Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại TP.Hồ Chí Minh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCM --------------------------- PHÙNG THỊ HƯƠNG NGA NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA CÔNG NHÂN KHU CHẾ XUẤT TÂN THUẬN TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : TÂM LÝ HỌC Mã số: 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ HẠNH NGA Thành Phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành tốt đề tại này, trong suốt quá trình thực hiện, người nghiên cứu đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ phía các c

pdf106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1787 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại TP.Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á nhân và tập thể. Người nghiên cứu xin gửi lời tri ân chân thành đến Tiến sĩ Đỗ Hạnh Nga, Cô đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và đồng hành cùng người nghiên cứu suốt quá trình thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã giảng dạy, truyền kiến thức, kinh nghiệm, góp ý khoa học cho toàn thể học viên cao học K18. Cảm ơn các Anh, Chị, Bạn bè cùng khóa học; đồng nghiệp; người thân và gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Qua đây người nghiên cứu xin chân thành cảm ơn - UBND phường Bình Thuận, Q.7, TP. Hồ Chí Minh - Chủ các nhà trọ gần khu chế xuất - Các nhà quản lý doanh nghiệp và các anh (chị) công nhân đang làm việc tại khu chế xuất Tân Thuận Đã tận tình giúp đỡ tôi, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này. Chân thành cảm ơn! Học viên (Phùng Thị Hương Nga) Tp. Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 10 năm 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trên là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả Phùng Thị Hương Nga DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết đầy đủ Viết tắt Cán bộ Phường CBP Công nhân CN Chủ nhà trọ CNT Điểm trung bình ĐTB Đồng ý ĐY Hiếm khi HK Hoàn toàn đồng ý HTĐY Hoàn toàn không đồng ý HTKĐY Không bao giờ KBG Không đồng ý KĐY Lưỡng lự LL Nhà quản lý doanh nghiệp NQLDN Tham vấn tâm lý TVTL Thỉnh thoảng TT Thường xuyên TX Rất thường xuyên RTX MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, trưởng thành và gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới, từ một nước nông nghiệp là chủ yếu, chuyển mình thành một nước công nghiệp theo xu hướng hiện đại. Giai cấp công nhân là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong những năm đổi mới, giai cấp công nhân đã có những bước chuyển biến tích cực, mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng về cơ cấu, đồng thời chất lượng đội ngũ được nâng lên. Cùng với các giai cấp khác, giai cấp công nhân đã đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố quan trọng để đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến tầng lớp công nhân đang trực tiếp lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong Nghị Quyết TW Đảng số 20-NQ/TƯ [55] “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ban hành 28/01/2008 có nêu rõ mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là: “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân mạnh về số lượng và nâng cao về chất lượng, giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân (về nhà ở tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội, nơi sinh và văn hóa, cơ sở nuôi dạy trẻ…)” Để đáp ứng mục tiêu đề ra, Nhà nước đã cho phép xây dựng nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất ở nhiều vùng miền trên cả nước, và TP. Hồ Chí Minh là một trong những nơi có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất nhất. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sẽ có rất nhiều lao động trẻ tập trung làm việc và sinh sống tại đây. Khu chế xuất Tân Thuận là khu chế xuất đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam năm 1991, có những đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế của TP.HCM, tại đây thu hút trên 90.000 công nhân lao động. Chính vì số lượng công nhân sinh sống và làm việc đông đúc như vậy đã đặt ra cho những nhà quản lý, người sử dụng lao động, chính quyền địa phương nhiều vấn đề cần phải giải quyết để đảm bảo cho công nhân có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để làm việc. Thực tế hiện nay cho thấy, các nhà đầu tư trong khu chế xuất chỉ quan tâm đến phát triển sản xuất, kinh doanh và tăng lợi nhuận mà không bị ràng buộc trách nhiệm phải chăm lo đến điều kiện làm việc, ăn, ở, hưởng thụ văn hoá của công nhân. Một số tổ chức công đoàn tại khu chế xuất có tổ chức các hoạt động văn hoá cho công nhân, song còn rất khiêm tốn. Điều kiện làm việc, ăn ở của công nhân chưa được cải thiện nhiều, họ không được hưởng ưu đãi gì nhiều từ chủ lao động. Những năm gần đây, rất nhiều phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập những vấn đề xảy ra trong giới công nhân, chẳng hạn trên những trang web: www.tuoitre.vn , www.vietbao.com hoặc www.vietnamnet.vn cho thấy bi kịch sống thử của công nhân, quen nhau, yêu vội, sống thử, quan hệ buông thả dẫn đến tỉ lệ nạo phá thai trong giới nữ công nhân tăng cao. Những kết quả thống kê từ các bài viết trên các trang web đã cho thấy tại bệnh viện Từ Dũ số công nhân nạo phá thai chiếm 30%, Bệnh viện Hùng Vương 10%, Bệnh viện Đồng Nai con số lên đến 65% [54]. Đáng lưu ý hiện nay con số này ngày một tăng nhanh, tại Trung tâm y tế Quận 7 có những trường hợp công nhân nạo phá thai đến 6 lần [55]. Tác giả Lý Hà [52] cho biết: Trong năm 2009 tại các khu công nghiệp, khu chế xuất có 216 vụ đình công tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà nguyên nhân xuất phát từ phía người sử dụng lao động. Đồng tác giả Lê Thanh Hà, Yến Trinh, Thi Ngôn [53] có bài “Đời sống tinh thần của công nhân nhạt như bát canh công nhân” ta thấy đời sống tinh thần của công nhân rất nghèo nàn, đi làm về suốt ngày chỉ quanh quẩn tại nơi ở trọ, ngủ vùi để lấy sức tiếp tục làm việc, hoặc tụ tập tán ngẫu, không có ti vi để xem, ngại ra đường vì xe đạp cọc cạch…mặc dù những thông tin lấy được từ các trang web, bài báo hiện nay vẫn chưa đủ để cho chung ta thấy đầy đủ đời sống tinh thần của công nhân hiện nay tại khu chế xuất nhưng cũng phần nào nói lên đuợc hiện trạng cuộc sống tinh thần hiện nay. Vì vậy, hiện trạng này cho thấy trách nhiệm của những nhà quản lý (chủ đầu tư, chính quyền địa phương nơi có công nhân sinh sống…) cần phải có sự thống nhất trong việc chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của công nhân. Nhà quản lý cần nắm được những nhu cầu thực sự của công nhân về công việc, nhà ở, tiền lương và cả nhu cầu đuợc chia sẻ, đuợc lắng nghe những vấn đề nảy sinh trong đời sống tinh thần của họ. Nếu kịp thời lắng nghe, chia sẻ thì công nhân sẽ có sự cân bằng về đời sống tinh thần, qua đó họ sẽ an tâm hơn khi làm việc, bảo đảm tái tạo sức lao động đáp ứng cho mục tiêu CNH-HĐH của đất nước. Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên cho thấy nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân ở các khu chế xuất chưa được nghiên cứu một cách khoa học và bài bản. Chính vì vậy, người nghiên cứu đã chọn đề tài: “Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại TP.HCM” là đề tài nghiên cứu của mình. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại TPHCM. Trên cơ sở đó, đề ra một số biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 3.1 Đối tượng nghiên cứu Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân 3.2 Khách thể nghiên cứu - Công nhân khu chế xuất Tân Thuận - Nhà quản lý các doanh nghiệp trong khu chế xuất Tân Thuận - Chủ nhà trọ cho công nhân thuê - Cán bộ Phường phụ trách về đời sống của người dân tại khu chế xuất Tân Thuận T.P Hồ Chí Minh. 4. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI - Nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân ở các khía cạnh: + Nhu cầu tham vấn tâm lý từ các cá nhân và các tổ chức bên ngoài + Nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn tâm lý + Nguyên nhân hình thành nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân được nảy sinh trong mối quan hệ với người khác và công việc Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận. - Khách thể: 200 công nhân và 45 nhà quản lý doanh nghiệp, chủ nhà trọ, cán bộ Phường tại khu chế xuất Tân Thuận - Địa bàn: Công nhân và nhà quản lý doanh nghiệp hiện đang làm việc tại khu chế xuất Tân Thuận Quận 7 TPHCM, chủ nhà trọ cho công nhân thuê, cán bộ Phường nơi công nhân đăng kí thường trú. - Thời gian: Tháng 09/2009  tháng 09/2010 5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU - Công nhân có nhu cầu tham vấn tâm lý và có sự khác biệt về nguyên nhân hình thành nhu cầu tham vấn tâm lý giữa các nhóm công nhân theo giới tính, tuổi và tình trạng hôn nhân. - Công nhân có nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn tâm lý, nhưng do có những khó khăn về kinh tế và do dịch vụ tham vấn tâm lý còn ít, nên đa số công nhân vẫn chưa có điều kiện thỏa mãn nhu cầu tham vấn tâm lý của mình. 6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 6.1 Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về: nhu cầu, đặc điểm của nhu cầu, các loại nhu cầu, tham vấn và tham vấn tâm lý, nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân, đặc điểm tâm lý của công nhân… 6.2 Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận. 6.3 Đề xuất một số biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đề tài sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau: 7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận: sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp tài liệu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu. 7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân và nhu cầu sử dụng dịch vụ tham vấn tâm lý của công nhân tại khu chế xuất Tân Thuận hiện nay. Đề tài sử dụng hai phương pháp sau: 7.2.1 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đề tài nghiên cứu sử dụng hai bảng hỏi, được thu trên hai nhóm khách thể. Bảng hỏi thứ nhất gồm 14 câu điều tra trên 200 công nhân hiện đang làm việc tại khu chế xuất Tân Thuận nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân và nhu cầu sử dụng với các dịch vụ tham vấn tâm lý. Bảng hỏi thứ hai gồm 9 câu, lấy ý kiến trên nhà quản lý doanh nghiệp, chủ nhà trọ và cán bộ Phường về thực trạng nhu cầu tham vấn và nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn của công nhân hiện nay. 7.2.2 Phương pháp phỏng vấn: sử dụng phương pháp phỏng vấn với 10 người công nhân trong số khách thể 200 công nhân có tham gia trả lời trên bảng hỏi, nhằm tìm hiểu sâu hơn về nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân và xác định thêm nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn tâm lý hiện nay của công nhân như thế nào. 7.3 Phương pháp thống kê: sử dụng thống kê toán học bằng phần mềm SPSS for Windows 11.5. 