BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_____________________________
Trần Thị Thu Hiền
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TUỆ TRUNG
THƯỢNG SĨ CHO THƠ THIỀN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
__________________________________
Trần Thị Thu Hiền
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TUỆ TRUNG
THƯỢNG SĨ CHO THƠ THIỀN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ
132 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2390 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Những đóng góp của Tuệ trung thượng sĩ cho thơ thiền Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
Lời cảm ơn
Đề tài này được thực hiện hiện dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình
của PGS. TS. Đoàn Thị Thu Vân cùng sự góp ý của các Giáo sư – Tiến sĩ
phản biện và các bạn đồng nghiệp. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn
những sự giúp đỡ chân thành và quý báu đó.
Dù đã rất nỗ lực, song do khả năng và thời gian hạn chế nên luận
văn không tránh khỏi những điểm thiếu sót. Kính mong nhận được sự
đóng góp chân thành từ các Giáo sư – Tiến sĩ cũng như các bạn đồng
nghiệp.
Người thực hiện
Trần Thị Thu Hiền
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Văn học Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã trải qua nhiều thời kì.
Trong từng thời kì, do đặc điểm riêng về kinh tế, văn hoá xã hội, hệ tư
tưởng… nên diện mạo văn học không tránh khỏi có sự khác nhau. Văn học Lý
– Trần ra đời trong hoàn cảnh cả đất nước liên tục chiến đấu chống ngoại xâm
và Phật giáo phát triển cực thịnh nên bên cạnh mảng văn học yêu nước còn có
sự xuất hiện của mảng thơ thiền như một khu vườn nghệ thuật mới lạ và đầy
sức thu hút. Dù do hoàn cảnh lịch sử, tác phẩm thơ văn thiền không còn lại
bao nhiêu, nhưng xuất phát từ tinh thần “thức nhất phiến, tri toàn thiên” ta vẫn
tìm thấy nhiều điều thú vị.
Trong rừng Thiền đa sắc ấy, Tuệ Trung là người may mắn khi tác phẩm
của ông còn lại tương đối nhiều so với các tác giả cùng thời. Tuy nhiên Tuệ
Trung được người đời sau ca ngợi không phải ở số lượng tác phẩm mà chính
là ở những đóng góp của Thượng sĩ cho thời đại Lý Trần nói riêng, cho văn
thơ thiền Việt Nam nói chung. Sáng tác của một thiền sư – cư sĩ, tất nhiên
hàm chứa những triết lí của Phật giáo. Song nếu xem chúng chỉ đơn thuần là
giáo lí, truyền giảng kinh Phật thôi thì chưa đủ. Bởi vì “giữa thơ thiền và lời
triết lí truyền giáo có khoảng cách rất xa. Cái gì tạo nên khoảng cách ấy? Đó
là chất thơ, là rung cảm nghệ thuật, là cảm quan sáng tạo của nhà thơ trước
cuộc đời, là ẩn tàng bao dấu ấn tâm hồn của nhà thơ trong đó...” [109, tr.492].
Nhận định này của tác giả Nguyễn Phạm Hùng tuy viết về “Thơ thiền và việc
lĩnh hội thơ thiền thời Lý” song cũng rất phù hợp khi nói về Tuệ Trung. Ông
là một thiền gia lỗi lạc được người đương thời rất mực đề cao, đồng thời cũng
là một nghệ sĩ có lối viết riêng khó lẫn.
Đóng góp của Tuệ Trung là không thể phủ nhận, song do xa lạ với
sách giáo khoa cũng như do cái chất uyên áo không dễ lí giải trong các tác
phẩm thơ thiền nên Thượng sĩ vẫn còn là nhân vật mới mẻ, nếu không muốn
nói là lạ lẫm với phần đông độc giả. Bởi vậy, tìm hiểu những đóng góp của
Tuệ Trung cho thơ thiền Việt Nam là một cách đưa nhà thơ – nhà triết học có
vai trò quan trọng đối với học phong của một thời đại hoàng kim trong lịch sử
dân tộc đến với mọi người, đồng thời cũng là mở ra cho bản thân cơ hội được
hiểu thêm về Thượng sĩ cũng như thơ văn thời đại Lý Trần.
2. Lịch sử vấn đề:
Tuệ Trung Thượng sĩ là cây đại thụ trong rừng thiền Việt Nam. Cho
đến nay đã có khá nhiều bài tham luận, công trình viết về ông. Các công trình
đó có thể chia làm hai hướng nghiên cứu sau:
2.1. Tuệ Trung là một bộ phận nhỏ trong đối tượng nghiên cứu:
2.1.1. Nội dung nghiên cứu thiên về tư tưởng Phật giáo:
- Năm 1985, Ủy ban khoa học xã hội – Viện nghiên cứu triết học cho
xuất bản quyển Lịch sử Phật Giáo Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ biên.
