn đứng về phía nàng để chống lại và bảo vệ nàng trước búa rìu từ người xung quanh. Và cái cớ lớn nhất nàng muốn Melanie chết đi là để nàng đường hoàng đến với giấc mộng tuổi xuân – chàng hoàng tử trong mơ Ashley. “Ðôi khi Scarlett tự hỏi tại sao Mélanie không chết lúc sinh nở. Ðược như thế mọi vấn đề sẽ ổn. Sau khi đã hi sinh một thời gian cho hợp lễ nghi, nàng sẽ kết hôn với Ashley và sẽ trở thành một người mẹ tuyệt vời của bé Beau” [25, tr746]. Nhưng cái chết của Melanie đã khiến Scarlett ngộ ra sự thật rằng: người bạn duy nhất của nàng suốt quãng đời dài đã qua không ai khác hơn chính là cô gái mỏng manh ấy. Thực tế ấy đã khiến Scarlett nhận ra ước mơ độc ác của mình ngày nào thành một nỗi ân hận và dày vò khi thức tỉnh ra nhiều giá trị đích thực trong cuộc sống. “Melanie là người bạn duy nhất mình từng có, nàng nghĩ thầm tuyệt vọng, người phụ nữ duy nhất yêu mình thực sự ngòai Mẹ ra. Cô ấy cũng giống Mẹ. Người nào cũng bám vào Melly cũng như cả Tara bám vào vạt áo Ellen’ [26, tr.656]. “Và giờ đây mình phải trả giá. Điều mình cầu ước bao lần nay đã đến. Mình đã cầu cho Melanie chết để mình được Ashley. Thì nay cô ấy đã chết, mình đã được anh ta, nhưng mình lại không cần anh ta” [26]. Tình yêu Scarlett dành cho Ashey cũng là một ước mơ nhiều hơn là thứ tình cảm xuất phát từ đáy tim. Có điều, thứ tình cảm mới lớn ở tuổi 16 dễ giải thích lại cứ nóng ấm theo thời gian, kể cả khi nàng đã có Rhett và sự giàu sang, là một thứ gì đó bất ổn. Thế nhưng, khi tình yêu đơn phương kia sau bao năm dài tháng rộng, chiến tranh, nghèo đói không gì lay chuyển được bỗng bị thực tế hủy hoại một cách phũ phàng khi Melanie mất. Nhanh chóng đến không ngờ khi sau cú sốc ấy, lại đối diện với một Ashley ngơ ngác, vô hồn, cầm trên tay chiếc găng cũ của Melanie và lảm nhảm những điều vô nghĩa, Scarlett đã nhận ra ước mơ và thực tế là hai điều cách xa nhau và thật khó để dung hòa. 1.1.3. Tình huống hiểu lầm thay đổi số phận “Cuốn theo chiều gió” được xây dựng trên cơ sở hàng loạt hiểu lầm, từ những hiểu lầm đời thường đến những hiểu lầm gây nên những biến cố trong số phận nhân vật. Câu chuyện bắt đầu từ một hiểu lầm rất ngô nghê của Charles với tình yêu dành cho Scarlett. Cách Margaret Mitchell xây dựng tình huống này cũng khá hài hước: trong lúc mọi người đang hối hả với tin tức chiến tranh, Scarlett rối bời trước chuyện Ashley chối từ mình và sắp cưới Melanie nên nàng im lặng và gật gù vô thức, thì Charles lại tin chắc đấy là sự hiền thục và e thẹn của cô gái đang yêu. “Anh ta nghĩ thầm "đàn bà mỏng manh và yếu đuối quá, mới nghe nói tới chiến tranh và những chuyện tàn nhẫn là ngất xỉu". Ý nghĩ nầy khiến anh ta tự thấy có nam tính hơn và anh càng lịch sự gấp đôi khi đỡ nàng ngồi xuống. Scarlett trông như mất hồn và có vẻ gì man dại trên khuôn mặt nhợt nhạt của nàng khiến tim anh nhảy mạnh. Có lẽ nàng buồn vì nghĩ rằng mình sắp phải chiến đấu! Không, nghĩ vậy là quá tự phụ. Nhưng tại sao mặt nàng lại lạ lùng như thế kia? Tại sao tay nàng run lên sờ mó chiếc khăn ren? Và tại sao hàng mi óng ánh của nàng... lại chớp nhanh như những cô gái mà anh ta đã đọc trong tiểu thuyết, chớp mắt vì rụt rè và yêu thương” [92]. Cùng kiểu cách ấy, người chồng thứ hai của Scarlett cũng rơi vào bẫy tình khi hiểu lầm rằng nàng yếu đuối và cần chở che. Để đến khi “ván đóng thuyền” cũng là lúc Kennedy dù rất bất mãn nhưng cũng đành im lặng trước sự mạnh mẽ của Scarlett để giữ phong thái đúng mực của một quý ông miền Nam. “Scarlett là vợ y và một người vợ thì bao giờ cũng cần được bảo vệ bởi sự trung thành của ông chồng. Ngoài ra, Frank cũng khó mà nghĩ được rằng Scarlett chỉ lấy y để lợi dụng chớ chẳng có một chút tình cảm nào. Tính tự kiêu của đàn ông không cho phép y xác nhận điều đó. Thà cho rằng vì quá thương mình nên Scarlett phải đặt điều nói dối còn hơn. Nhưng vấn đề không giản dị như thế, Frank tự hiểu mình” không phải là hạng đàn ông có đủ khả năng mê hoặc phụ nữ. Nhưng vốn là người quý tộc, y đành giữ kín nỗi băn khoăn đó, Scarlett đã là vợ y, y không thể nhục mạ vợ bằng cách đặt ra những câu hỏi dị kỳ mà rốt cuộc rồi cũng chẳng tới đâu [92]. Tuy nhiên, những sự hiểu lầm ấy chưa thực sự tạo nên tình huống đặc biệt khiến nhân vật bị đặt trước sự lựa chọn mang tính quyết định cho số phận như những hiểu lầm của Scarlett về tình bạn với Melanie, tình yêu dành cho Ashley, và nhất là tình yêu với Rhett. Ngay từ đầu, Scarlett đã ngộ nhận về tính cách của Melanie, kéo theo việc xem thường người con gái nhỏ nhắn dịu dàng ấy. Và như sự sắp đặt của số phận khi trên mỗi bước đường đời của Scarlett đều có sự hiện diện của Melanie. Nhưng tiếc thay, nàng đã không nhận ra chân giá trị trong tình bạn với Melanie – người duy nhất yêu thương nàng bằng tình thương mà nàng nhận được từ Ellen. Scarlett luôn cho rằng Melanie đáng chết, và cô chỉ là một con gà mái ngốc ngếch gọi dạ bảo vâng. Kể cả những lúc quẫn bách, khi Melanie sẵn sàng cầm kiếm để bảo vệ Scarlett trước tên Yankee, hay khi nàng một thân một mình đối chọi với búa rìu dư luận về chuyện với Ashley, Melanie trước sau vẫn một mực dành cho Scarlett thứ tình cảm chị em, bạn bè với lòng tin tuyệt đối, không mảy may ngờ vực. Nếu không có cái chết của Melanie, thì tình huống hiểu