Những biến động bất thường của thị trường cà phê thế giới trong thời gian qua. Ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất - Xuất khẩu cà phê Việt Nam

Lời mở đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài. Trong những năm qua, cà phê luôn giữ vai trò là một trong số ít những mặt hàng trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Hàng năm, cà phê đóng góp tới 10% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Với tầm quan trọng của mình, cà phê được xếp vào danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và được chọn là một trong những mặt hàng trọng điểm cần phát huy trong giai đoạn 2001-2010. Cũng như nhiều mặt hàng nông sản khác, hoạt động sản xuất và xuất khẩu

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những biến động bất thường của thị trường cà phê thế giới trong thời gian qua. Ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất - Xuất khẩu cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cà phê phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khách quan như thời tiết, khí hậu và sự bấp bênh, không ổn định luôn là đặc tính cố hữu của thị trường này. Chỉ trong một thập kỷ qua, thị trường cà phê thế giới đã trải qua tới ba đợt biến động mạnh, đấy là cuộc khủng hoảng thừa niên vụ 1994/1995, cơn sốt cà phê niên vụ 1997/1998 và cuộc khủng hoảng vừa qua, trong đó đợt biến động mới đây được coi là nghiêm trọng nhất. Đến nay, trải qua những ngày giá cà phê xuống tới mức kỷ lục, thấp nhất trong vòng 30 năm trở lại đây, chúng ta mới thực sự cảm thấy được sự tàn phá dữ dội của cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên, mức độ thiệt hại đối với mỗi nước là khác nhau tuỳ thuộc vào sự chủ động của nước đó vào thị trường cà phê thế giới. Có thể nói, Việt Nam là một trong những nước chịu hậu quả nặng nề nhất do tính phụ thuộc của ngành cà phê Việt Nam vào thị trường thế giới rất cao, có tới 98% sản lượng là dành cho xuất khẩu. Bên cạnh đó còn do những yếu kém trong hoạt động của ngành vốn tồn tại từ trước tới nay: cà phê phát triển ồ ạt không theo quy hoạch, khâu chất lượng và chế biến chưa được chú trọng, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc quảng bá cà phê Việt Nam ra thị trường thế giới và xây dựng thương hiệu cho cà phê Việt Nam. Đây mới chính là nguyên nhân sâu xa của vấn đề và những biến động của thị trường cà phê thế giới vừa qua chỉ là một nguyên nhân khách quan và là giọt nước làm tràn đầy ly. Do những biến động của thị trường cà phê diễn ra với tốc độ rất nhanh và bất thường nên bài viết có thể không theo kịp với những biến động của thị trường xảy ra trong quá trình viết. Tuy nhiên điều này không ảnh hưởng lớn đến mục đích của đề tài. 2. Mục đích của đề tài: Mục đích của đề tài là phân tích những biến động của thị trường cà phê, tìm ra nguyên nhân khách quan, chủ quan để từ đó đưa ra lối đi đúng đắn nhất cho ngành cà phê Việt Nam, giúp ngành cà phê Việt Nam phát triển bền vững và có một vị thế quan trọng trên thị trường cà phê thế giới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Những biến động của thị trường cà phê thế giới trong thời gian qua và ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất - xuất khẩu cà phê Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp thu thập và tổng hợp tài liệu. - Phương pháp thống kê và phân tích. - Phương pháp lý luận biện chứng. 5. Bố cục của khoá luận. Với mục đích nghiên cứu trên, khoá luận sẽ bao gồm các phần: Chương 1: Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam trong những năm gần đây . Chương 2: Những biến động bất thường của thị trường cà phê thế giới trong thời gian qua và ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất - xuất khẩu cà phê Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp đối vớisản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam Mặc dù đã có rất nhiều sự cố gắng nhưng bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được những ý kiến phê bình, góp ý của thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Xuân Nữ đã hướng dẫn và giúp em hoành thành khoá luận này. Chương i Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam trong những năm gần đây I. Tình hình sản xuất Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có điều kiện thuận lợi để trồng và phát triển cây cà phê, đặc biệt là các điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng, nguồn lao động dồi dào. Với việc khai thác tối đa các lợi thế vốn có, trong những năm qua, ngành cà phê Việt Nam đã nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình trên thị trường cà phê thế giới. Diện tích, năng suất và sản lượng không ngừng tăng đã đưa Việt Nam từ vị trí thứ 8 trong các nước sản xuất cà phê thế giới về sản lượng (1995) lên vị trí thứ 2 vào năm 2001. Bên cạnh những thành tựu đạt được, khâu chế biến cà phê vẫn còn là một điểm yếu của ngành cà phê Việt Nam. Chính vì vậy, trong thời gian qua, mặc dù ngành cà phê Việt Nam có những bước phát triển nhưng vẫn không theo kịp các nước sản xuất cà phê khác trên thế giới. Tình hình sản xuất cà phê Việt Nam trong những năm qua có thể đựơc khái quát qua một số chỉ tiêu sau: 1. Diện tích Cây cà phê đã xuất hiện ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XVI, nhưng đến cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20 cây cà phê mới thực sự được phát triển và diện tích cà phê cũng bắt đầu tăng nhanh. Năm 1975, khi vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra, cả nước ta mới chỉ có không đầy 20 ngàn ha, chủ yếu được trồng ở hai tỉnh ĐăkLăk và GiaLai. Đến năm 1980, toàn ngành cũng mới chỉ đạt 180 ngàn ha. Trong những năm qua, nhờ có chính sách khuyến khích sản xuất và xuất khẩu cà phê của Đảng và Nhà nước, cầy cà phê đã bắt đầu được phát triển trên quy mô lớn và diện tích cà phê không ngừng tăng. Đến năm 2000, diện tích cà phê trên cả nước đã đạt tới con số đáng kinh ngạc là 500.000 ha, điều này vượt ngoài dự kiến của ngành. Cà phê được trồng rộng khắp trên toàn quốc và chủ yếu tập trung ở một số tỉnh như Tây Nguyên, ĐăkLăk, Lâm Đồng, Gia Lai, KonTum….., đặc biệt Tây Nguyên chiếm tới 73,3 % diện tích cà phê cả nước. Bảng 1: Diện tích cà phê qua các niên vụ vừa qua Niên vụ Diện tích (ha) Số diện tích tăng so với niên vụ trước đó (ha) 1992 /93 140.000 - 1993/94 150.000 10.000 1994/95 215.000 65.000 1995/96 295.000 80.000 1996/97 350.000 55.000 1997/98 410.000 60.000 1998/99 460.000 50.000 1999/00 520.000 60.000 2000/01 500.000 -20.000 Nguồn: VINACAFE Có thế thấy trong những năm qua, diện tích cà phê tăng với tốc độ nhanh chóng. Chỉ trong 10 năm mà diện tích đã tăng lên gần gấp 5 lần, tuy nhiên tăng không đều. Trong niên vụ 1996/1997 diện tích cà phê tăng chậm hơn so với năm trước đó do thị trường cà phê thế giới vừa trải qua cuộc khủng hoảng thừa vào năm 1994/1995. Tuy nhiên, do tình hình khan hiếm cà phê trong niên vụ 1998/1999, giá cà phê tăng cao nên đến niên vụ 1999/2000 diện tích cà phê lại tăng với tốc độ lớn hơn và diện tích cà phê đạt con số lớn nhất từ trước tới nay, 520.000 ha, cà phê được trồng tràn lan ở khắp nơi trong cả nước. Đến niên vụ 2000/2001, do giá cà phê trên thị trường thế giới sụt giảm nghiêm trọng, nhiều hộ nông dân trong nước đã chặt bỏ cây cà phê để trồng các loại cây công nghiệp khác khiến cho lần đầu tiên diện tích cà phê trong nước giảm khoảng 20.000ha xuống còn 500.000ha. Nhìn chung, diện tích cà phê tăng qua các năm. Nguyên nhân chủ yếu là do: * Điều kiện đất đai ở Việt Nam rất thuận lợi cho việc trồng và phát triển cây cà phê. Việt Nam có khoảng 10,5 triệu ha đất nông nghiệp (chiếm 1/3 diện tích cả nước). Trong đó, có những loại thổ nhưỡng có giá trị kinh tế cao như đất đỏ bazan trải dài từ cao nguyên Trung bộ đến Đông Nam Bộ. Theo thống kê của Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, diện tích đất có thể trồng được cà phê gồm 3 loại đất: S1 (rất thích hợp trồng cà phê); S2 (thích hợp trồng cà phê) và S3 (ít thích hợp trồng cà phê). Tổng số diện tích đất có thể trồng được cà phê trong cả nước là 2.368.765 ha, trong đó hai loại S1 và S2 là 1.084.660 ha chiếm 46%. Nếu chỉ so sánh với hai loại đất S1 và S2 thì với diện tích cà phê khoảng 500.000 ha chúng ta mới chỉ khai thác khoảng 47%. Vì vậy quỹ đất để trồng cà phê là rất dồi dào và diện tích cà phê vẫn có thế mở rộng được trong những năm tới. * Cà phê là một trong những loại cây công nghiệp mang lại lợi nhuận cao hơn so với cây lương thực. Theo tính toán của Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì lợi nhuận của cà phê gấp 3,4 lần so với sản xuất gạo và 2,9 lần ngô. Hơn nữa, cây cà phê là một loại cây công nghiệp dài ngày, việc đầu tư ban đầu chỉ cần một lần, sau đó là đầu tư bổ sung. Điều này rất phù hợp với nguồn vốn eo hẹp của các hộ nông dân ở nước ta. Cụ thể Viện nghiên cứu đã đưa ra hiệu quả và mức vốn đầu tư cho một ha cây cà phê trồng ở Tây Nguyên, một vùng đất rất thích hợp với loại cây này, thì thứ tự mức lợi nhuận như sau (so với một số loại cây công nghiệp khác) Bảng 2: Mức lợi nhuận đối với mỗi loại đất trồng Đơn vị : 1000đ/ha/năm Cây công nghiệp Cà phê Tiêu Cao su Chè Điều Đất rất thích hợp (S1) 7508 4740 4200 3720 3094 Đất thích hợp (S2) 4035 2440 3050 3110 2800 Đất ít thích hợp (S3) 2057 _ 2610 2200 2144 Nguồn: Kết quả thống kê của Bộ Nông Nghiệp Do hiệu quả kinh tế cao như vậy, nhiều vùng, nhiều nơi trong cả nước đã chuyển sang trồng và thâm canh cây cà phê. Thậm chí , do có một thời gian dài (1997 - 1998) cà phê bán được giá cao, sản xuất thu được lợi nhuận siêu ngạch, thêm vào đó các hộ nông dân lại được giao đất và tự quản lý công việc trồng trọt kinh doanh của mình. Chính vì vậy đã xảy ra tình trạng đua nhau ồ ạt trồng cà phê. Nhiều người nhất là dân di cư tự do vào chặt phá rừng để trồng cà phê. Theo thống kê sơ bộ, hàng chục ngàn ha rừng đầu nguồn đã bị tàn phá. Chính vì vậy, trong những năm qua diện tích cà phê tăng tràn lan, đặc biệt là giai đoạn 1995 - 2000. 2. Năng suất Một điều mà ngành cà phê Việt Nam đáng tự hào là năng suất cà phê Việt Nam được đánh giá là cao nhất thế giới, vượt xa năng suất của các nước sản xuất cà phê khác, kể cả những nước luôn dẫn đầu về sản lượng như Brazil, Colombia, Indonesia. Đấy chính là điểm mạnh và cũng là lợi thế cạnh tranh của cà phê Việt Nam khiến cho nhiều nước sản xuất cà phê trên thế giới phải kinh ngạc. Năng suất bình quân của Việt Nam qua một số năm như sau: Bảng 3: Năng suất bình quân qua các giai đoạn Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Năng suất(tạ/ha) 14 14,4 15 15,2 16 20 21 Nguồn: VINACAFE Trong khi năng suất cà phê của hầu hết các nước đạt dưới 1 tấn/ha thì cà phê Việt Nam trong năm qua đã đạt tới kỷ lục 2,1 tấn/ha và luôn giữ vị trí hàng đầu (năng suất bình quân của thế giới là 6,05 tạ/ha) Bảng 4: Năng suất cà phê của một số nước năm 2001 STT Tên nước Năng suất kg/ha Hệ số so với Việt Nam 1. Việt nam 2.101 1 2. ấn Độ 967 0.46 3. Colombia 924 0,44 4. Brazil 792 0,38 5. Indonesia 738 0,35 6. Uganda 525 0,25 7. Mexico 368 0,18 8. Venezuela 300 0,14 (Nguồn ACPC, ICO, Commodity expert.com, niên giám thống kê 2000) Bên cạnh nguyên nhân trong những năm qua Viện nghiên cứu cà phê Việt Nam đã cung cấp hàng chục tấn hạt giống mới, năng suất cao cho các địa phương thì đất đai cùng với điều kiện khí hậu thích hợp là hai yếu tố quan trọng giúp cho cà phê Việt Nam đạt năng suất cao. Mặt khác, cây cà phê Việt Nam lại trẻ hơn rất nhiều so với cà phê của các nước khác và hiện nay đang là thời điểm cho năng suất cao nhất Ngành cà phê Việt Nam luôn tự hào đạt được năng suất cao nhất thế giới, hơn cả Brazil, nhưng trước những diễn biến của thị trường cà phê thế giới hiện nay thì ngành cà phê Việt Nam cần phải xem xét lại. Bởi vì cà phê Việt Nam đạt năng suất cao nhất thế giới nhưng mức chi phí một tấn cà phê nhân cũng ở mức cao. Và năng suất cao không hẳn đã đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, bên cạnh việc duy trì năng suất đã đạt được, Việt Nam cần phải chú trọng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. 