Công trình này bàn về Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập từ Ấn Độ sang vào
thế kỉ thứ II cho đến thế kỉ XIX. Trong phần bàn về đặc điểm Phật giáo đời
Trần, công trình này có đề cập ngắn gọn đến tư tưởng thiền của Tuệ Trung.
Qua đó khẳng định: “Tuệ trung không xuất gia, ông là một cư sĩ, nhưng có
trình độ thiền học cao” [106, tr.248].
- Nguyễn Đăng Thục đã công bố một loạt công trình như: Thiền học
Việt Nam, Lịch sử tư tưởng Việt Nam (nhiều tập), Lịch sử triết học phương
Đông (nhiều tập)… bàn về Thiền tông Việt Nam và tính kế thừa của nó qua
nhiều thời kì. Đặc biệt trong công trình Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập IV,
NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1992, ở chương XIII – “Trúc Lâm bí quyết” hay
thiền học đời Trần, tác giả đã bàn về những điểm đáng ngờ trong hành trạng
của Tuệ Trung Thượng sĩ cũng như tìm hiểu tư tưởng Thiền của ông. Qua sự
phân tích, lí giải, tác giả kết luận: tinh thần thiền học đặc biệt của Thượng sĩ
là “không ăn chay, không cầu Phật, không “học Thiền”, không thuyết pháp,
chỉ thuyết thực nghĩa là chỉ thực nghiệm cái chân lí nghệ thuật thiên nhiên tự
do, phóng khoáng” [51, tr.222].
- Nguyễn Lang, trong quyển Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB
Văn học, 1992, đã dành bảy chương trong tổng số mười lăm chương để giới
thiệu về Phật giáo đời Trần. Riêng ở chương XI, tác giả đã dành một dung
lượng khá lớn trang viết giới thiệu về Tuệ Trung Thượng sĩ với các phần sau:
+ Diện mục Tuệ Trung
+ Hòa quang đồng trần
+ Đập vỡ thái độ bám víu vào khái niệm
+ Phá vỡ những vấn đề giả tạo
+ Diệu khúc bản lai tu cử xướng
Qua năm phần lớn này, Nguyễn Lang khẳng định Tuệ Trung là một
thiền gia lớn có hành trạng đặc biệt: “Tùy tục hay không tùy tục, trộn lẫn với
đời hay không trộn lẫn với đời, hành tung của tuệ Trung chỉ có thể là hành
tung của Tuệ Trung, chẳng ai có thể bắt chước mà trở nên một Tuệ Trung
được” [66, tr.312].
- Năm 1995, quyển Thiền học đời Trần do Viện nghiên cứu Phật học
Việt Nam xuất bản, gồm 28 bài viết của nhiều tác giả xoay quanh vấn đề tác
phẩm, tư tưởng của các thiền gia đời Trần. Trong số đó có thể kể đến bốn bài
viết đề cập trực tiếp về Tuệ Trung Thượng sĩ: Con người Tuệ Trung Thượng
sĩ của Minh Chi, Chất thiền nơi Tuệ Trung Thượng sĩ của Thích Minh Tuệ,
Tuệ Trung Thượng sĩ và Tinh thần siêu phóng của Tuệ Trung Thượng sĩ của
Thích Thanh Từ. Bốn bài viết này lí giải về thân thế, phong cách và đạo Thiền
của Tuệ Trung Thượng sĩ. Các tác giả chỉ ra tâm hồn của Tuệ Trung Thượng
sĩ là một tâm hồn siêu thoát, có thể hòa ánh sáng của mình vào cõi đời bụi
bặm.
- Nguyễn Hùng Hậu viết Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập
I, Từ khởi nguyên đến thế kỉ XIV, NXB Khoa học xã hội, năm 2000 và
Trương Văn Chung bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ về Tư tưởng triết
học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần năm 1996. Cả hai công trình này đều
đi vào phân tích, tổng kết tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm qua
việc phân tích hành trạng và tác phẩm của từng nhân vật Thiền phái như: Trần
Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền
Quang. Tuệ Trung xuất hiện trong hai công trình này đều với vị thế là bậc
thầy về tư tưởng đối với người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm. Tư tưởng
Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ được Trương Văn Chung khẳng định là
“thiền hành động, thiền nhập thế tích cực (...). Tính tích cực ở đây không chỉ
ở sinh hoạt hàng ngày mà có mục đích cao cả và lớn lao (...). Thiền ở Tuệ
Trung Thượng sĩ không dừng lại ở hoạt động giới hạn trong việc hành thiền
như ngồi thiền, tu thiền… Mà Thiền ở Tuệ trung Thượng sĩ được khái quát
hơn, rộng lớn hơn, có thể gọi là sống thiền.” [105, tr.58]. Còn Nguyễn Hùng
Hậu nhấn mạnh: “Tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ có ảnh hưởng lớn đến
Phật giáo đời Trần đặc biệt là Thiền Trúc Lâm Yên Tử (…). Ông là một nhà
tư tưởng hiếm có của nước ta” [60, tr.128]. Tác giả minh giải nhận định trên
thông qua hai phần “Thế giới quan của Tuệ trung Thượng sĩ” (mục 2.2.4 –
chương II) và “Nhân sinh quan của Tuệ trung Thượng sĩ” (mục 3.2.5 –
chương III).