lầm này còn đưa đến nhiều oan trái cho cuộc đời Scarlett, khi có thể nàng sẽ đánh mất thêm nhiều điều quý giá trong cuộc đời mình. Cái chết là điểm mở nút cuối cùng cho sự hiểu lầm mà cả đời Scarlett bị sa lầy, để nhận ra “Trước đây, nàng chưa bao giờ nghĩ là mình phải cần đến Melanie. Nhưng giờ đây, sự thật ập đến, tràn cả vào những ngóc ngách sâu nhất của tâm hồn nàng. Nàng đã dựa vào Melanie như dựa vào chính bản thân mình mà nàng không biết. Giờ đây Melanie sắp chết và Scarlett biết mình không thể thiếu nàng. Giờ đây, rón rén đi qua buồng lại gần cái thân hình im lìm kia, tim thắt lại vì kinh hòang, nàng biết rằng Melanie đã là gươm và mộc của nàng, niềm an ủi và sức mạnh của nàng… …Và giờ đây, khi buồn rầu nhìn lại quá khứ, Scarlett hiểu ra rằng Melanie bao giờ cũng ở đó bên cạnh nàng với một thanh gươm trong tay, kín đáo như cái bóng của chính nàng, yêu nàng, chiến đấu vì nàng với một dạ trung thành mù quáng chống lại bọn Yankee, lửa, cái đói, cái nghèo, dư luận và thậm chí cả những người máu mủ ruột thịt của cô ấy. Scarlett cảm thấy lòng can đảm và tự tin từ bỏ mình khi nàng nhận ra rằng thanh gươm từng vung lên sáng loáng để bảo vệ nàng trước thế gian, giờ đã vĩnh viễn tra vào vỏ. Melanie là người bạn nữ duy nhất mình từng có, nàng nghĩ thầm tuyệt vọng, người phụ nữ duy nhất yêu mình thực sự ngoài Mẹ ra. Cô ấy cũng giống Mẹ. Tất cả những ai biết Melanie đều níu lấy váy cô.” [92]. Những tình huống hiểu lầm khác cũng diễn ra xuyên suốt câu chuyện, tạo nên đau khổ cho cuộc đời của Scarlett chính là ảo tưởng mù quáng vào cuộc tình với Ashley. Trong ký ức của Scarlett khi Ashley trở về nhà sau chuyến ngao du của anh, anh đã xuất hiện như một hiệp sĩ: “Hôm ấy, nàng đang đứng trên thềm và Ashley cỡi ngựa đi trên con đường dài, y phục bằng nỉ mỏng toàn màu xám và chiếc cà vạt rộng khổ màu đen làm nổi bật chiếc sơ mi xếp nếp hình tổ ong. Cho tới bây giờ, nàng vẫn còn hình dung được từng chi tiết về y phục của chàng, đôi giày bóng sáng chói làm sao ấy và cái kẹp mang hình đầu nữ quái Medusa, chiếc nón Panama rộng vành mà chàng vội lấy xuống cầm tay ngay khi thấy mặt nàng. Chàng đã nhẹ nhàng rời lưng ngựa và ném dây cương cho một thằng bé da đen, để ngắm nàng với đôi mắt mở to, với nụ cười nở rộng, và ánh mắt tươi sáng đã biến mái tóc vàng óng ả của chàng thành một mũ bạc rực rỡ. Và chàng đã nói : "Em lớn lắm rồi, Scarlett ạ". Và nhẹ nhàng bước lên các bậc thềm, chàng đã hôn tay nàng. Và giọng nói của chàng! Nàng không bao giờ quên được nhịp nhảy rộn ràng của tim mình, khi nghe giọng nói ấy lần đầu tiên, nó êm lướt, trầm ấm và dìu dặt làm sao!” [92]. Chính điều đó đã ngăn trở Scarlett bước đến thứ hạnh phúc thật sự, tình yêu thật sự với người mà tạo hóa vốn đã dành cho nàng, Rhett. Sao không giận cho được, khi Scarlett tuy đã lơ mơ nhận ra sự khác biệt quá lớn trong tâm hồn hai người, từ niềm yêu thích văn học nghệ thuật cho đến thái độ với cuộc chiến tranh, Ashley không đồng điệu với nàng. Thế nhưng Scarlett luôn hiểu lầm mọi thái độ Ashley dành cho mình, rồi trách móc, rồi giận dỗi, nhưng rồi vẫn yêu thương âm thầm mù quáng. Scarlettt luôn vin vào những kỉ niệm ngắn ngủi giữa họ để buộc mình tin là Ashley yêu mình. Cuối cùng, kết thúc đau buồn của Scarlett là hình phạt của nàng khi đã níu giữ cái lý tưởng đó, nàng đã nhận ra rằng “Mình đã yêu cái mà mình tưởng tượng nên, một cái gì chết lịm như Melanie bây giờ. Mình đã tự cắt một bộ cánh diện rồi mân mê nó. Và khi Ashley cưỡi ngựa đến, đẹp thế và khác vời thế, mình đã khoác bộ quần áo đó lên người chàng và bắt chàng phải mặc, bất kể có vừa hay không. Và mình không muốn thấy con người thực sự của chàng là như thế nào. Mình cứ tiếp tục yêu bộ quần áo đẹp…mà chẳng hề yêu chàng" [92]. Giá như không phải đợi đến cái chết của Melanie, Scarlett sớm nhận ra người hùng trong câu chuyện tình yêu của mình chỉ là một đứa trẻ con yếu ớt cần được chở che, thì có lẽ Scarlett đã có một kết cục hạnh phúc hơn bên cạnh người đàn ông mình yêu. Nhưng đó chỉ là ước mong của độc giả, vì chính Margaret Mitchell đã cố tình tạo ra những hiểu lầm liên tiếp để cho nhân vật trải nghiệm đắng cay, để nâng niu thứ hạnh phúc mong manh mà mình có. Tuy nhiên, điều khiến người đọc như run lên chính là những tình huống hiểu lầm liên tiếp giữa Scarlett và Rhett, ngăn trở con đường đi đến tình yêu của họ. Margaret lắm lúc tạo ra những cơn thót tim cho độc giả khi liên tục dựng lên tình huống hiểu lầm giữa Rhett và Scarlett, khi ngọn lửa tình đang thiêu đốt con tim họ. Người đọc thấy rõ sự thật song không giúp gì được cho hai con người đang yêu nhưng vẫn mang vác cái tôi của riêng mình quá lớn, chỉ biết nín thở dõi theo bước đường tình trắc trở của họ. Chúng ta thấy Mitchell rất tinh tế khi thể hiện cảnh Scarlett sẩy thai. Trong cơn đau bệnh lần đầu trong đời phải chịu đựng, nàng đã nhận ra người mình cần nhất là Rhett, nhưng lại ngộ nhận rằng Rhett không cần nàng. “Nhiều lúc nàng định gọi “Rhett – tôi cần Rhett” nhưng nàng lại mơ hồ nhớ lại rằng Rhett không cần nàng” [26, tr.590]. Còn Rhett, anh luôn giấu đi cảm xúc thật về tình yêu dành cho Scarlett đằng sau sự khinh mạn của mình. Sau đêm mặn nồng, khi Scarlett ngượng ngùng như cô gái mới lớn chờ Rhett về và thể hiện yêu thương, “Nghĩ đến chuyện gặp lại chàng, mặt đối mặt tỉnh táo trong ánh sáng ban ngày, nàng cảm thấy ngợp trong một nỗi ngượng ngùng bứt rứt pha lẫn một niềm vui thích náo nức. “Mình bồi hồi như một nàng dâu vậy”, nàng tự nhủ. “Mà lại là vì Rhett!”