3. Sản lượng Năm 2000 vừa qua là năm đột phá của ngành cà phê Việt Nam về sản lượng. Sản lượng cà phê đạt mức cao nhất từ trước tới nay và vượt xa chỉ tiêu đặt ra, đưa Việt Nam vươn lên vị trí thứ hai thế giới về sản lượng cà phê và đứng đầu thế giới về sản lượng cà phê vối ( cà phê vối của Việt Nam chiếm 18% sản lượng cà phê vối toàn cầu). Đây là kết quả tất yếu của năng suất cao và diện tích cà phê ngày càng được mở rộng. Hơn nữa, đây cũng là giai đoạn cây cà phê cho năng suất cao nhất. Có thể nói, nếu xét về năng suất và sản lượng thì ngành cà phê Việt Nam không thua kém bất kỳ một ngành cà phê nào trên thế giới. Bảng 5: Diễn biến sản lượng cà phê Việt Nam Niên vụ Sản lượng (tấn) Số lượng tăng so với niên vụ trước (tấn) 1992/93 140.400 _ 1993/94 181.200 40.800 1994/95 211.920 30.720 1995/96 236.280 24.360 1996/97 242.300 6.020 1997/98 413.580 171.280 1998/99 404.206 - 9374 1999/00 700.000 295.794 2000/01 900.000 200.000 Nguồn: Báo cáo VICOFA Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức cà phê thế giới (ICO) vào năm 1991, hoạt động sản xuất cà phê của Việt Nam bắt đầu đi vào quy mô hơn, sản lượng tăng đều qua các năm và Việt Nam luôn giữ vị trí là một trong ba nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới. Trừ niên vụ 1998/1999, do ảnh hưởng của hiện tượng ElNino, thời tiết khô hạn, sản lượng cà phê Việt Nam giảm 9374 tấn nhưng sau đó lại tăng mạnh vào niên vụ 1999/2000 và 2000/2001. Nếu như so với niên vụ 1992/1993 diện tích cà phê chỉ tăng gấp 5 lần thì sản lượng tăng tới gần 9 lần. Đây cũng chính là yếu tố góp phần tạo nên sự biến động thị trường trong niên vụ vừa qua. Từ trước tới nay, sản lượng cao luôn là mục tiêu đặt ra của ngành cà phê Việt Nam nói chung cũng như của mỗi hộ trồng cà phê nói riêng. Đến nay, mục tiêu đó đã phần nào đạt được và đã đến lúc Việt Nam cần thay đổi quan điểm về mục tiêu đặt ra cho toàn ngành. Mục tiêu đặt ra lúc này không chỉ là sản lượng cao mà chúng ta cần phải xét đến hiệu quả kinh tế. 4. Công nghệ chế biến. Chế biến là khâu có tác động quan trọng đến chất lượng sản phẩm cà phê xuất khẩu. Vậy mà, theo đánh giá của Chủ tịch hội đồng quản trị Tổng công ty cà phê Việt Nam thì " nhìn lại toàn bộ công nghệ sản xuất cà phê của Việt Nam hiện nay, công nghệ chế biến cà phê vẫn là khâu yếu nhất, ít được quan tâm, ít được đầu tư, cơ sở vật chất chế biến không tương xứng với sản lượng cà phê quả hàng năm, công nghệ chế biến chưa được định hình đến từng cơ sở…" Khâu chế biến cà phê bắt đầu từ giai đoạn thu hái cà phê, chọn lọc sơ chế cà phê, sau đó chế biến thành cà phê nhân và cà phê thành phẩm. Trong khi các nước sản xuất cà phê khác trên thế giới đã sử dụng may thu hoạch cà phê thì ở Việt Nam vẫn phổ biến kiểu thu hoạch tuốt cành. Cách thu hái này không chỉ mất nhiều thời gian mà còn khiến cho cà phê thu hoạch bị lẫn cả quả xanh non hoặc quả chín nẫu. Đối với khâu sơ chế, trình độ công nghệ vẫn còn rất lạc hậu. Sau năm 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có một ít xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. ở phía Bắc có một số xưởng chế biến ở Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị lắp đặt từ năm 1960-1962 do Cộng hoà Dân chủ Đức chế tạo. ở phía Nam có một số xưởng của các doanh điền cũ như Rossi, Delphante để lại công suất không lớn. Sau đó, cùng với việc mở rộng diện tích trồng cà phê, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng các xưởng chế biến mới. Các cơ sở chế biến với thiết bị mới, chất lượng sản phẩm khá được xây dựng trong vòng 5-7 năm trở lại đây, tuy nhiên trình độ công nghệ vẫn còn rất đơn giản và thua xa các nước sản xuất cà phê khác trên thế giới. Cả nước ta hiện nay chỉ có khoảng 50 dây chuyền chế biến cà phê công nghiệp, tổng công suất đạt 100.000 tấn/năm trong khi khối lượng cà phê xuất khẩu của niên vụ vừa qua là 700.000 tấn. Điều này có nghĩa là phần lớn sản lượng cà phê được chế biến tại các hộ gia đình bằng những chiếc máy xay xát nhỏ, công nghệ đơn giản. Đối với phương pháp chế biến khô, phương pháp phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, kho cất trữ và sân phơi thì cà phê thu hái về chủ yếu được xử lý phân tán ở từng hộ nông dân qua con đường phơi khô trên cả sân xi măng lẫn sân đất. Diện tích sân phơi thiếu thốn không đủ để phơi cà phê. Hậu quả là cà phê hái về bị bỏ đống, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng và hương vị. Một chi nhánh của VINACAFE ở Đăklăk cho biết bình quân 218 ha cà phê mới có một sân phơi, trong khi đó tiêu chuẩn của thế giới là 100 ha cà phê có 1 ha sân phơi (trong khi độ ẩm của Việt Nam cao hơn so với nhiều nước khác trên thế giới). Không chỉ sân phơi mà hệ thống sấy khô cà phê cũng không được trang bị. Vào những năm mưa kéo dài trong vụ thu hoạch cà phê phải sấy bằng than đá khiến cho độ ẩm của cà phê không đạt tiêu chuẩn. Còn đối với phương pháp chế biến ướt. Còn đối với phương pháp ướt, phương pháp chế biến hiện đại hơn thì hiện nay Việt Nam vẫn chưa trang bị được đầy đủ hệ thống máy móc và không đáp ứng được nhu cầu lượng nước xả rất lớn. Ngoài các vấn đề về giống, khí hậu, canh tác thì việc áp dụng công nghệ sau thu hoạch chưa hợp lý là một nguyên nhân quan trọng làm giảm chất lượng cà phê Việt Nam. Vì vậy, đòi hỏi ngành cà phê nước ta cần có một sự chuyển biến lớn trong công nghiệp chế biến để ngành cà phê nước ta có thể tồn tại và tiếp tục phát triển. II. Tình hình xuất khẩu. 1. Kim ngạch và khối lượng xuất khẩu Có lẽ cà phê là một trong số ít các mặt hàng xuất khẩu đáng tự hào nhất của Việt Nam, bởi vì có tới 95% sản lượng cà phê hàng năm dành cho xuất khẩu. Từ chỗ chỉ là một ngành hàng xuất khẩu nhỏ bé, hàng năm chỉ xuất khẩu chừng 5 - 7 ngàn tấn với kim ngạch xuất khẩu không quá 10 triệu đến nay cà phê đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Khối lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu qua các năm không ngừng tăng lên, ngày càng khẳng định vững chắc vị trí chủ lực của mặt hàng cà phê trong cơ cấu hàng xuất khẩu và đưa Việt Nam trở thành một trong 3 nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trong khu vực Châu á Thái Bình Dương: Indonesia, ấn Độ và Việt Nam. Đặc biệt là với khối lượng xuất khẩu đạt 14.578 nghìn bao (1 bao = 60 kg) trong niên vụ 2/2000 - 2/2001 Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới sau Brazil. Đạt được thành tựu đó trước hết là nhờ chính sách đổi mới của nhà nước phù hợp với nguyện vọng của nông dân là được làm giầu trên mảnh đất của mình. Và nguyên nhân khách quan là do giá cà phê trên thị trường thế giới những năm gần đây (trước niên vụ 99/00) diễn biến theo hướng có lợi cho người sản xuất, cà phê sản xuất ra bán được giá cao hơn và thu nhập của người dân cũng tăng lên đáng kể. Sự kích thích của giá cả đã thúc đẩy cà phê Việt Nam phát triển nhanh chóng. Bảng 6: Số lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam qua các năm Niên vụ Khối lượng xuất khẩu (tấn) Đơn giá bình quân (USD/tấn) Giá trị kim ngạch xuất khẩu (USD) 1994 - 1995 212.038 2.633,0 558.296.054 1995 - 1996 221.496 1.815,0 402.015.240 1996 - 1997 336.242 1.198,0 402.817.916 1997 - 1998 395.418 1.521,0 601.430.778 1998 - 1999 404.206 1.373,0 554.974.838 1999 - 2000 653.678 823,0 537.976.994 2000 - 2001 874.676 436,6 381.883.542 Nguồn: Thời báo kinh tế Trong những năm qua, mặc dù khối lượng xuất khẩu tăng cao, song kim ngạch lại giảm sút đáng kể so với mấy năm trước đấy. Có thể thấy trong niên vụ 2000/2001, số lượng cà phê xuất khẩu gấp 4 lần niên vụ 1994/1995, nhưng kim ngạch xuất khẩu lại chỉ đạt xấp xỉ một nửa do giá xuất khẩu đã giảm đi 13,88% so với niên vụ 1994/1995, vụ cà phê mở đầu cho một chuỗi sáu vụ liên tiếp của thời kỳ vàng son của ngành cà phê Việt Nam. Thực trạng này càng làm cho vấn đề cà phê trở nên bức xúc. Như kết quả của bảng trên cho thấy, lượng cà phê xuất khẩu năm 2001 tăng 87% so với năm 1999 nhưng giá cà phê xuất khẩu giảm đi 64% khiến cho kim ngạch xuất khẩu giảm 33%. Theo báo cáo của hiệp hội cà phê ca cao (VICOFA), 9 tháng đầu niên vụ 2001/2002, cả nước xuất khẩu được 545.837 tấn, bằng khoảng 92% so với niên vụ 2000/2001, song kim ngạch xuất khẩu lại chỉ đạt 190 triệu USD, giảm 31,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong hai niên vụ gần đây kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam không tăng và thậm chí còn giảm do giá cà phê trên thị trường thế giới giảm đưa hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam rơi vào tình trạng lao đao. 2. Một số thị trường xuất khẩu chính Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Từ chỗ chỉ xuất khẩu sang khoảng 40 nước vào năm 1990, thì đến năm 1999 thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam đã vươn tới 52 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đặc biệt, đến nay cà phê Việt Nam đã xuất sang gần 64 quốc gia. Trước năm 1990, Đông âu là thị trường tiêu thụ chính cà phê Việt Nam. Nhà nước Việt Nam ký kết những hiệp định với chính phủ Liên Xô và các nước Đông Âu theo một chương trình hợp tác mà theo đó các nước bạn đầu tư vốn, cử chuyên gia sang để phát triển trồng và chế biến cà phê, còn Việt Nam thanh toán lại bằng sản phẩm cà phê. Việc Việt Nam gia nhập tổ chức cà phê thế giới (ICO) năm 1991 là một bước ngoặt đánh giá sự phát triển của ngành cà phê Việt Nam nói chung cũng như sự mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê nói riêng. Đến nay, Việt Nam là một trong những nguồn cung cấp cà phê cho những thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới. Bảng 7: 10 nước nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam. 1995/1996 1996/1997 1997/1998 1998/1999 1999/2000 Nước % Nước % Nước % Nước % Nước % Mỹ 28,6 Mỹ 24,3 Mỹ 21,2 Đức 16.7 Bỉ 15,9 Đức 16,3 Đức 15,8 Đức 17,8 Mỹ 15,9 Mỹ 15,7 BaLan 6,89 Pháp 7,11 ý 8,81 ý 10,4 Đức 15,4 Nhật 5,88 Bỉ 6,82 Anh 8,04 TB Nha 8,51 TB Nha 8,44 ý 5,51 ý 5,57 TB Nha 7,86 Pháp 7,94 í 7,15 Anh 5,37 TBNha 5,54 Pháp 5,42 Anh 5,91 Pháp 5,26 TBNha 4,04 Anh 5,37 BaLan 4,45 Bỉ 5,25 BaLan 4,36 Hàn Quốc 3,95 Angieri 3,16 Nhật 3,70 Nhật 4,70 Anh 3,08 Pháp 3,71 BaLan 2,99 Hàn Quốc 3,55 Austria 4,17 Nhật 3,45 Singapore 3,67 Nhật 2,95 Bỉ 3,29 BaLan 4,05 Hàn Quốc 3,01 Nguồn: Viện kinh tế thế giới Nếu như trong các niên vụ trước đây, Đức và Mỹ thay phiên giữ vị trí số một trong số các nước nhập khẩu cà phê Việt Nam thi đến niên vụ 1999/2000, có một sự thay đổi, Bỉ từ vị trí thứ 7 trong niên vụ 1998/1999 vươn lên vị trí thứ nhất niên vụ 1999/2000. Tuy nhiên, theo xu thế chung Đức và Mỹ vẫn là hai nước nhập khẩu cà phê Việt Nam nhiều nhất và ổn định nhất. Niên vụ 2000/2001, Đức lại nổi lên là khách hàng tiêu thụ số 1 của Việt Nam với 112.739 tấn, Mỹ nhập khẩu cà phê Việt Nam ít đi ở vị trí số 2 với số lượng nhỏ đi nhiều là 89.228 tấn. Trong niên vụ vừa qua, dù tình hình giá cả biến động không có lợi cho chúng ta nhưng thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam không những không giảm mà còn tăng từ 61 lên 64 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên về lượng tiêu thụ của từng nước có những thay đổi lớn.. Niên vụ 2000/01 có 15 nước hàng đầu nhập khẩu trên 10.000 tấn, tổng cộng đã nhập 614.275 tấn chiếm 86,06% thị phần. Và danh sách 15 nước này qua hai niên vụ chỉ thay đổi một nước còn 14 nước giữ nguyên nhưng có thay đổi vị trí. Mười bốn nước đó là: Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, ý, Bỉ, BaLan, Pháp, Nhật, Hàn Quốc, Anh, Philipin, Hà Lan, úc, Hungari. Nước đứng 15 ở vụ 2000/01 là Canada và ở vụ này là Romania. ấn Độ và Indonesia tuy là hai nước sản xuất cà phê vào hàng lớn ở Châu á nhưng hàng năm vẫn mua cà phê của ta. Hiện nay, ngành cà 40 phê Việt Nam đang cố gắng phát triển, mở rộng thị trường sang khu vực Châu á. Trung Quốc, Nga là hai thị trường lớn và rất tiềm năng. Tuy nhiên, hiện nay, Trung Quốc vẫn chỉ đứng thứ 16 trong danh sách các nước nhập khẩu cà phê của Việt Nam ( 9 tháng đầu niên vụ 2002 này mới nhập 55.907 tấn) và Nga chỉ đứng thứ 48 (chỉ nhập 225 tấn) 3. Năng lực cạnh tranh Khi đánh giá năng lực cạnh tranh của một số hàng nông sản thông thường người ta xét tới các chỉ tiêu như đất đai, khí hậu, con người, hạ tầng kỹ thuật...