8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI - Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận về nhu cầu tham vấn tâm lý - Xác định thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý và nhu cầu sử dụng các dịch vụ tham vấn tâm lý của công nhân trong khu chế xuất Tân thuận. - Đề xuất các biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân, giúp công nhân có đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1.1 Ở nước ngoài. Cuối thế kỷ thứ XIX sang đầu thế kỷ thứ XX là giai đoạn đầu của công tác hướng nghiệp và tham vấn nghề. Công tác trợ giúp nhằm tập trung vào việc cung cấp những phúc lợi căn bản cho người nghèo, hướng đến việc cho lời khuyên và cung cấp thông tin cho mọi người nhằm giúp cho cuộc sống của họ tốt hơn và có khả năng thích ứng với lao động công nghiệp. Trong giai đoạn này, công tác hướng dẫn nghề – tham vấn nghề được phát triển, với phong trào sử dụng các thang đo – trắc nghiệm, của các lý thuyết nghiên cứu tâm lý cá nhân và sự ứng dụng đầu tiên của thuyết phân tâm học vào quá trình trị liệu những rối loạn tâm lý của con người. Những người đóng góp cho sự ra đời của tham vấn hướng nghiệp trong giai đoạn này là: Francis Galton (1822 – 1911) và Wilheim Wundt (1832 – 1920) người Anh, đây là những nhà tâm lý học ứng dụng đầu tiên đã phát triển phòng thực nghiệm tâm lý. Ở Mỹ, G. Stanley (1846 – 1924) và James Cattel (1860 – 1940), đã mở phòng thực nghiệm tại Đại học Harvard và Đại học Pennsylvania cuối thế kỷ thứ XIX, đã phát triển trắc nghiệm đo nhân cách được áp dụng trong tham vấn nghề. [Dẫn theo 10, tr.50] Năm 1907, Jesse Davis (1817 – 1955) đã xây dựng cơ sở đào tạo đầu tiên về công tác hướng dẫn nghề tại Michigan. Tuy nhiên người có ảnh hường đầu tiên là Frank Parsons (1854 – 1908) với sự ra đời cuốn sách “Cẩm nang hướng nghiệp”, được sử dụng trong trường học. Những ý tưởng của F. Parsons trong công tác hướng nghiệp đã thực sự trở thành nguyên tắc của nghề tham vấn sau này. [7] Vào giữa thế kỷ thứ XX, tham vấn tâm lý đã phát triển thành một ngành chuyên nghiệp. Năm 1930, E.G. Williamson đưa ra một lý thuyết hoàn chỉnh về tham vấn với tên gọi là “Tiếp cận đặc điểm và nhân tố”, Ông đã xây dựng các bước của một hoạt động tham vấn. Giai đoạn này có sự ra đời của rất nhiều thuyết nghiên cứu về quá trình phát triển tâm lý con người: Thuyết phát triển tâm lý xã hội, Thuyết phát triển tư duy trẻ em; Thuyết phát triển nhu cầu con người; Thuyết gắn bó mẹ – con; Thuyết tổn thương tâm lý… đã cho phép các nhà tham vấn vận dụng để giúp đỡ cho thân chủ của mình. Các thuyết này là cơ sở để nhận biết, giải thích nguồn gốc của hành vi và các biểu hiện rối loạn tâm lý con người. [Dẫn theo 10, tr.53] Năm 1892, Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kì (APA) được thành lập với thành phần chủ yếu là các nhà tâm lý học kinh nghiệm. Nhưng từ giữa thập niên 20 của thế kỷ XX thì các nhà Tâm lý học lâm sàng tham gia vào Hiệp hội ngày càng nhiều, đã có ảnh hưởng lớn hơn trong lĩnh vực trị liệu tâm lý. Sau này, do sự hợp nhất của nhiều Hiệp hội lâm sàng nên Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kì đã phát triển phân nhánh tâm lý học tham vấn của APA. [47] Cũng vào những năm 50 của thế kỷ XX, phương pháp thân chủ làm trọng tâm của C. Rogers (1902 – 1987) là một bước chuyển từ sự tham vấn có định hướng, do ảnh hưởng của hướng nghiệp, sang tham vấn tập trung vào thân chủ và vấn đề của họ với tập sách Tham vấn và trị liệu tâm lý, cuốn sách có ảnh hưởng rất lớn đến nghề tham vấn chuyên nghiệp sau này. Thập niên 60 của thế kỷ XX với sự ra đời của vô số cách tiếp cận mới bên cạnh cách tiếp cận của C. Rogers và S. Freud, như tiếp cận xúc cảm thuần túy của Albert Ellis, tiếp cận hành vi của Bandura…tất cả cách tiếp cận này giúp cho sự phát triển rực rỡ của ngành tham vấn trong suốt thế kỷ XX. [20] Giai đoạn từ cuối thế kỷ XX cho đến nay, tham vấn tâm lý được tiếp cận theo xu hướng đa văn hóa. Một trong những thay đổi lớn nhất của tham vấn là tập trung vào lĩnh vực văn hóa hay còn gọi là tham vấn đa văn hóa. Các nhà tham vấn cho rằng sẽ rất khó khăn trong việc giúp đỡ khách hàng nếu nhà tham vấn không nắm được nền tảng văn hóa của khách hàng. Whitfield, McGrath và Coleman (1952) [Dẫn theo 10,tr.60] chỉ ra các yếu tố xác định một mô hình văn hóa cụ thể, đó là: 1/Đặc điểm bản thân cá nhân; 2/Diện mạo và cách ăn mặc; 3/Có niềm tin và hành vi đặc trưng; 4/Mối liên hệ với gia đình và với các đặc trưng quan trọng khác; 5/Cách dành và sử dụng thời gian nhàn rỗi; 6/Cách tiếp thu và sử dụng kiến thức; 7/Cách thức giao tiếp và ngôn ngữ; 8/Những giá trị và các tập tục; 9/Cách sử dụng thời gian và không gian sống;10/Thói quen ăn uống và cách chế biến món ăn theo phong tục tập quán; 11/Công việc và cách thức thực hiện công việc. Như vậy, ngành tham vấn tâm lý thật sự trở nên chuyên nghiệp trên thế giới khi các học thuyết nghiên cứu tâm lý người phát triển, các hướng tiếp cận trị liệu tâm lý với cá nhân, nhóm đã thay đổi, hoàn chỉnh cho phù hợp với ngành tham vấn, các tổ chức, các Hiệp hội tham vấn ra đời quy định các chuẩn mực đạo đức và pháp lý cho người làm công tác trợ giúp. Các phòng khám sức khỏe tâm thần, các trung tâm tham vấn cộng đồng, hay trường học gia tăng nhu cầu về người trợ giúp tâm lý. Các hiệp hội, trường học đào tạo nghề tham vấn phát triển mạnh, đa dạng và công tác giám sát tham vấn theo hướng ngày càng khoa học và kiểm soát chặc chẽ. Bằng cấp hóa những người hoạt động trong lĩnh vực tham vấn và xây dựng được những mô hình đào tạo nhà tham vấn chuyên nghiệp theo hướng chuyên môn. 1.1.2 Ở Việt Nam. Ngành tâm lý học đã được phát triển gần 50 năm, với tư cách là một ngành được đào tạo nghề – nghề dạy tâm lý (nghề sư phạm) và nghiên cứu tâm lý. Mặc dù hiện nay những người hoạt động trong lĩnh vực ứng dụng tâm lý vẫn chưa được cấp mã số, nhưng các hoạt động trợ giúp tâm lý đã và đang đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tại các đô thị lớn ngày nay, khi các cá nhân hoặc gia đình có vấn đề tâm lí họ tìm đến các văn phòng, trung tâm tham vấn tâm lý để nhờ giúp đỡ. Thực tế cho thấy, những hoạt động trợ giúp tâm lý cho những người gặp khó khăn đã xuất hiện từ rất sớm trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, tham vấn tâm lý với tư cách là một lĩnh vực hoạt động mang tính chất khoa học và chuyên nghiệp chỉ mới phát triển trong những năm gần đây, khoảng cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỉ XX. Vào thời kì này, các hoạt động tham vấn tâm lý thường đi kèm với chương trình cải thiện cuộc sống và kinh tế cho các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội. Công tác tham vấn là một phần của công tác xã hội, công tác từ thiện, nhằm giải quyết những vấn đề mang tính thời đại, như đói nghèo, bệnh tật, mại dâm, người có HIV, trẻ mồ côi, trẻ lang thang, người già không nơi nương tựa…với những tổn thương tâm lý sâu sắc. Nhìn từ góc độ hoạt động tâm lý, theo đánh giá của thạc sỹ Nguyễn Thị Oanh, “Phòng tư vấn tâm lý” đầu tiên được thành lập ở TP. Hồ Chí Minh năm 1988, do Tiến Sĩ Tâm lí Tô Thị Ánh phụ trách. Các đối tượng đến đây xin tham vấn thuộc mọi thành phần và các nhu cầu trợ giúp cũng đa dạng [10]. Năm 1991 Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em đã được Nhà nước phê chuẩn và ban hành Luật Bảo vệ và Chăm sóc Giáo dục Trẻ em. Cũng từ đó, Ủy ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em Việt Nam đã xây dựng nhiều mô hình chăm sóc trẻ em, trong đó có mô hình Văn phòng Tư vấn, nhằm bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, như trẻ em lang thang cơ nhỡ kiếm sống ở thành phố, trẻ trộm cắp, nghiện hút, trẻ bị bóc lột lao động và tình dục, trẻ mồ côi không nơi nương tựa. [43] Hiện nay, nhiều dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm lí xuất hiện ở khá nhiều công ty, cơ quan và trường học. Có thể kể ra một số cơ sở tham vấn, trị liệu, như: Cơ sở thăm khám trẻ em N-T của cố bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Trung tâm Tư vấn và Hỗ trợ tâm lí (Trường học Khoa học Xã hội và Nhân văn), Trung tâm Ứng dụng Tâm lý học của Viện Tâm lý học; Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ Truyền thông; Trung tâm Tham vấn Tâm lý Hoàng Nhân; Công ty Tư vấn An Việt Sơn; Trung tâm Tư vấn Giáo dục – Tâm lý – Thể chất (1088- TP.HCM)……. Đây là các trung tâm tham vấn được thành lập dưới sự quản lý của các tổ chức nhà nước, hoặc các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đoàn thể nhân dân, cũng có một số trung tâm hoạt động dưới sự tài trợ kinh phí của các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong và ngoài nước. Do nhu cầu tham vấn của xã hội tăng nhanh nên các hình thức tham vấn trực tiếp và tham vấn gián tiếp qua phương tiện truyền thông như báo chí, phát thanh, truyền hình, điện thoại phát triển nhanh chóng… Một điều đáng lưu ý là dù dưới bất kì hình thức nào, thì sự can thiệp giúp đỡ cũng thường mang tính tư vấn, thuyết phục, cho lời khuyên đối với nhu cầu là chính và ít chú ý tới tính tiếp cận, phương pháp thân chủ trọng tâm. Như vậy, hoạt động tham vấn tâm lý tại Việt Nam trong những năm đầu chỉ là hoạt động cung cấp thông tin, thuyết phục, cho lời khuyên là chủ yếu. Những năm gần đây, hoạt động tham vấn tâm lý đã có đôi chút chuyển biến đáng kể, chúng ta chú ý hơn cách tiếp cận thân chủ trọng tâm, tránh áp đặt và ra lời khuyên. Đội ngũ chuyên viên tham vấn tại các trung tâm cũng đã được đào tạo một cách bài bản và chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, hoạt động tham vấn tâm lý một cách chuyên nghiệp ở nước ta hiện nay còn khá mới mẻ, yếu về số lượng cũng như chất lượng.Trong khi đó, nhu cầu tham vấn trong xã hội ngày nay là rất lớn. Hầu như ở bất cứ một lĩnh vực nào, bất cứ ngành nghề nào, vị trí xã hội nào,… đều có những cá nhân gặp phải những vấn đề xã hội, tâm lý quan hệ gia đình, bạn bè, công việc. Điều đó tạo ra cho mỗi chúng ta sự nỗ lực rất nhiều trong nghiên cứu, phát triển tâm lý trên mọi phương diện. Những nghiên cứu về nhu cầu và thực trạng của hoạt động tham vấn tâm lý ở Việt Nam Nhìn chung các tác giả đã chỉ ra các yếu tố làm nảy sinh nhu cầu tham vấn hiện nay trong xã hội, nghiên cứu những lĩnh vực mà thân chủ có nhu cầu tham vấn, thực trạng của việc đáp ứng nhu cầu tham vấn hiện nay về mặt cơ sở vật chất, chất lượng và các hình thức tham vấn, tìm ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp cho thực trạng đó, chẳng hạn: - Tìm hiểu “Nhu cầu thực trạng tham vấn tâm lý tại Thành Phố Hồ Chí Minh” nhóm nghiên cứu của Trần Thị Giồng và Đỗ Văn Bình (2003) [3], kết quả nghiên