. Nghĩ vậy, nàng bỗng khúc khích cười như một con ngố” [92]. Thế nhưng Rhett thì không dám tin rằng đã có một tình yêu bừng nở trong tim Scarlett, anh cố tình tỏ ra đó chỉ là một đêm say không kềm chế, nhưng đến lúc ra đi anh mới bày tỏ “…cái đêm tôi bế cô lên gác… tôi đã tưởng… tôi đã hy vọng… tôi đã tràn đầy hy vọng đến nỗi tôi sợ phải giáp mặt cô sáng hôm sau. Phải, tôi sợ mình đã lầm vì thực ra cô chẳng yêu tôi. Tôi sợ cô cười vào mũi tôi, sợ đến nỗi phải bỏ đi và uống cho thật say. Và khi trở về, tôi run từ trong ruột và nếu cô nhân nhượng đi một bước trước, tỏ một dấu hiệu gì đó, thì hẳn tôi đã quỳ xuống hôn chân cô rồi. Nhưng cô không hề làm cái gì như thế” [92]. Như câu nói buông thõng của Rhett gần cuối truyện, chuyện tình của hai người chỉ là một cuộc rượt đuổi trong nỗi băn khoăn: “It seems we’ve been at cross purposes, doesn’t it” (hình như lúc đó cả hai chúng ta đều lầm lẫn.) [59, tr1018]. Dựng lên hàng loạt tình huống hiểu lầm là một phần của nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Margaret Mitchell, để cho nhân vật đối diện với những biến cố của chính mình và vượt qua để tồn tại. Scarlett trước sau vẫn là người mạnh mẽ,._.a cốt truyện” [14, tr.256]. Trữ tình ngoại đề là yếu tố quen thuộc trong truyện ngắn và tiểu thuyết hiện đại, giúp tác giả soi sáng nội dung tư tưởng của tác phẩm, góp phần bộc lộ đầy đủ tập trung hơn sự đánh giá với nhân vật cũng như thể hiện quan điểm nhân sinh của mình. Những lời trữ tình ngoại đề có tác dụng thỏa mãn nhu cầu trí tuệ và tình cảm nơi người đọc, mang đến cho họ những khoái cảm thẩm mỹ đặc biệt. Ở trên có đề cập đến lối trần thuật nửa trực tiếp, khi đó người kể, tác giả gần như hóa thân vào nhân vật để nói thay những ý nghĩ niềm vui nỗi buồn của nhân vật đến khó phân biệt đâu là người kể đâu là nhân vật. Còn đến đây, thì thậm chí người kể đã “xuất hiện” bằng hình hài với ngôn ngữ của chính mình để bộc lộ cảm xúc với những lời văn đậm đà sắc thái biểu cảm. Đây là một đoạn thuật lại lúc Scarlett đã trở về Tara, trong hoàn cảnh hoang tàn của quê nhà và mình nàng phải gồng gánh trên vai trách nhiệm hồi sinh vùng đất máu thịt này với một ý chí can trường hơn người. Người đọc vô tâm nhất cũng có thể cảm nhận được tiếng lòng của nhân vật và của chính tác giả đã hòa làm một, thậm chí không giấu được đã bật ra thành tiếng, đẫm chất triết lý (vốn không thể có ở nhân vật “kém đầu óc phân tích” như ta đã biết về Scarlett), đó đích thị là giọng của tác giả: “Sau cùng khi đã đứng được lên và nhìn lại cảnh điêu tàn cháy rụi của Twelve Oaks, nàng ngẩng cao đầu. Bóng dáng của tuổi hoa niên, nét mỹ miều, ngây thơ đã biến mất khỏi mặt nàng, cái gì qua đều thụôc về quá khứ, những gì chết đều đã chết rồi. Nếp sống xa hoa ngày cũ đã đi qua và chẳng bao giờ trở lại. Và ngay lúc bưng chiếc thúng đựng đầy rau cải lên, Scarlett đã có sẵn một quyết tâm cho cuộc sống của chính mình. Không còn có thể bước lùi thì dĩ nhiên chỉ còn con đường tiến tới. Trong vòng năm mươi năm nữa, trên toàn lãnh thổ miền Nam sẽ có vô số đàn bà chua xót nhìn về dĩ vãng, nhớ lại những thuở huy hoàng, những người đã chết, gợi lại những kỷ niệm đau thương vô bổ và hãnh diện chịu đựng cảnh nghèo khổ với tất cả niềm cay đắng. Nhưng Scarlett thì nhất định không, nàng sẽ không bao giờ nhìn lại dĩ vãng” [25, tr.638]. Không thuộc tuýt người quá ủy mị, bản thân câu chuyện trong “Cuốn theo chiều gió” cũng không đề cao sự buồn rầu, nên cách Margaret Mitchell thể hiện tình cảm bằng trữ tình ngoại đề không phải ở những trường đoạn cảm xúc cao trào (thường kèm các dấu chấm than, các từ cảm thán), mà là những bình luận, triết lí sắc sảo, thể hiện cách nhìn thế giới và con người đậm chất nhân văn. Triết lí về niềm tin: “Ngày mai sẽ là một ngày mới”, “ngày mai sẽ là một ngày khác”. Ý tưởng này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuốn tiểu thuyết, dưới dạng ngôn ngữ của nhân vật Scarlett, nhưng thật ra là của chính thông điệp sâu xa mà Margaret muốn gửi gắm đến độc giả. Tâm đắc với ý nghĩa giản dị của nó đến mức chính Margaret từ đầu đã dự định lấy tên tiêu đề cho tác phẩm là “Tomorrow is another day”. Và cũng chính nó đã làm bất hủ tính cách nhân vật Scarlett – một biểu tượng mới về người phụ nữ hiện đại, đủ can đảm và mạnh mẽ vượt qua những thử thách, tiến lên phía trước.