đây là những yếu tố tác động cho năng suất và sản lượng cây trồng cao. Nếu xét trên phương diện này thì cà phê Việt Nam có năng lực cạnh tranh tương đối cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường hiện nay, khi mà hầu hết các nước xuất khẩu cà phê đều nâng cao năng suất, tăng sản lượng, thì sản lượng dường như không còn là một tiêu chuẩn để đánh giá năng lực cạnh tranh của cà phê một nước. Hơn nữa, cà phê là một mặt hàng rất nhạy cảm, nó phụ thuộc rất nhiều vào sở thích và khả năng cảm nhận của người tiêu dùng. Vì vậy, chất lượng đóng một vai trò vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định. Do đó, để đánh giá năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam so với các nước khác ta có thể đánh giá trên 3 chỉ tiêu: chất lượng và giá cả và khả năng cung cấp. 3.1. Chất lượng Ông Vũ Công Trứ, phó cục trưởng Cục chế biến nông lâm sản và ngành nghề nông thôn (thuộc Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn) cho rằng:" Nếu tỷ lệ cà phê loại I trong tổng khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đước nâng lên 35% thì nước ta có thể sẽ nâng kim ngạch xuất khẩu cà phê trong niên vụ này lên thêm 3,2 triệu USD. Còn nếu chất lượng cà phê của Việt Nam tương đương với cà phê Indonesia thì kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ tăng thêm 54 triệu USD". Qua đây cũng phản ánh được tầm quan trọng của việc nâng cao kim ngạch xuất khẩu cũng đồng thời phản ánh được thực trạng về chất lượng của cà phê Việt Nam từ trước tới nay. Thực tế, cà phê Việt Nam loại i chỉ chiếm từ 16 - 18%, loại IIA chiếm trên 70%, còn lại là thấp hơn. Trong niên vụ 1999/2000, tỷ lệ cà phê loại i chỉ đạt 17% tổng khối lượng cà phê xuất khẩu của cả nước và trong niên vụ này tỷ lệ trên vẫn chưa được nâng lên. Cà phê Việt Nam còn lẫn tạp chất và lẫn những hạt sâu vỡ, xanh non, teo lép, bạc mầu. Lấy ví dụ đương cử là cà phê xuất khẩu của tỉnh Đăklăk, một trong những tỉnh trồng cà phê lớn nhất của nước ta. Trong niên vụ 1998/1999, sản lượng cà phê đạt 218.596 tấn, tăng 3,5% so với niên vụ 1997/1998. Tuy nhiên tỷ lệ cà phê loại R1 lại rất thấp, chỉ xấp xỉ 18.000 tấn, nghĩa là chỉ đạt 8% trong tổng khối lượng xuất khẩu của tỉnh này, thấp hơn tỷ lệ R1 chung của cả nước là 11%. Đây là điều đáng tiếc vì theo các chuyên gia của hiệp hội cà phê quốc tế (ICO) đánh giá: cà phê trồng ở Việt Nam có hương vị thơm ngon nhưng do khâu chế biến không đảm bảo tiêu chuẩn, đồng thời bị lẫn tạp chất và quả xanh, hoặc quá chín khiến cho hương vị giảm đi. Bảng 8: Đánh giá chất lượng cà phê Việt Nam so với các nước khác Quốc gia Loại cà phê Hệ số so với Việt Nam Brazil Chè 2,22 Việt Nam Vối 1 Colombia Chè 2,34 Indonesia Vối 1,33 Mexico Chè 2,02 ấn Độ Vối 1,25 Thái Lan Vối 1,07 Uganda Vối 1,13 Ethiopia Chè 0,95 Nguồn: ICO năm 2001 Theo như đánh giá của ICO thì chất lượng của cà phê Việt Nam được xếp vào hàng rất thấp. Trong khi chỉ số trên được đánh giá hoàn toàn dựa trên sản phẩm khi mới được sản xuất ra. Còn thực tế, trong quá trình kinh doanh xuất khẩu, vì lợi ích trước mắt nhiều người đã trộn lẫn cà phê có độ ẩm cao với cà phê có độ ẩm tiêu chuẩn (13%). Trong quá trình vận chuyển bằng đường biển dài ngày phần cà phê có độ ẩm cao sẽ bị mốc và lan ra toàn bộ lô hàng. Hay nhiều khi vì giá cà phê quá cao nhiều trường hợp chủ hàng bố trí hàng tốt bên ngoài, hàng xấu để giữa lô để che mắt giám định. Tất cả những việc làm vô thức trên đều dẫn tới một hậu quả là chất lượng của cà phê Việt Nam bị giảm sút và mất uy tín với khách hàng. Có thể kết luận rằng, trong thời gian qua chất lượng cà phê Việt Nam chưa cao và không ổn định. Nguyên nhân chủ yếu là do: - Thu hoạch không được thực hiện đúng quy trình, nông dân Việt Nam thu hoạch cà phê có thói quen hái một lần cả quả chín lẫn quả xanh với lý do đỡ phải đi lại nhiều lần tốn công tốn sức, đỡ phải canh gác ngày đêm vì sợ mất trộm. Khi thu hái, người nông dân thường trải những tấm bạt dưới gốc cà phê rồi tuốt quả cà phê rụng xuống, sau đó gom cà phê lại, thường là lẫn nhiều cành lá và cả đất. Chính vì vậy, riêng khâu thu hái đã có ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng chứ chưa nói tới công nghệ chế biến còn lạc hậu. - Thiếu sự điều tiết hợp lý nên có những giai đoạn lợi nhuận cao của cây cà phê đã trở thành một mãnh lực làm gia tăng diện tích trồng một cách ồ ạt. cà phê được trồng trên cả những vùng đất không thích hợp, không đảm bảo được sự đầy đủ của nguồn nước, cho ra sản phẩm là loại cà phê chất lượng thấp. - Sự lạm dụng phân bón, thuốc trừ sâu không những làm cho chi phí sản xuất tăng mà còn làm cho độ ô nhiễm của cà phê cao. - Hệ thống sân phơi, nhà kho, thiết bị chế biến không được phát triển đồng bộ cho nên chất lượng sản phẩm luôn luôn thấp hơn sản phẩm cùng loại của các nước khác. - Chưa có những điều kiện rằng buộc thống nhất về chất lượng. Cà phê sản xuất ra bao nhiêu thì gần như xuất khẩu bấy nhiêu mà không có sự chọn lọc, loại bỏ những lô cà phê kém chất lượng. Nếu ngành cà phê Việt Nam khắc phục được những hạn chế này nhất định chất lượng cà phê sẽ được cải thiện và tất nhiên năng lực cạnh tranh sẽ được gia tăng đáng kể. 3.2. Giá cả Theo thống kê của ICO giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam so với một số nước xuất khẩu cà phê trên thế giới như sau: Bảng9: Đánh giá chỉ tiêu giá cà phê Việt Nam so với một số nước khác STT Quốc gia USD/ Lb Loại cà phê Hệ số so với Việt Nam 1 Indonesia 41,49 Vối 1,01 2 Việt nam 41,39 Vối 1 3 ấn Độ 53,01 Vối 1,28 4 Thái Lan 38,20 Vối 0,92 5 Uganda 60,38 Vối 1,46 6 Brazil 96,71 Chè 2,34 7 Mexico 91,97 chè 2,22 8 Ethiopia 83,62 Chè 2,02 9 Colombia 96,73 Chè 2,34 Nguồn: ICO năm 2001 Thống kê của ICO cho thấy so với giá bán của một số nước xuất khẩu chính như Brazil, Indonesia, Colombia… giá cà phê Việt Nam thường thấp hơn rất nhiều (khoảng từ 50 - 100 USD/tấn). Cụ thể, giá cà phê R2-5% của Việt Nam thường thấp hơn khoảng 90USD/kg so với cà phê cùng loại của Indonesia. Giá cà phê sàng 16 của Việt Nam vẫn thấp hơn giá cà phê trên sàng 15 của Uganda khoảng 200 USD/tấn. Hoặc cùng loại cà phê Catimo nhưng các nhà xuất khẩu của Việt Nam chỉ bán được với giá 2,9 USD/kg, trong khi Colombia bán với giá 3,96 USD/kg. Nguyên nhân chính là do chất lượng cà phê chưa cao, tỷ trọng cà phê chế biến mới chỉ đạt khoảng 3%. Chúng ta vẫn chưa chú ý đến chất lượng trong khi đó lại mải chạy theo năng suất, theo sản lượng. Hơn nữa, nhiều khi các nhà xuất khẩu cà phê nước ta đều phải xuất khẩu qua các trung gian quốc tế, qua thị trường trung gian, vì vậy, thường bị chèn ép về giá cả và chất lượng. Giá thấp là một yếu tố làm tăng năng lực cạnh tranh. Để lôi kéo khách hàng và tăng doanh số bán ra, các nhà kinh doanh thường giảm giá sản phẩm. Tuy nhiên đối với mặt hàng cà phê lại khác. Năng lực cạnh tranh được đánh giá chủ yếu dựa trên tiêu chí chất lượng do cà phê là một mặt hàng mang tính nghệ thuật ẩm thực cao. Và khi đó giá cà phê lại trở thành thước đo cho chất lượng của mỗi loại cà phê đó. Vì vậy, giá cà phê Việt Nam thấp không hoàn toàn có nghĩa là khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam cao mà ngược lại giá cà phê thấp cho thấy chất lượng cà phê Việt Nam chưa cao, trình độ công nghê và thiết bị chế biến cà phê Việt Nam chưa bắt kịp các nước. Sự không đồng đều về chất lượng sản phẩm của các lô hàng cũng là một trong những điểm yếu của ch._.ất lượng cà phê Việt Nam làm cho giá xuất khẩu thấp. Có thể kết luận rằng chất lượng là nguyên nhân chính và là nguyên nhân sâu xa làm giảm năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng ngay cả khi chất lượng được nâng cao thì cà phê Việt Nam cũng chưa hẳn đã có thể cạnh tranh được với cà phê của các nước khác. Nguyên nhân là do cà phê Việt Nam còn thiếu thương hiệu, một yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt cho bất kỳ một sản phẩm nào. Nhưng thực chất, chất lượng cũng chính là một trong những yếu tố chủ yếu để thiết lập, củng cố và làm vững mạnh thương hiệu. Vì vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh cho cà phê Việt Nam, vấn đề ưu tiên hàng đầu vẫn là nâng cao chất lượng. 3.3. Khả năng cung cấp Khả năng cung cấp là một yếu tố rất quan trọng trong kinh doanh. Đối với các mặt hàng nông sản nói chung và cà phê nói riêng, khả năng cung cấp bao gồm các yếu tố: đảm bảo cung cấp nhanh, đáp ứng được nhu cầu lớn và có thế cung cấp ngay cả khi trái vụ Mặc dù hàng năm sản xuất ra một lượng cà phê lớn và có tới 95% sản lượng là dành cho xuất khẩu nhưng Việt Nam lại không đáp ứng được cả ba yếu tố trên. Do hệ thống kho cất trữ không đầy đủ và đảm bảo tiêu chuẩn nên cà phê nếu lưu giữ trong kho lâu ngày rất dễ bị ẩm mốc và mất mùi. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu cà phê không dự trữ sẵn cà phê mà chỉ tiến hành thu mua khi có đơn đặt hàng cuả khách hàng. Vì vậy từ khi nhận hàng đến khi giao hàng thường phải mất một khoảng thời gian để thu gom cà phê ở thị trường trong nước. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho việc cung cấp cà phê của Việt Nam thường chậm hơn so với các nước xuất khẩu cà phê khác. Trong khi đó ngành cà phê Việt Nam lại chưa có đủ tiềm năng tài chính để mở đại lý ở các thị trường vì vậy không đáp ứng được khả năng giao hàng ngay. Mặc dù cà phê Việt Nam hàng năm đạt sản lượng cao, nhưng đôi khi các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam vẫn gặp phải khó khăn khi muốn bán cà phê với khối lượng lớn. Nguyên nhân là do ở thị trường cà phê Việt Nam hoạt động thu mua vẫn được tiến hành lẻ tẻ, rời rạc, không có một đơn vị đầu mối đứng ra thu gom và quản lý toàn bộ nguồn cà phê trong nước và sau đó phân ra theo từng chủng loại. Khi có một đơn đặt hàng với khối lượng lớn, đơn vị xuất khẩu thường phải liên hệ với các đại lý thu mua cà phê sau đó thu gom cà phê ở các đại lý. Vì vậy đôi khi tìm được nguồn cà phê nhưng chủng loại ở mỗi đại lý thu gom cà phê lại không giống nhau. Ngoài yếu kém là hệ thống kho lưu trữ không đầy đủ và không đảm bảo tiêu chuẩn, ngành cà phê Việt Nam còn gặp phải một khó khăn là nguồn vốn kinh doanh của các hộ sản xuất cà phê cũng như các đơn vị xuất khẩu cà phê rất eo hẹp. Đây là nguyên nhân khiến cho Việt Nam Việt Nam khó có thể cung cấp cà phê vào trái mùa vụ. Thứ nhất là do lượng cà phê dự trữ rất ít. Thứ hai là do các hộ sản xuất cà phê cũng như các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cà phê thường muốn bán nhanh cà phê vào mỗi vụ thu hoạch để quay vòng vốn. Vì vậy xuất hiện thực trạng vào cuối mỗi vụ cà phê, mặc dù nhu cầu cà phê trên thị trường rất lớn và giá cà phê lên cao nhưng Việt Nam lại không còn cà phê để bán. Nói tóm lại, khả năng cung cấp cũng là một điểm yếu của ngành cà phê Việt Nam và cùng với hai yếu tố chất lượng