Ngoại thương của Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC Lời nói đầu 4 Chương I: Tổng quan về ngoại thương 6 Lý luận về thương mại quốc tế 6 Khái niệm về thương mại quốc tế 6 Nguồn gốc và vai trò của thương mại quốc tế 6 Tác động của hoạt động ngoại thương đến tăng trưởng kinh tế 8 . Một số lý thuyết về thương mại quốc tế 9 Quan điểm của phái trọng thương về thương mại quốc tế 9 Lợi thế tuyệt đối (Adam Smith) 10 Lợi thế so sánh ( David Ricardo) 12 Nguồn lực sản xuất vốn có và lý thuyết Heckscher – Ohlin 14 CÔNG CỤ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ngoại thương của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGOẠI THƯƠNG 17 Thuế 17 Hạn ngạch 18 Quản lý ngoại tệ 19 Tín dụng trợ cấp 20 CÁC CHIẾN LƯỢC TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG 22 Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô 22 Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu 23 Kinh nghiệm hướng ngoại của các nước 25 Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 27 TỔNG QUAN VỀ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 27 Ngoại thương Việt Nam trước khi gia nhập WTO 28 Ngoại thương Việt Nam sau khi gia nhập WTO 35 NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC 45 Xuất- Nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Mỹ 45 Xuất- Nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU 55 Xuất- Nhập khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Nhật Bản 60 Xuất- Nhập khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Trung Quốc và ASEAN 63 Chương III: ĐÁNH GIÁ VỀ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 67 ƯU ĐIỂM 67 NHƯỢC ĐIỂM 67 Chương IV: GIẢI PHÁP CHO NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 69 Kết luận 73 Danh mục tài liệu tham khảo 74 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính tất yếu Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, Kinh tế đối ngoại là hoạt động tất yếu khách quan đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phục vụ cho sự phát triển của các nước đang phát triển, có nền kinh tế mở cửa. Đối với Việt Nam hoạt động kinh tế đối ngoại hiện tại là kết quả của quá trình mở cửa hơn 20 năm, là động lực phát triển kinh tế trong thời kì hội nhập mới. Bởi hoạt động này làm rút ngắn khoảng cách hội nhập kinh tế của Việt Nam với những nội dung phát triển toàn diện của nó. Lịch sử đã chứng minh nhiều nước trên thế giới và khu vực đã phát triển nền kinh tế thành công bằng con đường kinh tế đối ngoại với chính sách mở cửa - khoan dung hơn là đóng cửa cô lập và đố kị - nghi ngờ. Điển hình ở Đông Bắc Á; Nhật bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, một số nước ASEAN như Singapore, Thái Lan… thông qua hoạt động hướng ngoại của mình đã nhanh chóng phát triển trở thành những “con rồng kinh tế”. Từ kinh nghiệm của các nước, trước và khi tham gia hội nhập WTO, Việt Nam đang tổ chức, sắp xếp lại nền kinh tế và hướng nền kinh tế ra bên ngoài để tìm một “cú hích” mạnh về tài chính, hợp tác chuyển giao công nghệ - khoa học kĩ thuật, hướng xuất khẩu nhằm đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cho nên,Việt Nam xem mục tiêu kinh tế đối ngoại là mục tiêu chiến lược - động lực phát triển tất yếu. Xuất phát từ những lý do trên chúng em xin được phân tích đề tài: “ Ngoại thương của Việt Nam hiện nay”. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hóa những vấn đề về thương mại quốc tế - Tìm hiểu sự tác động của ngoại thương đến phát triển kinh tế - Phân tích đánh giá thực trạng của ngoại thương Việt Nam hiện nay - Đề xuất các giải pháp cho ngoại thương Việt Nam 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ngoại thương Việt Nam hiện nay - Phạm vi nghiên cứu là các chính sách của nhà nước liên quan đến thương mại quốc tế 4. Phương pháp nghiên cứu Bài làm đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích thống kê, phân tích tổng hợp, tham khảo tài liệu. 5. Kết cấu bài làm Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo kết cấu bài làm gồm có 3 chương như sau: Chương I: Tổng quan về ngoại thương Chương II: Thực trạng về hoạt động ngoại thương Việt Nam Chương III: Đánh giá về ngoại thương Việt Nam Chương IV: Giải pháp đưa ra cho ngoại thương Việt Nam CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGOẠI THƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.Khái niệm về thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế là quá trình phân phối và lưu thông hàng hoá, dịch vụ giữa các nước với nhau thông quan quan hệ hàng hoá tiền tệ. Quan hệ tiền tệ dưới hình thức buôn bán nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách hàng, của người tiêu dùng. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. 2. Nguồn gốc và vai trò của thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế có từ xa xưa, có từ khi có sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế. Trước hết, thương mại xuất hiện từ sự đa dạng và điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá sản xuất một mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn sẽ đem lại lợi nhuận lớn hơn. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự hình thành thương mại quốc tế giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch. Song, phần lớn số lượng thương mại thuộc các mặt hàng không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Mỹ sản xuất được ô tô tại sao lại nhập ô tô từ Nhật Bản. Làm sao nước ta với xuất phát điểm thấp và chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hang của các cường quốc kinh tế lại có thể vẫn duy trì thương mại với các nước đó. Lý thuyết về thương mại quốc tế của các nhà kinh tế học sẽ giải quyết vấn đề này. Thương mại quốc tế là cầu nối trung gian giữa sản xuất và tiêu dung giữa nước ta với nước ngoài và ngược lại. Chính vì vậy mà nó có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước: Thương mại quốc tế tác động vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng phát triển theo hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất và tiêu dùng theo hướng phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế. Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do cơ bản là mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước hay nói cách khác là nó làm thay đổi phương thức sản xuất và phương thức tiêu dùng. Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mạt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung, tự cấp, không buôn bán. Thương mại quốc tế còn làm cho thu nhập GDP tăng lên, cải thiện đời sống của nhân dân. Thương mại quốc tế giúp cho các nước thoả mãn nhu cầu về văn hoá, nâng cao trình độ văn hoá, quan hệ với nhiều nước trên thế giới, năng cao uy tín trên thị trường quốc tế. Thương mại quốc tế phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chuyển sang nước công nghiệp, sản xuất bằng máy là chính. 