Ý tưởng ấy đã trở thành một thứ đức tin mà triệu triệu độc giả trên thế giới xem như một thứ “bảo bối” có tác dụng trấn an tinh thần rất nhiều trước những trở ngại mà đời người ai cũng có thể gặp phải. Triết lí về giá trị của đất đai: “Đất đai là vật duy nhất có ý nghĩa trên đời, bởi vì đó cũng là vật duy nhất tồn tại mãi… Đó là vật duy nhất xứng đáng để bỏ công làm lụng, xứng đáng để chiến đấu bảo vệ... và xứng đáng để chết vì nó” [25,tr.59]. Đây là câu nói của Gerald lúc trò chuyện với Scarlett ngay tại mảnh đất Tara thời trù phú. Những năm tháng di dân khai hoang để tạo lập gia sản đã giúp cho Gerald, người đàn ông nhỏ bé gốc Iceland nhận ra được chân lý thấm thía ấy. Đó thực chất là quan điểm của chính Margaret về giá trị thiêng liêng của đất đai, của nguồn cội quê hương, đã được minh chứng trong chính thời đại ngày nay. Triết lí về tình yêu: “Scarlett, có bao giờ cô nghĩ rằng ngay cả mối tình bất diệt nhất cũng có ngày phải tàn?” [26, tr.667] hay …“Scarlett, tôi không có cái kiên nhẫn của những kẻ gom góp các mảnh vụn, hàn gắn lại và tự nhủ rằng món đồ vá víu cũng có giá như lúc trước. Cái gì tan vỡ là tan vỡ… Thà luyến tiếc nó còn hơn phải nhìn hình ảnh chắp vá của nó suốt đời” [26, tr687]. Nhân vật Rhett kiêu mạn của chúng ta chưa bao giờ tỏ ra ủy mị, ngay cả trong những giờ phút nguy cấp nhất của chiến tranh. Nhưng trong tình yêu, anh đã sống rất thực, thậm chí không giấu nổi những giờ phút yếu lòng (khi Bonnie chết, khi Scarlett sẩy thai). Và cái con người bí hiểm ấy, thông minh và tinh quái nhường ấy, đã hết mình vì tình yêu ấy, hơn ai hết, đã đúc kết được triết lí về tình yêu một cách không thể phủ nhận. Đó cũng là điều Margaret muốn nhân vật nói thay cho mình để chuyển đến những thế hệ các con người đang ngụp lặn trong thứ men say của tình yêu, hay đang đau đớn trong những trắc trở của thứ quả ngọt ấy, biết gìn giữ và nâng niu hơn thứ hạnh phúc mình đang có. Triết lí về chiến tranh: “…phần lớn những sự đau khổ của thế giới đều do chiến tranh gây ra. Và khi chiến tranh kết thúc không ai hiểu được tại sao nó đã xảy ra” [25, tr174]. Toàn bộ tác phẩm viết về chiến tranh, tuy không xoáy sâu vào những tang thương, chết chóc nơi chiến trường, nhưng những mất mát trong số phận con người miền Nam Hoa Kì sau nội chiến là một minh chứng rõ nét cho tấm lòng đau đáu của Margaret. Dù khi viết tác phẩm đã có một khoảng lùi khá xa của lịch sử, nhưng qua trang viết của bà, người đọc lại lần nữa như sống lại không khí chiến tranh, và mỗi người đọc lại thêm lần nữa thấm thía quy luật khắc nghiệt của chiến tranh để biết quý trọng hơn cuộc sống thanh bình hiện tại. Trên đây, khi tách bạch xem xét các hình thức trần thuật là để nhìn thấy nét riêng đặc trưng của nghệ thuật trần thuật trong “Cuốn theo chiều gió”, còn thật ra kiểu trần thuật của Margaret Mitchell không rạch ròi đến mức đó. Bao trùm lên tác phẩm là một kiểu trần thuật hỗn hợp có lúc trong cùng một đoạn miêu tả bao gồm cả kiểu khách quan vô nhân xưng, kiểu hòa nhập với nhân vật, và cả những trữ tình ngoại đề, tạo nên tính đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật. Hay nói cách khác, đó là kiểu trần thuật đa giọng, nhiều tiếng nói khác nhau từ nhiều điểm nhìn vào cùng vào một chỉnh thể. Xét về dung lượng (số trang) thì chương 3 về nghệ thuật trần thuật ngắn hơn các chương đầu, bởi lẽ chúng tôi chỉ đi vào những điểm chính yếu kết hợp với một ít dẫn chứng để phân tích. Việc phân bổ các chương thành từng chủ đề (cốt truyện – nhân vật – trần thuật) chỉ để việc tiếp cận được dễ dàng hơn, còn theo chúng tôi trong sự nhất quán của nghệ thuật tiểu thuyết thì các yếu tố này luôn có sự tương hổ qua lại. Ngay khi khai thác nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nhân vật, trong đó đã có sự lồng ghép với nghệ thuật trần thuật, chúng ta có thể tham khảo lại ở các chương 1 và 2. KẾT LUẬN “Cuốn theo chiều gió” đã được bắt đầu vào một ngày trong thời thơ ấu của Margaret Mitchell, khi bà từ chối đến trường, khiến mẹ bà phải trò chuyện với bà. Margaret Mitchell đã kể lại nó trong một lá thư: “Mẹ tôi đã dẫn tôi ra ngoài trong một ngày tháng 9 nóng bỏng và dẫn tối xuống con đường dẫn tới Jonesboro… và chỉ tôi những dãy nhà hoang tàn nơi những con người giàu có đã từng sống… Và bà đã kể cho tôi nghe về thế giới những con người đó đã từng sống, một thế giới thật an tòan, và nó đã nổ tung dưới chân họ như thế nào. Và bà đã nói với tôi rằng, một ngày nào đó, thế giới của riêng tôi cũng sẽ nổ tung dưới chân tôi, và chỉ có Chúa mới giúp được tôi khi tôi không có một vũ khí nào để đối mặt với thế giới mới. Bà nói về sự cần thiết phải có một nền giáo dục tốt, cả về truyền thống lẫn thực tế. Vì bà nói rằng tất cả những gì còn lại sau khi thế giới chấm dứt sẽ là những gì mà tôi có thể tạo ra với bàn tay và những gì tôi có trong đầu.“Thế nên vì Chúa, hãy tới trường và học một thứ gì đó sẽ ở lại với con. Sức mạnh của bàn tay phụ nữ chẳng đáng là bao, những những gì mà họ có trong đầu sẽ giúp họ đi bất cứ nơi nào mà họ cần đi” [49]. Chúng tôi – trong quá trình nghiên cứu, đã không ít lần tự hỏi: nếu không có những thời khắc như thế trong quá khứ, kể cả cái biến cố khiến Margaret phải nằm bệnh và đọc gần hết sách trong thư viện đến mức chồng bà phải kêu lên: “nếu em muốn đọc thêm thì hãy viết ra cuốn sách của mình”, hoặc kể cả lúc Harold – người đàn ông định mệnh mang bản thảo đi nhưng không nhận thấy được sức hút của nó, liệu độc giả có phải đã mất đi một cơ hội được đón nhận, sở hữu một tác phẩm đẹp như “Cuốn theo chiều gió”? Xem xét cái hay, cái đẹp của một tác phẩm, có lúc chúng tôi nghĩ cũng phức tạp, tinh tế chẳng khác gì đi khám phá sự duyên dáng quyến rũ của một con người. Có khi ta bị thu phục bởi một vẻ đẹp sôi nổi, lắm lúc ta bị “gục ngã” bởi sự thâm trầm. “Cuốn theo chiều gió” ngay khi ra đời đã mang số phận của một “hồng nhan”, nên “đa truân”, cũng lắm long đong trước