- Quyển Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập III (Từ Lý Thánh Tông đến
Trần Nhân Tông) của Lê Mạnh Thát được NXB Tp. Hồ Chí Minh ấn hành
năm 2002 đã lý giải về hành trạng của Tuệ Trung Thượng sĩ cũng như khẳng
định những đóng góp của ông về mặt tư tưởng. Tác giả Lê Mạnh Thát khẳng
định:
Có thể nói lối sống thiền mà Tuệ Trung Trần Tung đưa ra vừa
là một tổng kết tinh hoa tư tưởng của một giai đoạn Phật giáo mà
bắt đầu với vua Lý Thánh Tông và dòng Thiền Thảo Đường, đồng
thời vừa mở ra một giai đoạn Phật giáo mới, giai đoạn Phật giáo cư
trần lạc đạo của vua Trần Nhân Tông (...). Tuệ Trung Trần Tung
không chỉ cống hiến cho Phật giáo Việt Nam mà còn cho cả Phật
giáo thế giới. [25, tr.788].
- Trong công trình Tư tưởng Việt Nam thời Lý Trần do PGS. TS.
Trương Văn Chung và PGS. TS. Doãn Chính đồng chủ biên (NXB Chính trị
quốc gia, 2008) có hai bài viết đề cập trực tiếp đến Tuệ Trung Thượng sĩ. Bài
Bước đầu tìm hiểu tư tưởng triết học Tuệ Trung Thượng sĩ của CN. Diệu
Minh bàn bạc về bản thể luận và nhận thức luận của Thượng sĩ. Trên cơ sở
đó, tác giả bài viết khẳng định:
Tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng sĩ đã trở thành một
trong những cơ sở lí luận, là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho Phật
hoàng Trần Nhân Tông sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,
trở thành giá đỡ tinh thần vững chắc cho sự thống nhất cao về tư
tưởng trong đời sống xã hội, đưa chế độ phong kiến Việt Nam bước
vào thời kì phát triển hưng thịnh rực rỡ vào bậc nhất trong lịch sử.
[104, tr.140].
Bài Thiền học của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung và hiện tượng học
của Edmund Huserl: một số điểm tương đồng trong học thuyết về nhận thức
và phương pháp luận triết học của Ths. Nguyễn Trọng Nghĩa khi tiến hành so
sánh đã đánh giá: “Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung (1230 – 1291) là một nhà
Thiền học xuất sắc thời Trần, giữ vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng triết
học Việt Nam thế kỉ XIII.” [104, tr.141].
- Gần đây nhất vào tháng 11 năm 2008, tại Quảng Ninh đã diễn ra hội
thảo về Trần Nhân Tông nhân 700 năm ngày vị tổ thứ nhất của phái Thiền
Trúc Lâm viên tịch. Trong hội thảo này có rất nhiều bài tham luận khi viết về
Trần Nhân Tông như: Vua Trần Nhân Tông và tinh thần “Bụt ở trong
nhà”, Vua Trần Nhân Tông và bài học giải phóng dân tộc… được đăng tải
trên các website đã tôn kính đề cập đến tư tưởng của Tuệ Trung với tư cách là
người thầy, người chắp hạt giống chánh pháp cho vị vua này.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu thiên về văn học:
Hướng nghiên cứu này có các công trình đáng lưu ý như:
- Quyển Văn học trung đại Việt Nam do Lê Trí Viễn chủ biên (tài liệu
lưu hành nội bộ của trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, 1985) và
quyển Văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX) do Đoàn Thị
Thu Vân chủ biên (NXB Giáo Dục, 2008) khi viết về văn học thời đại Lý –
Trần, có đề cập đến một số câu hoặc bài thơ của Tuệ Trung để minh họa cho
các đặc điểm nội dung, nghệ thuật của thơ Thiền thời đại.