3. Tác động của hoạt động ngoại thương đến tăng trưởng kinh tế Phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là một đơn vị độc lập tự chủ nhưng phụ thuộc vào nhau về khoa học công nghệ. Lịch sử thế giới chứng minh rằng không có quốc gia nào có thể phát triển nếu thực hiện chính sách tự cấp tự túc. Ngược lại, những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều là những nước dựa vào kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển. Đối với nước ta là một nước nghèo và kém phát triển, nông nghiệp lạc hậu, trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn thấp, nhưng có nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Để đảm bảo đường lối xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa , phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế khoa học công nghệ với bên ngoài là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp bách. Hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước bao gồm ba nội dung cơ bản sau: Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ Hợp tác về vốn Các giao dịch về lợi tức sở hữu và chuyển nhượng Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí quan trọng, nó tạo điều kiện phát huy được lợi thế của từng nước trên thị trường quốc tế. kết quả hoạt động ngoại thương của một nước được đánh giá qua cân đối thu chi ngoại tệ dưới hình thức “cán cân thanh toán xuất nhập khẩu”, kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước, do đó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Khi cán cân thanh toán có mức xuất siêu sẽ làm cho mức chi tiêu giảm, từ đó tác động đến GDP. Dựa vào quan điểm của ngoại thương các nước có nhiều cách khác nhau trong việc lựa chọn đường lối phát triển. 4. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế 4.1 Quan điểm của phái trọng thương về thương mại quốc tế Nội dung của các quan điểm: Coi trọng xuất nhập khẩu, phái này cho rằng đó là con đường mang lại sự phồn vinh cho đất nước. Tuy nhiên phương châm ở đây phải là xuất siêu. Chủ trương “ Một cán cân thương mại thặng dư” của phái trọng thương đã dẫn đến: Chỉ chú ý đến xuất khẩu, tìm mọi cách để tăng được xuất khẩu cả số lượng và giá trị. Còn nhập khẩu thì rất hạn chế, đặc biệt là các sản phẩm đã hoàn chế và hàng hóa xa xỉ phẩm. Thực hiện độc quyền mậu dịch- tức là loại ngoại quốc ra khỏi một số vùng mậu dịch nào đó Tiến hành bảo hộ mậu dịch: để bảo hộ mậu dịch trong nước người ta không đánh thuế đối với nhập khẩu nguyên liệu hay có thêm một khoản trợ cấp. Cấm xuất khẩu nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm. Vàng bạc (quý kim) được coi trọng quá mức. Các nhà trọng thương đo lợi ích của dân tộc bằng kho dự trữ kim loại quý mà họ sở hữu. Sở dĩ vàng bạc thời ấy được quá coi trọng là vì: Hiểu sai về khái niệm tài sản quốc gia Vàng bạc là quý kim bền nên có thể làm phương tiện tích trữ hay bảo tồn giá trị được. Cấm xuất vàng thoi bạc nén (nếu ai vi phạm sẽ bị tử hình), cấm người ngoại quốc mua quý kim. Nhận xét: Biết đánh giá được vai trò của thương mại quốc tế, coi đó là nguồn quan trọng đem lại quý kim cho đất nước. Có sự can thiệp sâu của chính phủ vào các hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương. Coi việc buôn bán với nước ngoài không phải xuất phát từ lợi ích chung của cả hai phía mà chỉ có thu vén cho lợi ích quốc gia của mình. 4.2 Lợi thế tuyệt đối (Adam Smith) Theo lý thuyết này: ‘các nước tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế sẽ thu được lợi ích khi họ chuyên môn hoá vào sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá có chi phí thấp hơn có nghĩa là có chi phí tuyệt đối so với việc sản xuất ở quốc gia khác và nhập khẩu hàng hoá có tình trạng ngược lại’. Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế khi mỗi quốc gia tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản xuất thấp hơn hẳn so với các quốc gia khác và thấp hơn mức chi phí trung bình của quốc tế thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi. Giả định Thế giới có hai quốc gia và mỗi quốc gia sản xuất hai mặt hàng. Đồng nhất chi phí sản xuất với tiền lương cá nhân. Giá cả hoàn toàn do chi phí sản xuất quyết định. Kết luận Quá trình trao đổi trên cơ sở lợi thế tuyệt đối làm khối lượng tổng sản phẩm toàn xã hội tăng lên, làm cho các nguồn lực trong nước được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Thương mại quốc tế sẽ tạo điều kiện để phát triển những ngành có lợi thế và thu hẹp những ngành bất lợi thế, là cơ sở lý luận sau này cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế giữa các quốc gia. Ưu điểm Khắc phục hạn chế của lý thuyết trọng thương đó là khẳng định cơ sở tạo ra giá trị là sản xuất chứ không phải là lưu thông. - Chứng minh thương mại đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia. Nhược điểm Không giải thích được hiện tượng chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế và TMQT sẽ xảy ra như thế nào đối với những nước không có lợi thế tuyệt đối nào. Coi lao động là yếu tố sản xuất duy nhất tạo ra giá trị,là đồng nhất và được sử dụng với tỉ lệ như nhau trong tất cả các loại hàng hoá. Quan điểm Đề cao vai trò của các cá nhân và doanh nghiệp ,ủng hộ một nền thương mại tự do,không có sự can thiệp của chính phủ. Thấy được tính ưu việt của chuyên môn hóa Dùng lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần rất nhỏ trong mậu dịch thế giới hiện nay Minh họa Sản phẩm Hoa Kỳ Anh Lúa mì (giạ/người/giờ) 6 1 Vải (m/người/giờ) 4 5 Hoa Kỳ có lợi thế tuyệt đối so với Anh về sản xuất lúa mì. Anh có lợi thế tuyệt đối so với Hoa Kỳ về sản xuất vải. Như vậy Mỹ sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa mỳ còn Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải và sau đó đem trao đổi cho nhau: Mỹ xuất lúa mỳ nhập vải, còn Anh xuất vải nhập lúa mỳ. Nếu Mỹ đổi 6 giạ lúa mỳ (6W) với Anh để lấy 6m vải (6C) thì Mỹ sẽ có lợi 2C hay tiết kiệm được 1/2 giờ ( vì trong nội địa Mỹ chỉ có thể đổi 6W lấy 4C mà thôi). Tương tự như vậy, nếu Anh nhận được từ Mỹ 6W, tức là Anh đã không phải tiêu phí một lượng thời gian là 6 giờ để sản xuất trong nước. Với thời gian đó, Anh chỉ tập trung cho sản xuất vải thì sẽ được 30C (6 giờ x 5m vải). Trong đó 6C dùng để trao đổi với Mỹ, còn 24C là lợi ích thuộc về Anh. Hay có thể nói là Anh đã tiết kiệm được 5 giờ. 4.3 Lợi thế so sánh ( David Ricardo) Phát biểu quy luật về lợi thế tương đối của Ricardo: “Các nước không có lợi thế song song về bất kỳ hàng hoá nào vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế và thu được lợi ích khi các nước này chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất nó là ít bất lợi nhất hoặc có lợi thế tương đối - biểu hiện dưới hình thức chi phí so sánh thấp nhất - và nhập khẩu hàng hoá có tình trạng ngược lại”. Lợi thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại, mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác). Nguyên tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi hàng hóa. Nguyên tắc lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc tế. Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình." Giả định: Thế giới chỉ có 2 quốc gia và chỉ sản xuất 2 loại sản phẩm Mậu dịch tự do Lao động có thể chuyển dịch tự do chỉ trong một quốc gia nhưng không có khả năng chuyển dịch giữa các quốc gia Chi phí sản xuất cố định Không có chi phí vận chuyển Chi phí sản xuất được đồng nhất với đồng lương Theo quy luật này, ngay cả một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả hai sản phẩm vẫn có lợi khi giao thương với một quốc gia khác được coi là có lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả hai sản phẩm. Mỹ Anh Lúa mỳ (giạ/giờ) 6 1 Vải(m/giờ) 4 2 Trong trường hợp này, Anh không có lợi thế tuyệt đối so với Mỹ để sản xuất cả hai sản phẩm, Tuy nhiên nếu so sánh giữa lúa mỳ và vải thì Anh có lợi thế so sánh về vải, vì năng suất lao động sản xuất vải của Anh chỉ bằng nửa năng suất sản xuất vải của Mỹ, trong khi đó năng suất sản xuất lúa mỳ của Anh lại nhỏ hơn những 6 lần so vơi Mỹ. Ngược lại, chi phí sản xuất cả hai sản phẩm ở Mỹ đều thấp hơn so với ở Anh, nhưng như thế không có nghĩa là Mỹ sẽ sản xuất cả hai mặt hàng mà chỉ sản xuất sản phẩm nào có lợi thế so sánh. Trong trường hợp này Mỹ có lợi thế so sánh về lúa mỳ. Theo quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo thì