muôn vàn lời khen tiếng chê. Tuy thế, dư luận càng nhiều, sức hấp dẫn của tác phẩm lại càng tăng lên theo tỷ lệ thuận. Và tuyệt vời hơn, thời gian đã là một phép thử cho cuốn tiểu thuyết có một không hai này. Ngày nay, hơn 70 năm đã trôi qua, dẫu còn nhiều ý kiến khen chê nhưng cả thế giới đã biết đến, đã yêu mến, và đã công nhận “Cuốn theo chiều gió” là một tác phẩm kinh điển. Những nhân vật, những thông điệp từ tác phẩm đã trở thành một phần trong đời sống tình cảm của không ít thế hệ độc giả. Góp phần vào việc “khai mở” vẻ đẹp của tác phẩm “Cuốn theo chiều gió”, chúng tôi chỉ đi vào khai thác dưới góc nhìn nghệ thuật, hình thức tổ chức tác phẩm, thay vì đi sâu vào nội dung tư tưởng như các công trình trước đó. Dĩ nhiên, đây là một công việc không dễ dàng, khi mà nền tảng lí luận về nghệ thuật tiểu thuyết vẫn còn là điều mà giới nghiên cứu tranh luận. Ứng dụng những hiểu biết ban đầu trong quá trình học, cũng như tiếp thu thành quả của các nhà phê bình uy tín, chúng tôi đã rút ra những yếu tố, những khía cạnh nghệ thuật mà chúng tôi cho là nổi bật và làm nên đặc trưng cho nghệ thuật tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió”, đó là nghệ thuật xây dựng cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật. Như khẳng định của Tiến sĩ Jernifer Dickey “chính sức mạnh của cốt truyện đã làm cho việc nó viết dưới ngôn ngữ nào đã không còn quan trọng nữa”, có thể thấy thành công trước nhất của “Cuốn theo chiều gió” về mặt nghệ thuật là cốt truyện. Sức hút của nó được tạo nên từ những tình huống độc đáo, bất ngờ và những chi tiết có sự sắp đặt đan cài vào nhau thống nhất từ đầu truyện đến cuối truyện đưa độc giả vào một thế giới mà ở đó, chiến tranh, tình yêu, sự trái ngang, nỗi đớn đau và niềm hạnh phúc dường như đã tồn tại như một tất yếu. Với Margaret, đặt nhân vật vào một tình huống nào đó dưới dạng những điều kiện xúc tác để mô tả chiều sâu đời sống tâm linh con người, chớp lấy những khoảnh khắc đặc biệt để khắc họa tính cách, số phận, cuộc đời nhân vật là cách mà bà đã làm và làm một cách hết sức uyển chuyển. Với các tình huống: hoán đổi vai trò, ước mơ bị thực tế hủy hoại, hiểu lầm, trở về, kết hôn ứng phó… Margaret đã không đi vào cụ thể những tình huống đơn lẻ có tác dụng tạo ra cao trào cho tác phẩm, như tình huống thắt nút đầu tiên với việc Scarlett tỏ tình và bị Ashley từ chối, hay tình huống Scarlett một mình chống chọi với hàng loạt khó khăn để về với Tara. Đi vào những hiện tượng lặp lại dưới dạng mô hình như tình huống, chính là cách mà các nhà nghiên cứu đã và đang theo đuổi. Như trong Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử có viết: “các nguyên tắc thi pháp thể hiện qua các yếu tố lặp lại. Không tìm thấy tính độc đáo sáng tạo thì không thấy tính nghệ thuật, mà không thấy tính lặp lại trên nhiều cấp độ và trong một hay nhiều văn bản thì không thấy các quy tắc tổ chức hình thức” [34, tr.38]. Dĩ nhiên sự lặp lại vụng về và tối nghĩa chỉ là biểu hiện của những cây bút còn non trẻ, còn sự lặp lại trong tính vừa ổn định vừa phát triển của nó là một dụng công nghệ thuật, một dấu hiệu quan trọng để nhận diện một nét phong cách của Margaret Mitchell. Cốt truyện “Cuốn theo chiều gió” còn tạo dấu dấn nhờ vào những chi tiết được tác giả lựa chọn và thể hiện hết sức tinh tế. Có những chi tiết rất nhỏ nhưng khiến độc giả nhớ lâu nhờ tính hài hước, dí dỏm của nó như việc Scarlett túng quẫn đến phải lấy vải màn cửa may váy để giữ nét lộng lẫy đi kiếm Rhett mượn tiền, hay nàng đi chăm sóc thương binh mà vui phơi phới như đang trong đang dạo trong một bãi săn tình; hoặc những chi tiết đầy trữ tình lãng mạn khiến độc giả xuýt xoa như nụ hôn đầy cháy bỏng đất trời của Rhett và Scarlett trong hoàn cảnh Atlanta bốc khói sau lưng, từng đoàn quân Yankee đang tiến đến. Chi tiết ấy đã thành kinh điển, từ sau bộ phim khởi chiếu, hình ảnh này cũng theo bìa đĩa và bìa sách đi khắp thế giới. Chúng tôi không thể thống kê hết chi li những chi tiết độc đáo đã khiến độc giả say mê, ở đây, chúng tôi chỉ đi vào những chi tiết được sử dụng có hệ thống và có giá trị kiến tạo cốt truyện một cách độc đáo, bao gồm: chi tiết biểu tượng (Cánh cửa đóng và những bí mật, chiếc áo cooc – se, giấc mơ sương mù) và chi tiết đối lập trong sự thống nhất (Đất nước trong chiến tranh, mẫu hình Rhett và Ashley, tính cách Scarlett). Với rất nhiều độc giả, điểm hấp dẫn nhất của “Cuốn theo chiều gió” chính là ở kết thúc bỏ lửng với câu hỏi lơ lửng: Scarlett có giành lại được Rhett hay không? Và chính sự tò mò được kích thích này đã khiến cho hàng loạt tác phẩm sau đó được dịp ra đời, ăn theo sức hút của Cuốn theo chiều gió, tuy tác dụng chỉ phần nào, hoặc có khi bị khán giả khước từ, nhưng cũng đã cho thấy vai trò đặc biệt của kiểu kết thúc trong tác phẩm. Margaret Mitchell đã dẫn tiến độ câu chuyện đến một kết thúc mở mà cùng lúc vừa thoát ra khỏi những quy củ về lãng mạn vừa đảm bảo cho trí tưởng tượng của người đọc được tiếp tục. Và thế là, không cần một kết thúc có hậu, “Cuốn theo chiều gió” vẫn đã ăn tiền suốt hơn nửa thế kỷ. Cùng lúc đó, chúng cũng làm tròn những đòi hỏi của chúng ta vì chúng đã mang lại cho ta một cảm giác thỏa mãn của một kết thúc hợp lý cho những nút thắt phức tạp của cuốn tiểu thuyết mà không một hành động đơn lẻ nào có thể gỡ nút được. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Margaret trong “Cuốn theo chiều gió” là điểm chúng tôi hết sức chú ý, vì chính tác giả cũng đã khẳng định “đó chỉ là một câu chuyện đơn giản về những người thăng hoa và những người tụt dốc, nhưng người có thể đương đầu với cuộc sống và những người không thể” [48]. Do vậy, sau khi khảo sát thế giới nhân vật đa dạng nhiều tầng lớp của tác phẩm, chúng tôi chủ yếu đi vào khai thác nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình, miêu tả cử chỉ điệu bộ, miêu tả tính cách và nhất là qua khắc họa nội tâm. Nét riêng có thể nhận thấy trong nghệ thuật xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình đó là Margaret chú ý nhiều đến các yếu tố hình thể như: đôi mắt, giọng nói, nụ cười để tạo nên ấn tượng về nhân vật trong lòng độc giả. Bà cũng không “độc tả” mà có khi di chuyển điểm nhìn sang nhân vật, để các nhân vật “miêu tả” lẫn nhau, tạo cảm giác khách quan, sống động. Còn qua miêu tả cử chỉ hành động thì Margaret đã thể hiện khả năng tái hiện tinh tế qua việc xây dựng 2 nhân vật Gerald và Rhett với cái ấn tượng khó phai về một anh chàng Gerald “nhỏ bé, cứng đầu và ồn ào” và một Rhett tinh quái lưu manh với điệu bộ “xấc xược không kém một cái tát vào mặt”. Tính cách của các nhân vật được xây dựng bằng nhiều cách khá đa dạng, trong đó có việc Margaret để cho nhân vật tự nói về mình, hay đối thoại bộc lộ mình. Nhưng độc đáo nhất trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Margaret là việc khắc họa nội tâm nhân vật thông qua rất nhiều cách như hồi tưởng, đối thoại nội tại, trữ tình ngoại đề, miêu tả thiên nhiên hay hình thức thư từ và độc thoại nội tâm. Phần ứng dụng quan trọng của chúng tôi để làm rõ nghệ thuật xây dựng nhân vật của Margaret chính là minh chứng cụ thể bằng 2 nhân vật “sắc nét” nhất của tác phẩm: Scarlett và Rhett. Không đi vào miêu tả những nét quen thuộc về ngoại hình, tính cách, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến khía cạnh “lệch chuẩn” của cả 2 nhân vật này, trong cách xây dựng của Margaret, đã làm nên sức hấp dẫn đối với độc giả. Xét riêng về nhân vật, thì cả 4 nhận vật chính (cùng với Ashley và Melenie) đều để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc, nhưng về mức độ “đời sống hóa” thì phải nhấn mạnh đến cặp đôi Scarlett và Rhett. Họ đặc biệt, cuốn hút, hấp dẫn, không phải bởi họ là những con người lí tưởng lộng lẫy bước ra từ một thời đại huy hoàng, mà là những con người bình thường và lệch chuẩn, nhưng dám nghĩ dám làm, dám đương đầu vượt qua thử thách và trụ vững trong cơn gió bụi của thời cuộc. Ngày nay, những chàng trai cô gái tìm thấy trong họ những hình mẫu cá tính mơ ước, tìm thấy sự an ủi trong những biểu hiện tâm lí tình cảm có lúc tàn nhẫn, vô tâm nhưng cũng có lúc đầy lòng nhân và quả cảm. Vì đơn giản, con người hoàn hảo cổ tích chỉ là kết quả của mộng tưởng, và không ai trên cõi nhân gian hiện đại lại muốn trở thành như vậy. Chẳng cần đến những đột phá bất ngờ về nghệ thuật, Margaret Mitchell đã “hạ gục” độc giả bằng chính những nhân vật sắc nét không lẫn vào đâu được của mình. Về nghệ thuật trần thuật, sau khi giới thuyết về những yếu tố liên quan như kiểu trần thuật, điểm nhìn trần thuật, chúng tôi đi vào các kiểu trần thuật mà Margaret ứng dụng, là trần thuật khách quan vô nhân xưng, trần thuật nửa trực tiếp và trần thuật bộc lộ tình cảm bằng trữ tình ngoại đề. “Cuốn theo chiều gió” sử dụng lối trần thuật khách quan ngôi thứ 3 với người trần thuật vô nhân xưng. Điểm đặc biệt là người kể chuyện tuy không hiện diện nhưng không hoàn toàn lạnh nhạt, dửng dưng, “biết tuốt”, mà dào dạt tình cảm ẩn đằng sau ngôn ngữ tái hiện, miêu tả, với một giọng điệu trong sáng nhưng tràn trề tình cảm. Suốt tác phẩm, Margaret Mitchell kể với người đọc câu chuyện chiến tranh và tình yêu với tâm thế của một người trần thuật biết rõ mọi sự kiện, biến cố của nhân vật. Ở đây, người kể không thuộc vào thế giới truyện mà chỉ quan sát, kể lại, kiêm vai trò dẫn dắt, điều khiển, tổ chức diễn biến hành động cho nhân vật. Do không tham gia trực tiếp vào biến cố truyện nên điểm nhìn của người kể hết sức linh hoạt, không bị hạn chế bởi thời gian, không gian. Người kể còn có thể dễ dàng di chuyển điểm nhìn từ nhân vật này sang nhân vật khác. Khoảng cách giữa người kể và nhân vật luôn được rút ngắn tối đa. Sử dụng lời nửa trực tiếp cũng là đặc trưng của nghệ thuật trần thuật trong “Cuốn theo chiều gió”. Cũng là kiểu trần thuật khách quan hóa, nhưng lối trần thuật này lại không giấu nổi những cảm xúc tình cảm dạt dào đầy chủ quan của người kể. Khi đó, người kể một mặt cố tình tách mình ra khỏi diễn biến câu chuyện, nhưng mặt khác lại hòa mình với nhân vật để khám phá nội tâm của nhân vật, thậm chí có khi người kể tự rút lui để nhân vật tự tìm đến với độc giả. Điểm nhìn người kể và nhân vật gần như đã hòa làm một. Lời kể khi đó được vận dụng linh hoạt khi là lời nửa trực tiếp của tác giả phát biểu thay tâm trạng, cảm xúc suy nghĩ của nhân vật, khi thì lời của chính nhân vật. Còn với lối trần thuật bộc lộ tình cảm bằng trữ tình ngoại đề, tác giả đã bộc lộ đầy đủ tập trung hơn sự đánh giá với nhân vật cũng