và giá cả nó góp phần làm giảm năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam. Chương II Những biến động bất thường của thị trường cà phê thế giới trong thời gian qua và ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam I. Thị trường cà phê thế giới 1. Khái quát tình hình buôn bán cà phê trên thế giới Cũng giống như nhiều mặt hàng nông sản khác, mậu dịch cà phê thế giới luôn trải qua nhiều bước thăng trầm. Chỉ tính trong giai đoạn 10 năm trở lại đây, chúng ta đã được chứng kiến tới ba đợt biến động mạnh của thị trường cà phê thế giới, vào các niên vụ 1994/1995, 1997/1998 và 2000/2001. Trị giá xuất khẩu cà phê trên thế giới dao động rất lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do sự mất cân đối giữa cung và cầu làm cho giá cà phê tăng, giảm bất thường. Trước năm 1994, giao dịch cà phê trên thị trường thế giới kém sôi động. Trị giá xuất khẩu trong giai đoạn này giảm liên tục. Lấy ví dụ, năm 1990 kim ngạch xuất khẩu cà phê của thế giới ở dưới mức 7 tỷ USD, thấp hơn mức trung bình trong 3 năm trước đó khoảng 3 tỷ. Đây là kết quả của các vụ mùa 1993,1994 liên tục bội thu khiến cho cung vượt cầu cà phê, giá cả sụt giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 20 năm trước đó. Năm 1994 được coi là một trong những năm rối loạn nhất trong lịch sử của mặt hàng cà phê. Sau nhiều năm mặt hàng này bị sụt giá mạnh, một số chủ đồn điền ở Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi và Châu á đã phải chuyển sang trồng các loại hoa mầu khác. Trước tình hình cây cà phê có nguy cơ bị phá bỏ ở một số nước, năm 1994, lần đầu tiên một số nước sản xuất cà phê đã đưa ra thoả thuận hạn chế xuất khẩu 20%. Kết quả là thị trường cà phê thế giới dần phục hồi và ổn định vào những năm tiếp theo. Tuy nhiên thị trường cà phê thế giới là thị trường nhạy cảm, chỉ riêng yếu tố thời tiết thuận lợi hay khắc nghiệt đã có thế gây nên những biến động lớn trên thị trường cà phê. Sau khi vượt qua được cuộc khủng hoảng năm 1994 thì đến niên vụ 1997/1998, thị trường cà phê thế giới lại rơi vào cơn sốt. Cà phê trở nên khan hiếm, giá cà phê vối lên tới 1530USD/tấn và giá cà phê chè là 4000USD/tấn. Cơn sốt cà phê này là kết quả của đợt sương giá kéo dài ảnh hưởng tới sản lượng cà phê tại Braxin- nước sản xuất cà phê đứng đầu thế giới. Thêm vào đó, ở một số nước sản xuất cà phê tại khu vực Châu á, hiện tượng Elnino đã khiến cho cây cà phê bị hạn hán. Đặc biệt là ở Indonesia, nước sản xuất cà phê đứng thứ hai Châu á, động đất và thời tiết xấu xảy ra tại khu vực trọng điểm- đảo Sumatra- đã làm giảm lượng cà phê xuất khẩu của nước này. Điều kiện thời tiết khắc nghiệt đã làm cho sản lượng của Brazil giảm 4,5-6 triệu bao, Indonesia giảm 1 triệu bao xuống còn 5,3-5,5 triệu bao, Colombia giảm 0,5 triệu bao…khiến cho cung cà phê thấp hơn nhu cầu khoảng 3 triệu bao. Sau thời kỳ này, đến niên vụ 2000/2001, thị trường cà phê thế giới lại tiếp tục một cuộc khủng hoảng mới và cuộc khủng hoảng này kéo dài cho đến nay. Dường như tính bất ổn luôn là đặc điểm của thị trường cà phê thế giới trong mọi giai đoạn. Cà phê trên thế giới được buôn bán theo hai hình thức : mua bán trực tiếp và gián tiếp qua các sở giao dịch. Hình thức buôn bán gián tiếp thường diễn ra nhộn nhịp và mang tính chất đầu cơ. Hai thị trường nhộn nhịp nhất là London với loại cà phê vối và Newyork đối với loại cà phê chè. Ngoài ra, sở giao dịch hàng hoá Singapore cũng tiến hành giao dịch hợp đồng kỳ hạn với cà phê vối từ tháng 2/1995. Hiện nay, hoạt động buôn bán cà phê trên thị trường thế giới bị thao tung bởi một số công ty lớn. Đây là những công ty có tiềm lực tài chính lớn, có khả năng thâu tóm các nguồn cung cà phê trên thế giới và cũng góp phần làm cho thị trường cà phê thế giới dễ bị biến động. Tình hình buôn bán trên thị trường cà phê thế giới diễn ra ngày càng sôi động hơn, nhưng đồng thời chu kỳ biến động cũng ngắn hơn, và hậu quả của mỗi đợt biến động cũng nghiêm trọng hơn. 2. Các nước xuất khẩu chính 2.1. Braxin Trải qua hơn một thập kỷ buôn bán cà phê trên thế giới, Braxin luôn luôn chứng tỏ vai trò số một của mình trên thị trường thế giới với số lượng cà phê xuất khẩu đứng đầu. Sản lượng cà phê hàng năm của Braxin chiếm 28% tổng sản lượng cà phê toàn thế giới và chiếm 21% toàn bộ số cà phê buôn bán toàn cầu. Bảng 10: Khối lượng cà phê xuất khẩu của Braxin qua một số năm: Đơn vị: 1000 tấn Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Khối lượng xuất khẩu 918 1010 1089 1388 1081 1412 Nguồn: Báo cáo của ICO năm 2001 Khối lượng cà phê xuất khẩu của Braxin nhìn chung tăng đều qua các năm. Tuy nhiên cũng có những năm. Năm 2000 là năm mà sản lượng cà phê của Brazil đạt kết quả cao, tuy nhiên khối lượng xuất khẩu lại giảm so với năm 1999 do Brazil thực hiện tăng lượng cà phê tạm trữ theo quyết định của ICO nhằm cứu vãn tình hình giá cà phê đang xuống dốc. Theo báo cáo của tổ chức cà phê thế giới (ICO), do ảnh hưởng của biến động thị trường, mặc dù đến 7/2002 Brazil xuất khẩu được 13,38 triệu bao, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2001, nhưng kim ngạch xuất khẩu lại chỉ đạt 105,14 triệu USD, giảm 5,3 % so với cùng kỳ năm trước đó. Dự báo vụ cà phê 2002 - 2003, Braxin có thể đạt 45 - 52 triệu bao so với 28 - 34 triệu bao vụ 2001-2002. Khác với Việt Nam thường trồng cà phê thành các khu vườn, thì ở Braxin, cà phê được trồng có quy mô trên những khu vực rộng lớn. Đất nước Braxin luôn được gắn với hình ảnh những đồn điền cà phê bạt ngàn. Chính vì vậy mà từ trươc tới nay Braxin luôn là nước cung cấp cà phê hàng đầu thế giới. Năng suất cà phê của Braxin tuy không cao bằng Việt Nam nhưng cũng được xếp vào danh sách những nước có năng suất cao. Với năng suất đạt 792 kg/ha, Brazil chỉ xếp sau Việt Nam (2101 kg/ha) và Colombia (924 kg/ha). Thị trường nhập khẩu lớn nhất cà phê Brazil là Mỹ, tiếp đến là Italia, Nhật, Đức và một số nước Châu Âu khác. Brazil là nhà cung cấp chính cho hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn và các nhà chế biến cà phê có uy tín trên thế giới. Brazil không chỉ là nước sản xuất cà phê đứng đầu thế giới mà còn xếp thứ 2 sau Mỹ trong việc tiêu thụ cà phê. Hiện nay Brazil tiêu thụ trên 13 triệu bao mỗi năm, chiếm khoảng 40% sản lượng trung bình của nước này. Chính vì vậy, mỗi sự biến động của thị trường cà phê Brazil dù lớn hay nhỏ đều có ảnh hưởng đến thị trường cà phê thế giới. Theo báo cáo của ICO, năm 2001, xuất khẩu cà phê thế giới tăng 0,94% so với năm trước mà nguyên nhân chủ yếu là do xuất khẩu cà phê của Brazil tăng mạnh, khoảng 30,5% so với năm 2000. Hoặc khi có những dự đoán rằng sản lượng cà phê Brazil có thể sẽ giảm sút do Brazil sẽ trải qua một đợt sương muối kéo dài ngay lập tức các nhà đầu cơ cà phê trên thế giới sẽ mua vào cà phê Brazil dẫn đến việc đẩy giá cà phê lên cao. Vì vậy, Brazil đóng một vai trò quan trọng trên thị trường cà phê thế giới. 2.2. Colombia. Colombia luôn giữ vị trí thứ hai trong hàng các nước xuất khẩu cà phê trên thế giới, sau Braxin (trừ niên vụ 2000/2001, với sản lượng 11453 nghìn bao Việt Nam vươn lên đứng hàng thứ hai, đẩy Colombia xuống hàng thứ ba trên thế giới). Số lượng cà phê xuất khẩu của Colombia luôn chiếm trung bình khoảng 19% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu thế giới. Bảng 11: Khối lượng cà phê xuất khẩu của Colombia trong một số năm: Đơn vị:1000 tấn Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Khối lượng xuất khẩu 635 655 675 600 551 682 Nguồn: Báo cáo của ICO năm 2001 Cũng giống như Brazil, tình hình xuất khẩu của Colombia tương đối ổn định chỉ trừ hai năm 1999 và 2000. Theo số liệu của cơ quan thống kê quốc gia Colombia cho thấy, quý 1/2002 sản lượng cà phê nước này đã tăng 13,3 % so với cùng kỳ năm 2000, lên 2,25 triệu bao. Tuy nhiên, do giá xuất khẩu cà phê thời gian này giảm mạnh, giảm hơn 45% xuống còn bình quân 89,62 USD/bao nên kim ngạch xuất khẩu của Colombia giảm hơn 21% còn 184,7 triệu USD. Bên cạnh vị trí thứ hai trong hàng các nước xuất khẩu cà phê, Colombia còn được đánh giá là nước sản xuất cà phê chè lớn nhất thế giới. Nhờ áp dụng nhiều biện pháp hiện đại, kỹ thuật cao vào sản xuất cà phê, năng suất cà phê của Colombia được xếp vào hạng cao của thế giới (924kg/ha), chỉ đứng sau Việt Nam. Tuy nhiên, chi phí sản xuất cà phê tính trên 1 tấn sản phẩm của Colombia lại khá cao, 1644USD/tấn, trong khi chi phí của các nước khác chỉ khoảng 800 USD/tấn. Sở dĩ xuất khẩu cà phê của Colombia luôn được duy trì ổn định là do nước này áp dụng một loạt các biện pháp nhằm tăng sản lượng cà phê qua việc sử dụng giống mới cho năng suất cao, thực hiện các biện pháp kỹ thuật hiện đại mà không cần tăng diện tích trồng trọt. Điều này giúp cho Colombia có được lợi thế là vẫn có khả năng sản xuất và xuất khẩu thoả mãn nhu cầu thị trường bằng sản lượng không ngừng tăng của mình khi giá cao. Còn khi giá giảm, người trồng cà phê có thể giảm bớt đầu tư sản xuất trên đồn điền. 2.3. Indonesia Indonesia hiện đang nổi trội lên khẳng định vị trí thứ 3 của mình trong hàng ngũ các nước xuất khẩu cà phê thế giới và thứ nhì trong khu vực Châu á. Indonesia còn là một nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới từ giữa thập niên 80. Bảng 12: Khối lượng cà phê xuất khẩu của Indonesia qua các năm Đơn vị: 1000 tấn Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Khối lượng xuất khẩu 386 345 336 304 312 267 Nguồn: Báo cáo của ICO năm 2001 Khối lượng cà phê xuất khẩu của Indonesia giảm trong hai năm trở lại đây do nhiều nguyên nhân. Bên cạnh nguyên nhân thị trường cà phê thế giới biến động còn do tình hình chính trị bất ổn ở nước này. Năng suất cà phê của Indonesia không cao, chỉ đạt 738kg/ha, xếp sau Việt Nam (2101kg/ha), Colombia (924kg/ha), Brazil (792kg/ha), ấn Độ (967 kg/ha). Tuy nhiên chi phí sản xuất cà phê tính trên 1 tấn sản phẩm của Indonesia lại rất thấp, có thế nói là thấp nhất trong nhóm các nước xuất khẩu cà phê chủ yếu của thế giới ( đạt 397USD/tấn). Sản phẩm cà phê chủ yếu của Indonesia là loại Robusta chưa xử lý ẩm. Trong những năm qua, ngành công nghiệp cà phê của Indonesia đã liên tục áp dụng các biện pháp chặt chẽ để quản lý xuất khẩu cà phê và tăng các chuẩn mực chính thức cho cà phê xuất khẩu . Chính vì vậy mà cà phê của Indonesia đã có thể cạnh tranh với các nước sản xuất cà phê truyền thống như Bờ Biển Ngà (Cotdivoa), Uganda và Camơrun. 