cứu cho thấy: cần phải đầu tư đào tạo chuyên viên tham vấn tâm lý mạnh về số lượng lẫn chất lượng. - Khảo sát nhu cầu tham vấn tâm lý và giáo dục dưới góc nhìn của Sinh Viên Cao Đẳng Sư Phạm TPHCM do tác giả Nguyễn Việt Bắc [1], nội dung khảo sát tập trung vào những vấn đề mà sinh viên trường CĐSP TPHCM mong muốn được tham vấn cũng như những hình thức tham vấn nào là sinh viên cảm thấy thích hợp nhất. - Nghiên cứu nhu cầu tham vấn tình yêu – hôn nhân – gia đình và những vấn đề liên quan của tác giả Đặng Văn Huệ [16] thông qua việc xem xét các câu hỏi của những người có nhu cầu tham vấn lời của tham vấn viên. Kết quả cho thấy, người có nhu cầu tham vấn thường thuộc vào lứa tuổi trẻ và đa phần là phụ nữ. Đặc biệt, vấn đề cần tham vấn đa phần thuộc lĩnh vực tình yêu hoặc mối quan hệ người khác phái, thông qua đó người nghiên cứu kiến nghị xây dựng mạng lưới tham vấn để tránh hiện tượng phát triển tự phát trong xã hội. - Nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lý giới tính của học sinh một số trường Trung Học Phổ Thông tại TPHCM do tác giả Ngô Đình Qua – Nhóm nghiên cứu Nguyễn Thương Chí [18] tiến hành khảo sát trên học sinh lớp 8, lớp 9 trường THCS Nguyễn Gia Thiều và học sinh THPT Nguyễn Gia Thiều- cho thấy nhu cầu tham vấn tâm lý tăng theo từng bậc và các em mong có phòng tham vấn tâm lý giới tính miễn phí. - Bên cạnh đó còn có rất nhiều lượng sách báo, tạp chí tài liệu dịch liên quan đến tham vấn tâm lý tại Việt Nam ngày càng nhiều như Tô Thị Ánh, Trần Thị Minh Đức, Đỗ Ngọc Khanh, BS Nguyễn Khắc Viện, BS Đỗ Hồng Ngọc… đây là những người tham gia vào hoạt động tham vấn tại Việt Nam. Những nghiên cứu về nhu cầu tham vấn tâm lý trên đối tượng là người Lao động Nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lý và chăm sóc đời sống tinh thần cho người lao động do Hội tâm lý thành phố phối hợp với công ty Hồn Việt [42] thực hiện tháng 3 – 2006, khảo sát trên 531 người lao động và 28 nhà doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu tham vấn tâm lý được thể hiện rất cao và sự cần thiết phải có những văn phòng tham vấn tâm lý đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe tinh thần cho những đối tượng này. Nghiên cứu nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề tham vấn tâm lý trong doanh nghiệp do tác giả Nguyễn Thị Tâm [30] nghiên cứu trên 239 người lao động làm việc tại các doanh nghiệp và 80 nhà quản lý. Kết quả cho thấy, trong các doanh nghiệp người lao động chưa có nhận thức và thái độ rõ ràng về các hoạt động tham vấn tâm lý. Thực hiện các dịch vụ tham vấn tâm lý chỉ mang lại lợi ích cho giới chủ và nhà quản lý. Sau khi tổ chức các dịch vụ tham vấn tâm lý thì người lao động có hiểu rõ hơn về ý nghĩa của tham vấn tâm lý. Từ kết quả nghiên cứu, người nghiên cứu đưa ra kiến nghị, đối với doanh nghiệp cần quan tâm chăm sóc tinh thần cho người lao động, đào tạo kỹ năng tham vấn tâm lý cho cán bộ công đoàn, gắn kết người lao động với các dịch vụ tham vấn tâm lý, đầu tư vị trí chuyên viên tham vấn tâm lý trong doanh nghiệp. Nghiên cứu tâm lý người lao động trong quá trình lao động trên địa bàn TPHCM và lân cận, ý nghĩa của bảo hộ lao động về vấn đề này. Tác giả Huỳnh Thị Ngọc Hân– Khoa môi trường và bảo hộ lao động- trường ĐH Bán Công Tôn Đức Thắng. Cho thấy, người lao động chịu rất nhiều áp lực, cảm thấy căng thẳng trong công việc.Từ đó, kéo theo việc giảm hiệu quả lao động, và xảy ra tai nạn nghề nghiệp. Nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện lao động và môi trường đến sức khỏe và hiệu quả công việc của giáo viên phổ thông, do nhóm tác giả Trần Thị Nguyệt Sương– Khoa môi trường và bảo họ lao động – Trường ĐH Bán Công Tôn Đức Thắng. Kết quả cho thấy, chính sự bất hợp lý trong cơ chế quản lý và sự thiếu quan tâm đến điều kiện, môi trường làm việc của giáo viên nên chất lượng giảng dạy giảm. [Dẫn theo 30, tr.3] Một nghiên cứu của tác giả Trịnh Thị Minh Dung [8]: Bước đầu tìm hiểu stress nghề nghiệp của nữ công nhân một số công ty tại khu công nghiệp Biên Hòa, khóa luận tốt nghiệp đại học, thực hiện tháng 5/2005. Khảo sát trên trên 168 nữ công nhân lao động đang làm việc tại công ty, kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ công nhân nữ bị stress cao, có sự căng thẳng diễn ra và muốn thay đổi tác nhân gây ra căng thẳng, bằng cách xây dựng mối quan hệ tốt với đồng nghiệp. Qua đó người nghiên cứu đưa ra kiến nghị, cần thành lập, xây dựng các khu vui chơi, giải trí để công nhân sử dụng thời gian rỗi, giảm căng thẳng trong giờ làm việc, tổ chức các dịch vụ tư vấn tâm lý cá nhân, các giải pháp ứng phó với stress. 1.2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU. 1.2.1 Nhu cầu 1.2.1.1 Khái niệm nhu cầu Nhu cầu là thể hiện sự đòi hỏi của cơ thể sống vào môi trường bên ngoài, thể hiện thành những ứng xử tìm kiếm khi cơ thể thiếu những điều kiện để tồn tại và phát triển. Có nhiều quan điểm khác nhau về nhu cầu, Theo quan điểm triết học Mác – Lênin [40] “nhu cầu là những đòi hỏi khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định đảm bảo cho sự phát triển của mình”. Như vậy, nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của con người đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người, nhu cầu xuất hiện trong những điều kiện nhất định, trong mỗi giai đoạn phát triển của loài người. Nhu cầu là nguyên nhân khởi đầu cho các hoạt động khác nhau của con người. Khái niệm nhu cầu trong Từ điển tâm lý học của Viện tâm lý học Việt Nam do Vũ Dũng [9] chủ biên được định nghĩa như sau: “nhu cầu là trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân”. Trong lịch sử phát triển tâm lý học, nhu cầu là một trong những vấn đề quan trọng được các nhà tâm lý học rất quan tâm. Trong tâm lý học Xô Viết, người đầu tiên đề cập một cách khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu là D.N. Uznatze. Trong cuốn tâm lý học đại cương xuất bản năm 1940, ông đã chú ý tới khái niệm nhu cầu và ý nghĩa của nó đối với hoạt động của cơ thể ngoài nhu cầu của con người. Theo ông, nhu cầu là yếu tố đặc trưng cho một cơ thể sống, là cội nguồn của tính tích cực và nó phát triển tương ứng với sự phát triển của con người. Khi có một nhu cầu cụ thể nào đó xuất hiện, chủ thể hướng sức lực của mình vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. [15] Đầu thế kỷ XIX, Small đã thấy những hoạt động tâm lý của cá nhân bắt nguồn từ những nhu cầu (về của cải, quyền lực, về sự tán thành của người khác…). Giữa thế kỷ thứ XIX, V. Koller, E. Thorndike, N.E. Miller… nghiên cứu các kiểu hành vi của động vật được thúc đẩy bởi nhu cầu. Họ đã đưa ra những thuật ngữ “luật hiệu ứng” để giải thích sự liên hệ giữ kích thích và sự đáp ứng của cơ thể. Trên cơ sở này, họ đã đề xướng lý thuyết nhu cầu cơ thể quyết định hành vi.[13] Cuối thế kỷ thứ XIX, S.Freud và U.Mc.Dougall đã đề cập tới vấn đề nhu cầu trong lý thuyết bản năng của con người và lý thuyết này được kiện toàn vào đầu thế kỷ XX. Theo Freud [17], lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông khẳng định rằng, tất cả hành vi của con người đều hướng tới việc mong muốn thỏa mãn hay phá hủy và xâm lăng. Ông nghiên cứu ở động vật và chứng minh một cách hùng hồn những hành vi hung bạo và phá hủy là phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu quan trọng của cuộc sống. Đáng lưu ý là nghiên cứu của nhà tâm lý học người Mỹ - Henrry Murray [16], nhu cầu được ông hiểu là một tổ chức cơ động, có tổ chức và hướng dẫn các quá trình nhận thức, tưởng tượng và hành vi. Nhờ nhu cầu mà hoạt động của con người mang tính mục đích, do đó hoặc là đạt được sự thỏa mãn nhu cầu hoặc ngăn ngừa sự đụng độ khó chịu với môi trường. Theo ông, nhu cầu là một động lực xuất phát từ cơ thể và sự thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác động qua lại với các tình huống xã hội, phải có sự cải tổ chúng nhằm mục đích đạt được sự thích ứng. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, đã xuất hiện hàng loạt các nghiên cứu về nhu cầu của con người. Đầu tiên là thuyết động cơ hệ của K.Levin đề xướng. K.Levin cho rằng, dưới sự tác động của nhu cầu nào đó, trạng thái căng thẳng sẽ xuất hiện, đồng thời ở chủ thể cũng xuất hiện sự liên tưởng có liên quan tới nhu cầu. Nhu cầu vừa là nguyên nhân làm xuất hiện căng thẳng và đó cũng là nguyên nhân tạo ra sự hoạt động tích cực của con người, hoạt động sẽ làm dịu sự căng thẳng. [Dẫn theo 15, tr.23] Tiếp theo đó là những công trình đại diện cho nhà tâm lý học nhân văn như A.Maslow, G. Ollport, K. Rodzerc và một số người khác. Trong đó điển hình là công trình nghiên cứu của A.Maslow. Ông chứng minh rằng tính xã hội nằm trong chính bản tính của con người. Con người có những nhu cầu chân chính về giao tiếp, về sự lệ thuộc, về tình yêu, về lòng kính trọng…..những nhu cầu này có bản chất, bản năng đặc trưng cho giống người. Như vậy theo ông, tính người được hình thành trong quá trình phát sinh loài người. Ông đã hình dung nhu cầu và sự phát triển của con người theo một chuỗi liên tiếp như chiếc cầ._.u thang, sắp xếp thành năm bậc từ thấp đến cao. [13] Vào nửa cuối thế kỷ thứ XX, có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu. Chẳng hạn, Mc.Clelland cho rằng động cơ thúc đẩy con người có thể hiểu theo nghĩa “nhu cầu” chứ không phải “sinh lý”. Thay vào đó Mc. Clelland nhấn mạnh tầm quan trọng của nhu cầu xã hội, nhất là nhu cầu thành tựu và nhu cầu hội nhập. Mc.Clelland cho rằng động cơ thúc đẩy thành tựu và lý do giải thích tại sao một số người có vẻ rất thành thạo trong khi người khác tỏ ra lưỡng lự, không có vẻ thành công. [14] X.L. Rubinstêin [19] đã tạo ra một hệ thống tri thức phong phú, trong đó có lý thuyết về nhu cầu, dựa trên quan niệm triết học Mác – Lênin. Theo ông, con người có nhu cầu sinh vật nhưng bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì vậy cần xem xét đồng thời các vấn đề cơ bản của con người với nhân cách. Ông cho rằng, nhu cầu là một thành tố của động cơ – “hạt nhân của nhân cách”. Với tư cách này, nhu cầu sẽ xác định những biểu hiện khác nhau của nhân cách – đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú niềm tin. Tuy nhiên khi nghiên cứu về nhân cách, ta không nên xuất phát từ nhu cầu mà khám phá ra quá trình nảy sinh và những biểu hiện của nhu cầu. Ông nhấn mạnh mối quan hệ lẫn nhau của con người với tự nhiên, đó là mối quan hệ nhu cầu, nghĩa là sự cần thiết của con người về một “cái gì đó” nằm ngoài cơ thể con người. “Cái gì đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem lại sự thỏa mãn của nhu cầu thông qua hoạt động của chủ thể. Vì vậy, theo ông, phải thống nhất các yếu tố khách quan (thuộc về đối tượng) với yếu tố chủ quan (thuộc về chủ thể - trạng thái tâm lý của chủ thể) trong quá trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu. Người đi sâu vào nghiên cứu bản chất tâm lý của nhu cầu hơn ai hết phải kể đến là A.N Lêonchiev. Khi bàn về vấn đề nhu cầu, A.N Lêonchiev [22] cho rằng, một nhu cầu thực sự bao giờ cũng phải là nhu cầu về một cái gì đó. Nghĩa là nhu cầu phải có đối tượng (các vật thể có khả năng thỏa mãn nhu cầu). Đối tượng này không phải xuất hiện cùng một lúc và rõ rệt với các trạng thái có tính chất nhu cầu (những ước mong, những ý muốn chủ quan của chủ thể) mà nó chỉ “phát lộ” ra trong quá trình con người hoạt động để thỏa mãn nhu cầu. Ông viết “nhu cầu với tính chất là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt động” Ở Việt Nam, hầu hết các nhà tâm lý học chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi tâm lý học Macxit. Nhu cầu vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hoạt động. Nhu cầu của con người không ngừng phát triển, bởi nhu cầu luôn gắn kết với lịch sử xã hội, là một bộ phận cấu thành của nó. Nhu cầu và mục đích của con người có mối liên hệ với nhau. Cũng giống như nhu cầu, mục đích của con người có tính ý thức chủ quan, con người tin rằng sự thỏa mãn nhu cầu chỉ cụ thể bằng cách đạt được mục đích. Điều đó tạo cho họ khả năng cân nhắc giữa hình dung chủ quan của họ về nhu cầu với nội dung khách quan của nó khi tìm kiếm công cụ để đạt được mục đích tức là chiếm lĩnh đối tượng. Nhu cầu thể hiện ở động cơ, cái thúc đẩy con người hoạt động và động cơ trở thành hình thức thể hiện nhu cầu. Nếu trong nhu cầu, hoạt động của con người thực chất phụ thuộc vào nội dung xã hội – đối tượng, thì động cơ, sự phụ thuộc đó được thể hiện ở tính tích cực riêng lẻ của chủ thể. Quan niệm của tất cả các nhà tâm lý học ở Việt Nam về nhu cầu thể hiện trong bộ sách Tâm lý học do tập thể các nhà tâm lý học đầu ngành của Việt nam biên soạn như: Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Hồ ngọc Đại, Trần Trọng Thủy, Trương Anh Tuấn, Nguyễn Thị Tuyết Ánh, Đặng Xuân Hoài, lê Văn hồng, Nguyễn Quang Uẩn, lê Khanh…. Dù mỗi tác giả có một cách lập luận khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một quan điểm là: nhu cầu được hiểu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của các cá nhân đối với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. [41]. Từ quan niệm trên của nhu cầu, ta thấy, nhu cầu của con người vừa mang tính tích cực vừa mang tính thụ động. Cụ thể: nhu cầu là sự đòi hỏi cần được thỏa mãn của chủ thể, nhưng được thỏa mãn hay không phụ thuộc vào hệ thống các đối tượng trong những điều kiện cụ thể (tính thụ động của nhu cầu); mặt khác, nhu cầu sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng; phương thức, phương tiện thỏa mãn nhu cầu, nghĩa là nhu cầu thúc đẩy hoạt động, kích thích hoạt động (tính tích cực của nhu cầu). Vì vậy khi xem xét một nhu cầu cụ thể nào đó của con người dưới sự tham gia của ý thức, sự thống nhất giữa hai yếu tố chủ quan và khách quan ta thấy ý nghĩa của nhu cầu như là nguồn gốc tích cực của nhân cách con người. Và chính sự tham gia của ý thức vào trong quá trình hình thành nhu cầu đã làm cho nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật. Từ những lập luận ở trên cho thấy có nhiều lý thuyết và quan điểm nghiên cứu về nhu cầu khác nhau. Mỗi định nghĩa về nhu cầu đều có những đặc điểm riêng, song có thể nhận định khái quát như sau: Nhu cầu là sự đòi hỏi của chủ thể về một đối tượng nào đó, cần được thỏa mãn để con người có thể tồn tại và phát triển. Nhu cầu là nguồn gốc tích cực thúc đẩy con người chủ động hoạt động. 1.2.1.2 Đặc điểm của nhu cầu Tính đối tượng của nhu cầu: Nhu cầu bao giờ cũng có tính đối tượng, khi nhu cầu gặp đối tượng và chứa đựng khả năng thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm đạt được đối tượng đó. Đối tượng của nhu cầu mang tính khách quan, nằm ngoài cơ thể của chủ thể, đối tượng đáp ứng của nhu cầu chỉ bộc lộ khi chủ thể tiến hành hoạt động và chính bản thân vật thể được nhận biết, nghĩa là chủ thể hình dung ra lại trở thành động cơ có chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động. Nhu cầu thực sự là một sức mạnh nội tại, sức mạnh tâm lý kích thích và hướng dẫn con người hoạt động khi nhu cầu mang tính đối tượng. Phương thức thỏa mãn nhu cầu: Nhu cầu chỉ được thỏa mãn thông qua hoạt động. Chỉ có thông qua hoạt động thì đối tượng của nhu cầu mới được bộc lộ ra và đáp ứng được nhu cầu, thông qua đó nhu cầu được phát triển và được thỏa mãn. Và sau khi được thỏa mãn lại nảy sinh nhu cầu mới ở cấp độ cao hơn. Lúc đó, nhu cầu đã xác định được hướng cho hoạt động và trở thành sức mạnh nội tại kích thích và hướng dẫn hoạt động của con người. Tính ổn định của nhu cầu: Nhu cầu có thể xuất hiện lặp đi lặp lại, tính ổn định của nhu cầu thể hiện ở tần số xuất hiện thường xuyên, liên tục. Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý, khi nhu cầu phát triển ở mức độ cao thì nó trở nên bền vững và ổn định. Chính vì có tính ổn định, nên trong quá trình hoạt động để tìm phương thức thỏa mãn nhu cầu, chủ thể đôi lúc sẽ gặp những điều không xuông sẻ, khó khăn, tuy nhiên nhu cầu không thể tự nhiên mất đi, mà trái lại nhu cầu còn thúc đẩy con người hoạt động mạnh mẽ hơn. Tính ổn định của nhu cầu chỉ có được khi con người ý thức đầy đủ về đối tượng của nhu cầu và phương thức để thỏa mãn nhu cầu đó Tính chu kỳ của nhu cầu: Khi một nhu cầu được thỏa mãn, nhu cầu đó không mất đi, nó vẫn còn tồn tại và lặp đi lặp lại nhiều lần, được củng cố và phát triển ngày càng phong phú hơn trong những điều kiện và phương thức sinh hoạt của con người. Nhu cầu và hoạt động thực hiện nhu cầu là động lực hết sức quan trọng nhằm tìm ra phương thức thỏa mãn nhu cầu. Trạng thái ý chí- xúc cảm của nhu cầu: Nhu cầu thường đi kèm với trạng thái ý chí, xúc cảm, đặc biệt khi nhu cầu ở mức độ cao. Những trạng thái xúc cảm của nhu cầu được biểu hiện, đó là sự sự hài lòng và không hài lòng, thậm chí là trạng thái đau khổ khi nhu cầu không được thỏa mãn. Trạng thái ý chí – xúc cảm thúc đẩy hoạt động của con người tìm kiếm các phương thức thỏa mãn nhu cầu. Chính vì vậy, nhu cầu trở thành một trong những động cơ mạnh mẽ thúc đẩy con người hoạt động nói chung và thực hiện các hành vi mang tính ý chí nói riêng. Trạng thái ý chí – xúc cảm sẽ bị giảm thậm chí có lúc hoàn toàn biến mất hoặc có thể chuyển sang trạng thái ngược lại khi nhu cầu đã được thỏa mãn. Bản chất xã hội – lịch sử của nhu cầu: Nhu cầu của con người mang bản chất xã hội – lịch sử. Đó chính là sự khác nhau về bản chất giữa nhu cầu của con người với nhu cầu của con vật. Con người biết sáng tạo để tạo ra đối tượng thỏa mãn nhu cầu của mình. Chính vì vậy nhu cầu của con người ngày càng trở nên phong phú và phức tạp hơn. Nhu cầu phong phú chẳng những do đối tượng thỏa mãn ngày càng được mở rộng, mà còn do phương thức thỏa mãn ngày càng được phát triển. Ngoài nhu cầu vật chất gắn liền với cơ thể (ăn, mặc, ở, đi lại…), ở con người còn có nhu cầu tinh thần bao gồm nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu chia sẻ và nhu cầu hoạt động xã hội. 1.2.1.3 Các loại Nhu cầu Hệ thống nhu cầu của con người rất đa dạng. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm, nội dung đối tượng, phương thức thỏa mãn người ta phân loại nhu cầu thành nhiều nhóm khác nhau. Việc phân chia hệ thống các nhu cầu chỉ mang tính chất quy ước ở một mức độ nhất định. Theo Erich Fromm [Dẫn theo 12, tr.7], nhà phân tâm học hiện đại cho rằng “Nhu cầu tạo ra cái tự nhiên cho con người”. Đó là những nhu cầu: - Nhu cầu quan hệ giữa người và người - Nhu cầu tồn tại cái tâm con người - Nhu cầu đồng nhất bản thân và xã hội với dân tộc, giai cấp, tôn giáo - Nhu cầu về sự bền vững, hài hòa - Nhu cầu nhận thức, nghiên cứu Tất cả những nhu cầu này là thành phần tạo nên nhân cách. Theo D.N Uznatze [Dẫn theo 12, tr.9], ở con người tồn tại hai dạng nhu cầu cơ bản: nhu cầu sống (nhu cầu tồn tại – đói, khát, tình dục...) – nhu cầu cấp thấp và nhu cầu cấp cao (nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ…). Trong những hành vi hằng ngày của mình, con người không chỉ mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp thấp mà còn mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp cao. Ý nghĩa của các loại nhu cầu ở những con người khác nhau là khác nhau. Ở những người này nhu cầu cấp cao có ý nghĩa nhưng ở những người khác lối sống được xác định một phần lớn bởi nhu cầu cơ thể. Theo ông, sự trội hơn của nhu cầu cấp cao hay nhu cầu cấp thấp phụ thuộc vào hoàn cảnh sống, vào giáo dục và ấn tượng, vào sự thể nghiệm mà con người thấy có ý nghĩa. Lý thuyết của Carl Rogers nhấn mạnh tầm quan trọng của cái tôi và sự phát triển cá nhân, cho rằng cả hai yếu tố này đều cần thiết cho sự phát triển nhân cách khỏe mạnh, Rogers cho rằng con người ai cũng có hai nhu cầu cơ bản. Thứ nhất là nhu cầu thể hiện đầy đủ tiềm năng của mình, mà Rogers xem là sự phấn đấu tích cực cho sự phát triển cá nhân. Thể hiện đầy đủ tiềm năng của mình là tạo ra những khía cạnh cái tôi có thực. Rogers xem nhu cầu này là nhu cầu cơ bản của con người, phải được thỏa mãn nếu không sẽ sinh ra rối loạn tâm lý. Nhu cầu thứ hai là nhu cầu tôn trọng tích cực – tình cảm thương yêu hay tôn trọng từ người khác. Rogers xem sự phát triển nhân cách khỏe mạnh hay xảy ra thông qua các mối quan hệ, cung cấp cho cá nhân sự tôn trọng tích cực không điều kiện. Ông khẳng định nếu muốn tâm lý khỏe mạnh cả hai nhu cầu này phải được thỏa mãn. [30] Còn Philip Koler [28] lại đưa ra quan niệm phân tích nhu cầu dựa vào các hoạt động quản trị kinh doanh. Ông chia nhu cầu thành năm loại: - Nhu cầu được nói ra. - Nhu cầu thực tế. - Nhu cầu không được nói ra. - Nhu cầu được thích thú - Nhu cầu thầm kín Henrry Murray [Dẫn theo 12, tr.8] đã xây dựng bảng phân loại nhu cầu, đây là một trong những bản phân loại phổ biến nhất ở phương tây bao gồm: - Nhu cầu chiếm ưu thế. - Nhu cầu gây hấn - Nhu cầu tìm kiếm các mối quan hệ - Nhu cầu bỏ rơi người khác - Nhu cầu tự trị - Nhu cầu phục tùng thụ động - Nhu cầu về sự tôn trọng, ủng hộ - Nhu cầu thành đạt - Nhu cầu trở thành sự trung tâm của chú ý - Nhu cầu vui chơi - Nhu cầu tìm người bảo trợ - Nhu cầu giúp người, quan tâm đến người khác - Nhu cầu bị trách phạt. - Nhu cầu tự vệ. - Nhu cầu vượt qua sự thất bại. - Nhu cầu an toàn. - Nhu cầu ngăn nắp trật tự. - Nhu cầu phán đoán. Maslow (1908-1970) [Dẫn theo 12, tr.7] xây dựng lý thuyết nhu cầu về sự phát triển của con người nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân có thể định hướng cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất và tinh thần. Maslow quan niệm nhu cầu và sự phát triển của con người theo “một chuỗi liên tiếp” như cái cầu thang (nhu cầu vật chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu thừa nhận, nhu cầu về sự tự trọng, nhu cầu về sự phát triển cá nhân). Sơ đồ: Thứ bậc nhu cầu của A. Maslow Trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của A. Maslow, ông cho rằng mỗi nhu cầu của con người đều phụ thuộc vào nhu cầu trước đó. Nếu một nhu cầu không được đáp ứng (đầu tiên là nhu cầu tồn tại – nhu cầu thể chất), cá nhân sẽ gặp cản trở trong việc theo đuổi những nhu cầu cao hơn (nhu cầu giao tiếp xã hội, nhu cầu hoàn thiện cá nhân). Như vậy, có nhiều cách phân loại khác nhau về nhu cầu, tất cả cách phân loại trên dù dựa trên lý thuyết nào đều có chung nhận định là nhu cầu được phân chia thành hai loại: nhu cầu vật Vật chất An toàn Được thừa nhận Tự trọng Phát triển cá nhân chất và nhu cầu tinh thần. Do đó, nhu cầu tham vấn tâm lý cũng thuộc nhu cầu tinh thần và là nhu cầu bậc cao của con người. 