cả hai quốc gia đều có lợi nếu hai quốc gia tự nguyện thực hiện trao đổi thương mại: Mỹ chuyên môn hóa sản xuất lúa mỳ và xuất khẩu một phần để đổi lấy vải của Anh và Anh thì làm ngược lại. Khi đó cả hai quốc gia đều có lợi. 4.4 Nguồn lực sản xuất vốn có và lý thuyết Heckscher – Ohlin Khái niệm hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố: Lý thuyết Heckscher - Ohlin được xây dựng trên hai khái niệm cơ bản là hàm lượng hay độ sử dụng (các yếu và mức độ dồi dào của các yếu tố). Một mặt hàng được coi là sử dụng nhiều ( một cách tương đối ) lao động nếu tỷ lệ giữa lượng lao động và yếu tố khác như vốn, đất đai sử dụng để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng các yếu tố đó để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng thứ hai. Tương tự, nếu tỷ lệ giữa vốn và các yếu tố khác là lớn hơn thì mặt hàng được coi là có hàm lượng vốn cao. Chẳng hạn, mặt hàng X được coi là có hàm lượng lao động cao nếu: Lx/Kx lớn hơn Ly/Ky (trong đó Lx và Ly là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y, còn Kx và Ky lượng vốn cần thiết để sản xuất ra mộtđơn vị X và Y, một cách tương ứng). Lưu ý rằng, định nghĩa về hàm lượng vốn ( hay hàm lượng lao động ) không căn cứ vào tỷ lệ giữa vốn (hay lao động) mà được phát biểu dựa trên tương quan giữa lượng vốn và lượng lao động cần thiết để sản xuất một đơn vị sản lượng. Một quốc gia được coi là dồi dào tương đối về lao động (hay vốn) nếu tỷ lệ giữa lượng lao động (hay lượng vốn) và các yếu tố sản xuất khác của quốc gia đó lơn hơn tỷ lệ tương ứng của các quốc gia khác. Cũng tương tự như trường hợp hàm lượng các yếu tố, mức độ dồi dào của một yếu tố sản xuất của một quốc gia được đo không phải bằng số lượng tuyệt đối này bằng tương quan giữa số lượng yếu tố đó với các yếu tố sản xuất của quốc gia. Định lý Heckscher - Ohlin: Xuất phát từ các khái niệm cơ bản trên thì nội dung của định lý Heckscher - Ohlin có thể được tóm tắt như sau: ‘ Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia’. Lý thuyết Heckscher - Ohlin được xây dựng dựa trên một loạt các giả thiết đơn giản sau đây: Thế giới chỉ có hai quốc gia chỉ có 2 loại hàng hóa X, Y và chỉ có 2 yếu tố là lao động và tư bản. Hai quốc gia sử dụng công nghệ sản xuất hàng hóa giống nhau và thị hiếu của các dân tộc là như nhau. Hàng hóa X chứa nhiều lao động, còn hàng hóa Y chứa đựng nhiều tư bản. Tỷ lệ giữa đầu tư và sản lượng của 2 loại hàng hóa trong 2 quốc gia là một hằng số. Cả 2 quốc gia đều chuyên môn hóa sản xuất ở mức không hoàn toàn. Cạnh tranh hoàn hảo trong thị trường hàng hóa và thị trường các yếu tố đầu vào ở cả hai quốc gia. Các yếu tố đầu vào tự do di chuyển trong từng quốc gia nhưng bị cản trở trong phạm vi quốc tế. Không có chi phí vận tải, không có hàng rào thuế quan và các trở ngại khác trong thương mại giữa hai nước. Một số khái niệm quan trọng: Yếu tố thâm dụng: Trong phạm vi của hai sản phẩm và hai yếu tố sản xuất, chúng ta nói rằng sản phẩm Y là sản phẩm thâm dụng tư bản nếu tỷ số K/L sử dụng trong sản xuất sản phẩm Y là lớn hơn K/L sử dụng trong sản xuất sản phẩm X. Yếu tố dư thừa: Khái niệm này chỉ ra sự dồi dào của một quốc gia về một yếu tố sản xuất nào đó, có thể là lao động hay tư bản. Nội dung lý thuyết: Lý thuyêt xem xét và dự đoán mô hình mậu dịch Một quốc gia sẽ xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó dư thừa tương đối và xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia kham hiếm tương đối Lý thuyết cân bằng giá cả yếu tố Mậu dịch quốc tế sẽ dẫn đến sự cân bằng tương đối và và tuyệt đối lợi suất của các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia. II. CÔNG CỤ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG 1.Thuế: Thuế quan là khoản thuế đánh vào hàng hoá và dịch vụ khi có sự dịch chuyển vượt qua biên giới quốc gia. Thuế quan có thể được áp dụng đối với cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Thuế quan nhập khẩu là thuế đánh vào các hàng hoá nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu đánh vào các mặt hàng xuất khẩu. Tuy nhiên trên thế giới thuế quan chủ yếu được áp dụng đối với nhập khẩu cho nên người ta thường dùng luôn thuật ngữ thuế quan để chỉ thuế quan nhập khẩu. Thuế quan có thể được tính theo giá trị hoặc số lượng hàng hoá nhập khẩu. Từ đó mà phân biệt thuế tính theo giá trị và thuế tính theo số lượng. Chẳng hạn, nếu mức thuế nhập khẩu được tính bằng 50% giá một chai whisky thì đó là thuế tính theo cách cứ nhập khẩu mỗi thùng dầu thô thì phải trả 3 USD thì đó là thuế tính theo số lượng. Đối với một số lượng nhỏ hàng hoá buôn bán trên thế giới người ta áp dụng thuế quan kép bằng cách kết hợp 2 cách tính thuế nói trên. Mỗi loại thuế đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Chẳng hạn, thuế tính theo số lượng có ưu điểm là dễ thu, nhưng mức độ bảo hộ do việc đánh thuế lại bị xói mòn trong trường hợp lạm phát gia tăng. Ngoài ra cách tính thuế này tỏ ra thiên vị đối với những hàng hoá nhập khẩu đắt tiền. Bởi vì khi chuyển mức thuế này thành mức thuế tính theo giá trị tương đương thì các mặt hàng đắt tiền sẽ chịu mức thuế thấp hơn so với mức áp dụng với các sản phẩm cùng loại nhưng rẻ tiền hơn. Thuế tính theo giá trị có ưu điểm là luôn duy trì được mức bảo hộ được đối với sản xuất trong nước, bất chấp lạm phát biến đổi như thế nào. Tuy nhiên, việc tính toán đúng giá trị của hàng hoá nhập khẩu để từ đó xác định đúng mức thuế không phải là công việc đơn giản. Chẳng hạn người ta phải làm rõ những gì được đưa vào giá trị hàng hóa như chi phí vận chuyển, chi phí sản xuất, bảo hiểm. Việc lựa chọn loại thuế nào phụ thuộc vào tính chất của sản phẩm. Ví dụ, thuế tính theo số lượng thường được áp dụng đối với các sản phẩm tương đối thuần nhất về chất lượng như các loại nông sản. Thuế quan là công cụ chính sách của chính phủ và được sử dụng bởi nhiều lý do cơ bản nhất là bảo vệ sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh từ bên ngoài; kích thích sản xuất trong nước và thay thế hàng hoá nước ngoài bằng hàng hoá nội địa; trả đũa các biện pháp hạn chế thương mại do các quốc gia khác tiến hành. Thông thường thì thuế quan nhập khẩu là nguồn thu nhập quan trọng của chính phủ và ở nhiều nước nguồn thu do chiếm nột tỷ lệ trọng rất lớn trong ngân sách quốc gia. 2. Hạn ngạch: Hạn ngạch là quy định của nhà nước hạn chế nhập khẩu hoặc xuất khẩu số lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó hoặc một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định thường là 1 năm. Đối với hàng hoá có hạn ngạch và có giấy phép của bộ thương mại: Thương nhân có đủ điều kiện theo quy định tại Khoản 1, Điều 9, Nghị định số 57/1998/NĐ-CP chỉ được nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá có hạn ngạch và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có giấy phép của Bộ Thương mại trong phạm vi số lượng hoặc trị giá ghi tại văn bản phân bổ hạn ngạch của cơ quan có thẩm quyền hoặc giấy phép của Bộ Thương mại Hạn ngạch nhập khẩu là một hình thức hạn chế số lượng và thuộc hệ thống giấy phép không tự động. Khi hạn ngạch nhập khẩu được quy định cho một số sản phẩm đặc biệt nào đó thì nhà nước đưa ra một định ngạch (tổng hạn ngạch) nhập khẩu mặt hàng đó trong một khoảng thời gian nhất định không kể nguồn gốc hàng hoá đó từ đâu đến. Khi hạn ngạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường có nghĩa là hang hoá đó chỉ được nhập khẩu từ thị trường đã xác định với số lượng và thời hạn nhất định. Mục tiêu của việc áp dụng biên pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch của nhà nước nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, sử