- Hai chuyên luận của tác giả Nguyễn Công Lý là Bản sắc dân tộc
trong văn học Thiền tông thời Lý Trần (NXB Văn hóa thông tin, 1997) và
Văn học Phật giáo thời Lý Trần – diện mạo và đặc điểm (NXB Đại học
quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2002) cung cấp cho độc giả cái nhìn có hệ thống,
đầy đủ về diện mạo, đặc điểm và bản sắc dân tộc trong văn học thời Lý Trần,
đặc biệt là về dòng văn học Phật giáo của một thời đại phát triển rực rỡ vào
bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Để củng cố vững chắc các luận
điểm của mình, tác giả trích dẫn nhiều dẫn chứng, bao gồm trong đó cả những
sáng tác của Tuệ Trung.
- Nguyễn Phạm Hùng với ba chuyên luận: Văn học Lý – Trần nhìn từ
thể loại (NXB Giáo Dục, 1996), Thơ thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch sử
và tư tưởng (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1998) và Trên hành trình văn
học trung đại (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2001) đã đưa ra nhiều lí giải
thú vị về thơ thiền Việt Nam qua các thời kì (thời nhà Lý, thời nhà Trần, thời
nhà Lê đến nhà Nguyễn) cũng như sự cần thiết phải nghiên cứu thơ thiền từ
khía cạnh thể loại. Đặc biệt trong công trình Thơ thiền Việt Nam – Những
vấn đề lịch sử và tư tưởng (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1998), ở chương
V – Thơ thiền thời Trần, Nguyễn Phạm hùng đã chỉ ra nét riêng trong sáng tác
của các gương mặt tiêu biểu cho thơ thiền thời kì này như: Trần Thái Tông,
Trần Tung (Tuệ Trung), Trần Nhân Tông, Huyền Quang. Khi viết về Tuệ
Trung, tác giả nhận định: “Cái độc đáo của nội dung thơ thiền Trần Tung là ở
tư tưởng phóng cuồng hết sức mạnh liệt. Cái độc đáo của hình thức thơ thiền
Trần Tung là mở rộng các biện pháp biểu hiện, từ thơ tới ca. Ca từ bằng chữ
Hán của Trần Tung khó có tác gia thiền nào sánh kịp…” [68, tr.152].
- Tác giả Đoàn Thị Thu Vân đã có một loạt bài viết bàn về văn học Lý
Trần đăng trên TCVH như: Một vài nhận xét về thơ thiền Lý Trần, TCVH,
1992, số 2, tr.35; Quan niệm về con người trong thơ thiền Lý Trần, TCVH,
1993, số 3, tr.12; Khoảnh khắc “Quên” trong thơ thiền, TCVH, 1998, số 4,
tr.90… Và đáng chú ý hơn cả là quyển chuyên luận Khảo sát đặc trưng nghệ
thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XVI (NXB Văn học và Trung
tâm nghiên cứu Quốc học, 1996). Trong công trình này, tác giả tập trung khảo
sát đặc điểm nghệ thuật của thơ thiền Lí Trần về các mặt: ngôn ngữ, hình
tượng, giọng điệu, thể loại và kết cấu. Ở đó, nhiều sáng tác của Tuệ Trung đã
được dẫn chứng và phân tích để làm sáng tỏ cho các luận điểm.
- Lê Giang, năm 2001 đã bảo vệ thành công luận án ngữ văn về Ý thức
văn học cổ trung đại Việt Nam. Trong mục 1.3.2. Ý thức văn học của các
thiền sư thời Lý Trần, tác giả nhận thấy: Tuệ Trung là thiền gia sống theo cảm
hứng tự do giống như Bố Đại hòa thượng, thiền sư Phổ Hóa, sư Trí Dược…
Đồng thời Lê Giang khẳng định: “cho đến trước khi Trần Tung xuất hiện,
chưa bao giờ chúng ta gặp một hồn thơ tự do, hào sảng đến như thế” [24,
tr.40]. Tác giả không phân tích sâu nhận định này, nhưng có trích dẫn bài Đề
tịnh xá và một đoạn trong Phóng cuồng ngâm làm dẫn chứng.
- Năm 2008, luận án tiến sĩ ngữ văn Giá trị văn học trong tác phẩm
của Thiền phái Trúc Lâm của Trần Lý Trai đã lí giải tác phẩm của Tuệ
Trung cùng những sáng tác của các tác giả thuộc Thiền phái về các mặt:
+ Tư tưởng Thiền học với quan điểm Phật tại tâm, chủ thuyết cư trần
lạc đạo, tinh thần tùy duyên, phương thức hành Thiền tu chứng.
+ Những cảm hứng chính như: cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng
cõi thiên nhiên Phật nhiệm màu, cảm hứng nhân văn – thế sự, cảm hứng quê
hương đất nước – quê hương Thiền tông.
+ Giá trị nghệ thuật về các mặt: thể loại, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ
thuật.
Đối tượng chính của các công trình này là văn học của cả một thời đại,
Tuệ Trung chỉ là một tác giả trong số rất nhiều tác giả góp phần làm nên diện
mạo văn học của thời đại ông đương sống. Vì vậy thơ văn của Thượng sĩ chưa
được bàn bạc cặn kẽ.