1.2.1.4 Sự hình thành nhu cầu Nguồn gốc của nhu cầu bắt nguồn từ các hoạt động sinh lý, ngay cả nhu cầu nhận thức của con người, một số tác giả cố gắng giải thích nhu cầu nhận thức xuất phát từ nhu cầu sinh lý, S.Freud thì quả quyết rằng nguồn gốc hành vi của con người bắt nguồn từ bản năng sinh học, những nhu cầu cơ thể. Theo Muller, ngay cả những nhu cầu của tinh thần cũng đều có nguồn gốc, từ trạng thái cơ thể mà ông gọi là những xung động thứ phát, thực chất lực phát động các xung động thứ phát là những rung động bẩm sinh. Còn Addler mà Maslow đã nhận ra nhu cầu con người không chỉ là nhu cầu cơ thể, nhu cầu sinh lý mà lực kích thích hành vi ở con người còn do mục đích hành động, con đường đạt đến mục đích đó… Sau này H.Murray, K.Horney, K.Lewin thừa nhận rằng: nhân tố thực của hoạt động tâm lý con người không chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ thể mà còn xuất phát từ nhu cầu xã hội. A.N Leonchiev [26] đã đưa ra hồ sơ giải thích mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động (hoạt động – nhu cầu – hoạt động). Ông giải thích như sau: “Thoạt đầu nhu cầu chỉ xuất hiện như một điều kiện, một tiền đề cho hoạt động. Nhưng ngay khi chủ thể bắt đầu hành động thì ngay lập tức xảy ra sự biến hóa các nhu cầu và cũng không còn giống như khi nó tồn tại một cách tiềm tàng, tồn tại “tự nó” nữa. Sự phát triển của hoạt động này đi xa bao nhiêu thì cái tiền đề này của hoạt động (tức là nhu cầu) cũng chuyển hóa bấy nhiêu thành kết quả của hoạt động”. A.N Leonchiev [26] cho rằng bởi vì bản thân thế giới đối tượng hàm chứa những nhu cầu tiềm tàng, nên trong quá trình chủ thể hoạt động tích cực, tất yếu sẽ nhận thức được những yêu cầu, đòi hỏi phải được đáp ứng để tồn tại và phát triển, tức là xuất hiện nhu cầu mới. Thông qua hoạt động sản xuất loài người một mặt thỏa mãn nhu cầu hiện tại, đồng thời lại xuất hiện nhu cầu mới, vì thế con người tích cực hoạt động lao động sản xuất, loài người một mặt thỏa mãn nhu cầu hiện tại, đồng thời lại xuất hiện nhu cầu mới, vì thế con người tích cực hoạt động lao động sản xuất qua đó thúc đẩy tiến bộ xã hội. Như vậy trạng thái nhu cầu xuất hiện khi cơ thể mất cân bằng, thiếu hụt cái gì đó (các chỉ số sinh lý….), đó là một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự hoạt động tích cực của con người để làm dịu sự căng thẳng, khắc phục sự mất cân bằng. Nói một cách khác, hoạt động tích cực của con người thỏa mãn nhu cầu là hướng tới sự cân bằng tương đối của cơ thể. Để hình thành nhu cầu về một đối tượng nào đó thì, chúng ta phải làm cho chủ thể có cơ hội làm quen với đối tượng, chủ thể sẽ có cơ hội và điều kiện để thấy được vai trò, ý nghĩa của đối tượng với cuộc sống của bản thân, từ đó hình thành mong muốn về đối tượng và nhu cầu sẽ dần xuất hiện. 1.2.2 Tham vấn tâm lý 1.2.2.1 Khái niệm tư vấn Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm Tư vấn (consultation) hay Tham vấn (counseling) trong từ điển Tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê [32], NXB Đà Nẵng, năm 2000 hiện nay đều được dịch là tư vấn. Đó là sự “đóng góp ý kiến về những vấn đề được hỏi đến, nhưng không có quyền quyết định”, việc cung cấp thông tin hay cho lời khuyên, trợ giúp những khó khăn tâm lý, chỉ bảo hay hướng dẫn…cho một cá nhân hay một tổ chức nào đó khi họ có nhu cầu đều được gọi là tư vấn. Theo tài liệu về công tác tham vấn, Hà Nội, Unicef Việt Nam [47], cho rằng bạn sẽ là người tư vấn khi bạn đang cố gắng thay đổi hoặc cải tiến một tình huống, nhưng không trực tiếp cải tiến việc thực hiện. Phần lớn những người trong vai trò là người phụ tá ở các tổ chức đã thực sự là những nhà tư vấn, dù họ không được chính thức gọi là những nhà tư vấn. Trên thế giới, khái niệm tư vấn không chỉ hiểu đơn thuần như cho lời khuyên, như công việc của một chuyên gia hay cố vấn, là sự khuyên bảo từ một tổ chức hay người có trình độ chuyên môn về một lĩnh vực cụ thể, như một hình thức đóng góp ý kiến. Trong đó, người xin tư vấn thường họ là những người chủ động, tích cực còn những người được tư vấn thì có thể là người thụ động để giải quyết vấn đề của họ. Hiệp hội tâm lý học Hoa kì (1998) định nghĩa: tư vấn là mối quan hệ giữa một người trợ giúp chuyên nghiệp và người, nhóm người hoặc một chỉnh thể xã hội cần được giúp đỡ, trong đó nhà tư vấn cung cấp sự giúp đỡ cho thân chủ trong việc xác định và gải quyết một vấn đề nào đó liên quan đến công việc hoặc người khác. Có thể giải thích hoạt động tư vấn là: Nhà tư vấn được một người đề nghị cung cấp dịch vụ giúp đỡ trực tiếp cho một người, nhóm, tổ chức hay cộng đồng với nỗ lực trợ giúp cho cá nhân (nhóm, hay hệ thống đó) vượt qua những khó khăn của họ. Như vậy tư vấn được xem như là mối quan hệ tay ba trong đó trọng tâm là người xin tư vấn, bên thứ ba có thể là một người hay một nhóm người, một tổ chức. Tư vấn với một người về một người khác, không chỉ liên quan đến ba cá nhân chính, đó là nhà tư vấn, người được tư vấn và người khác mà còn liên quan đến đến môi trường mà người khác đang tồn tại.[30] Hoạt động tư vấn có thể diễn ra bất cứ nơi nào, trường học, cơ quan, doanh nghiệp… bất kể nơi nào có tồn tại người được tư vấn, mong muốn cải thiện tình hình mà mình đang có vấn đề gặp phải và muốn xem xét những cách thức giải quyết mới tạo nên sự thay đổi tích cực trong con người của họ. Có thể nói khái niệm tư vấn đồng nghĩa với khái niệm cố vấn hay chuyên gia. Trong tiếng Việt, cố vấn được hiểu là người thường xuyên được hỏi ý kiến để tham khảo, giải quyết công việc. Khi nhà tư vấn sử dụng kiến thức của mình để đưa ra những gợi ý hay lời khuyên hay tìm ra cách giải quyết mới hướng đến sự thay đổi của tổ chức thì nhà tư vấn có thể trở thành chuyên gia, cố vấn là người hướng dẫn, người huấn luyện hoặc người giáo dục. Ngược lại, nhà tư vấn hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cho quá trình thay đổi bằng cách cùng làm việc với cá nhân liên quan, cung cấp tài liệu và các giải pháp thì nhà tư vấn có thể trở thành nhà điều đình, hoặc người cộng tác, người tạo điều kiện thuận lợi.[31] Ở Việt Nam hoạt động tham vấn còn khá mới mẻ và tự phát, việc dùng khái niệm còn chưa thống nhất trong xã hội, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài người nghiên cứu sử dụng khái niệm tham vấn (counseling). 1.2.2.2 Khái niệm tham vấn tâm lý Tham vấn tâm lý (TVTL) (counseling psychology) là một thuật ngữ không còn xa lạ ở Việt Nam trong khoảng 10-15 năm năm lại đây. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau liên quan đến thuật ngữ này, đôi khi nó được hiểu chỉ những hoạt động của người giúp đỡ thông thường, hoặc của tình nguyện viên, hay người người làm tham vấn chuyên nghiệp tại các bệnh viện, trung tâm, dịch vụ xã hội hoặc các trường học với nền tảng kiến thức tâm lý học, công tác xã hội hoặc các ngành khác. Trong phạm vi nghiên cứu cuả đề tài, người nghiên cứu đề cập đến khái niệm tham vấn với tư cách là một hoạt động trợ giúp mang tính chuyên nghiệp, trong đó đòi hỏi nhà tham vấn có kiến thức sâu về tâm lý và hành vi con người nhằm giải quyết những vấn đề của cuộc sống xã hội được coi là nguyên nhân nảy sinh những rối loạn tâm lý cần được giúp đỡ của các cá nhân. Dẫn tài liệu về công tác tham vấn, Hà Nội, Unicef Việt Nam, 2002 [47], tham vấn là nói đến sự trợ giúp tâm lý, chứ không đơn thuần là sự hỏi đáp về thông tin, kiến thức. Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa kì (ACA, 1997) cho rằng: tham vấn là sự áp dụng nguyên tắc tâm lý, sức khỏe tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý. Theo Hiệp hội tham vấn Hoa Kì cũng xác định rằng quá trình tham vấn là một quá trình tự nguyện giữa nhà tham vấn và khách hàng. Trong mối quan hệ này, nhà tham vấn giúp khách hàng tự xác định và tự giải quyết vấn đề của mình. [23] P.K Onner [Dẫn theo 11, tr.48] cho rằng, tham vấn là quá trình, vì vậy nó đòi hỏi các nhà tham vấn dành thời gian nhất định và sử dụng các kỹ năng thuần thục để giúp đỡ thân chủ tìm hiểu, xác định vấn đề triển khai các điều kiện cho phép. Trong điều kiện hoạt động tham vấn ở Việt Nam còn tự phát và ai cũng có thể tự cho mình là nhà tham vấn khi họ muốn làm công việc trợ giúp người khác thì định nghĩa tham vấn tâm lý mà người nghiên cứu đề tài nhận thấy nó tương đối đầy đủ hơn, theo tài liệu về công tác tham vấn tâm lý: tham vấn là một quá trình tương tác giữa nhà tham vấn (người có chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật thừa nhận) với thân chủ (còn gọi là khách hàng- người đang có vấn đề về khó khăn tâm lý muốn được giúp đỡ). Thông qua các kỹ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình (dựa trên các nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính chất nghề nghiệp), thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng của bản thân để giải quyết vấn đề của mình. Nói tóm lại, tham vấn tâm lý: là quá trình nhà tham vấn giúp thân chủ tự chịu trách nhiệm về cuộc sống, tự tìm cách giải quyết các vấn đề của mình và nhà tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề, giúp về mặt thông tin, giải tỏa các xúc cảm gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ, không đưa ra lời khuyên hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ. Tham vấn là tiến trình giúp đỡ chứ không làm hộ cho thân chủ. Quá trình tự quyết sẽ giúp cho thân chủ mạnh lên, dám nghĩ và đương đầu với những vấn đề khó khăn của chính mình. 1.2.2.3 So sánh sự khác biệt giữa tư vấn và tham vấn tâm lý Về mục tiêu: Tư vấn giúp giải quyết những vấn đề mang tính chất nhất thời, hiện tại, còn tham vấn không giải quyết những vấn đề của thân chủ mà bằng quá trình tương tác giúp cho thân chủ tự giải quyết vấn dề của họ. Về tiến trình: Tư vấn cung cấp thông tin, đưa ra lời khuyên cho những vấn đề mà người cần tư vấn đặt ra, trong một thời gian ngắn. Còn tham vấn thì cần phải có một quá trình, thông qua mối tương tác giữa nhà tham vấn và thân chủ có thể kéo dài tháng này