dụng có hiệu quả ngoại tệ, bảo đảm cam kết của chính phủ ta với chính phủ nước ngoài. Như vậy, về mặt bảo hộ sản xuất hạn ngạch nhập khẩu tương đối giống với thuế nhập khẩu. Giá nội địa đối với người tiêu dùng cũng tăng lên và chính giá cao này cho phép các nhà sản xuất nội địa có thể sản xuất ra một sản lượng cao hơn so với trong điều kiện thương mại tự do. Hạn ngạch cũng dẫn tới sự lãng phí của xã hội với những lý do đúng như đối với thuế nhập khẩu. Đối với chính phủ và các doanh nghiệp trong nước, việc cấp hạn ngạch nhập khẩu có lợi là xác định được khối lượng nhập khẩu biết trước. Với thuế quan, lượng hàng nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ linh hoạt của cung cầu, thường không xác định trước được. 3. Quản lý ngoại tệ: Hàng nhập khẩu: Đối với hàng hóa thiếu ngoại tệ như nước ta, áp dụng biện pháp kiểm soát ngoại tệ bằng cách điều tiết nhập khẩu một số loại sản phẩm thông qua việc phân phối ngoại tệ. Người nhập khẩu có thể ký hợp đồng mua hàng ở nước ngoài, nhưng phải xin quyền được sử dụng ngoại tệ để thanh toán cho khách hàng theo quy chế quản lý ngoại tệ của nước mình. Khi xuất khẩu hàng hoá đi nước ngoài, người xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ chế độ quản lý ngoại tệ của nước nhập khẩu để sau đó không gặp khó khăn trong việc thanh toán hàng xuất khẩu của mình. Trên cơ sở quản lý hạn ngạch ngoại tệ, các nước còn sử dụng chế độ nhiều tỷ giá và tỷ giá linh hoạt để điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, phát triển sản xuất và tiêu dùng trong nước, tăng cường xuất khẩu và tăng thu ngoại tệ. Hàng xuất khẩu: Đa số các nước đang phát triển đều theo quy định cho các nhà xuất khẩu phải chuyển khoản ngoại tệ thu được vào ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ. Nhưng cũng có nhiều nước cho phép dung số ngoại tệ thu được do xuất khẩu để nhập khẩu hàng hoá cần thiết. Người xuất khẩu phải biết chắc là người mua có quyền thanh toán hang hoá bằng ngoại tệ mà ngân hàng quản lý cho phép đối với hàng xuất khẩu của mình. Thông thường, các ngân hàng công bố các loại ngoại tệ có thể nhận khi xuất khẩu, đó thường là các ngoại tệ tự do chuyển đổi. Một biện pháp quan trọng nữa là Nhà nước cấm gửi loại ngoại tệ thu được do xuất khẩu vào các ngân hàng ở nước ngoài. Nếu người đó mở tài khoản ở nước ngoài thì lô hàng đó chưa được thanh toán và người xuất khẩu vi phạm chế độ quản lý ngoại tệ của Nhà nước. 4. Tín dụng, trợ cấp: Nhà nước đảm bảo tín dụng cho xuất khẩu. Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu và trả chậm, hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi suất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy thường có rủi ro -do nguyên nhân kinh tế hoặc chính trị - dẫn đến mất vốn. Trong trường hợp đó để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng thì quỹ bảo hiểm nhà nước đứng ra baỏ hiểm, đền bù nếu bị mất vốn. Nhà nước đứng ra đảm bảo tín dụng xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu còn nâng được giá bán hàng vì giá bán chịu bao gồm cả giá bán trả tiền ngay và phí tổn bảo đảm lợi tức. Đây là một hình thức khá phổ biến trong chính sách ngoại thương của nhiều nước để mở rộng xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường. Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu - Nhà nước trựa tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn cho vay thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi cho nước cho vay. Hình thức này có tác dụng: Giúp cho các doanh nghiệp đẩy mạnh được xuất khẩu vì có sẵn thị trường. Các nước cho vay thường là những nước có tiềm lực kinh tế. Hình thức nhà nước cấp tín dụng cho nước ngoài trên khía cạnh nào đó giúp các nước này giải quyết tình trạng dư thừa hàng hoá ở trong nước. - Nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước bằng các hình thức sau đây: Sản xuất và thực hiện hợp đồng phải mất một lượng vốn lớn. Người xuất khẩu cấn có một số vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cũng cần có thêm vốn để kéo dài khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho người mua nước ngoài. Đặc biệt, khi bán hàng theo phương thức bán chịu tiền hàng xuất khẩu thì việc cấp tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng hết sức quan trọng. Có hai loại tín dụng sau - Tín dụng trước khi giao hàng. - Tín dụng xuất khẩu sau khi giao hàng. Trợ cấp xuất khẩu là những ưu đãi tài chính mà nhà nước dành cho người xuất khẩu khi họ bán hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp nhà sản xuất tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và do đó đẩy mạnh được hàng hoá xuất khẩu. Có hai loại trơ cấp xuất khẩu Trợ cấp trực tiếp như áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng hoá xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, cho các nhà xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi đầu vào của quá trình sản xuất hàng xuất khẩu như điện, nước, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu. Trợ cấp gián tiếp như dùng ngân sách nhà nước để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch xuất khẩu hoặc nhà nước giúp đỡ kỹ thuật và đạo tạo các chuyên gia. III. CÁC CHIẾN LƯỢC TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG 1 Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô Chiến lược xuất khẩu những sản phẩm chưa qua chế biến hoặc đang ở dạng sơ chế a. Tác dụng Tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước theo chiều rộng. Tạo nguồn tích lũy ban đầu để phát triển kinh tế đất nước Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Góp phần tạo nguồn vốn ban đầu cho công nghiệp hóa b. Hạn chế của chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô Cung – cầu sản phẩm thô không ổn định Cầu không ổn định: Đối với sản phẩm sơ chế, cầu giảm do: Cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tế; Đối với sản phẩm thô, cầu giảm do: Sự tác động của khoa học công nghệ:Định mức nguyên liệu giảm và sản phẩm nhân tạo phát triển Cung không ổn định: Chịu ảnh hưởng từ điều kiện khách quan Giá cả sản phẩm thô có xu hướng giảm so với hàng công nghệ Thu nhập từ xuất khẩu sản phẩm thô biến động Giải pháp khắc phục trởi ngại cho các nước xuất khẩu - Giải pháp “trật tự kinh tế quốc tế mới” Mục đích nhằm ổn định cung sản phẩm. Có hai dạng: + Chỉ những nước xuất khẩu (OPEC) + Cả nước XK và NK (ICO, INRO) - Giải pháp “Kho đệm dự trữ quốc tế” Nước XK và NK thành lập một quỹ chung, cơ chế hoạt động của quỹ: + Bán hàng khi giá tăng + Mua hàng khi giá giảm 2 Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu Phát triển ngành công nghiệp trong nước bắt đầu từ công nghiệp hàng tiêu dùng sau đó ngành công nghiệp khác để tạo ra sản phẩm nội địa thay thế cho sản phẩm nhập khẩu. Tác dụng Khắc phục được thâm hụt cán cân thanh toán Bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ của đất nước Tiến trình thực hiện chiến lược Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng cuối cùng Hạn chế nhập khẩu hàng hóa trung gian Xóa bỏ chính sách hạn chế nhập khẩu Điều kiện thực hiện chiến lược Có thị trường trong nước đủ lớn Nắm vững công nghệ kỹ thuật để chủ động thu hút đầu tư nước ngoài Có chính sách bảo hộ mạnh của chính phủ Các chính sách bảo hộ của Chính phủ Bảo hộ bằng hạn ngạch Bảo hộ bằng thuế quan Hạn chế của chiến lược thay thế nhập khẩu Giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước Hạn chế chuyển dịch cơ cấu ngành Nợ nước ngoài gia tăng Nảy sinh tiêu cực trong xã hội Chiến lược hướng ra thị trường quốc tế Hướng sản xuất trong nước ra thị trường quốc tế -Dựa vào