2.4. Mehico Sau Braxin, Việt Nam, Colombia và Indonesia, Mehico cũng được xếp vào danh sách các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê chủ yếu của thế giới. Cà phê Mehico nổi tiếng là loại cà phê chất lượng hảo hạng nhất. Với tiềm lực sản xuất và xuất khẩu cà phê của mình, Mehico có tiếng nói khá quan trọng trong khối các nước sản xuất cà phê vùng Trung Mỹ. Hiện nay, Trung Mỹ, Mehico cùng với Braxin, Colombia đang hợp tác nỗ lực giảm xuất khẩu cà phê để đẩy giá mặt hàng này lên. Hàng năm, Mehico xuất khẩu khoảng 75% sản lượng cà phê. Phần lớn cà phê Mehico được xuất sang thị trường Mỹ và các nước Châu Âu mà chủ yếu là các nước Đức và Tây Ban Nha. Bảng 13: Khối lượng cà phê xuất khẩu của Mehico qua một số năm Đơn vị: 1000 tấn Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Khối lượng cà phê xuất khẩu 278 270 204 261 318 205 Nguồn: Báo cáo của ICO năm 2001 Số lượng cà phê xuất khẩu của Mehico nhìn chung không ổn định. Năm 1998, khối lượng xuất khẩu của Mehico giảm do ảnh hưởng của thời tiết không thuận lợi. Đến năm 2000, Mehico đạt vụ mùa bội thu, khối lượng xuất khẩu lên tới 318 nghìn tấn chiếm 5,96% lượng cung cà phê trên thị trường thế giới. Sang năm 2001, thực hiện chương trình cắt giảm cà phê xuất khẩu của ICO, khối lượng giảm xuống còn 205 nghìn tấn. 3. Các nước nhập khẩu chính 3.1. Mỹ Thị trường Mỹ luôn là thị trường tiềm năng đối với mọi loại hàng hoá nói chung và đối với mặt hàng cà phê nói riêng. Nhưng đồng thời đây cũng được coi là thị trường khó tính nhất. Từ trước tới nay, Mỹ luôn giữ vị trí là nước nhập khẩu cà phê số một thế giới. Bảng 14: Mức tiêu thụ cà phê tại thị trường Mỹ qua những năm gần đây Đơn vị:1000 bao Niên vụ 1998/1999 1999/2000 2000/2001 2001/2002 Số lượng (1000 bao) 19.100 18.700 19.400 19.500 Tỉ trọng so với tổng lượng cà phê đựơc tiêu thụ toàn cầu (%) 18,73 18,10 18,56 18,47 Nguồn: Báo cáo tổng kết niên vụ 2001/2002 của VICOFA Số lượng cà phê tiêu thụ tại thị trường Mỹ là rất lớn và tương đối ổn định trong thời gian qua. Chỉ riêng thị trường này đã tiêu thụ trung bình xấp xỉ tới 18,5 % tổng số lượng cà phê được tiêu thụ trên toàn cầu. Niên vụ 2001/2002, lượng cà phê nhập khẩu vào thị trường này giảm so với niên vụ trước do tồn kho thời kỳ này của Mỹ tăng kỷ lục. Mặt hàng cà phê khi nhập khẩu vào thị trường Mỹ phải trải qua quá trình kiểm tra chất lượng rất ngặt nghèo. Tất cả số lượng cà phê khi thâm nhập vào thị trường này đều phải tuân thủ các quy định trong Đạo luật về Mỹ phẩm, Dược phẩm và thực phẩm. Tất cả các nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê nước ngoài muốn xuất khẩu cà phê sang Mỹ hay các công ty vận tải, các nhà nhập khẩu và rang xay cà phê của Mỹ đều cần phải nghiên cứu đạo luật này. Để đạt được những yêu cầu về chất lượng do thị trường Mỹ đặt ra, cà phê phải đảm bảo những yêu cầu sau: - Không sót lại các loại thuốc diệt chuột, côn trùng không được phép - Không có hoặc rất hạn chế bị sâu mọt phá trên đồn điền - Không có các loại hoá chất, không có sâu bọ sống. Tất cả các lô hàng nếu không đạt những yêu cầu này đều bị giữ lại. Cơ quan quản lý dược phẩm và thực phẩm Mỹ (FDA) là người đứng ra thi hành đạo luật trên. FDA có 20 văn phòng đặt tại các thành phố lớn của Mỹ. Các văn phòng này sẽ có quyền quyết định : - Cho nhập lô hàng cà phê mà không cần kiểm tra - Lấy mẫu lô hàng - Cho lô hàng nhập sau khi kiểm tra - Giữ lô hàng lại - Cho phép tái chế lô hàng - Xem xét lô hàng tái chế có được chấp nhận hay không. Những quyết định này được đưa ra trên cơ sở các hướng dẫn của ban lãnh đạo FDA. Ngoài các thủ tục phân tích và kiểm tra mẫu của FDA, tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO còn cùng với hiệp hội cà phê Quốc gia (NCA) thông qua tiêu chuẩn quốc tế để kiểm định. Những quy định khi nhập khẩu cà phê vào thị trường Mỹ là rất khắt khe và phức tạp. Vì vậy, bất cứ một công ty nào muốn xâm nhập vào thị trường này đòi hỏi phải có sự am hiểu về những quy định và yêu cầu ở đây. 3.2. Các nước EU EU là một thị trường truyền thống đối với mặt hàng cà phê. Uống cà phê, tiêu thụ các sản phẩm chế biến từ cà phê đã trở thành một thói quen lâu đời của người dân ở khu vực thị trường này. Hơn nữa, EU được đánh giá là thị trường dễ tính hơn rất nhiều. Những yêu cầu đối với cà phê khi nhập khẩu vào khu vực thị trường này cũng không khắt khe như thị trường Mỹ. Bảng 15: Tiêu thụ cà phê ở các khu vực EU trong một vài năm qua Niên vụ 1998/1999 1999/2000 2000/2001 2001/2002 Số lượng (1000 bao) 34.400 34.400 34.600 34.800 Tỉ trọng so với tổng lượng cà phê tiêu thụ trên toàn cầu (%) 33,73 33,30 33,11 32,95 Nguồn: Báo cáo tổng kết niên vụ 2001/2002 của VICOFA Những nước nhập khẩu cà phê chủ yếu trong khu vực này là Đức, Pháp, ý, Tây Ban Nha, Hà Lan. Trong những năm qua, riêng miền Tây nước Đức đã chiếm tới 30% lượng cà phê nhập khẩu. Pháp, ý, Đức chiếm 60% lượng cà phê nhập khẩu vào khu vực thị trường này, 25% dành cho Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan và 15% còn lại là của 6 nước Bỉ, Lucxămbua, Đan Mạch, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ailen. * Đức Người Đức luôn ưa chuộng cà phê arabica, có đến gần 75% khối lượng cà phê nhập khẩu là cà phê dịu, trong đó 44% là cà phê dịu Colombia và 29% là loại cà phê dịu khác. Cà phê dịu Braxin và cà phê Robusta chiếm tỷ trọng 13% và 14%. Không chỉ là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất Châu Âu, Đức còn là nơi mua bán và trung chuyển cà phê của cả Châu Âu. Ngoài ra Đức còn chế biến cà phê hoà tan và xuất khẩu sang khoảng gần 79 nước trong đó chủ yếu là Anh, Pháp và các nước EU khác. *Pháp Pháp đứng hàng thứ hai trong khối EU với 7 triệu bao cà phê nhập khẩu. Từ lâu Pháp đã là nước nhập khẩu quan trọng cà phê Robusta, chủ yếu từ Châu Phi và nhiều nước khác như Braxin, Cotdivoa, Colombia, Uganda. Hàng năm, Pháp tái xuất khoảng 400.000 bao loại đã khử cafein * Anh Anh đứng hàng thứ 5 trong khối EU với 3 - 3,5 triệu bao cà phê nhập khẩu mỗi năm trong suốt thời gian qua. Tỷ trọng cà phê arabica nhập khẩu bắt đầu tăng lên từ những năm 80 và chiếm 58% kim ngạch nhập khẩu cà phê. Cà phê hoà tan chiếm ưu thế hoàn toàn với 91% thị trường cà phê nhập khẩu vào Anh thông qua các nhà nhập khẩu, các đại lý môi giới và các nhà rang xay. Các đại lý đóng vai trò đại diện cho các nhà rang xay. Ngoài việc mua cà phê từ các đại lý, các nhà rang xay mua trực tiếp từ các hãng xuất khẩu cà phê, các trung tâm buôn bán cà phê quốc tế và qua sở giao dịch cà phê London. II. Những biến động bất thường của thị trường cà phê thế giới trong thời gian qua. 1. Những biến động bất thường. 1.1. Giá cả tăng giảm bất thường và có xu hướng giảm mạnh. Khác với nhiều mặt hàng xuất khẩu khác, thị trường mặt hàng nông sản tương đối bất định, trong đó đặc biệt phải kể đến thị trường cà phê. Mặc dù nhu cầu về mặt hàng cà phê trên thế giới ổn định nhưng cà phê là một loại cây sinh học, sản lượng của nó không chỉ phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người mà còn phụ thuộc vào yếu tố khách quan khác là thời tiết. Vì vậy, lượng cung thường năm ngoài tầm kiểm soát của các nhà sản xuất cà phê. Đợt biến động giá cả lần này không phải là lần biến động đầu tiên, nhưng có thể nói đây là giai đoạn mà giá cà phê xuống kỷ lục, thấp nhất trong vòng 30 năm trở lại đây. Giá cả bắt đầu giảm từ niên vụ 1999/2000 và kéo dài sang năm 2002. Thậm chí đến nay đã là cuối năm 2002, mặc dù giá cả có tăng lên chút ít nhưng tình hình vẫn chưa có gì khả quan. Giá cả biến động đến mức chóng mặt, không thể tính theo vụ, theo quý , theo tháng mà phải tính cho từng ngày. Vào tháng 1/2000, thời điểm đầu của giai đoạn biến động, tại sàn giao dịch London, giá cà phê vối là 1.480USD/tấn và tại sàn giao dịch New york, giá cà phê chè là 2553USD/tấn. Đến tháng 3/2002, cũng tại hai thị trường trên, giá cà phê vối giảm xuống còn 991USD/tấn (giảm 33%), và giá cà phê chè là 2268USD/tấn. Đến nay là cuối niên vụ 2002 nhưng giá cà phê vẫn chưa có xu hướng ổn định trở lại. Đặc biệt là vào thời điểm 2/2002, giá cà phê đạt mức thấp kỷ lục trong vòng 30 năm trở lại đây. Giá cà phê vối giao ngay giảm xuống còn 373USD/tấn (giảm 74% so với thời điểm đầu giai đoạn biến động, 1/2000), và giá cà phê chè là 1020USD/tấn (giảm 55%). Bảng16: Diễn biến giá cà phê tại một số thời điểm như sau: Đơn vị : USD/tấn Thời điểm Arabica (Thị trường Newyork) Robusta (Thị trường London) 1/2000 2553 1480 3/2000 2268 991 6/2000 1977 897 11/2000 1667 662 1/2001 1430 650 3/2001 1385 607 15/3/2001 1365 585 12/2001 1057 387 1/2002 1030 380 2/2002 1020 373 1/3/2002 1025 450 15/3/2002 1220 526 Nguồn: VICOFA Có thể thấy, giá cả biến động mạnh nhất vào giai đoạn cuối năm 2001, đầu năm 2002. Kể từ giữa năm 2002 đến nay, giá cả có dấu hiệu phục hồi đôi chút, tuy nhiên không ổn định. Tại thị trường Châu á, giá chào bán cà phê vối (robusta) loại 2 của Việt Nam (5% đen vỡ) thời gian này đã tăng với tốc độ cao hơn, tăng 93-97% từ 305USD/tấn lên 595 - 600USD/tấn FOB, giá cà phê vối EK-1 loại 4 của Indonesia tăng 31-32%USD/tấn FOB. Tại thị trường Newyork, giá cà phê chè (arabica) giao ngay trong thời gian qua tăng với tốc độ khiêm tốn hơn, 17-19%. Mặc dù giá cả có dấu hiệu phục hồi như vậy nhưng đến nay giá cà phê vẫn rất thấp. Cho đến thời điểm 15/8/2002, giá cà phê cũng chỉ bằng gần 1/2 giá cà phê tại thời điểm đầu giai đoạn biến động. Theo các chuyên gia kinh tế đánh giá, trường hợp cà phê lên giá gần đây mang tính không bình thường và không ổn định. Đây không phải là dấu hiệu của sự phục hồi giá cả vì quan hệ cung cầu chưa hề thay đổi. Nguyên nhân của việc tăng giá này có thể là do một số nhà đầu cơ găm giữ cà phê chờ giá tăng sẽ bán ra. Vì vậy, sự tăng giá này chỉ mang tính chất thời điểm. Khi các nhà cung cấp và những kẻ đầu cơ tung lượng cà phê găm giữ ra có thể giá cà phê lại tiếp tục giảm. Và nguồn cung dư thừa sẽ vẫn là đặc điểm của thị trường cà phê trong dài hạn. Đây chính là nhân tố khiến cho giá cà phê khó có thể tăng lên một cách ổn định. 1.2. Giá cà phê chế biến vẫn ổn định và có xu hướng tăng. Cà phê chế biến hay còn gọi là cà phê có giá trị gia tăng có hai loại phổ biến là cà phê hoà tan và cà phê rang xay. Trong thời gian qua, trong khi giá cà phê hạt giảm mạnh thì giá mặt hàng cà phê chế biến vẫn ổn định. Những biến động mạnh và bất thường của thị trường trong thời gian qua chỉ tô đậm nét thêm khoảng cách giữa thu nhập của cộng đồng những người sản xuất cà phê và thu nhập của những tập đoàn chế biến cà phê khổng lồ trên thế giới. Hiện nay trên thế giới, hoạt động chế biến cà phê bị thâu tóm trong tay những tập đoàn rang xay lớn. Họ có thế mạnh và tiềm lực tài chính vì vậy vào thời điểm thị trường cà phê nhân đang lao đao, các tập đoàn này tranh thủ ép giá khiến cho giá cà phê nhân càng sụt xuống tới mức thê thảm. Bên cạnh đó, nắm được tâm lý của người tiêu dùng là một khi uống cà phê đã trở thành thói quen thì rất khó bỏ vì vậy họ có thể yên tâm duy trì mức giá cao mà không gặp phải một phản ứng nào từ phía người tiêu dùng. Hiện nay, giá cà phê hoà tan là 5730USD/tấn và giá cà phê rang xay là 5200USD/tấn, gấp từ 7-10 lần giá cà phê nhân. Điều này cho thấy một nghịch lý là trong khi người sản xuất cà phê phải chịu thiệt thòi, người tiêu dùng không được lợi gì thì lợi nhuận lại tập trung vào tay những tập đoàn chế biến và rang xay lớn. ở Việt Nam, trong thời gian qua, trong khi kim ngạch thu được từ cà phê nhân giảm do giá cà phê không ngừng biến động theo chiều hướng tiêu cực thì kim ngạch cà phê chế biến lại vẫn ổn định và tăng đôi chút. Trong năm 2001, Việt Nam đã xuất được 596,950 tấn cà phê hoà tan, trị giá 1.651.428USD với đơn giá là 2766,44USD/tấn và 41,766 tấn cà phê rang xay, trị giá 133.766USD với đơn giá là 3202,70USD/tấn. Có thể thấy cà phê nhân qua chế biến đã nâng cao giá trị lên nhiều lần. Nếu các nước xuất khẩu cà phê không có biện pháp để giành lại vị thế của mình cũng như sự chủ động về giá cả thì giá cà phê chế biến tăng và giá cà phê nhân giảm sẽ vẫn là xu thế biến động của thị trường cà phê trong thời gian tới. 1.3. Xuất hiện các thị trường tiêu thụ tiềm năng lớn. Uống cà phê vốn dĩ chỉ là thói quen và sở thích của các thị trường truyền thống như Châu Mỹ, Châu âu… thì trong một vài năm trở lại đây đã có một sự đột phá trong việc khai thác thị trường tiêu thụ cà phê ở các khu vực mới như Châu á, Châu Phi… Bằng việc đưa ra những loại cà phê hảo hạng, chất lượng cao và chiến lược marketing phù hợp, các nhà sản xuất và chế biến cà phê đã đánh thức thị hiếu tiêu dùng ở ngay cả những thị trường ít triển vọng nhất. Tiêu biểu trong số các thị trường này là : Nhật Bản, Nga và Trung Quốc. * Nhật Bản Nhật Bản vốn là xứ sở của trà đạo, tuy nhiên trong những năm gần đây uống cà phê đang dần trở thành một xu thế trên thị trường này. Tốc độ tăng nhu cầu cà phê tại Nhật Bản mấy năm trở lại đây có xu hướng khá tốt do lượng uống tại nhà tăng lên đáng kể cộng thêm sự mở rộng của mạng lưới các cửa