2.2. Tuệ Trung là một đối tượng chính của công trình nghiên cứu:
- Hướng nghiên cứu này có bài viết của Nguyễn Huệ Chi xuất hiện từ
rất sớm trên Tạp chí Văn học: Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ
thiền thời Lý Trần (TCVH, 1977, số 4, tr.116). Trong bài viết này, Nguyễn
Huệ Chi ngoài việc chỉ ra sự nhầm lẫn của Bùi Huy Bích (tác giả Hoàng Việt
thi tuyển) về thân thế của Tuệ Trung còn đề cập đến sự “lạ” trong sáng tác
của Thượng sĩ. Đó là thơ ca của Tuệ Trung “thể hiện khá đậm nét bản sắc con
người nhà thi sĩ (…). Bởi vì, nói đến Phật là nói đến vô tâm, là bình đẳng, là
không sai biệt (…). Ấy vậy mà một nhà tu hành trong quá trình cầu đạo lại
dám thả lỏng cho bản ngã của mình tự do bộc lộ” [54, tr.127].
- Nguyễn Duy Hinh, năm 1998 đã hợp tác với NXB Khoa học xã hội
xuất bản quyển sách Tuệ Trung nhân sĩ – Thượng sĩ – Thi sĩ . Công trình
này gồm ba chương chính:
+ Chương I: Tuệ Trung – nhân sĩ, Nguyễn Duy Hinh tập trung xác
định vị trí của Tuệ Trung trong lịch sử bảo vệ nước nhà cũng như trong lịch
sử phát triển của Thiền tông ở Việt Nam.
+ Chương II: Tuệ Trung – Thượng sĩ, Nguyễn Duy Hinh minh giải
một số vấn đề Thiền học chính của Tuệ Trung.
+ Chương III: Tuệ Trung – thi sĩ, Nguyễn Duy Hinh tiến hành phân
loại thơ của Tuệ Trung (không xét phần Đối cơ và Tụng cổ) thành hai nhóm
thơ thiền ý và thơ thiền lí. Trong quá trình phân loại, dựa theo hai nhóm này,
tác giả lí giải nội dung của từng bài thơ, nhưng không phân tích kĩ chất thơ
trong tác phẩm của Thượng sĩ.
Qua ba chương này, Nguyễn Duy Hinh khẳng định: “Tuệ Trung là một
nhân sĩ quý tộc, một Thượng sĩ hạng trí giả, một nhà thơ thiền mà chất Lão
Trang đậm đà trong hình tượng thơ ca (…). Thơ thiền của Tuệ Trung thoát
tục mà không xuất thế, cuồng mà không say.” [48, tr.254].
- Năm 2000, Viện khoa học xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm
đã kết hợp với NXB Đà Nẵng cho ra đời quyển Tuệ Trung thượng sĩ với
Thiền tông Việt Nam. Ngoài phần giới thiệu của NXB, 3 bài viết về Trần
Hưng Đạo, Ngô Thì Nhậm, Huyền Quang và 2 bài viết nhận xét chung về
Thiền tông Việt Nam, công trình gồm 30 bài tham luận của các tác giả khác
nhau phân tích, lí giải tư tưởng Thiền học và đặc điểm con người Tuệ Trung
thông qua sáng tác và các giai thoại. Trong các bài viết, các tác giả đã thống
nhất Tuệ Trung là thiền gia, nhà tư tưởng, nhà quân sự, đồng thời là vị thầy
của Sơ Tổ Trúc Lâm, có ảnh hưởng chi phối mạnh mẽ đến Thiền tông đời
Trần nói riêng, Thiền tông Việt Nam nói chung. Trong công trình này có một
số bài viết khẳng định sáng tác của Tuệ Trung ngoài việc thể hiện ông là một
thiền sư uyên thâm, còn có giá trị văn chương, cho thấy Tuệ Trung không chỉ
là Thượng sĩ mà còn là thi sĩ. Thích Tín Đạo nhận định:
(…)Trong Thượng sĩ ngữ lục (…) đi sâu vào lĩnh vực nghiên
tẩm và thưởng thức, chúng ta sẽ bắt gặp trong đó những nguồn cảm
hứng tuyệt vời qua cái nhìn của một thiền sư cư sĩ, âm điệu nhẹ
nhàng toát lên một cách nhịp nhàng rung chuyển về cả hai mặt:
nghệ thuật thẩm mĩ và tư tưởng siêu thoát…
(…)Thượng sĩ không những làm nổi bật hình ảnh một cư sĩ đã
thâm nhập lẽ đạo trong việc dốc tâm thọ pháp tu tập thực hành về
Thiền học với các thiền sư nổi tiếng thời đó để chứng ngộ pháp
chánh, ông còn là hình ảnh một thi nhân không những chỉ biết rung
cảm ca tụng vẻ thẩm mĩ của thiên nhiên, mà còn biết thưởng thúc
nét sinh động hay tịch lặng của nó qua lăng kính nhìn về thực tại...