qua tháng nọ, hay năm này qua năm khác. Về mối quan hệ: Trong quá trình tư vấn thể hiện mối quan hệ trên dưới, người tư vấn ở dưới góc độ là người đưa ra ý kiến, lời khuyên chỉ bảo cho người tư vấn thực hiện, tháo gỡ những vấn đề vướng mắc của họ, trong mối quan hệ này không đòi hỏi sự tương tác từ phía đối tượng được tư vấn. Còn trong mối quan hệ tham vấn thể hiện sự bình đẳng, mối quan hệ tương tác chặc chẽ giữa nhà tham vấn và thân chủ, không có mối quan hệ trên dưới, mà thông qua sự tương tác sẽ quyết định sự thành công trong một ca tham vấn. Cách thức tương tác: Trong tư vấn thể hiện rõ ràng đó là sự can thiệp trực tiếp, cung cấp thông tin, cho lời khuyên. Còn tham vấn thì cần phải sử dụng kỹ năng, kỹ thuật tương tác của tham vấn viên đối với thân chủ của mình, nhằm giúp thân chủ tự nhận thức hiểu chính bản thân mình và hoàn cảnh của mình, từ đó chủ động tìm ra giải pháp phù hợp và thực hiện nó. 1.2.2.4 Các chủ đề tham vấn tâm lý Tham vấn tâm lý cho người nhiễm HIV/AIDS Đây là một trong những chủ đề tham vấn quan trọng ở Việt Nam, công tác hướng dẫn, tham vấn cho người có HIV và truyền thông về HIV được khởi sướng từ các bác sỹ, từ ngành y tế. Những năm gần đây một số trung tâm tham vấn HIV/AIDS, một số trung tâm bảo trợ xã hội, các bệnh viện lớn của các thành phố hoặc các tổ chức xã hội khác đều tham gia công tác tham vấn cho người có HIV/AIDS. Phát triển mạnh mẽ các khóa đào tạo về tham vấn HIV/AIDS cho các tình nguyện viên làm công tác này. Hoạt động mạnh mẽ nhất về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần cho người HIV và người bị ảnh hưởng vẫn là khối các Nhà chùa, các Nhà thờ Thiên Chúa và các trung tâm nuôi dưỡng người có HIV. Hiện nay hầu hết các cơ sở tham vấn HIV/AIDS hoạt động chưa mang tính độc lập như một dịch vụ nghề, mà chúng thường nằm dưới sự bảo trợ của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ, các hoạt động trợ giúp này mang tính chất tự nguyện. Tham vấn tâm lý về tình yêu – hôn nhân – gia đình Đây là chủ đề tham vấn có liên quan đến việc giải quyết các mối quan hệ bạn bè, tình yêu, kiến thức về tình dục, những vấn đề về giáo dục con cái, học hành của con cái, xung đột quan hệ vợ chồng, quan hệ đồng nghiệp, các tri thức lien quan tới pháp lý….khá phát triển ở Việt Nam. Những chủ đề tham vấn này phát triển với nhiều loại hình giúp đỡ khác nhau, rất phong phú và đa dạng như: tham vấn qua điện thoại, qua thư, tham vấn trên đài báo, tham vấn qua báo chí và tham vấn trực tiếp tại trung tâm tham vấn. Phát triển nhiều nhất vẫn là tham vấn qua điện thoại. Tham vấn tâm lý cho nạn nhân bị bạo hành Tham vấn bạo hành phụ nữ cũng là chủ đề được các tổ chức Quốc tế đóng tại Việt Nam như Unicef, Radda barnen, Care, Ngân hàng Thế giới, Hội đồng Dân số, Tổ chức Plan quan tâm. Đã có những dự án với sự giúp đỡ của các chuyên viên tham vấn về bạo hành, họ đã tổ chức triển khai tương đối rộng rãi nhiều khóa tập huấn về tham vấn bạo hành. Nhiều trung tâm tham vấn xuất hiện với sự trợ giúp của các dự án, trương trình nhằm giúp các cán bộ làm tham vấn có kiến thức và kỹ năng trợ giúp chon hững phụ nữ, trẻ em bị bạo hành trong gia đình. Tham vấn tâm lý cho trẻ em làm trái pháp luật. Chủ đề tham vấn này cũng được Nhà nước quan tâm rất sớm. Trong những năm 1996 – 2000, trên phạm vi các thành phố lớn như Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện các dự án bảo vệ trẻ em, trong đó có mảng tham vấn trẻ em làm trái pháp luật. Các phòng tham vấn được hình thành tại cộng đồng với các tình nguyện viên làm công tác tham vấn miễn phí cho các nhóm trẻ em, chủ yếu là trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố. Hiện nay, tham vấn cho trẻ em phạm pháp được mở rộng trong các trường giáo dưỡng, số trẻ em vào trường giáo dưỡng chủ yếu là hành vi trộm cắp, cướp của, lừa đảo, gây rối trật tự, đánh người gây thương tích… Xuất phát từ nhận định nguyên nhân do các em trong giai đoạn tự khảng định mình, thiếu vắng sự hướng dẫn, dạy dỗ và tình yêu thương của gia đình. Chính vì vậy, dưới sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, như Unicef, Quỹ Dân số Thế giới, tổ chức Plan đã hướng dẫn và tổ chức những khóa tập huấn nâng cao năng lực tham vấn cho trẻ em trong giai đoạn này. [7] 1.2.2.5 Các loại hình tham vấn tâm lý - Hình thức tham vấn tâm lý trực tiếp Hình thức tham vấn trực tiếp là hình thức nhà tham vấn và thân chủ đối thoại với nhau một cách trực tiếp, nhà tham vấn sử dụng các kỹ năng của mình giúp thân chủ hiểu, nhìn lại sự việc một cách tích cực hơn, tìm ra các nguyên nhân dẫn đến sự việc đó, khơi dậy những tiềm năng của thân chủ để họ tự lựa chọn các giải pháp giải quyết vấn đề của chính mình. Hình thức tham vấn trực tiếp bao gồm các loại hình: tham vấn trực tiếp qua điện thoại, tham vấn trực tuyến qua internet, tham vấn trực tiếp tại trung tâm tham vấn, tham vấn trực tiếp tại nhà, tham vấn trực tiếp tại nơi làm việc, tham vấn trực tiếp tại trường học... Loại hình này là cách tối ưu nhất giúp thân chủ vượt qua những khó khăn bởi loại hình tham vấn này giúp thân chủ hiểu sâu sắc về vấn đề của mình hơn. Chính vì thế nó được coi là loại hình tham vấn có hiệu quả nhất đồng thời cũng là loại hình đòi hỏi nhà tham vấn phải sử dụng phối hợp các kỹ năng tham vấn để khai thác thông tin, phản hồi cảm xúc, phản ánh lại suy nghĩ, tình cảm của thân chủ…… Có những vấn đề thân chủ chỉ giải quyết thành công thông qua hình thức tham vấn này. Loại hình tham vấn này cho phép khám phá thành công chiều sâu vô thức của thân chủ và chiều sâu cảm xúc tình cảm của họ. Có thể tham vấn trực tiếp theo dạng tham vấn cá nhân, tham vấn gia đình và tham vấn nhóm. Với loại hình này nguyên tắc bí mật được tuyệt đối bảo đảm thực hiện Đặc điểm: + Thông tin 2 chiều trong một thời gian ngắn. + Các kỹ năng tham vấn được thực hiện một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, loại hình tham vấn trực tiếp này có nhược điểm đối với những người nhút nhát, ngại tiếp xúc đối diện với những người lạ. Họ sẽ không tự tin để bày tỏ những điều họ suy nghĩ. Loại hình tham vấn trực tiếp này cũng bất lợi đối với những người không có nhiều thời gian và hạn chế về mặt tài chính. Với những khó khăn này thì bắt buộc họ phải lựa chọn một loại hình tham vấn khác, đó là tham vấn gián tiếp. - Hình thức tham vấn tâm lý gián tiếp Hình thức tham vấn gián tiếp là hình thức thân chủ và nhà tham vấn không đối thoại trực tiếp mà thường thông qua khâu trung gian như là báo chí, qua đài, qua truyền hình, qua internet….. Hình thức tham vấn gián tiếp bao gồm các loại hình sau: Tham vấn qua thư từ trên báo chí: đây là loại hình tham vấn gián tiếp xuất hiện sớm nhất ở Việt ._. tâm lý diễn ra thường xuyên nhất là “mệt mỏi vì thời gian làm việc quá nhiều, lo lắng về lương thấp, căng thẳng khi bất đồng quan điểm với đồng nghiệp”; Trong những mối quan hệ khác như: tại nơi trọ và chính quyền địa phương có xung đột tâm lý “lo lắng về tiền thuê nhà mỗi tháng, không an tâm về điều kiện sinh hoạt”, trong mối quan hệ với bạn bè và người yêu có xung đột tâm lý “căng thẳng khi bất đồng quan điểm với bạn bè, căng thẳng khi người yêu không quan tâm”. Có sự khác biệt theo giới tính, tuổi và tình trạng hôn nhân về nguyên nhân hình thành nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân từ gia đình và trong các mối quan hệ khác. Cụ thể: những xung đột tâm lý trong gia đình nữ luôn cao hơn nam, những người công nhân lớn tuổi và có gia đình xung đột tâm lý nhiều hơn những công nhân trẻ tuổi và chưa có gia đình; trong các mối quan hệ khác: bạn bè và người yêu thì nữ có xung đột nhiều hơn nam về những vấn đề thắc mắc liên quan đến giới tính, những người trẻ tuổi thì có xung đột với bạn bè và người yêu nhiều hơn những người lớn tuổi và có gia đình. 2. KIẾN NGHỊ 2.1 Đối với lãnh đạo cấp thành phố Có những chính sách, chủ trương cụ thể chỉ đạo ban quản lý các khu chế xuất chăm lo đến đời sống cho người lao động, xây dựng thêm nhiều khu nhà lưu trú cho công nhân, chăm lo đời sống tinh thần cho công nhân hiện đang làm việc tại các khu công nghiệp và khu chế xuất hiện nay. Thường xuyên kiểm tra công tác công đoàn tại các doanh nghiệp, đề nghị công đoàn thực hiện hết chức năng của mình, gắn kết công đoàn cơ sở và công đoàn thành phố và với công nhân. Có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo các quận, phường quan tâm sát đến đời sống của công nhân nơi mình phụ trách, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động an tâm làm việc, thắt chặt an ninh, trật tự tại những nơi có công nhân lưu trú. Khuyến kích các doanh nghiệp có những biện pháp chăm sóc sức khỏe tinh thần cho người lao động, chẳng hạn khuyến kích đầu tư các văn phòng tham vấn tâm lý, khuyến khích ban lãnh đạo các khu công nghiệp mở những lớp bồi dưỡng kỹ năng sống cho công nhân. Tăng cường giám sát vấn đề chăm sóc đời sống tinh thần người lao động thông qua quy chế, điều lệ cụ thể. 2.2 Đối với lãnh đạo các Phường có công nhân sinh sống Quan tâm đến đời sống của công nhân hiện nay, tạo điều kiện nơi ăn ở, an ninh, trật tự thắt chặc. Cần thường xuyên kiểm tra, đề nghị công đoàn trong doanh nghiệp hay những nhà quản lý quan tâm hơn đến đời sống tinh thần công nhân Hội phụ nữ địa phương và Đoàn thanh niên nên phối hợp thường xuyên hơn nữa với nhà quản lý trong khu chế xuất, chủ nhà trọ và các dịch vụ tham vấn tâm lý hiện nay tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đề về tâm lý, giới tính, những câu lạc bộ thể thao, khiêu vũ…. cho công nhân tham gia. 2.3 Đối với chủ doanh nghiệp Chú trọng, quan tâm chăm sóc đời sống tinh thần của người lao động thông qua nhiều hình thức đa dạng: tổ chức sân chơi, tổ chức các buổi báo cáo chuyên đề về tâm lý, xây dựng bản tin nội bộ…. Đầu tư kinh phí đào tạo, bồi dưỡng nhân viên phụ trách hành chính nhân sự, cán bộ công đoàn về kiến thức, kỹ năng tham vấn tâm lý nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc đời sống tinh thần cho người lao động. Nối kết người lao động với các dịch vụ tham vấn tâm lý chăm sóc đời sống tinh thần cho người lao động một cách nhanh chóng, hiệu quả, thông qua đó nâng cao nhận thức của người lao động về nghề tham vấn tâm lý. Phối hợp với các tổ chức, đơn vị chuyên môn có liên quan trong lĩnh vực tham vấn tâm lý để nâng dần chất lượng chăm sóc sức khỏe tinh thần của người lao động. Công Đoàn cần phát huy hết vai trò của mình, quan tâm hơn nữa đến đời sống của người công nhân để khi có xung đột tâm lý trong công việc, đồng nghiệp, bạn bè thì kịp thời giúp đỡ, chia sẻ. Tăng lương cho công nhân để giảm bớt những gánh nặng chi tiêu trong gia đình hay các chi phí sinh hoạt khác của công nhân. 2.5 Đối với chủ nhà trọ Cần phối hợp với chính quyền địa phương tạo môi trường sống cho công nhân tốt hơn nữa, nâng cấp phòng trọ, thắt chặt an ninh trật tự… chung tay góp sức với nhà quản lý, cán bộ Phường chăm lo đời sống tinh thần của công nhân tốt hơn. 2.6 Đối với cơ sở tư nhân có văn phòng tham vấn tâm lý Cần quảng cáo, tuyên truyền về hình thức hoạt động tham vấn tâm lý hiện nay, nâng cao chất lượng tham vấn tạo địa chỉ tin cậy cho công nhân tìm đến tham vấn khi họ có nhu cầu. Chủ động liên hệ với lãnh đạo công ty thành lập những phòng tham vấn tâm lý, có những đường dây điện thoại tham vấn miễn phí, hoặc tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đề về tâm lý, giới tính trong công ty hay tại địa phương. 