hàng cà phê đặc sản. Trong năm 2001, nước này đã nhập khẩu 6.998,7 nghìn bao cà phê. Đến năm 2002, khối lượng nhập khẩu đã lên tới 7.125,3 nghìn bao và dự đoán đến năm 2003, khối lượng nhập khẩu sẽ là 7224,8 nghìn bao. Một số công nghệ tiên tiến như sản xuất loại phin pha cà phê dùng một lần chiếm một vị trí quan trọng trong bước phát triển này. Mặc dù là thị trường tiêu thụ tiềm năng nhưng đồng thời Nhật Bản lại là thị trường rất khó tính. Những năm qua, cà phê Việt Nam tuy đã vào được thị trường này nhưng xét về điều kiện địa lý và quan hệ cung cầu thì sản lượng cà phê của Việt Nam xuất vào thị trường này vẫn chưa tương xứng. Năm 1998 sản lượng cà phê Việt Nam xuất sang Nhật Bản chỉ chiếm 3,7% tổng số lượng cà phê xuất khẩu, năm 1999 là 4,7%. Do đó, trong thời gian tới Việt Nam cần có những giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu cà phê vào thị trường này. * Nga Với chương trình khuyến khích tiêu thụ cà phê của ICO, cà phê ngày càng được coi là thời thượng ở Nga. Nhu cầu cà phê tăng lên rõ rệt trong thời gian qua. Tuy vậy, trong lĩnh vực này, các công ty trong nước chỉ chiếm 15% thị phần, 85% nhu cầu còn lại thuộc về các tập đoàn lớn như Nestle. Theo số liệu của Hải quan Nga, năm 2001 nước này đã nhập 21.400 tấn cà phê, tăng 5,4 tấn so với năm 2000. ICO còn cho biết tiêu thụ tại thị trường sẽ tăng 10% mỗi năm. Nga vốn cũng là một nước có truyền thống uống trà nhưng đến nay các quán bar cà phê đang nảy nở khá rầm rộ tại nước này. Mặc dù nhập khẩu chè vẫn không có thay đổi lớn nhưng nhập khẩu cà phê hàng năm vẫn tăng khá đều. Cà phê hoà tan hiện nay khá được ưa chuộng tại Nga và ngày càng có nhiều công ty trong nước tham gia vào sản xuất sản phẩm này cùng với các bước cà phê hoà tan nhập khẩu thâm nhập vào thị trường thông qua việc đẩy mạnh sản xuất và thiết lập các nhà máy đóng gói và các cơ sở phân phối. Vì vậy, đây sẽ là một thị trường hứa hẹn nhập khẩu cà phê với khối lượng lớn trong tương lai gần. Đối với thị trường này Việt Nam có một số thuận lợi hơn so với các nước sản xuất cà phê khác. Nga và các nước SNG vốn là các thị trường truyền thống của Việt Nam. Trước năm 1990, nhà nước ta thường ký hiệp định xuất khẩu cà phê với chính phủ Liên Xô cũ, cộng hoà dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Tiệp Khắc. Nhưng do tình hình chính trị, xã hội ở Đông Âu diễn ra phức tạp, thị trường XHCN tan rã, các hiệp định này chấm dứt. Và cho đến nay, cà phê Việt Nam vẫn chưa khôi phục được hoàn toàn các thị trường này. Trước xu thế mới về thị trường tiêu thụ này ngành cà phê Việt Nam cần phải tận dụng cơ hội vì cà phê Việt Nam đã được biết đến ở khu vực thị trường Nga và đây là điều không dễ dàng có được trong kinh doanh. * Trung Quốc Mặc dù tập quán của người dân ở đây là uống trà nhưng trong những năm gần đây cà phê đang là đồ uống ngày càng được ưa chuộng, nhiều sản phẩm chế biến từ nguyên liệu cà phê cũng được người tiêu dùng yêu thích. Hơn nữa, việc Trung Quốc gia nhập vào WTO đẵ tạo ra một thị trường thông thoáng và sôi động hơn. Vì vậy, theo ICO, Trung Quốc cũng là nước mục tiêu của ICO bên cạnh Nga. Mỗi năm lượng cà phê tiêu thụ ở thị trường này tăng tới 30%. Tuy nhiên đây chỉ là bước nhảy vọt từ con số ban đầu quá nhỏ bé do văn hoá trà đã ăn sâu vào tiềm thức người dân, mọi ý định thay đổi nét văn hoá này đều gặp phải những phản kháng khá mạnh. Mặc dù vậy, hiện nay hãng Starbucks đã là một trong số các hãng cà phê lớn của thế giới gặt hái được những thành công đáng kinh ngạc trong việc đưa các quán bar cà phê vào nước này kể từ năm 1999. Cho tới cuối năm 2001, hãng này đã mở được 35 quán chủ yếu là ở Bắc Kinh và Thượng Hải. Trong thực tế, Starbucks chỉ là người tiên phong và là một trong số rất nhiều hãng đã, đang và sẽ khai thác thị trường tiềm năng và đầy triển vọng này. ._.. - Thiết lập quan hệ mua bán cà phê nguyên liệu trực tiếp với người trồng cà phê để giảm chi phí mua qua đại lý. 1.4. Thâm canh tăng năng suất và duy trì sinh thái. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, cà phê lại sinh trưởng ở các vùng trung du, vì vậy sâu bệnh có điều kiện phát triển mạnh và dễ dàng trở thành dịch. Do đó cần luôn có các hình thức kiểm tra chăm sóc vườn cẩn thận để nhanh chóng phát hiện ra các mầm bệnh và xử lý kịp thời, tránh để lan rộng thành dịch gây thiệt hại lớn như ở một số nước khác. Mặt khác cũng cần ngăn chặn những khuynh hướng khai thác triệt để như sử dụng phân hoá học quá nhiều, làm dụng chất kích thích sinh trưởng, tưới nước ồ ạt, thúc đẩy cây ra hoa quả nhiều để có năng suất cao trong một số năm nhưng sau đó vườn cây lại tàn lụi nhanh chóng, làm hiệu quả kinh tế thấp kém. Thâm canh chăm sóc vườn cây, duy trì năng suất cao, ổn định môi trường sinh thái bền vững suốt chu kỳ sinh trưởng phải là một nhiệm vụ quan trọng. 2. Chiến lược cho chế biến 2.1. Đầu tư nâng cao công nghệ chế biến Ngoài các vấn đề về giống, khí hậu, canh tác, thì việc áp dụng công nghệ sau thu hoạch chưa hợp lý là một nguyên nhân quan trọng làm giảm chất lượng cà phê Việt Nam. Quá trình sản xuất cho thấy rằng công nghệ nào thì sản phẩm đó. Những cơ sở chế biến lạc hậu sẽ dẫn đến tình trạng bị động và thường gây ra lãng phí, giá thành cao, chất lượng kém. Hiện nay, thiết bị máy móc chế biến cà phê Việt Nam đã lạc hậu hai, ba thế hệ so với các nước trong khu vực. Điều này lý giải cho thực trạng vì sao Việt Nam xuất khẩu cà phê hạt nhưng lại nhập khẩu về cà phê chế biến từ chính nguyên liệu là cà phê Việt Nam. Nâng cao công nghệ chế biến là một vấn đề không còn phải bàn cãi. Tuy nhiên trong giai đoạn khó khăn hiện nay, cà phê sụt giá nghiêm trọng, không có lãi, người trồng cà phê khó có "lực" để đầu tư nhiều vào khâu chế biến. Thậm chí ngay cả những doanh nghiệp chế biến cà phê cũng gặp khó khăn trong vấn đề này. Vì vậy, nhà nước cần mạnh dạn đầu tư cho các doanh nghiệp trong việc nâng cao trình độ và đổi mới thiết bị - công nghệ. Trước mắt ưu tiên chế biến cà phê chè bằng các thiết bị mới hiện đại đồng thời tiếp tục thay thế dần các dây truyền chế biến cũ, lạc hậu trong cà phê vối. Tại các cơ sở làm hàng xuất khẩu cần được trang bị hệ thống chế biến đồng bộ để tái chế nâng cấp chất lượng xuất khẩu . Mục tiêu của ngành cà phê về lâu dài phải nâng cấp công nghệ khâu chế biến, theo kịp các nước khác trên thế giới. Hiện nay, đầu tư nâng cấp khâu chế biến cho bằng các nước khác là rất khó khăn và không phù hợp với nguồn vốn đầu tư eo hẹp của Việt Nam. Việt Nam nên thực hiện từng bước và trong thời điểm này Việt Nam nên lựa chọn những thiết bị và công nghệ có đặc tính mới, tiên tiến, tiêu hao ít nhiên liệu, nước sạch và phải phù hợp với điều kiện từng vùng. Theo ước tính của VINACOFE, với mức đầu tư khoảng 10 triệu đồng đã có thể xây dựng tại các bản làng có diện tích trồng cà phê nhỏ, phân tán (tổng diện tích dưới 50 ha) các trạm chế biến nhỏ công suất 0,3 tấn quả tươi/giờ. Với mức đầu tư 1,5 tỷ đồng có thể xây dựng xưởng chế biến quy mô vừa (công suất 4- 10 tấn quả tươi/ giờ) áp dụng cho các vùng cà phê có diện tích từ 50 - 100 ha. Mức chi phí này là hoàn toàn có thể thực hiện được. Tuy nhiên đối với những vùng cà phê chuyên canh (diện tích từ 500 - 1000 ha) cần xây dựng các xưởng chế biến quy mô lớn để chế biến ra cà phê đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, nhà nước có thể khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài dưới hình thức đầu tư vốn hoặc chuyển giao công nghệ. Đầu tư đổi mới công nghệ trong chế biến xuất khẩu đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ và công nhân có trình độ để áp dụng các kỹ thuật tiến bộ, biết vận hành hệ thống máy móc hiện đại và quy trình công nghệ tiên tiến. Vì vậy, công tác đào tạo cho đội ngũ nhân công trong lĩnh vực chế biến cũng như công tác tuyên truyền rộng rãi đến người sản xuất, người cung cấp cà phê xuất khẩu là rất cần thiết. 2.1. Sản xuất cà phê chế biến chất lượng cao, cà phê đặc biệt, cà phê hảo hạng. Một xu thế chung mà hiện nay các nước xuất khẩu cà phê trên thế giới đang theo đuổi là cho ra đời các sản phẩm cà phê chế biến chất lượng cao, hảo hạng, có hương vị đặc biệt mang tính chất đặc sản của từng vùng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng khó tính của người tiêu dùng. Và đây cũng không còn là điều mới mẻ trong chiến lược phát triển cà phê của các nước, vì vậy Việt Nam cũng không nên nằm ngoài xu thế chung này. Sản phẩm hàng hoá sản xuất ra là để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nếu cà phê Việt Nam không có những bước cố gắng mới cho ra đời những loại cà phê chất lượng cao, đặc biệt thì cà phê Việt Nam sẽ nhanh chóng bị loại khỏi thị trường. Trong vấn đề này, Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm của một số nước như các nước sản xuất cà phê ở khu vực Trung và Nam Mỹ. Các nước này đã nhận biết được lợi ích của việc sản xuất cà phê chất lượng cao và cung cấp cho thị trường nhiều loại cà phê đặc sản. Ví dụ như Colombia dự định sẽ tăng gấp đôi lượng cà phê chế biến hảo hạng trong vòng 5 năm tới. Hiện nay, cà phê hảo hạng chiếm tới 10% tổng lượng cà phê xuất khẩu của nước này. Thật đáng tiếc, công nghiệp chế biến đồ uống cà phê của Việt Nam còn quá nhỏ bé, có nguy cơ bị nước ngoài tranh mất thị trường chứ chưa nói tới việc Việt Nam xuất khẩu cà phê thành phẩm chất lượng cao, hảo hạng. Có thể nói rằng, trong thời gian qua, công nghiệp chế biến cà phê đã không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của sản xuất cà phê. Vì vậy trong thời gian tới, Việt Nam nên xây dựng chiến lược phát triển cà phê chế biến chất lượng cao, cà phê đặc biệt trước khi quá muộn. Điều này đối với Việt Nam không phải là quá khó. Việt Nam có nhiều vùng có khả năng sản xuất ra cà phê thơm ngon có hương vị đặc biệt như Buôn Mê Thuật….Hơn nữa, đa số cà phê tự nhiên của chúng ta được các nhà cung ứng của Mỹ và Châu âu đánh giá cao về chất lượng. Nếu có những chủ trương sản xuất tốt cộng với chế biến tốt ngành cà phê Việt Nam hoàn toàn có thể đưa ra thị trường những mặt hàng cà phê hảo hạng. Thị trường cà phê chế biến nhìn chung luôn ổn định cho dù thị trường cà phê nhân luôn có những biến động bất thường. Vì vậy, một khi gia nhập được vào thị trường này thì ngành cà phê Việt Nam sẽ có thế phát triển ổn định hơn, ít chịu tác động của những biến động thị trường. Bằng chứng là trong cuộc khủng hoảng thừa vừa qua, những tập đoàn chế biến cà phê là người duy nhất thu được lời nhuận cao. 3. Chiến lược cho xuất khẩu 3.