như thể hiện quan điểm nhân sinh thông qua việc “xuất hiện” bằng hình hài với ngôn ngữ của chính mình để bộc lộ cảm xúc với những lời văn đậm đà sắc thái biểu cảm, giàu chất triết lý (về niềm tin, tình yêu, về đất đai, chiến tranh…). Có thể nói, Margaret Mitchell đã thể hiện sự mới mẻ và đột phá ở kiểu trần thuật biến tấu, kết hợp dưới dạng trần thuật khách quan vô nhân xưng với lối kể nửa trực tiếp có nhiều bình luận, triết lý và trữ tình ngoại đề, tạo nên một lối kể chuyện giàu cảm xúc và chân thực. Dĩ nhiên, bàn về nghệ thuật một tác phẩm lớn như “Cuốn theo chiều gió” mà chỉ gói gọn trong quy mô một luận văn trên dưới 100 trang, thì khó mà đảm bảo đã “soi thấu” tất cả. Đồng thời, tác phẩm văn học, qua lăng kính cảm thụ của mỗi người lại có thể tỏa ra nhiều thứ ánh sáng khác nhau mà một công trình nghiên cứu khó lòng bao quát hết. Tuy nhiên, nếu có nhiều thời gian hơn, chúng tôi muốn đi vào phân tích vai trò và giá trị của cách sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu đã góp phần không nhỏ vào việc làm nên giá trị nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này. Sau này người ta có tìm ra một tác phẩm khác của Margaret Mitchell là “Lost Laysen”, nhưng hiệu ứng nó mang lại cho khán giả hầu như không có. Đến mức nó chẳng thể làm thay đổi điều mà hầu hết độc giả đã tin: Margaret Mitchell chỉ có một tác phẩm duy nhất, một cuốn tiểu thuyết duy nhất, là “Cuốn theo chiều gió”. Như “The thorn birds” của Colleen McCullough, như “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu, như “Tống biệt hành” của Thâm Tâm…có lẽ Margaret Mitchell cũng chỉ cần một “Cuốn theo chiều gió”, đã đủ để nhà văn nữ này lừng danh, đủ để bà có một chỗ đứng vững chắc trong lòng người hâm mộ. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Gary Althen (2006), Phong cách Mỹ, NXB Văn nghệ, TPHCM. 2. M. Bakhtin, Phạm Vĩnh Cư (dịch) (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ Văn hóa thông tin, trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 3. Lê Huy Bắc (2000), Phê bình lí luận văn học Anh – Mỹ, NXB Giáo dục. 4. Vũ Bằng,(1995), Khảo về tiểu thuyết, NXB Phạm Văn Tươi, Sài Gòn 5. Nguyễn Thành Ngọc Bảo (2008), Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm TPHCM. 6. Vương Kính Chi (2000), Lược sử nước Mĩ, NXB TPHCM.. 7. Lê Đình Cúc (2001), Văn học Mĩ mấy vấn đề và tác giả, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Lê Đình Cúc (2004), Tác gia văn học Mĩ: thế kỉ XVIII-XX, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 9. Lê Đình Cúc (2007), Lịch sử Văn học Mĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội. 10. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB Giáo dục. 11. Nguyễn Đức Đàn (1996), Hành trình văn học Mĩ, NXB Văn học, Hà Nội. 12. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L.Tonxtoi, NXB Giáo dục, Hà Nội. 13. M. Gorki, Bàn về văn học (2), NXB Văn học, Hà Nội. 14. Lê Bá Hán (chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 16. Hoàng Thị Hậu (2009), Dấu ấn thời đại trong tác phẩm“Cuốn theo chiều gió” của Margaret Mitchell, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học văn hiến TPHCM. 17. Tô Hoài (1964), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, NXB văn học, Hà Nội. 18. Lê Quang Huy (2000), Đôi điều cần biết về nước Mĩ, NXB TpHCM, TPHCM. 19. Phương Diễm Hương (2007), Chiến tranh Nam Bắc Mỹ trong tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió”của Margaret Mitchell, Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm TPHCM. 20. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 21. Nguyễn Liên, Nguyễn Bá Thành và Jonathan Auerbach (2001), Tiếp cận đương đại văn hóa Mĩ, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 22. Phương Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, NXB Văn học, Hà Nội. 23. Thiếu Mai (1987), Nghĩ về một thời xa vắng chưa xa, Văn nghệ quân đội. 24. J.Martain, Hưng Vương (1996), Luận về nước Mỹ : Vài ý nghĩ về nước Mỹ của nhà triết học Pháp J. M, Tín Đức thư xã, Sài Gòn. 25. Margaret Mitchell, Vũ Kim Thư dịch (2001), “Cuốn theo chiều gió” (1), NXB Văn học. 26. Margaret Mitchell, Vũ Kim Thư dịch (2001), “Cuốn theo chiều gió” (2), NXB Văn học. 27. Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ văn hóa Mĩ, NXB Thế giới, Hà Nội. 28. Nguyễn Thị Tuyết Nga (2004), Khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa của Margaret Mitchell trong tác phẩm“Cuốn theo chiều gió”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm TPHCM. 29. G.N.Poselov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập I và II, NXB Giáo dục, Hà Nội. 30. Alexandra Ripley, Khắc Thành,Thanh Bình, Anh Việt (2004), Hậu Cuốn theo chiều gió (1), NXB Văn học. 31. Alexandra Ripley, Khắc Thành,Thanh Bình, Anh Việt (2004), Hậu Cuốn theo chiều gió (2), NXB Văn học. 32. Đắc Sơn (1996), Đại cương văn học sử Hoa Kì, NXB TPHCM. 33. Lê Văn Sự (2001), Hợp tuyển văn học Mĩ, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 34. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 35. Nguyễn Thị Hiếu Thiện (2003), Con đường tới tự do của người Mĩ da đen trong nghệ thuật tiểu thuyết Toni Morrison, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm TPHCM. 