2.7 Đối với công nhân Cần chủ động tìm đến các dịch vụ tham vấn tâm lý khi có nhu cầu, nâng cao sự hiểu biết về các dịch vụ tham vấn tâm lý hiện nay. Chủ động tham gia các hoạt động tham vấn tâm lý, các buổi sinh hoạt chuyên đề hay những câu lạc bộ do các ban ngành đứng ra tổ chức góp phần phong phú hơn đời sống tinh thần. Khi có nhu cầu tham vấn tâm lý cần tìm hiểu các thông tin về hình thức tham vấn và dịch vụ tham vấn tâm lý qua các phương tiện thông tin để kịp thời liên hệ. Bên cạnh đó cần xóa đi suy nghĩ, tâm lý e ngại sợ người khác biết mình đi tham vấn tâm lý… làm ảnh hưởng đến việc đi tham vấn tâm lý của bản thân. Chủ động liên hệ với các tổ chức Công Đoàn tại nơi làm việc hay Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ tại địa phương để tìm sự giúp đỡ, chia sẻ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Việt Bắc (2006), “Nhu cầu tư vấn tâm lý và giáo dục từ góc nhìn của sinh viên cao đẳng sư phạm TP.HCM”, Hội thảo khoa học quốc gia “Tư vấn tâm lý giáo dục – Lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, TP.HCM 2. Bùi Đình Bôn (1999), Giai cấp công nhân, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Lao Động. 3. Trần Thị Giồng, Nguyễn Văn Bình (2003), “Nhu cầu thực trạng tham vấn tại TP.HCM”, Hội thảo khoa học quốc gia “Tư vấn tâm lý giáo dục – Lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, TP.HCM 4. Hoàng Chúng (1983), Phương Pháp Thống Kê Toán Học Trong Khoa Học Giáo Dục, NXB GD 5. Trịnh Chiến (2006), “Một vài nét về trung tâm tư vấn học đường ở Singapore”, Hội thảo khoa học quốc gia “Tư vấn tâm lý giáo dục – Lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, TP.HCM 6. Lê Thanh Hoàng Dân (1974), Phân Tâm học, NXB Trẻ 7. Lê Thị Ngọc Dung (2006), “Hoạt động tư vấn tâm lý giáo dục – Thực trạng và giải pháp”, Hội thảo khoa học quốc gia “Tư vấn tâm lý giáo dục – Lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, TP.HCM 8. Trịnh Thị Minh Dung (2005), Bước đầu tìm hiểu stress nghề nghiệp của nữ công nhân tại một số khu công nghiệp Biên Hòa, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, ĐHSP TP.HCM 9. Vũ Dũng (2000), Từ điển tâm lý học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 10. Trần Thị Minh Đức (2009), Giáo trình tham vấn tâm lý, NXB ĐHQG Hà Nội. 11. Trần Thị Minh Đức (2003), “Thực trạng tham vấn ở Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tế”, Tạp chí Tâm lý học, (số 4) 12. Hoàng Thị Thu Hà (2003), Nhu Cầu Học Tập Của Sinh Viên Sư Phạm, Luận Án Tiến Sỹ Tâm Lý Học, HN 2003 13. Phạm Minh Hạc (1995), Một Số Vấn Đề Tâm Lý Học, NXBGD, Hà Nội 14. Phạm Minh Hạc (dịch và giới thiệu) (2003), Một số công trình tâm lý học của A.N. Leonchiev, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 15. Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (chủ biên) (2004), Một số vấn đề nghiên cứu về nhân cách, NXB Chính trị Quốc Gia 16. Bùi Văn Huệ (chủ biên), Vũ Dũng (2003), Tâm lý học xã hội, NXB ĐHQGHN 17. Freud Sigmund (1969), Nghiên cứu phân tâm học, NXB An Tiêm, SG. 18. Ngô Đình Qua, Nguyễn Thượng Chí (2006), “Nhu cầu tư vấn tâm lý – giới tính của học sinh một số trường trung học tại TP.HCM”, Hội thảo khoa học quốc gia “Tư vấn tâm lý giáo dục – lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển”, TP. HCM. 19. Hồ Thanh Bình, Phạm Minh Hạc: Dịch từ tiếng Nga (1978), Tâm Lý Học Liên Xô, Nhà Xuất Bản Tiến Bộ Matxcơva 20. Nguyễn Công Khanh (2000), Tâm lý trị liệu, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 21. Mai Hữu Khuê (1993), Tâm lý học trong quản lý nhà nước, NXB LĐ, HN 22. Leonchiev A.N (1989), Hoạt động – Ý thức – Nhân cách, NXB GD, Hà nội. 23. Lomov. Ph (2000), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học, NXB Đại Học Quốc Gia, Hà Nội. 24. Bùi Thị Xuân Mai (2003), “Bàn về thuật ngữ: Tư vấn, tham vấn và cố vấn”, Tạp chí Tâm lý học (4), tr.39-41. 25. Bùi Thị Xuân Mai (2007), “Có nên đồng nhất tham vấn với tư vấn và trị liệu tâm lý”, Tạp chí Tâm lý học (4), tr.46-52. 26. Bùi Thị Xuân Mai (2005), Tham vấn - một dịch vụ cần được phát triển ở Việt Nam, Tạp chí Tâm lý học (25) 27. Đỗ Hạnh Nga (2010), Nghiên cứu xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi thiếu niên về thần tượng, Đề tài cấp ĐHQG-HCM, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. 28. Petrovxki, A.V (1982), TLH lứa tuổi và TLH sư phạm, NXBGD, TP. HCM 29. Hoàng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng. 30. Nguyễn Thị Tâm (2008), Nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề tham vấn tâm lý trong doanh nghiệp, Luận văn thạc sĩ Tâm lý học, ĐHSP TP.HCM, SG 31. Huỳnh Mai Trang (2007), Thực trạng hoạt động tham vấn học đường ở các trường trung học ở nội thành thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Tâm lý học, ĐHSP TP. HCM, SG. 32. Trần Văn Thức (2005), “Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh trường bán công Nguyễn Tất Thành – Thành phố Hà Nội”, Kỷ yếu Hội thảo đổi mới giảng dạy – nghiên cứu và ứng dụng TLH- GDH, NXB Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 33. Trần Trọng Thủy (1996), Bài giảng tâm lý học, Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội. 34. Lê Minh Thuận (1996), Mối quan hệ giữa nhu cầu thành đạt với tính cách của học sinh tuổi thiếu niên ở một số trường học tại TP Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ tâm lý học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, Sài Gòn. 35. Nguyễn Thơ Sinh (2006), Tư vấn tâm lý căn bản, NXB Lao Động 36. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, NXB Đại Học Sư Phạm, TPHCM. 37. Nguyễn Khắc Viện (2001), Từ điển tâm lý học, NXB Văn hóa thông tin, HN. 38. PGS.TS. Phạm Viết Vượng (2004), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 39. Cơ quan phổ thông giáo lý đại đạo (2009), Khái quát về tâm lý học, tài liệu học tập nội bộ. [27] 40. Bộ GD và ĐT (2003), Giáo trình triết học Mác-Lênin, Hà Nội. 41. Bộ GD và ĐT (1995), Tâm Lý Học Đại Cương, Hà Nội 42. Hội Tâm Lý Học TP.HCM, Công Ty Hồn Việt (2006), Nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lý và chăm sóc đời sống tinh thần cho người lao động, TP.HCM 43. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam – UNICEF Việt Nam (2002), Tài liệu tập huấn đào tạo giảng viên về công tác tham vấn, Hà Nội. 44. Viện khoa học xã hội Việt Nam – Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội (2000) Tiếng Anh 45. Cappuzzi, D. & Gross, D. R (2001), Introduction to the counseling Profession (3rd Edition) Published by the Allyn anh Bacon, Inc. 46. Corey, G. (2005), theory and practice of counseling & psychotherapy (7rd Edition) Published by the Brooks/cole – Thomson Learninh, Inc. 47. Beck Robret C. (1978), otivation: Theories and Principles, second Edition, Prentice Hall, Inc. Englewood Clifft, New Jersey. 48. Haller B. Von (1977), Psychology, Mellon University Happer & Row, Pulishers New York, Evanston and London. 49. Montemayor, R. & Hanson, E.(1985), A natanuralistic view of conflict between adolescents and their parents and sibling, journal of Early Adolescence 5:23 Website 50. Maslow Abraham (1943), Understanding Human Motivantion, internet 51. nhan/20867553/271/ 52. 53. long.html 54. tinh-tan-cho.html 55. 56. PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1 PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN Tìm hiểu nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân là một việc làm cần thiết, thông qua đó tìm ra một số các biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân, giúp cho công nhân có đời sống tâm lý tốt đẹp hơn. Vì vậy, xin các anh (chị) vui lòng giúp đỡ bằng cách cho ý kiến trả lời một số câu hỏi sau: 1. Trong cuộc sống anh (chị) thường có những mâu thuẫn với những ai? ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ 2. Trong mối quan hệ với những người xung quanh, anh (chị) thường gặp những vấn đề mâu thuẫn nào? ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ 3. Trong công việc, anh (chị) thường có những vấn đề mâu thuẫn nào gây khó khăn cho anh, chị? ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ 4. Khi gặp những mâu thuẫn trong cuộc sống, anh (chị) nhờ ai giải quyết? ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ 5. Lý do mà anh (chị) không đến các dịch vụ tham vấn tâm lý hiện nay để giải quyết những vấn đề mà mình gặp phải? ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ Chân thành cảm ơn các bạn! PHỤ LỤC 2 PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN (Dành cho công nhân) Các anh (chị) thân mến! Phiếu thăm dò ý kiến này có mục đích tìm hiểu nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân. Anh (chị) hãy trả lời những câu hỏi sau đây bằng cách đánh dấu X vào ô trống tương ứng với câu mà anh (chị) cho là phù hợp với ý kiến của mình, với những câu có chừa chỗ trống anh (chị) hãy viết câu trả lời vào đó. Anh (chị) hãy cho biết một số thông tin dưới đây: Giới tính: Nam □ Nữ Anh (chị) là: Công nhân □Quản lý Chủ nhà trọ □Cán bộ phường Tuổi : 18tuổi22tuổi 23tuổi27tuổi Trên 27tuổi Tình trạng hôn nhân: Độc thân □ Đã kết hôn, chưa có con Đã kết hôn, có con □ Ly hôn Nơi làm việc:…………………………………………………………………………………… 1. Anh (chị) thường có những mâu thuẫn trong quan hệ với người xung quanh là: 11. Ý kiến ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… …………… 2. Trong mối quan hệ với đồng nghiệp và công việc, anh (chị) thường gặp những vấn đề nào? ST T Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Lo lắng về lương thấp 2 Lo sợ bị thất nghiệp 3 Mệt mỏi về thời gian làm việc nhiều 4 Không an tâm về điều kiện an toàn lao động 5 Khó khăn khi làm công việc không phù hợp 6 Không hài lòng về vấn đề liên quan đến phúc lợi xã hội 7 Lo lắng về trình độ chuyên môn nghiệp vụ 8 Căng thẳng khi bất đồng quan điểm với cấp trên 9 Căng thẳng khi bất đồng quan điểm với đồng nghiệp 10 Căng thẳng khi bị đồng nghiệp hiểu lầm 11. Ý kiến khác: …………………………………………………………………..................... …………………………………………………………………………………………… 3. Trong mối quan hệ với nơi ở trọ và với chính quyền địa phương, anh (chị) thường gặp những vấn đề nào? St t Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Lo