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu Với khối lượng cà phê xuất khẩu ngày càng lớn như hiện nay thì ngành cà phê Việt Nam không thể thụ động ngồi chờ khách hàng đến mua mà phải chủ động tạo ra thị trường. Vấn đề mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê không phải chỉ mới được đặt ra khi ngành cà phê Việt Nam lâm vào giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng của những biến động bất thường của thị trường cà phê thế giới. Thực chất, trước đó, trong nghị quyết của Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 9 đã chỉ rõ : "định hướng phát triển trong giai đoạn 2001-2010 là phải mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới mà trong đó gạo và cà phê là hai mặt hàng nông sản chủ lực". Trước xu thế biến động của tình hình kinh tế nếu không có giải pháp mang tính đột phá để khai thông thị trường, thúc đẩy xuất khẩu thì khó có thể hoàn thành các chỉ tiêu xuất khẩu cho giai đoạn này. Cà phê Việt Nam mặc dù đã có mặt tại hơn 60 nước trên thế giới nhưng nói chung thị trường tiềm năng vẫn còn rất nhiều. Chúng ta cần phải củng cố các thị trường hiện có và khai thác thêm nhiều thị trường mới bởi vì có tới 95% sản lượng cà phê Việt Nam là giành cho xuất khẩu. Các thị trường tiềm năng đồng thời cũng là những thị trường trọng điểm của Việt Nam, bao gồm: Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga . Để có thể xâm nhập và trụ vững tại các thị trường tiềm năng này, bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của các đơn vị sản xuất và xuất khẩu cà phê còn đòi hỏi sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Vì vậy, giải pháp về thị trường phải bao gồm cả giải pháp vĩ mô và giải pháp vi mô. * Xét về vĩ mô: Để đẩy mạnh việc tiếp cận thị trường và xúc tiến xuất khẩu của các doanh nghiệp, Nhà nước cần: - Bố trí tham tán nông nghiệp theo dõi thông tin và thực hiện các hoạt động giao dịch thương mại nông sản, cụ thể là mặt hàng cà phê, trước mắt ở các thị trường lớn như Trung Quốc, EU, Mỹ…Các tham tán thương mại phải đứng ra làm cầu nối giữa các đơn vị xuất khẩu cà phê với thị trường nước ngoài, giúp các đơn vị tìm hiểu và tiếp cận các thị trường này. - Bộ Nông nghiệp phải thực hiện một số nội dung xúc tiến thương mại đối với mặt hàng cà phê như: phối hợp với các nước sản xuất cà phê khác tổ chức những hội chợ chuyên về cà phê, tổ chức các buổi thử nếm, tham quan vùng sản xuất, trưng bầy hàng hoá để có dịp quảng bá mặt hàng cà phê Việt Nam - Hỗ trợ một phần kinh phí và tổ chức đầu mối giúp các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam tham gia hội chợ về cà phê ở các nước hay tổ chức các buổi hội thảo để giới thiệu với khách hàng trong và ngoài nước. Đây chính là sự hỗ trợ thiết thực nhất từ phía Nhà nước do phần lớn các đơn vị xuất khẩu cà phê có tiềm lực tài chính rất hạn chế. * Xét về mặt vi mô. Sự hỗ trợ từ phía Nhà nước là rất quan trọng, tuy nhiên yếu tố quyết định vẫn là sự nỗ lực của bản thân các đơn vị xuất khẩu cà phê. Các doanh nghiệp cần phải: - Cần phải am hiểu rõ luật pháp liên quan đến hoạt động kinh doanh ở các thị trường này. Thiếu hiểu biết về hệ thống luật của thị trường nước ngoài không phải chỉ là những khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam mà còn của các doanh nghiệp nói chung. Để tránh tình trạng này, các đơn vị nên liên hệ với các công ty luật của nước ngoài có mặt tại Việt Nam hoặc các đại sứ quán, lãnh sự quán đặc biệt là tham tán thương mại Việt Nam tại các thị trường này để được tư vấn nhằm tránh được rủi ro trong kinh doanh. - Truy cập và xử lý tốt các thông tin về các thị trường tiềm năng này, - Xây dựng hệ thống đại lý ở các thị trường tiềm năng để có dịp nghiên cứu rõ hơn về thị trường và đáp ứng kịp thời các nhu cầu. Đặc biệt cà phê xuất khẩu thường bị mốc, biến chất do quá trình chuyên chở kéo dài, vì vậy giải pháp này có thể khắc phục được tình trạng trên. - Các trang Web giới thiệu về sản phẩm cà phê Việt Nam cần phải phong phú và cập nhật hơn. Quảng cáo trên Internet hiện đang được coi là một trong những phương tiện quảng cáo phổ biến nhất và nó có tác dụng đẩy nhanh hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên đây là một số các giải pháp chung khi xâm nhập vào các thị trường. Tuy nhiên, thị trường thì muôn hình muôn vẻ, mỗi thị trường có những điều kiện thuận lợi và khó khăn khác nhau. Vì vậy, khi ứng dụng vào mỗi thị trường cần phải kết hợp với các đặc điểm riêng của các thị trường đó. Đối với thị trường Hoa Kỳ, kể từ sau khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được ký kết, Việt Nam gặp nhiều thuận lợi hơn khi xâm nhập vào thị trường này. Tuy nhiên đây vẫn được đánh giá là thị trường khó tính nhất. Vì vậy khi xuất khẩu cà phê vào thị trường này cần nghiên cứu rõ nhưng tiêu chí chất lượng mà thị trường này đặt ra đối với mặt hàng cà phê và cà phê phải đảm bảo đẵ được kiểm tra cẩn thận trước khi xuất khẩu. Các thị trường Nhật Bản, Trung Quốc vốn là những thị trường có truyền thống uống trà. Mặc dù trong thời gian gần đây uống cà phê đang dần dần được du nhập vào các nước này, nhưng nó vẫn chưa thế trở thành một thói quen. Để khai thác các thị trường tiềm năng này cần phải có chiến lược marketing kiên trì trong thời gian dài. Quảng cáo trên mọi phương tiện sẽ được kết hợp với việc tổ chức các buổi giới thiệu sản phẩm nhăm tạo lập hình ảnh về cà phê Việt Nam trong tâm trí người tiều dùng. Thị trường Nhật Bản và Trung Quốc vốn là những thị trường gần, vì vậy bước đầu chưa nhất thiết phải thiết lập các đại lý ở đây nhằm giảm chi phí kinh doanh. Đối với thị trường Nga, chúng ta có một lợi thế là cà phê Việt Nam đã được biết đến ở khu vực thị trường này trước những năm 90 thông qua các hiệp định xuất khẩu cà phê với chính phủ Liên Xô cũ. Vì vậy bên cạnh các hình thức quảng cáo, tham gia hội chợ ở nước này chúng ta có thể tạo dựng một mạng lưới phân phối ở đây với những cán bộ marketing giỏi về ngoại ngữ và nghiệp vụ. EU tuy không được xếp vào các thị trường tiềm năng nhưng lại là một thị trường truyền thống của cà phê Việt Nam, hàng năm Việt Nam xuất khẩu sang EU một khối lượng rất lớn. Do đặc điểm của thị trường này là nhu cầu cà phê gần như đã bão hoà vì uống cà phê đã là một thói quen lâu đời của người dân ở đây. Vì vậy, chiến lược thị trường đối với khu vực này cũng khác so với các khu vực khác. Với mục tiêu là duy trì thị phần vốn có ở khu vực thị trường này, chúng ta chủ yếu thực hiện bằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giao hàng đúng hạn để tạo nên uy tín tại các thị trường này. 3.2. Xây dựng thương hiệu có uy tín Theo các chuyên gia quốc tế, việc giá cà phê của Việt Nam suy giảm không chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân dư thừa cà phê trên thị trường thế giới mà chủ yếu là do cà phê Việt Nam còn thiếu thương hiệu, một yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt cho bất kỳ một sản phẩm giao dịch nào trên thị trường quốc tế. Cũng theo lời nhận định của ông Rolf Sauerbter, giám đốc tiếp thị của công ty Craft Foods, một hãng cà phê nổi tiếng của Đức " chất lượng cà phê Việt Nam không thua kém gì cà phê Brazil nhưng vì không có thương hiệu nên không thể cạnh tranh được. Thực tế, Việt Nam hiện là một trong những nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới nhưng cho tới nay vẫn chưa có được một thương hiệu nào thực sự "đáng nể". Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với cà phê Việt Nam là phải xây dựng được thương hiệu có uy tín. Một thương hiệu được cấu thành từ một hỗn hợp các thành phần bao gồm: lôgô hay biểu tượng, tên công ty, tên sản phẩm, mầu sắc, thiết kế bao gói. Mỗi một thành phần này đóng góp cho một cảm giác đó là nhãn hiệu của doanh nghiệp, nhưng bản thân mỗi cái đó không thể tạo nên thương hiệu. Thương hiệu là kết quả các kinh nghiệm đã tích luỹ được của người tiêu dùng với nhận thức về công ty, những con người của công ty và các sản phẩm của họ. Thương hiệu cũng không phải là một hoạt động mà doanh nghiệp có thể hoàn thành trong thời gian ngắn hoặc là mua sẵn từ một công ty tư vấn hay quảng cáo. Một thương hiệu thành công được xây dựng qua một thời gian dài từ hàng trăm điều nhỏ mà doanh nghiệp làm đúng. Thương hiệu có tác dụng rất lớn vì nó luôn in sâu vào đầu óc của mọi khách hàng và càng ngày thương hiệu càng trở thành một thứ tài sản vô cùng quan trọng và là vũ khí cạnh tranh sắc bén của doanh nghiệp trên thương trường. Vì vậy, xây dựng thương hiệu là vấn đề cấp thiết hiện nay không chỉ đối với mặt hàng cà phê mà còn nhiều sản phẩm khác nói chung. Để xây dựng thương hiệu, vấn đề trước mắt là phải giúp các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trong nước hiểu được một cách chính xác thế nào là thương hiệu cũng như ý thức được vai trò và tầm quan trọng của nó…Tuy nhiên, từ nhận thức đến hành động vẫn còn là một khoảng cách khá xa. Vì vậy, trước tiên các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam rất cần đến sự hỗ trợ của Cục xúc tiến thương mại để quảng bá được hình ảnh của cà phê Việt Nam ra thị trường thế giới. Việc quảng bá hình ảnh của cà phê Việt Nam có thể được thực hiện bằng các chương trình quảng cáo hướng ra nước ngoài nhằm mục đích là tăng cường nhận biết của người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu trên thị trường để họ có thái độ nhìn nhận tích cực hơn, có lòng tin hơn và từ đó có thiện cảm và ưa chuộng cà phê Việt Nam hơn. Bên cạnh sự hỗ trợ của Cục xúc tiến thương mại, bản thân mỗi doanh nghiệp cũng phải nỗ lực xây dựng cho mình một thương hiệu có uy tín và bước đầu tiên các doanh nghiệp phải làm là nâng cao chất lượng kết hợp với hoạt động marketing để tạo nên những ấn tượng rất riêng và lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm. Chúng ta cần thực hiện dấu hiệu thương mại thống nhất đối với các loại cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Dấu hiệu này phải được gắn cho tất cả các loại sản phẩm từ cà phê nhân tới cà phê tinh chế của các nhà xuất khẩu, đồng thời tích cực truyền thông dấu hiệu đó tới thị trường tiêu dùng cà phê quốc tế. Có thể nói, cho đến nay, Trung Nguyên là thương hiệu cà phê duy nhất của Việt Nam chiếm được một vị trí nhất định trên thị trường thế giới. Thương hiệu cà phê Trung Nguyên không chỉ xuất hiện ở Mỹ, Nhật mà còn ở rất nhiều thị trường tiêu thụ khác. Một khách hàng người Nhật đã nói về ấn tượng của mình đối với cà phê Trung Nguyên như sau: "phong cách bài trí của cửa hàng mang nét văn hóa Việt Nam với các bức tranh thiếu nữ mặc áo tứ thân và các tranh ảnh Việt Nam khác. Nhiều loại cà phê khác nhau được đựng trong bao bì rất ấn tượng và bắt mắt, thu hút được sự chú ý của khách hàng". Đấy chính là điều mà cà phê Trung Nguyên đã làm được, xây dựng được một hình ảnh cà phê rất riêng mang đậm phong cách Việt Nam trong tâm trí khách hàng. Và đây cũng là điều mà các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam cần phải học tập. Nếu như xây dựng một thương hiệu có uy tín là một vấn đề khó khăn đòi hỏi thời gian và sự kết hợp của nhiều yếu tố thì việc quản lý thương hiệu cũng là một vấn đề không đơn giản. Sự kiện thương hiệu của một số mặt hàng Việt Nam như cà phê Trung Nguyên, thuốc lá Vinataba, nước mắm Phú Quốc… đang bị các nước khác sử dụng là một bài học cho các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp sản xuất, chế biến cà phê nói riêng. Vì vậy, bên cạnh việc xây dựng thương hiệu có uy tín, doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến vấn đề quản lý và củng cố thương hiệu của mình. 3.3. Giảm dần phương thức xuất khẩu qua trung gian Cà phê trên thế giới được buôn bán theo hai hình thức: buôn bán trực tiếp và buôn bán qua trung gian. Thị trường cà phê thế giới chủ yếu tập trung vào các nhà phân phối lớn. Hiện nay có khoảng 20 nhà phân phối quốc tế thao túng toàn bộ thị trường, chèn ép về giá cả và chất lượng gây nhiều thiệt hại cho các nhà xuất khẩu. Điển hình là bốn tập đoàn lớn: General Foods (Mỹ), Procter & Gamble (Mỹ), Jacobs (Thuỵ Sỹ), và Consolidated Foods ( nay mang tên là Sarah Lee). Hầu hết các nhà xuất khẩu của nước ta đều phải xuất qua các trung gian quốc tế. Điều này không chỉ gây sức ép về giá cả, chất lượng mà còn ảnh hưởng đến hoạt động thu gom cà phê ở thị trường trong nước, thị trường trong nước luôn bị rơi vào thế bị động. Nguyên nhân là do vốn của các doanh nghiệp thu gom rất ít nên họ không thể thu gom cà phê để dự trữ, nên khi thị trường cà phê quốc tế sôi động thì hoạt động thu gom trong nước cũng nhộn nhịp, còn khi các trung gian quốc tế giảm lượng mua hay hạ thấp giá cả thì thị trường thu mua nội địa sẽ trao đảo, ách tắc. Việt Nam cần phải từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào các trung gian quốc tế và tiến tới cung cấp trực tiếp cho các thị trường tiêu thụ trên thế giới. Việc thâm nhập thị trường nước ngoài, tiến tới xuất khẩu trực tiếp, giảm dần xuất khẩu qua trung gian là kết quả tổng hợp của nhiều biện pháp chính trị, ngoại giao, kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương và đòi hỏi sự nỗ lực của cơ quan Nhà nước và của các doanh nghiệp. Trong đó, cần tập trung thực hiện các bước sau: * Bản thân doanh nghiệp: + Không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh (chất lượng, chủng loại phù hợp với thị hiếu của từng thị trường) + Có kế hoạch và biện pháp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ làm công tác thị trường nước ngoài, xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại thương có năng lực. + Cập nhật thông tin về thị trường cà phê thế giới. + Xây dựng và thực hiện chiến lược marketing, tiến hành quảng cáo, tham gia hội chợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thượng mại khác ở nước ngoài để có điều kiện quảng bá về sản phẩm cà phê Việt Nam cũng như tìm kiếm đối tác, thiết lập các mối quan hệ kinh doanh. * Về phía Nhà nước: + Tổ chức tốt các việc nghiên cứu, khảo sát thị trường nước ngoài. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lơi cho các cơ quan có trách nhiệm của Bộ Thương Mại (như: các Vụ chính sách thị trường ngoài nước, các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Viện nghiên cứu thương mại, Cục xúc tiến thương mại, Trung tâm thông tin thương mại) trong công tác nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và kết quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam ra nước ngoài khảo sát, tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu. + Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất và chế biến cà phê Việt Nam xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý để giới thiệu và phân phối hàng. + Ký cam kết "G to G" với các nước mà ở đó sự can thiệp của chính phủ có vai trò quyết định đối với việc nhập khẩu cà phê nước ta. + Bên cạnh việc xây dựng kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài và Bộ thương mại đến các doanh nghiệp sản xuất, chế biến- xuất khẩu cà phê Việt Nam, nhà nước còn có thể thực hiện thương mại hoá thông tin, áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể và kịp thời của doanh nghiệp. 4. Chiến lược về tổ chức và quản lý. 4.1. Nâng cao vai trò quản lý của VICOFA. - Tăng cường vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) nhằm theo dõi sát sao diễn biến thị trường cà phê thế giới, dự đoán và tổ chức thống nhất hành động của các nhà xuất khẩu cà phê Việt Nam, điều hoà lợi ích giữa các doanh nghiệp xuất khẩu, chế biến và sản xuất cà phê đồng thời đưa ra kiến nghị với chính phủ trong việc hình thành các chính sách về sản xuất chế biến và xuất khẩu cà phê. Phối hợp với các bộ ngành để xác định kế hoạch phát triển ngành cà phê Việt Nam trong tương lai nhằm đảm bảo tính bền vững, cân đối ở thị trường cà phê trong nước và trên thế giới. Cụ thể là: + Tham gia xây dựng, bổ sung và hoàn thiện Tiêu chuẩn quốc gia về cà phê Việt Nam. + Xác định kế hoạch phát triển cân đối của ngành cà phê Việt Nam đến năm 2010. + Tham gia xây dựng kế hoạch phát triển 100.000ha cà phê chè +Tham gia xây dựng chương trình về Công nghệ chế biến, cải tiến chất lượng sản phẩm đối với cà phê. + Tham gia xây dựng chiến lược thị trường cho cà p hê Việt Nam . - VICOFA cần đưa ra các tiêu chuẩn đối với hoạt động xuất khẩu cà phê để giảm bớt số doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này, nhằm tránh tình trạng tranh mua tranh bán, phá giá thị trường. Thực tế cho thấy, Colombia đã nhiều năm đứng ở vị trí thứ nhì thế giới về sản lượng nhưng nước này chỉ có 35 doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, trong khi Việt Nam hiện có tới 157 nhà xuất khẩu. Trong đó, chỉ với 15 đơn vị lớn đã có thể xuất khẩu tới 78% tức là 3/4 sản lượng cà phê cả nước. Và với 25 đơn vị lớn đã có thể xuất khẩu tới 89% sản lượng cà phê cả nước. Điều này có nghĩa là chỉ với số đơn vị xuất khẩu chiếm 16% đã có thế xuất khẩu được 89% tổng sản lượng cà phê cả nước. Vì vậy, VICOFA nên củng cố và chỉ đạo tốt 25 đơn vị xuất khẩu mạnh và nên loại bỏ bớt những doanh nghiệp kinh doanh vụn vặt và đem lại hiệu quả không cao bằng cách đưa ra những điều kiện nhất định được tham gia xuất khẩu cà phê. Colombia mặc dù chủ trương tự do xuất khẩu cà phê nhưng đồng thời lại đề ra những tiêu chí nhất định còn ở Việt Nam thì doanh nghiệp nào cũng có thể xuất khẩu cà phê. Điều này gây rất nhiều khó khăn trong việc quản lý chất lượng cà phê cũng như kiểm soát được lượng cà phê xuất khẩu. Hơn nữa, hình thức xuất khẩu manh mún, khối lượng bé, không có quy mô thường bị ép giá, làm giảm kim ngạch xuất khẩu. - VICOFA phải là đầu mối trong việc kiểm soát chất lượng và điều tiết số lượng cà phê xuất khẩu. Các đơn vị khi xuất khẩu cà phê yêu cầu phải có sự xác nhận đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng của VICOFA nhằm cung cấp những sản phẩm cà phê chất lượng cao, bảo đảm uy tín. Mặc dù điều này có thế sẽ gây đôi chút phiền phức cho các đơn vị xuất khẩu nhưng đây lại là một biện pháp tối ưu để quản lý chặt chẽ chất lượng cà phê và buộc các đơn vị xuất khẩu cà phê phải thực hiện nghiêm túc tiêu chuẩn về chất lượng cà phê vừa được ban hành. Đồng thời sự quản lý nghiêm ngặt như vậy sễ tránh được hiện tượng xuất khẩu cà phê một cách ồ ạt vào mỗi vụ thu hoạch chịu sự ép giá, sau đó lại khan hiếm cà phê trong nước trong khi nhu cầu của thị trường thế giới vẫn cao. - Đối với thị trường thu mua cà phê cho xuất khẩu, VICOFA cần phải phối hợp với Bộ Thương Mại để đề ra thông tư quy định mức chênh lệch giá xuất khẩu so với mức giá thế giới tại hai thị trường London và Newyork nhằm hạn chế tình trạng bán ồ ạt đẩy giá cà phê xuống thấp, gây thiệt hại cho các nhà sản xuất. Kiên quyết loại trừ những tổ chức không đủ điều kiện ra khỏi hoạt động phân phối cà phê. Khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu và các nhà máy chế biến, các nhà nhập khẩu nước ngoài mở các đại lý trực tiếp tới tận vùng sâu vùng xa, thực hiện mua bán trực tiếp với người sản xuất. Cần kiểm tra điều kiện và cấp giấy phép kinh doanh cho các đại lý. Hạn chế tối đa hình thành nhiều cấp đại lý và các trung gian đầu cơ cà phê. - Về đối ngoại, VICOFA cần tăng cường hợp tác hơn nữa với tổ chức Hiệp hội các nước sản xuất cà phê (ACPC) và tổ chức cà phê thế giới (ICO) nhằm đưa ra các trương trình hành động đảm bảo cho lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến và xuất khẩu cà phê nói chung và lợi ích của quốc gia nói riêng. Quan hệ chặt chẽ với Hiệp hội cà phê của một số nước xuất khẩu cà phê lớn như Indonesia, ấn Độ, Brazil, Colombia để phối hợp các biện pháp nhằm ổn định thị trường cà phê thế giới. 4.2. Giải pháp về cơ chế chính sách. Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam, đem lại lợi nhuận xuất khẩu cao, nhưng đồng thời cũng là mặt hàng chịu nhiều rủi ro, biến động. Vì vậy, Nhà nước cần có những chính sách ưu tiên và hỗ trợ về mọi mặt đối với mặt hàng này. - Nhà nước cần sớm có cơ chế chính sách giải quyết vốn cho xuất khẩu cà phê thông qua chính sách tín dụng, chính sách thuế… tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ vốn để dự trữ và găm hàng chờ cơ hội giá có lợi để bán tránh tình trạng bị ép giá do bán tống bán tháo vào đầu vụ thu hoạch nhằm nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư cho vụ sau. - Hình thành quỹ bình ổn giá cà phê nhằm điều hoà cung cầu cà phê trên thị trường. Quỹ này thường xuyên hoạt động nhằm hỗ trợ cho hoạt động dự trữ cà phê của toàn ngành và của từng doanh nghiệp. - Giảm mức thuế suất đối với những mặt hàng sản phẩm cà phê. - Có biện pháp khuyến khích mạnh, các hình thức thưởng cụ thể đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cà phê. - Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng cho vùng sản xuất cà phê tập trung như: thuỷ lợi, giao thông, cơ sở chế biến… Đồng thời nâng cấp máy móc, ứng dụng khoa học công nghệ vào khâu chế biến cà phê - Do giá cả cà phê biến động phức tạp nên Chính phủ cần đưa ra chính sách giá cả phù hợp để đảm bảo lợi ích cho người sản xuất, chế biến và xuất khẩu cà phê. Cần quy đình mức giá sàn để tránh tình trạng bị ép giá khi thị trường biến động theo chiều hướng bất lợi sản phẩm. + Giá mua sản phẩm của người sản xuất. (căn cứ vào giá FOB xuất khẩu tại cảng Việt Nam ) Gm = Gxk - (Cxk + Lxk) Trong đó: Gm : Giá mua sản phẩm Gxk : Giá FOB tính bằng đồng Việt Nam Cxk : Chi phí xuất khẩu Lxk : Lợi nhuận xuất khẩu Mức giá mua theo công thức tính như trên sẽ được so sánh với mức giá chuẩn trong mỗi giai đoạn (mức giá tối thiểu của các đơn vị thu mua). Khi giá cà phê xuống dưới mức giá chuẩn, Nhà nước cần phải trợ giá cho người sản xuất. Trường hợp giá lên cao thì Nhà nước thu lại một phần thông qua các chính sách kinh tế. Vì vậy giá mua cho từng thời kỳ và từng vùng sẽ là: Giá mua = Giá chuẩn x k Hệ số k được xác định căn cứ vào sự biến động của sản xuất cà phê từng vùng và mức độ ổn định của giá trị đồng tiền. + Chính sách giá xuất khẩu : (căn cứ vào mức giá ở thị trường London) Gxk Việt Nam = Giá London x k Trong đó hệ số k là hệ số chênh lệch tối đa giữa giá ở thị trường London với giá ở Việt Nam. Kết luận Cà phê là một cây trồng có hiệu qủa kinh tế cao và là một cây có chỗ đứng vững chắc trong ngành nông ngiệp nước ta. Trong vòng 20 năm lại đây, ngành cà phê Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng vượt bậc tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Đợt biến động thị trường cà phê thế giới này và những hậu quả mà nó đem lại một lần nữa phản ánh chính xác hơn thực trạng của ngành cà phê Việt Nam trong thời gian qua. Trong những năm qua ngành cà phê Việt Nam đã khai thác tối đa lợi thế về khí hậu, đất đai và nguồn lao động rẻ của mình khiến cho diện tích và sản lượng không ngừng tăng gây bất ngờ cho nhiều người. Đó là điều đáng mừng. Tuy nhiên, đấy cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến những điểm yếu của ngành cà phê Việt Nam. Việt Nam chủ yếu chỉ phát triển cà phê từ những lợi thế mình có mà chưa biết tận dụng những lợi thế đó để phát triển cho phù hợp với nhu cầu và xu thế của thị trường. Ngành cà phê Việt Nam đạt được những bước tiến lớn trong sản lượng, nhưng mặt chất lượng, một điểm quan trọng nhất đối với mặt hàng cà phê, thì lại gần như dậm chân tại chỗ. Nhược điểm này không chỉ khiến cho Việt Nam góp một phần đáng kể vào việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường, đẩy giá cà phê đến mức thấp nhất trong thời gian mấy chục năm qua, mà còm làm cho ngành cà phê Việt Nam phải gánh chịu nhiều thiệt thòi từ cuộc khủng hoảng này. Trước tình hình biến động của thị trường cà phê, chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều biện pháp tài kể cả biện pháp huy động ngân sách nhà nước để giúp đỡ nông dân qua khỏi khó khăn. Nhưng dù sao do khả năng tài chính của nhà nước có hạn nên người sản xuất và xuất khẩu cà phê vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Điều quan trọng hơn cả là Chính phủ phải chỉ ra hướng đi, chiến lược lâu dài cho ngành cà phê. Sự điều chỉnh phương hướng là một vấn đề quan trọng nhất đối với ngành cà phê Việt Nam. Những biến động của thị trường cà phê thế giới trong thời gian qua đã khiến cho ngành cà phê Việt Nam phải lao đao, tuy nhiên bên cạnh xấu đó cũng có mặt tốt là chính trong khó khăn này ngành cà phê Việt Nam mới thấy rõ hơn những thiếu sót tồn tại của mình và từ đó chọn cho mình một hướng đi đúng đắn và hiệu quả và bền vững hơn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKL.doc
  • docký hiÖu.doc
  • docmôc lôc.doc
  • docphô lôc.doc
  • docb×a.doc
Tài liệu liên quan