[107, tr.185].
Cùng gặp gỡ với ý kiến trên, Trần Thanh Đạm khẳng định thêm:
(…)Vị Thượng sĩ ấy trước hết là một thi sĩ. Có lẽ phải dành
cả một chuyên đề riêng để bàn về thi hứng và thi pháp thơ Tuệ
Trung. Tôi cứ nghĩ rằng trong các thiền gia thời Lý – Trần thì Tuệ
Trung thi sĩ hơn cả. Đặc biệt ông là cao thủ về thơ tứ tuyệt vốn
cũng là một lợi khí nghệ thuật của Thiền tông Trung Hoa, Nhật Bản,
Việt Nam. Những bài tứ tuyệt của Tuệ Trung về tứ thơ thầm trầm và
lời lẽ cao đẹp có thể sánh với thơ Vạn Hạnh, Viên Chiếu đời Lý,
song ở ông phong phú, dồi dào hơn… [107, tr.276].
Đó quả là những nhận định tinh tế, tiếc là các tác giả chưa lí giải cụ thể.
Tuy nhiên, có thể khẳng định tập sách là một công trình rất có giá trị, gợi mở
nhiều điều thú vị về hành trạng, lối sống, tư tưởng cũng như đóng góp về thơ
văn của Tuệ Trung Thượng sĩ.
Ngoài ra còn có một số bài viết in rải rác trên các website như: Hiểu
thêm tâm trạng của Tuệ Trung Thượng sĩ qua một số bài thơ thiền của Hà
Quảng (http:// gio-o.com), Thơ thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung của
Lê Thiếu Nhơn (http:// lthieunhon.com), Tuệ Trung Thượng sĩ Ngữ lục giảng
giải của Thích Thanh Từ (http:// www thuvienhoasen.com), Những dòng thơ
đời của Tuệ Trung Thượng sĩ của Huệ Thiên (http:// www quangduc.com),
Con trâu đất – một biểu tượng độc đáo của Tuệ Trung của Thích Đức Thắng
(http:// www thuonghylenien.com), Thơ thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ của
Vũ Quần Phương (http:// www daouduytue.com)…
Nhìn chung các bài tham luận và các công trình nghiên cứu nêu trên
chủ yếu tìm hiểu Tuệ Trung với tư cách là con người Thiền học, khai thác sâu
tư tưởng thiền học của Thượng sĩ. Chưa có công trình nào tập trung khai thác
về Tuệ Trung với tư cách là một nhà thơ với những đóng góp của ông về cả
nội dung – tư tưởng lẫn nghệ thuật cho thơ thiền Việt Nam. Tuy nhiên, tất cả
những điều đã được lí giải là cơ sở quý báu, cần thiết để luận văn bước đầu
tìm hiểu về Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ thiền Việt
Nam với tư cách là nhà thơ thiền một cách tương đối toàn diện, có hệ thống
và chuyên sâu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Ngay tên đề tài đã cho thấy đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là
thơ thiền của Tuệ Trung. Tuy nhiên, luận văn không nghiên cứu thơ thiền Tuệ
Trung với mục đích minh họa cho tư tưởng Thiền học mà đi sâu tìm hiểu
đóng góp của Thượng sĩ cho thơ thiền Việt Nam.
Về thuật ngữ thơ thiền, từ trước đến nay đã có rất nhiều nhà nghiên
cứu đề cập, giới thuyết.
Đoàn Thị Thu Vân trong luận án PTS Khảo sát đặc trưng nghệ thuật
của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XIV, cho rằng: Thơ Thiền là những
bài thơ của các tác giả là Thiền sư hoặc không phải là thiền sư nhưng hâm mộ
Thiền, có nghiên cứu và hiểu biết về Thiền, sáng tác theo những nội dung:
- Trực tiếp thuyết giảng về yếu chỉ Thiền tông – đó là những bài kệ.
- Gián tiếp thuyết giảng về yếu chỉ Thiền tông bằng hình ảnh trong
thiên nhiên và cuộc sống hằng ngày với cách nói ẩn dụ, nghịch ngữ…
- Bày tỏ cảm xúc mang ý vị Thiền trước cái đẹp của thiên nhiên, con
người, cuộc sống; hoặc bày tỏ trạng thái tâm tư đã giác ngộ chân lí, miêu tả
cái đẹp vi diệu bên trong con người.