lắng về vấn đề tiền thuê nhà mỗi tháng 2 Không hài lòng về điều kiện vệ sinh 3 Không an tâm về điều kiện an ninh, trật tự Stt Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Ông bà 2 Cha mẹ 3 Anh, chị ,em 4 Bạn bè 5 Đồng nghiệp 6 Cấp trên, nhà quản lý 7 Vợ (chồng) 8 Con cái 9 Người yêu 10 Chủ nhà trọ 11 Chính quyền địa phương 4 Mệt mỏi vì môi trường không yên tĩnh 5 Lo lắng về giấy tờ tùy thân chưa đầy đủ 6 Mệt mỏi vì quy định của chủ nhà trọ quá nghiêm khắc 7. Ý kiến khác: ………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………………… 4. Trong mối quan hệ với gia đình, anh (chị) thường gặp những vấn đề nào? S tt Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Lo lắng về vấn đề chi tiêu trong gia đình 2 Căng thẳng khi vợ chồng không hiểu nhau 3 Căng thẳng khi vợ (chồng) vô trách nhiệm 4 Mệt mỏi khi vợ chồng bất đồng trong cách sống 5 Căng thẳng khi xẩy ra bạo hành (chồng đánh vợ hoặc vợ đánh chồng) 6 Bất đồng trong việc nuôi dạy con cái 7 Buồn phiền khi không hòa hợp với anh- chị-em chồng (vợ) 8 Buồn phiền khi không hòa hợp với ba, mẹ chồng (vợ) 9. Ý kiến khác: ………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………… 5. Trong mối quan hệ với bạn bè và với người yêu anh (chị) thường gặp những vấn đề nào? S tt Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thườn g xuyên Rất thường xuyên 1 Căng thẳng khi bất đồng quan điểm với bạn bè 2 Buồn phiền khi người yêu không quan tâm 3 Căng thẳng vì bị lừa dối trong tình yêu 4 Mệt mỏi vì gia đình người yêu ngăn cấm 5 Những thắc mắc liên quan đến vấn đề giới tính và sức khỏe sinh sản 6 Lo lắng về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân 7. Ý kiến khác:………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… 6. Nhu cầu tham vấn của anh (chị) khi phải đối điện với những mâu thuẫn trong các mối quan hệ với những người xung quanh? Stt Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Âm thầm chịu đựng 2 Tự mình chủ động giải quyết 3 Tìm hướng giải quyết thông qua phương tiện thông tin 4 Nhờ bạn bè can thiệp 5 Nhờ người thân trong gia đình can thiệp 6 Nhờ đồng nghiệp can thiệp 7 Nhờ Công đoàn công ty can thiệp 8 Nhờ cán bộ Phường can thiệp 9 Tìm đến Luật sư 10 Tìm đến chuyên viên tham vấn 11. Ý kiến khác:……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 7. Anh (chị) hãy cho biết mức độ sử dụng các nguồn cung cấp dịch vụ tham vấn tâm lý: Stt Nguồn Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Tham vấn tại trung tâm tham vấn 2 Tham vấn trên truyền hình 3 Tham vấn qua Radio 4 Tham vấn qua báo chí 5 Tham vấn trên Internet 6 Tham vấn qua tổng đài điện thoại 1088 7 Chương trình tham vấn của một tổ chức xã hội 8 Tham vấn qua Cán bộ phường (Hội phụ nữ, Hội chữ thập đỏ…..) 9 Tham vấn qua Đoàn thanh niên, Công đoàn 10. Ý kiến khác:………………………………………………………………………………… 8. Anh (chị) có biết địa chỉ của các phòng tham vấn tâm lý hoặc các dịch vụ tham vấn cụ thể nào không? Có biết Không biết Nếu biết anh (chị) có bao giờ đến, liên hệ để tham vấn chưa? Thường xuyên Một vài lần Chưa bao giờ 9. Lý do anh (chị) không sử dụng các dịch vụ tham vấn tâm lý là: St t Lý do Hoàn toàn không đồng ý Không đồng ý Lưỡng lự Đồng ý Rất đồng ý 1 Không có tiền 2 Không có phương tiện đi lại 3 Không có thời gian 4 Phòng tham vấn quá xa nơi làm việc 5 Không có thông tin về dịch vụ tham vấn tâm lý 6 Không có địa chỉ tham vấn tin cậy 7 Không có thói quen chia sẻ những khó khăn về tâm lý 8 E ngại khi nói chuyện của mình cho người khác biết 9 Sợ người khác biết mình đi tham vấn tâm lý 10.Ý kiến khác:………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 10. Theo ý kiến của anh (chị), có cần thiết mở phòng tham vấn tâm lý không? □ Có □ Không □ Không ý kiến 11. Theo ý kiến của anh (chị), phòng tham vấn tâm lý nên mở ở đâu? □ Tại nơi làm việc □ Tại nơi ở trọ □ Ở đâu cũng được Ý kiến khác:…………………………………………………………………………………… 12. Anh (chị) muốn được tham vấn tâm lý theo hình thức nào? □Tham vấn trực tiếp tại phòng tham vấn tâm lý □Tham vấn trực tiếp tại nơi làm việc □Tham vấn trực tiếp tại nhà □Tham vấn qua điện thoại □Tham vấn qua báo chí □Tham vấn qua radio □Tham vấn qua internet □Tham vấn qua truyền hình Hình thức tham vấn khác:………………………………………………………………………… 13. Theo ý kiến của anh (chị), thời gian hoạt động của phòng tham vấn tâm lý hoặc các dịch vụ tham vấn tâm lý là: □ 12 ngày trong tuần □ 35 ngày trong một tuần □ 7 ngày trong tuần □Thứ 7 và Chủ nhật 14. Anh (chị) muốn chuyên viên tham vấn tâm lý là: Giới tính □ Nam □ Nữ □ Nam cũng được, nữ cũng được □ Cùng giới tính với mình Tuổi tác □ Trẻ tuổi □ Lớn tuổi □ Trẻ tuổi cũng đưoc, lớn tuổi cũng dược □ Không y kiến Kinh nghiem chuyen vien tham van □ Có nhiều kinh nghiệm □ Không quan tâm đến kinh nghiệm của tham vấn viên □ Không ý kiến Cảm ơn các anh (chị)! PHỤ LỤC 3 PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN (Dành cho nhà quản lý doanh nghiệp) Các anh (chị) thân mến! Phiếu thăm dò ý kiến này có mục đích tìm hiểu nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân. Anh (chị) hãy trả lời những câu hỏi sau đây bằng cách đánh dấu X vào ô trống tương ứng với câu mà anh (chị) cho là phù hợp với ý kiến của mình, với những câu có chừa chỗ trống anh (chị) hãy viết câu trả lời vào đó. Anh (chị) hãy cho biết một số thông tin dưới đây: Giới tính: □ Nam □ Nữ Anh (chị) là: Quản lý □ Chủ nhà trọ □ Cán bộ phường Tuổi : 18tuổi22tuổi □ 23tuổi27tuổi Trên 27tuổi Nơi làm việc:………………………………………………………………………………… 10. Theo anh (chị), công nhân thường có những mâu thuẫn nào trong quan hệ với người xung quanh là: 12.Ý kiến …………… …………… …………… …………… …………… …………… ……… …………… …………… …………… …………… …………… …………… ………………… 11. Theo ý kiến của anh (chị), trong mối quan hệ với đồng nghiệp và công việc công nhân gặp những vấn đề nào? ST T Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Lo lắng về lương thấp 2 Lo sợ bị thất nghiệp 3 Mệt mỏi về thời gian làm việc nhiều 4 Không an tâm về điều kiện an toàn lao động 5 Khó khăn khi làm công việc không phù hợp 6 Không hài lòng về vấn đề liên quan đến phúc lợi xã hội 7 Lo lắng về trình độ chuyên môn nghiệp vụ 8 Căng thẳng khi bất đồng quan điểm với cấp trên 9 Căng thẳng khi bất đồng quan điểm với đồng nghiệp 10 Căng thẳng khi bị đồng nghiệp hiểu lầm 11.Ý kiến khác: ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………......................... 12. Theo ý kiến của anh (chị), trong mối quan hệ với nơi ở trọ và với chính quyền địa phương, công nhân gặp những vấn đề nào? S Nội dung Không Hiếm Thỉnh Thường Rất stt Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Ông bà 2 Cha mẹ 3 Anh, chị ,em 4 Bạn bè 5 Đồng nghiệp 6 Cấp trên, nhà quản lý 7 Vợ (chồng) 8 Con cái 9 Người yêu 10 Chủ nhà trọ 11 Chính quyền địa phương t t bao giờ khi thoảng xuyên thường xuyên 1 Lo lắng về vấn đề tiền thuê nhà mỗi tháng 2 Không hài lòng về điều kiện vệ sinh 3 Không an tâm về điều kiện an ninh, trật tự 4 Mệt mỏi vì môi trường không yên tĩnh 5 Lo lắng về giấy tờ tùy thân chưa đầy đủ 6 Mệt mỏi vì quy định của chủ nhà trọ quá nghiêm khắc 8. Ý kiến khác:………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… 13. Theo ý kiến của anh (chị), trong mối quan hệ với gia đình, với bạn bè và với người yêu công nhân gặp những vấn đề nào? Stt Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Lo lắng về vấn đề chi tiêu trong gia đình 2 Căng thẳng khi vợ chồng không hiểu nhau 3 Căng thẳng khi vợ (chồng) vô trách nhiệm 4 Mệt mỏi khi vợ chồng bất đồng trong cách sống 5 Căng thẳng khi xẩy ra bạo hành (chồng đánh vợ hoặc vợ đánh chồng) 6 Bất đồng trong việc nuôi dạy con cái 7 Buồn phiền khi không hòa hợp với anh-chị-em chồng (vợ) 8 Buồn phiền khi không hòa hợp với ba, mẹ chồng (vợ) 9 Căng thẳng khi bất đồng quan điểm với bạn bè 10 Căng thẳng khi không hòa hợp với người yêu 11 Những thắc mắc liên quan đến vấn đề giới tính và sức khỏe sinh sản 12 Lo lắng về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân 13. Ý kiến khác:………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… 14. Theo ý kiến của anh (chị), khi gặp những mâu thuẫn trong các mối quan hệ trên công nhân có nhu cầu tham vấn như thế nào? Stt Nội dung Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Âm thầm chịu đựng 2 Tự mình chủ động giải quyết 3 Nhờ bạn bè can thiệp 4 Nhờ người thân trong gia đình can thiệp 5 Nhờ đồng nghiệp can thiệp 6 Nhờ Công đoàn công ty can thiệp 7 Nhờ cán bộ Phường can thiệp 8 Tìm đến Luật sư 9 Tìm hướng giải quyết thông qua phương tiện thông tin 10 Tìm đến chuyên viên tham vấn 11. Ý kiến khác:…………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………….. 15. Theo ý kiến của anh (chị), mức độ thường xuyên người công nhân sử dụng các nguồn cung cấp dịch vụ tham vấn là: St t Nguồn Không bao giờ Hiếm khi Thỉnh thoảng Thường xuyên Rất thường xuyên 1 Tham vấn tại trung tâm tham vấn 2 Tham vấn trên Truyền hình 3 Tham vấn qua Radio 4 Tham vấn qua báo chí 5 Tham vấn trên Internet 6 Tham vấn qua tổng đài điện thoại 1088 7 Chương trình tham vấn của một tổ chức xã hội 8 Tham vấn qua Cán bộ phường (Hội phụ nữ, Hội chữ thập đỏ…..) 9 Tham vấn qua Đoàn thanh niên, Công đoàn 10.Ý kiến khác:………………………………………………………………………………… 16. Anh (chị ) hãy cho biết ý kiến : stt Nội dung Có Không Không ý kiến 1 Công nhân có biết địa chỉ của các phòng tham vấn hoặc các dịch vụ tham vấn tâm lý 2 Công nhân có cần cung cấp dịch vụ tham vấn tâm lý 3 Anh (chị) có đồng ý với việc mở phòng tham vấn tâm lý cho công nhân 17. Anh (chị) hãy cho biết, địa điểm mở phòng tham vấn tâm lý cho Công nhân tại nơi nào là thích hợp? □ Tại nơi làm việc Tại nơi ở trọ Ở đâu cũng được Ý kiến khác:……………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… 18. Theo ý kiến của anh (chị), ngoài hình thức mở phòng tham vấn tâm lý, Công nhân có cần những hình thức dịch vụ tham vấn khác không? STT Hình thức tham vấn Có Không Không ý kiến 1 Tham vấn qua điện thoại 2 Tham vấn qua báo chí 3 Tham vấn qua radio 4 Tham vấn qua internet 5 Tham vấn trên truyền hình Hình thức tham vấn khác:……………………………………………………………… Cảm ơn các anh (chị)! PHỤ LỤC 4 PHIẾU PHỎNG VẤN Phần I: Thông tin cá nhân: 1.1 Độ tuổi: 1.2 Giới tính: 1.3 Tình trạng hôn nhân: 1.4 Thành phần bản thân: Phần II: Nội Dung 1 – Anh (chị) hãy kể một số trường hợp mâu thuẫn trong tâm lý mà gây khó khăn cho anh chị trong cuộc sống? 2 – Khi gặp những vấn đề mâu thuẫn trong tâm lý, nó ảnh hưởng đến cuộc sống của anh (chị) như thế nào? 3 – Anh (chị) thường làm thế nào để làm thoát khỏi những vấn đề đó? 4 – Anh (chị) có tìm đến những người có chuyên môn để tham vấn cho những vấn đề của mình không? 4.1 Nếu có thì trong trường hợp nào? 4.2 Nếu không thì vì sao anh (chị) không tìm đến họ để tham vấn? Cảm ơn các anh chị! ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5543.pdf
Tài liệu liên quan