lợi thế tuyệt đối, Lợi thế tương đối, Lợi ._.thế nguồn lực Tác dụng: Cải thiện cán cân thương mại và thanh toán quốc tế Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế 3 Kinh nghiệm hướng ngoại của các nước a. Chiến lược hướng ngoại của các nước NICs Đông Á (Hàn Quốc, Singpore, Đài Loan, Hồng Kông) Sự cần thiết phải chuyển hướng chiến lược Thị trường trong nước nhỏ hẹp Tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn Nội dung chiến lược Giai đoạn đầu: sản xuất những mặt hàng sử dụng nhiều lao động Giai đoạn sau: sản xuất những mặt hàng cần vốn và sử dụng nhiều lao động Giai đoạn thập niên 80 trở đi: xuất khẩu hàng hóa có dung lượng vốn cao b. Chiến lược hướng ngoại của các nước ASEAN (Thais Lan, Malaysia, Indonesia,, Philippin) Sự cần thiết phải chuyển hướng chiến lược Cơ cấu kinh tế mất cân đối Kinh tế tăng trưởng chậm Nợ nước ngoài gia tăng Sự thành công của các nước NICs Nội dung chiến lược hướng ngoại mang tính chất tổng hợp Xây dựng nền kinh tế mở Hướng phát triển ngành phục vụ trong nước theo tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng và giá cả Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô cao Những chính sách đòn bẩy thúc đẩy chiến lược hướng ngoại Chính sách tỷ giá: khi thực thi chiến lược hướng ngoại điều cần thiết là duy trì tỷ giá hối đoái sao cho các nhà sản xuất trong nước có lãi khi bán các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ của họ trên thị trường quốc tế Trợ cấp xuất khẩu, cần trợ cấp cho một số sản phẩm xuất khẩu để khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào hàng xuất khẩu. Sự trợ cấp của Nhà nước có thể dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Giảm bảo hộ đối với sản xuất trong nước, chính phủ giảm thuế quan bảo hộ đối với các ngành công nghiệp được ưu đãi và giảm hạn ngạch lượng hàng nhập khẩu. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TỔNG QUAN VỀ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu Tổng số Chia ra Cân đối XK- NK Xuất khẩu Nhập khẩu Triệu đô la Mỹ 1990 5156.4 2404.0 2752.4 -348.4 1991 4425.2 2087.1 2338.1 -251.0 1992 5121.5 2580.7 2540.8 39.9 1993 6909.1 2985.2 3923.9 -938.7 1994 9880.1 4054.3 5825.8 -1771.5 1995 13604.3 5448.9 8155.4 -2706.5 1996 18399.4 7255.8 11143.6 -3887.8 1997 20777.3 9185.0 11592.3 -2407.3 1998 20859.9 9360.3 11499.6 -2139.3 1999 23283.5 11541.4 11742.1 -200.7 2000 30119.2 14482.7 15636.5 -1153.8 2001 31247.1 15029.2 16217.9 -1188.7 2002 36451.7 16706.1 19745.6 -3039.5 2003 45405.1 20149.3 25255.8 -5106.5 2004 58453.8 26485.0 31968.8 -5483.8 2005 69208.2 32447.1 36761.1 -4314.0 2006 84717.3 39826.2 44891.1 -5064.9 2007 111326.1 48561.4 62764.7 -14203.3 2008 143398.9 62685.1 80713.8 -18028.7 Nguồn: Tổng cục thống kê 1. Ngoại thương Việt Nam trước khi gia nhập WTO Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã điều chỉnh chiến lược đổi mới kinh tế khác nhau và Đại hội VI Đảng (12/1986) đánh dấu một bước ngoặt cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mới toàn diện của đất nước của chúng ta về tư tưởng, tổ chức và cán bộ, hệ thống hành chính, kinh tế, hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác trong xã hội. Các sáng kiến đưa ra vào năm 1986 nên được xem là một mốc quan trọng cho sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ .Việt Nam đã dần dần mở rộng xuất nhập khẩu các thị trường và các đối tác thương mại theo hướng đa phương hóa quan hệ. Những thành công của thương mại nước ngoài của Việt Nam được trưng bày bằng số liệu thống kê trong bốn. năm năm giai đoạn phát triển trong thời gian 1986-2005. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa XNK bình quân từ 1986 đến 2005 là 20.7 tỷ USD/ năm (gấp 7 lần năm 1985). Tốc độ tăng trưởng các thời kỳ rất cao, thời kỳ 1996- 2000 tăng gấp 3 lần 5 năm trước đó và đạt trên 100 tỷ USD ( tốc độ bình quân mỗi năm là 17,2 % ), thời kỳ 2001-2005 tăng hơn 2 lần giai đoạn trước, đạt 241 tỷ USD (tốc độ bình quân mỗi năm 18,2%). Trong đó khu vực kinh tế trong nước chiếm vai trò chủ đạo trong giai đoạn đầu từ 1986-1990 chiếm tới 96.6% tổng giá trị XNK Tính từ 1986 đến 2005, tốc độ tăng bình quân của XK là 21.2%/năm. Kim ngạch XK tăng gần 40 lần từ 789 triệu USD (1986) lên 32.4 tỷ USD( 2005). Tỷ trọng XK so với tổng mức lưu chuyển tăng dần từ 35,7% ( giai đoạn 1986-1990 ) lên 46% ( giai đoạn 2001-2005) Nhập khẩu tăng bình quân từ 1986-2005 là 16.1%/năm, đóng góp vào việc thúc đẩy và phục vụ sản xuất, tiêu dùng trong nước. Kim ngạch XNK tăng dần theo chiều hướng tích cực từ 2.155 tỷ USD (1986) lên 37 tỷ USD (2005). Do tốc độ tăng trưởng ở mỗi thời kỳ của XK và NK có sự ngược nhau về xu hướng nên ảnh hưởng đến cân đối thương mại. Việt Nam là nước nhập siêu, tuy nhiên tỷ lệ nhập siêu qua từng giai đoạn so với XK giảm mạnh, từ 80.4% giai đoạn 1986-1990 xuống 17,4% giai đoạn 2001-2005. Biểu 1. Mức lưu chuyển ngoại thương qua từng giai đoạn Đơn vị tính: Mil. USD 1986-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005 Xuất khẩu - Exports 7032 17156 51825 110830 Nhập Khẩu- Imports 12685 22784 61615 130151 Cân đối thương mại- Balance of Trade -5653 -5628 -9789 -19321 Sự tan rã của hệ thống XHCN vào đầu những năm 90 đã đặt nền ngoại thương của chúng ta trước những thách thức “ đa phương hóa quan hệ thương mại, tích cực thâm nhập tạo chỗ đứng ở các thị trường mới “ để phát triển. Thời kỳ này cũng diễn ra sự thay đổi quan trọng trong chính sách ngoại thương mở cửa của nước ta bằng việc tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN- 1995), diễn đàn kinh tế các nước châu Á – Thái Bình Dương ( APEC-1998 ), nối lại quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ ( 1995), tiến trình hội nhập WTO... Vào 1986, VN có quan hệ XNK với 43 quốc gia, năm 1995 là 100 quốc gia, năm 2000 là 192 quốc gia, đến nay khoảng hơn 200 quốc gia. Thị phần XNK có sự biến chuyển mạnh mẽ, nếu giai đoạn 1986 – 1990 chiếm tỷ trọng lớn nhất là châu Âu ) +65,3%) mà trong đó chủ yếu là khối Đông Âu ( 57,1%), thì sang các giai đoạn sau đó quan hệ thương mại chuyển hướng sang các nước châu Á cũng chiếm tới 2 phần 3, trong đó cao nhất là khối nước Đông Nam Á ( tỷ trọng chiếm hơn 20%). Quan hệ với châu Mỹ tăng khá nhanh, nếu trước khi cải cách đổi mới thì tỷ lệ kim ngạch so với tổng số chiếm không đáng kể ( + 0,6%), tới nay tỷ lệ này lên tới 11,1%. Xuất Khẩu: tốc độ xuất khẩu bình quân hàng năm thời kỳ 1986-2005 là 21,2% cao gần gấp 2 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Nếu XK bình quân 1 năm trước giai đoạn đổi mới là 1,4 tỷ USD, thì giai đoạn 2001-2005 đã tăng lên 22,2 tỷ USD( gấp 16 lần), tỷ trọng Xuất khẩu chiếm trong GDP và xuất khẩu bình quân đầu người ngày càng tăng thể hiện qua các thời kỳ từ 1986- 2005: Cơ cấu hàng XK thay đổi theo hướng tăng sản phẩm chế biến sâu và tinh, giảm tỷ trọng hàng thô hay mới sơ chế. Tuy hàng thô hay mới sơ chế còn khá cao nhưng có thể nói tăng tỷ trọng hàng chế biến là rõ nét. Trong hơn 20 năm đổi mới, đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế của Đảng đã được đề ra nhất quán và được triển khai tích cực phù hợp với tình hình cụ thể của từng giai đoạn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp Đổi mới, phát triển đất nước với những thành quả nổi bật. - Khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế: Hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam đã được triển khai một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực, tạo ra nhiều thuận lợi cho xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thông qua việc khai thông thị trường mới, mở rộng quan hệ buôn