Nguyễn Công Lý trong công trình Văn học Phật giáo thời Lý Trần
diện mạo và đặc điểm lại cho thơ văn thiền gồm có bốn loại:
- Loại thứ nhất là kệ: trực tiếp trình bày giáo lí, tư tưởng nhà Phật bằng
hình thức thơ ngắn gọn, cô đúc.
- Loại thứ hai là kệ được thi vị hoá (còn gọi là thơ triết lí): thể hiện triết
lí nhà Phật thông qua thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn với ngôn ngữ lung linh,
đầy hình ảnh đẹp và gợi cảm, giàu chất thơ.
- Loại thứ ba là thơ mang cảm hứng Thiền học: là những bài thơ mang
cảm xúc trữ tình nhưng nội dung có đề cập đến tâm, Phật, sinh, tử, Niết bàn,
chân như, sắc không…
- Loại thứ tư là thơ tức cảnh sinh tình, bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của
Thiền sư đối với cái lung linh mỹ lệ của ngoại cảnh thông qua cảm quan
Thiền học.
Như vậy, qua hai công trình trên có thể thấy khái niệm thơ thiền là một
thuật ngữ có hàm nghĩa tương đối rộng và có tính chất mở. Trên cơ sở tiếp
thu, tổng hợp những quan niệm đã đề cập, khi nghiên cứu thơ thiền Tuệ
Trung, thuật ngữ thơ thiền được người viết sử dụng để chỉ toàn bộ 49 bài thơ
tách riêng và những câu, đoạn thơ rải rác trong hai phần Đối cơ và Tụng cổ
trong tác phẩm Thượng sĩ ngữ lục.
Về tài liệu: các sáng tác của Tuệ Trung đem ra khảo sát được lấy trong
quyển Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển thượng, do Nguyễn Huệ Chi chủ biên,
Uỷ ban KHXHVN, Viện văn học, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 1988 (có
đối chiếu với Tổng tập văn học Việt Nam, tập II – trọn bộ 42 tập – của nhà
xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, năm 2000).
Về nội dung, kế thừa những bài viết của người đi trước mang tính gợi
ý, định hướng, luận văn sẽ tập trung khai thác những đóng góp của Thượng sĩ
cho thơ thiền Việt Nam về cả hai mặt nội dung – tư tưởng và nghệ thuật. Vấn
đề tiếp cận tuy không mới nhưng là bước đi căn bản cần thiết để nhìn nhận tác
giả dưới góc độ một thiền sư – nhà thơ.
4. Đóng góp của luận văn:
Như đã khẳng định, Tuệ Trung là người chuộng đạo Thiền, lại là người
có đạo học uyên thâm, tác phẩm của ông tất nhiên là những tác phẩm nói về
đạo Phật, song do cách truyền giảng đặc biệt, chúng còn là những tác phẩm
văn học. Vì vậy thiết nghĩ cũng nên xét đóng góp của Thượng sĩ từ góc độ của
một nhà thơ thiền.
Trong luận văn này, dựa trên cơ sở của những công trình nghiên cứu
trước, người viết bàn thêm về những vấn đề sau:
- Phát hiện những đóng góp về nội dung – tư tưởng của Tuệ Trung cho
thơ thiền Việt Nam trên cơ sở so sánh với các tác giả đời Lý và sự kế thừa của
các tác giả đời Trần.
- Phát hiện và lí giải một số nét riêng về đặc trưng nghệ thuật của thơ
thiền Tuệ Trung trong quan hệ với đặc trưng nghệ thuật chung của thời đại Lý
Trần.
Với việc lí giải những vấn đề trên, luận văn góp thêm một cách nhìn để
hình tượng nhà thơ Tuệ Trung trở nên hoàn thiện hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp và
thao tác sau:
- Phương pháp phân tích: Để rút ra những đóng góp của tác giả của
Tuệ Trung cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật, việc trước tiên cần làm là đi
vào phân tích chính những sáng tác của nhà thơ này. Trên cơ sở đó sẽ có cái
nhìn đầy đủ, chính xác hơn về những đặc điểm đáng lưu ý.
- Phương pháp tổng hợp (Phương pháp hệ thống): Đây là phương pháp
hữu hiệu trong việc xác định những đóng góp chính của Tuệ Trung. Đặc điểm
về nội dung cũng như nghệ thuật của một tác giả thường trải dài trong suốt
quá trình sáng tác chứ ít khi thể hiện đầy đủ trong chỉ một tác phẩm (trừ một
số trường hợp đặc biệt như Truyện Kiều của Nguyễn Du). Sáng tác của Tuệ
Trung cũng không ngoại lệ. Vì vậy cần có một cái nhìn xuyên suốt để chỉ ra
những đặc điểm cần lưu ý, đồng thời cũng là những đóng góp trong toàn bộ
tác phẩm của ông.