36. Hoàng Trinh (1999), Phương Tây – Văn học và con người, NXB Hội nhà văn. 37. Lương Duy Trung (2004), Văn học phương Tây, NXB Giáo dục. 38. Kathryn Vanspanckeren; Lê Đình Sinh, Hồng Chương dịch (2001), Phác thảo văn học Mĩ, NXB Văn nghệ, TPHCM. 39. Nhiều tác giả (1983), Số phận của tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam. Tiếng Anh 40. Adams, Donald J (1936), A Fine Novel of the Civil War, New York Times Book Review, as cited in Margaret Mitchell and Her Novel Gone With the Wind, New York: Macmillan. 41. Beye, Charles Rowan (1993), “Gone with the Wind, and Good Riddance” Southwest Review. 42. Burks, Ruth Elizabeth, Gone With the Wind: Black and White in Technicolor, (This article was downloaded by: [Monash University- Educ] On: 22 May 2009). 43. Condé, Mary (1996), Some African-American Fictional Responses to Gone with the Wind, Yearbook of English Studies. 44. Curran, Trisha (1981), “Gone with the Wind: An American Tragedy: The South and Film, Warren French, Jackson: UP of Missippippi. 45. Drake, Robert Y, (1983), Tara Twenty Years Later, Gone With the Wind as Book and Film, Richard Harwell, ed. Columbia: U of South Carolina P. 46. Faulkner, William (1986), Absalom, Absalom!, New York: Random House. 47. Fiedler, Leslie A (1983), The Anti-Tom Novel and the Great Depression: Margaret Mitchell’s Gone With the Wind, Gone With the Wind as Book and Film, Richard Harwell, ed. Columbia: U of South Carolina P.. 48. Gelfant, Blanche H., (1980: Fall) Gone With The Wind 'and The Impossibilities of Fiction' , Southern Literary Journal, p.3. 49. Harwell, Richard (1976), Margaret Mitchell’s “Gone with the Wind” Letters, 1936–1949, London: Macmillan. 50. Hawkins, Harriett (1992), The sins of Scarlett, Textual Practice, p. 491- 496. 51. John Haag, (1989), Gone with the Wind in Nazi Germany, Georgia Historical Quarterly. 52. Lambert, Gavin (1983), Studies in Scarlett, Gone With the Wind as Book and Film, Richard Harwell, ed. Columbia: U of South Carolina P. 53. Levin, Amy (1989), Matters of Canon: Reappraising Gone with the Wind, Proteus. 54. Maginnis, Hayden (1995), The Trouble with Scarlett, Queen’s Quarterly. 55. Martin, Matthew (1994), The Frontier Plantation: Failed Innocence in Gone with the Wind and Absalom, Absalom!, Diss. U of Virginia. 56. May, Robert (1978), Gone with the Wind as Southern History, Southern Quarterly. 57. McCaig, Donald (2007), Rhett Butler’s People, Martin’s Press. 58. Mendl, Dieter (1981), A Reappraisal of Margaret Mitchell’s Erskine Caldwell’s Challenge to Gone with the Wind Gone with the Wind, Mississippi Quarterly. 59. Mitchell, Margaret (1973), Gone with the Wind (1936), New York: Avon Books. 60. Morton, Marian (1980), “My Dear, I Don’t Give a Damn”: Scarlett O’Hara and the Great Depression, Frontiers: A Journal of Women’s Studies. 61. Pyron, Darden Asbury (1991), Southern Daughter: The Life of Margaret Mitchell, Oxford:Oxford University Press. 62. Pyron, Darden Asbury (1986), Gone with the Wind and the Southern Cultural Awakening, Virginia Quarterly Review. 63. Pyron, Darden Asbury (1983), Gone With the Wind in American Culture, Miami: UP of Florida. 64. Railton, Ben, “What else could a southern gentleman do?”: Quentin Compson, Rhett Butler, and Miscegenation, (This article was downloaded by: [Monash University-Educ] On: 22 May 2009). 65. Robert Y., Tara Twenty Years Later, (This article was downloaded by: [Monash University-Educ] On: 22 May 2009). 66. Seiler, Andy (19930, Returning in Grand Style: Rejuvenated Gone With the Wind Sweeps into Theaters, USA Weekend. 67. Stevens, John D, (1973), The Black Reaction to Gone With the Wind, Journal of Popular Film. 68. Stewart, Mart (2005), Teaching Gone with the Wind in the Socialist Republic of Vietnam, Southern Culture. 69. Stokes, Melvyn (1996), “Crises in History and the Response to Them as Illustrated in The Birth of a Nation and Gone With The Wind, La Licorne. 70. Taylor, Helen (1989), Scarlett’s Women: “Gone with the Wind” and Its Female Fans, New Brunswick, NJ: Rutgers University Press. 71. Vials, Chris, Erskine Caldwell’s Challenge to Gone with the Wind and Dialectical Realism, (This article was downloaded by: [Monash University-Educ] On: 22 May 2009). 72. Williamson, Joel (1988), “How Black was Rhett Butler?” The Evolution of Southern Culture. Ed. Numan Bartley, Athens: U of Georgia P. 73. Margaret Mitchell and Her Novel Gone With the Wind. New York: Macmillan, 1936. 74. www.wikipedia.org 75. www.americanwriters.org 76. www.MargaretMitchellstory.org 77. www.online.literature.org 78. www.google.com.vn 79. www.scarlett.online 80. www.thuvien.ebook.com 81. www.ngoisao.net 82. www.evan.com.vn 83. www.vnthuquan.net 84. www.vietnamnet.vn 85. www.bachkhoatoanthu.gov.vn 86. www.vinaseek.com 87. www.margaretmitchell 88. www.gonewiththewind 89. www.atlanta.com 90. www.gonewiththewindmuseum 91. Wind-machine.html 92. Thư viện trực tuyến ebook: Margaret Mitchell, Dương Tường dịch (1987), “Cuốn theo chiều gió”. PHỤ LỤC Margaret Mitchell “Scarlett không đẹp nhưng nam giới ít nhận ra điều đó mỗi khi bị cuốn hút bởi sự duyên dáng của nàng…” (Cuốn theo chiều gió) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7592.pdf