bán trao đổi, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nhận được các ưu đãi thuế quan và phi thuế quan của các nước, góp phần đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1990-2005 tăng nguồn thu ngoại tệ, ổng định cán cân thanh toán và dự trữ ngoại tệ của đất nước, hạn chế ảnh hưởng của sự biến động tài chính - tiền tệ khu vực hồi cuối những năm 90. - Mở rộng thị trường, thu hút đầu tư : Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi, hoàn thiện đã điều chỉnh, bổ sung nhiều biện pháp, cơ chế chính sách khác nhằm tạo lập một môi trường pháp lý thuận lợi tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vừa để đáp ứng nhu cầu sản xuất – tiêu dùng, sức mua tăng lên nhanh chóng của một thị trường nội địa rộng lớn, vừa để tranh thủ các lợi thế xuất khẩu của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tính đến năm 2005 đã có trên 70 nước, vùng lãnh thổ có các doanh nghiệp FDI đầu tư ở Việt Nam, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn có tiềm lực kinh tế - công nghệ, góp phần làm thay đổi trình độ sản xuất, trình độ quản lý, nâng cao trình độ tay nghề của lao động Việt Nam và khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của Việt Nam. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp, đặc biệt thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam (xuất khẩu của khu vực FDI năm 1991 chỉ chiếm 4%, 2005 đã chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Thị trường hàng XK có thay đôi đáng kể: XK sang châu Âu giai đoạn 1986-1990 đứng đầu về tỷ trọng với 51,7%, giai đoạn 2001-2005 còn 20,7%. Thay vào đó là tỷ trọng châu Á và Châu Mỹ tăng khá nhanh: Biểu 5: Tình hình XK với các châu lục - Được hưởng những ưu đãi thương mại, tạo dựng được một môi truờng phát triển kinh tế: Việt Nam nhận được nhiều sự hỗ trợ về tài chính, tín dụng và viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và các chính phủ nước ngoài. Tính 1993 - 2004, mức viện trợ ODA cam kết dành cho Việt Nam 28,82 tỷ USD, trong đó mức vốn đã thực hiện là 14,107 tỷ đô la. Trong 2 năm 1998 - 1999, Chính phủ Nhật Bản và các nhà tài trợ khác dành cho Việt Nam 1,2 tỷ đô la hỗ trợ cải cách kinh tế. - Nâng cao vị thế của đất nước, góp phần giữ gìn hoà bình : Những thành tựu cơ bản đạt được trên lĩnh vực kinh tế đã củng cố vị thế của đất nước về chính trị và ngoại giao, làm thất bại chính sách bao vây, cô lập đất nước của các thế lực thù địch, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế và các nước đánh giá cao, tôn trọng đường lối phát triển đất nước độc lập tự chủ. Chúng ta không ngừng thiết lập, củng cố và bình thường hoá quan hệ đối ngoại với nhiều quốc gia, khu vực thị trường quan trọng. Trong đó phải kể tới việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ năm 1996 và ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ vào 13/7/2000. - Tiếp thu trình độ quản lý và chuyển giao công nghệ : Tiếp thu những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của thế giới, Việt Nam đã tạo ra một trình độ cao hơn về năng suất và chất lượng của nền sản phẩm, đã đem lại nhiều công nghệ, dây chuyền sản xuất mới trong các lĩnh vực sản xuất quan trọng như hoá dầu, hoá nhựa, điện tử và bán dẫn, sản xuất ô tô, điện lực. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần nâng cao trình độ của lao động, tạo ra tư duy sản xuất – kinh doanh mới, lấy chất lượng, hiệu quả làm thước đo, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế và trong nước, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng, giảm chi phí của hàng hoá, dịch vụ, tạo đà để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thích ứng với quá trình phân công, chuyên môn hoá và hiện đại hoá đang diễn ra trên toàn cầu và khu vực. 2. Ngoại thương Việt Nam sau khi gia nhập WTO Nhiều nhận định cho rằng: việc Việt Nam gia nhập WTO là một chủ trương đúng đắn. Các doanh nghiệp có điều kiện chủ động nắm bắt thời cơ, mở rộng thị trường xuất khẩu (tới 149 nền kinh tế thành viên), được hưởng mức thuế thấp, được đối xử bình đẳng và có nhiều sự lựa chọn khi nhập khẩu; vốn đầu tư nước ngoài thu hút được nhiều hơn, phát huy các lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, nhân công, tài nguyên, vị trí địa lý, nâng cao năng lực của nền kinh tế, đặc biệt đối với sản xuất hàng xuất khẩu, từ đó tác động tích cực đến xuất khẩu, vị thế, hình ảnh Việt Nam trên thương trường quốc tế. Sau 2 năm gia nhập WTO, hoạt động ngoại thương nói chung, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng có nhiều thuận lợi để phát triển. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, những hạn chế và rào cản thuế đối với hàng hoá Việt Nam được cắt giảm. Chúng ta có thị trường xuất khẩu rộng lớn đã và sẽ được cắt giảm cùng các biện pháp phi quan thuế cũng sẽ được loại bỏ theo Nghị định thư gia nhập của các thành viên này mà không bị phân biệt đối xử; tăng cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài cho các sản phẩm của nước ta. Về xuất khẩu hàng hoá: năm 2007, xuất khẩu đạt mức cao nhất từ trước đến nay và tăng trưởng với tốc độ cao. Kim ngạch xuất khẩu đạt 47,7 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2006 (7,9 tỷ USD) và vượt 15,5% so với kế hoạch. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 42% và tăng 22,3%; khu vực FDI chiếm 58% và tăng 18,4%. Có 10 mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD. Năm 2008, giá trị xuất khẩu hàng hoá ước đạt 65 tỷ USD, tương đương 73% GDP, tăng 33,9% so với năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của năm 2008 đạt mức cao gấp nhiều lần so với những năm trước đó. Khu vực doanh nghiệp FDI đạt kim ngạch xuất khẩu 37,3 tỷ USD (kể cả dầu khí), chiếm tỷ trọng 57,4% tổng kim ngạch cả nước và tăng 34,6% so với năm 2007. Doanh nghiệp vốn trong nước chỉ đạt 27,7 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 42,6% tổng kim ngạch cả nước và tăng 36,5% so với năm 2007. Năm 2007 – 2008, tốc độ xuất khẩu tăng nhanh hơn 2 lần so với tốc độ tăng GDP; tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu cao gấp 1,6 lần so với tổng giá trị GDP. Gia nhập WTO, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam duy trì và mở rộng cả thị trường truyền thống và thị trường xuất nhập khẩu lớn của thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản, đến năm 2008 Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 230 nước trên thế giới, trong đó hàng hoá của ta xuất sang 219 nước. Do sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới thu hẹp, giá cả của nhiều loại hàng hoá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt gần 41,4 tỷ USD, giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Những tháng cuối năm tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 11 đạt gần 4,7 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 12 đạt mức cao nhất trong năm với 5,25 tỷ USD, tăng 12% so với tháng trước và tăng 12,5% so với tháng 12 năm trước, chủ yếu do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó hàng dệt may tăng 90 triệu USD, gạo tăng 80 triệu USD; giày dép tăng 77 triệu USD; cà phê tăng 67 triệu USD; dầu thô tăng 33 triệu USD. Tính chung quý IV năm 2009, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tăng 7,1% so với quý IV năm 2008. Nhờ vậy, mặc dù kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của các quý trước giảm mạnh nhưng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2009 ước tính đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008. Bảng 6: một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Đơn vị 2005 2006 2007 2008 Crôm Triệu đô la Mỹ 1.9 2.7 Dầu thô Nghìn tấn 17966.6 16442.0 15062.0 13752.3 Than đá " 17987.8 29308.0 32072.0 19354.7 Thiếc " 2.5 2.3 2.5 Hàng điện tử, máy tính và linh kiện Triệu đô la Mỹ 1427.4 1807.8 2165.2 2638.4 Sản phẩm từ plastic " 357.7 452.3 709.5 921.2 Dây điện và cáp điện " 518.2 705.7 882.3 1001.3 Xe đạp và phụ tùng " 158.4 110.6 81.2 93.1 Ba lô, túi, cặp, ví(*) " 470.9 502.1 627.1 833.0 Giày, dép " 3038.8 3595.9 3999.5 4767.8 Hàng dệt, may " 4772.4 5854.8 7732.0 9120.4 Hàng mây tre, cói, lá, thảm " 157.3 214.1 246.7 255.6 Hàng gốm sứ " 255.3 274.4 334.9 344.0 Hàng sơn mài, mỹ nghệ " 89.9 119.5 217.8 Hàng thêu " 78.4 98.1 111.8 Hàng rau, hoa, quả " 235.5 259.1 305.6 407.0 Hạt tiêu Nghìn tấn 109.9 114.8 83.0 90.3 Cà phê " 912.7 980.9 1232.1 1059.5 Cao su " 554.1 703.6 715.6 658.3 Gạo " 5254.8 4642.0 4580.0 4741.9 Hạt điều nhân " 109.0 127.7 154.7 165.3 Lạc nhân " 54.7 14.0 37.0 14.3 Thịt đông lạnh và chế biến Triệu đô la Mỹ 35.6 26.3 48.4 Thực phẩm chế biến từ tinh bột & bột ngũ cốc " 129.6 151.2 194.1 Sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa " 85.3 90.1 16.3 76.7 Đường " 0.3 2.3 4.7 13.1 Chè Nghìn tấn 91.7 105.4 115.7 104.5 Dầu, mỡ động, thực vật Triệu đô la Mỹ 13.7 15.4 49.3 99.6 Gỗ và sản phẩm gỗ " 1561.4 1943.1 2384.6 2829.3 Quế Nghìn tấn 8.3 14.3 14.0 14.4 Hàng thủy sản Triệu đô la Mỹ 2732.5 3358.0 3763.4 4510.1 Trong đó Tôm đông " 1265.7 1262.8 1387.6 Cá đông " 608.8 1083.4 1379.1 Mực đông " 73.9 92.5 60.8 Về nhập khẩu hàng hoá: đến nay Việt nam nhập khẩu từ 151 nước trên thế giới. Năm 2007, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 60,8 tỷ USD, tăng 35,5% so với năm 2006, đứng thứ 41 trên thế giới. Năm 2007 nhập siêu lên trên 13,1 tỷ USD, bằng 27,5% kim ngạh xuất khẩu. Có 3 mặt hàng nhập siêu lớn hơn 2 lần so với năm 2006 là ôtô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc và dầu mỡ động thực vật, không có mặt hàng nào giảm so với năm 2006 về kim ngạch. Kim ngạch nhập khẩu năm 2008 của Việt nam đạt 84 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2007. Trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 28,5 tỷ USD, chiếm 33,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 55,5 tỷ USD, chiếm 66,1% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước và tăng 35,5% so với năm 2007. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc, thiết bị, phụ tùng, xăng dầu, thép… Thị trường nhập khẩu năm 2008 tập trung chủ yếu vào Châu Á, trong đó nổi bật là các thị trường Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan… Năm 2009, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá 8 tháng đầu năm chỉ đạt gần 41,8 tỷ USD, giảm 29% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, do kinh tế thế giới có sự phục hồi nên một số mặt hàng đã tăng giá; mặt khác, kinh tế trong nước đạt tốc độ tăng trưởng khá nên nhu cầu hàng hoá tiêu dùng cho sản xuất và đời sống cũng tăng lên nên kim ngạch nhập khẩu hàng hoá tháng 9, tháng 10, tháng 11 và tháng 12 liên tục tăng so với cùng kỳ năm trước với tốc độ tăng lần lượt là: 13,9%, 14,5%, 44,5% và 15,7%. Do vậy, tính chung cả năm 2009, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 43,9 tỷ USD, giảm 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,9 tỷ USD, giảm 10,8%. Trong các nhóm hàng nhập khẩu năm 2009, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng chiếm tỷ trọng 29,5% tổng kim ngạch nhập khẩu; nguyên nhiên vật liệu chiếm 61,3%; hàng tiêu dùng chiếm 8,7%; vàng chiếm 0,5%. Về thị trường nhập khẩu, 8 đối tác chủ yếu chiếm hơn 85% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 gồm: Trung Quốc 16,1 tỷ USD, tăng 2,7% so với năm 2008; ASEAN 13,4 tỷ USD, giảm 31,3%; Nhật Bản 7,3 tỷ USD, giảm 11,3%; Hàn Quốc 6,7 tỷ USD, giảm 5,3%; Đài Loan 6,2 tỷ USD, giảm 25,9%; EU 5,5 tỷ USD, tăng 2,2%; Mỹ 2,8 tỷ USD, tăng 9,1%; Ôx-trây-li-a 1 tỷ USD, giảm 24%. Tuy kim ngạch nhập khẩu có tốc độ giảm cao hơn kim ngạch xuất khẩu nhưng nhập siêu hàng hoá năm 2009 ước tính vẫn ở mức 12,2 tỷ USD, giảm 32,1% so với năm 2008 và bằng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009 Bảng 7: Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu Đơn vị 2005 2006 2007 2008 Ô tô nguyên chiếc Chiếc 21279 12496 30471 51059    Loại 12 chỗ ngồi trở xuống " 5447 3199 14605 27566    Loại trên 12 chỗ ngồi " 749 850 1257 783    Ô tô tải " 12334 7676 10447 15817    Ô tô loại khác " 2749 771 4162 6893 Thiết bị, phụ tùng ngành dệt, may Triệu đô la Mỹ 447.2 481.8 641.7 Thiết bị, phụ tùng ngành da, giày " 87.4 57.9 69.3 Thiết bị, phụ tùng ngành giấy " 64.0 52.3 112.5 Thiết bị, phụ tùng ngành nhựa " 164.8 216.1 318.1 Máy và phụ tùng máy XD " 255.8 290.8 392.6 Máy và phụ tùng máy SX xi măng " 63.3 112.5 273.1 Máy móc, thiết bị hàng không " 65.9 7.8 515.0 Máy móc, thiết bị thông tin liên lạc " 598.2 945.7 1631.7 Máy và phụ tùng máy CNTP " 130.9 198.3 247.7 Linh kiện điện tử, máy tính nguyên chiếc và linh kiện " 1638.6 1869.7 2958.4 3714.3 Xăng, dầu các loại Nghìn tấn 11477.8 11224.6 13195.0 12963.9 Trong đó " Xăng " 2630.1 2821.6 3298.6 3637.3 Dầu diesel " 5876.7 5671.5 6460.9 6500.0 Dầu mazut " 2199.5 2012.4 2338.2 2077.4 Dầu hỏa " 332.8 233.2 251.2 139.5 Nhiên liệu máy bay " 438.6 458.1 515.8 609.7 Dầu mỡ nhờn Triệu đô la Mỹ 18.5 20.2 18.6 Phân bón Nghìn tấn 2915.0 3107.1 3800.1 3034.8 Trong đó: Phân SA " 731.8 740.4 996.9 722.3 Phân urê " 858.4 728.8 740.2 706.9    Phân NPK " 169.5 142.0 264.2 170.5    Phân DAP " 606.3 761.6 666.5 433.8    Phân kali " 456.5 571.6 810.5 1001.3    Loại khác " 93.4 162.7 321.7 Sắt, thép " 5495.1 5667.0 8115.5 8263.6 Trong đó: Phôi thép 2239.7 1972.2 2173.8 2392.9 Chì Triệu đô la Mỹ 43.4 57.6 147.5 Đồng " 340.2 767.4 898.6 Kẽm " 66.0 143.5 203.8 Nhôm " 357.4 512.6 659.6 Kính xây dựng " 14.2 24.1 29.9 37.3 Hoá chất " 921.4 1121.8 1527.9 1775.5 Chất dẻo " 1516.9 1886.2 2528.7 2945.1 Malt " 57.8 55.8 94.8 Nhựa đường " 39.6 46.0 60.7 Bông " 170.0 221.8 268.0 299.6 Xơ dệt (Sợi chưa xe) " 213.2 213.8 260.5 775.4 Sợi dệt 399.8 439.0 578.5 Thuốc trừ sâu và nguyên liệu " 168.3 219.4 401.1 473.8 Clanke Nghìn tấn 4375.5 3615.0 3812.0 3694.5 Giấy các loại Triệu đô la Mỹ 411.0 497.8 623.5 753.3    Trong đó    Giấy Kraft " 47.5 47.1 57.0 Nguyên, phụ liệu tân dược " 118.4 131.1 188.4 157.6 Nguyên, phụ liệu giày dép " 843.3 827.5 928.3 2355.1 Phụ liệu may " 1438.7 1123.9 1224.0 Vải các loại " 2474.2 2947.0 3990.5 4457.8 Nguyên phụ liệu sản xuất thuốc lá " 163.5 124.3 200.5 246.2 Dầu, mỡ động thực vật " 192.3 256.7 482.9 665.5 Bột mỳ Nghìn tấn 38.8 38.0 77.0 69.2 Lúa mỳ Triệu đô la Mỹ 200.6 226.3 343.4 292.6 Sữa và sản phẩm từ sữa " 278.9 302.7 462.2 533.9 Tân dược " 507.6 570.4 714.2 864.2 Điều hoà nhiệt độ " 85.5 111.7 153.6 Xe máy (kể cả linh kiện đồng bộ) " 541.4 557.4 725.0 763.8    Trong đó "    Nguyên chiếc " 65.7 76.9 145.0 139.2    Linh kiện CKD, SKD, IKD " 475.7 480.5 580.0 624.6 Thời gian qua chúng ta cũng đã thực hiện tích cực các biện pháp kiềm chế nhập khẩu như tăng thuế nhập khẩu với một số mặt hàng như ôtô và linh kiện ôtô, vàng; kiểm soát nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu; tiết giảm tiêu dùng và cắt giảm đầu tư…đã góp phần kiềm chế nhập khẩu và giảm nhập siêu một cách hiệu quả. Tuy việc nhập khẩu và tỷ lệ nhập siêu đang được kiềm chế, nhưng vẫn ở mức cao. Cụ thể mức nhập siêu năm 2007: 14,3 tỷ USD, tăng 2,8 lần năm 2006; 2008: nhập siêu 17,5 tỷ USD. Chủ trương đẩy mạnh xuất khẩucác mặt hàng có trị giá lớn, công nghệ cao đang được triển khai với tín hiệu tốt. Lần đầu tiên chúng ta xuất khẩuđược thiết bị lò hơi cho Tập đoàn TKZ của Nga để bạn lắp ráp Nhà máy Điện tại Ấn Độ. Công ty dịch vụ cơ khí hàng hải cũng hạ thủy tại cảng Vũng Tầu dàn khoan khai thác dầu khí xuất khẩu sang Malaysia. Nhiều hoạt động xúc tiến thương mại được tổ chức: Hàng trăm hội trợ triển lãm với quy mô khác nhau đã diễn ra ở trong và ngoài nước, trong đó có các hội chợ có tiếng về đồ gỗ ở Hoa Kỳ, thủy sản ở châu Âu và hội chợ Trung Quốc - SEAN (CAEXPO) lần thứ 4 tại Nam Ninh, Trung Quốc; nhiều lượt đoàn cán bộ đi khảo sát các thị trường trọng điểm, tiềm năng, thị trường xa, láng giềng, tiếp tục khôi phục thị trường truyền thống Nga, Đông Âu; nhiều doanh nghiệp tháp tùng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những chuyến thăm nước ngoài hoặc tham gia hoạt động trong những “Ngày Việt Nam ở nước ngoài” tổ chức tại Pháp, Hàn Quốc, Ấn Độ…đã ký kết được nhiều hợp đồng, bản ghi nhớ trị giá hàng tỉ USD. Các hoạt động đó góp phần quảng bá tiềm năng kinh tế - thương mại Việt Nam; gương mặt mới về xuất khẩu của Việt Nam, nhất là thương hiệu quốc gia; giúp cho doanh nghiệp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, trên cơ sở đó tổ chức sản xuất, kinh doanh; giúp các nhà quản lý học tập kinh nghiệm, mở rộng tầm nhìn. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong xuất khẩu vẫn còn bộc lộ một số tồn tại: Hàng da giày, do còn nhiều bất cập từ tổ chức sản xuất đến phương thức xuất khẩu, nhất là khi bị áp mức thuế 10% trong vụ kiện Chống bán phá giá giầy mũ da vào thị trường EU; nhiều doanh nghiệp chưa thực sự linh hoạt trong việc chuyển dịch cơ cấu sản phẩm và thị trường, nên mặt hàng này đạt mục tiêu khá chật vật. Vẫn còn một tỷ lệ khá lớn các mặt hàng xuất khẩu dưới dạng thô, qua trung gian, tỷ lệ gia công cao, đơn hàng trị giá thấp, khiến phần lớn giá trị gia tăng đều rơi vào tay công ty nước ngoài. Hàng thủ công mỹ nghệ sau chuỗi tăng trưởng cao, đến năm nay tình trạng thiếu gay gắt về nguyên liệu đã bắt đầu bộc lộ, từ chỗ 90% dùng nguyên liệu trong nước, nay tỷ lệ nhập khẩu tới 60%. Mẫu mã tự sáng tác còn nghèo nàn, nên phải dùng gần 90% số mẫu do nước ngoài đặt hàng, vì thế chưa tạo được nét bản sắc của Việt Nam trong mỗi sản phẩm. Xe đạp và phụ tùng xe đạp là mặt hàng duy nhất có kim ngạch xuất khẩu bị tụt dốc- Giá và nhu cầu một số nguyên, vật liệu nhập khẩu “nóng lên”: giá thép thành phẩm tăng thêm 93 USD/tấn; phôi thép tăng 105 USD/tấn; phân bón tăng 21 USD/tấn; chất dẻo tăng 144 USD/tấn; sợi tăng 151 USD/tấn, kim loại thường khác tăng 469 USD /tấn, kết hợp với nhu cầu xăng dầu, thép thành phẩm, phân bón, sợi các loại đều tăng mạnh đã đẩy trị giá nhập khẩu tăng thêm khoảng trên 7 tỉ USD. Trong khi đó, chúng ta không có mặt hàng nào tận dụng cơ hội này xuất khẩu đối ứng để “hạ nhiệt” nhập khẩu và nhập sieu. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Nhập siêu là hiệu số của kim ngạch nhập khẩu trừ (-) kim ngạch xuất khẩu và tỷ lệ nhập siêu là thương số của trị giá nhập siêu với kim ngạch xuất khẩu. Mấy năm trước đây, xuất khẩu thường tăng nhanh hơn nhập khẩu, nhưng năm nay chẳng những không cùng tăng ở thế đồng hành, mà lại đổi ngôi nên kết cục trên là không tránh khỏi. Vấn đề điều hành nhập nguyên liệu phế thải còn nhiều bất cập. Ví dụ như vụ nhập lô hàng 6.685 tấn thép phế thải trị giá khoảng 2,5 triệu USD do các Công ty cổ phần Kim khí (Thành phố Hồ Chí Minh); Công ty TNHH Thương mại Anh Trang, Công ty Cổ phần thép Đình Vũ (Hải Phòng); Công ty TNHH Techmart, Tập đoàn Hoà Phát (Hà Nội) nhập về cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn đều bị các cơ quan chức năng không cho thông quan vì cho rằng vi phạm Luật Môi trường, trong khi đó một số cơ quan chức năng khác lại chứng thực là được phép. Rõ ràng ở đây có vấn đề trong sự vận dụng các văn bản pháp quy về việc nhập khẩu loại hàng này. Thủ tục hành chính trong vận hành xuất khẩu và xuất khẩu tuyđã được cải tiến nhiều, nhưng đâu đó vẫn còn phiền hà, phải "làm luật" mỗi khi vận tải trên đường, ở bến bãi hoặc qua cửa khẩu. Dưới sức ép của toàn cầu hoá kinh tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản thương mại mới, tinh vi như áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm hay các biện pháp chống bán phá giá, do đó, một mặt, chúng ta phải nâng cao năng lực của nền kinh tế, của từng doanh nghiệp, đồng thời cần nâng cao khả năng nhận biết sớm các rào cản đó để kịp thời ứng phó nhằm đạt được sự công bằng trong quan hệ thương mại quốc tế. Theo xu thế chung, thể chế kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng sẽ tiếp tục được minh bạch trong môi trường chính trị - xã hội ổn định. Tuy vậy, không nên chỉ dừng ở việc hoàn thiện trên văn bản, mà phải chỉ đạo sát sao cùng với điều hành nhất quán của các bộ, ngành, với sự tham gia của các hiệp hội ngành hàng; trong đó khuyến khích khả năng sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp. Cải cách hành chính cần được tiếp tục đẩy mạnh để giúp các doanh nghiệp giảm phí, thời gian, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, khả năng cạnh tranh, tạo ra nhiều tích luỹ ban đầu, chuẩn bị cho những bước tiến mới. II. NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM QUA MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ Quan hệ thương mại hàng hóa song phương Việt Nam-Hoa Kỳ ngày càng phát triển, đặc biệt là từ năm 2007, sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Năm 2007 là năm đánh dấu mức tăng trưởng nhảy vọt trong thương mại hàng hóa Việt Nam - Hoa Kỳ, đặc biệt là xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Số liệu Thống kê Hải quan cho thấy, nếu như trong năm 2005 và 2006, tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ chỉ đạt tương ứng 5,91 tỷ USD và 7,83 tỷ USD thì đến năm 2007, tổng trị giá hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ đã vượt con số 10 tỷ USD. Năm 2008, tuy chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc suy thoái kinh tế bắt đầu tại Hoa Kỳ vào tháng 12/2007 và tiếp đến là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ giữa năm 2008, nhưng quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn có những dấu hiệu khả quan. Tổng kim ngạch buôn bán hàng hóa hai chiều trong năm 2008 đạt 14,5 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2007. Sang đến năm 2009, mặc dù tiếp tục gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn nhất thế giới này vẫn đạt được 11,36 tỷ USD, giảm nhẹ 4,3% so với kết quả thực hiện của một năm trước đó. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng hoá lớn nhất của các nhà xuất khẩu Việt Nam. Trong quý I năm 2010, kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hoa Kỳ có nhiều dấu hiệu lạc quan. So với cùng kỳ các năm trước, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam quý I/2010 sang thị trường Hoa Kỳ đạt mức cao nhất từ trước đến nay.  Số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy trong quý I/2010, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam với tổng trị giá đạt gần 2,84 tỷ USD, tăng mạnh 23,2% so với cùng thời gian năm trước và chiếm tới 19,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của tất cả các doanh nghiệp Việt Nam. Ở chiều ngược lại, trong quý I/2010, tổng trị giá hàng hoá các công ty Việt Nam nhập khẩu từ thị trường Hoa Kỳ đạt 809 triệu USD, tăng mạnh 77,8% so với cùng kỳ của một năm trước. Nguyên nhân chính khiến kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng mạnh là do trị giá nhập khẩu thức ăn gia súc & nguyên liệu tăng đột biến vớ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25468.doc
Tài liệu liên quan