- Phương pháp so sánh – lịch sử: Để làm nổi bật những đóng góp riêng
của Tuệ Trung cho thơ Thiền Việt Nam, không thể tách tác giả ra khỏi dòng
chảy của thơ văn thời đại. Chỉ khi đặt nhà thơ trong quan hệ so sánh với
những bậc tiền bối đi trước, cũng như thế hệ các tác giả cùng thời và sau đó,
mới thấy được ông đã kế thừa điều gì và sáng tạo ra điều gì mới mẻ.
- Thao tác thông kê: tuy sử dụng không nhiều, song đây là thao tác cần
thiết để tạo nên cơ sở nhận định mang tính khoa học ở những chỗ cần thiết.
6. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, phần cơ bản của luận văn gồm có ba chương:
- Chương 1: Thời đại Lý Trần và Tuệ Trung Thượng sĩ (Đề cập đến:
thời đại Lý Trần, Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần, hành
trạng của Tuệ Trung Thượng sĩ).
- Chương 2: Những đóng góp về nội dung – tư tưởng của Tuệ Trung
cho thơ thiền Việt Nam (Gồm các nội dung: tư tưởng “tùy
duyên”, tinh thần phá chấp triệt để, tinh thần tự tin vào bản
thân, tinh thần dung hợp tam giáo).
- Chương 3: Những đóng góp về nghệ thuật của Tuệ Trung cho thơ
thiền Việt Nam (Khai thác các mặt: ngôn ngữ, giọng điệu,
hình tượng, thể thơ và kết cấu).
Chương 1:
THỜI ĐẠI LÝ TRẦN VÀ TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
1.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội thời Lý Trần
Mùa đông năm 938, phát huy truyền thống yêu nước, bền bỉ đấu tranh,
bằng mưu lược tài ba, Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán trên sông
Bạch Đằng, đưa dân tộc ta bước sang một kỉ nguyên mới – kỉ nguyên độc lập
tự chủ. Tuy nhiên sau mười một thế kỉ bị đô hộ bởi giặc phương Bắc, đất
nước ta phải đi lên từ một cơ sở vật chất yếu kém với tài nguyên khánh kiệt,
nhân dân mỏi mệt sau thời gian bị kìm kẹp, lại thêm sự giao lưu bất bình đẳng
từ âm mưu đồng hóa. Nhiệm vụ đặt ra cho những thế hệ đi đầu quả không dễ
dàng.
Nhưng chính trên mảnh đất hoang tàn ấy, bằng tinh thần quật khởi, dân
tộc Đại Việt đã xây dựng nhà nước phong kiến độc lập ngày càng hùng mạnh
và phát triển về mọi mặt qua nhiều triều đại: Ngô (939-967), Đinh (968-980),
Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1225), Trần (1225-1400), Hồ (1400-1007)…
Bên cạnh khôi phục lại những giá trị tinh thần truyền thống, dân tộc ta đã
khôn ngoan lấy mình làm chủ để đón nhận tinh hoa văn hóa nước ngoài nhằm
tạo nên một nền văn hóa vừa phong phú vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Với tinh
thần ấy, sau mấy triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê đặt những nền móng đầu tiên,
đến triều đại Lý và Trần (gọi chung là thời đại Lý Trần), Đại Việt trở thành
đất nước phát triển về mọi mặt.
Sự lớn mạnh của Đại Việt thể hiện trước hết ở khía cạnh chính trị.
Chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938 đã khẳng định Đại
Việt là đất nước độc lập thống nhất có chủ quyền. Từ cái mốc lịch sử này dân
tộc ta đã tiếp tục ba lần đại thắng quân Tống (981, 1075, 1077), bình định
quân Chiêm Thành (1069), đặc biệt là ba lần đẩy lui đế quốc Nguyên Mông vĩ
đại từng chiếm giữ nhiều quốc gia ở Châu Á và Châu Âu. Cán cân ngoại giao
giữa Đại Việt và các nước phương Bắc ở thời kì này luôn được giữ ở thế cân
bằng. Dân tộc ta nhất quyết từ chối những yêu sách vô lí của ngoại bang đồng
thời khéo léo và quyết liệt buộc họ phải trả lại kì hết đất đai thuộc về Đại
Việt.
Tốc độ phát triển mau lẹ này còn thể hiện rõ ở mặt kinh tế. Nếu dưới
triều Ngô, Đinh công cuộc khôi phục kinh tế chưa đạt thành tựu là bao thì đầu
thời nhà Lý trở đi công cuộc xây dựng đó đã thực sự khởi sắc, đặt nền tảng
cho sự phát triển vững chắc. Nông nghiệp được chú trọng, việc khẩn hoang và
xây dựng các công trình thủy lợi phục vụ nông nghiệp rất được coi trọng.
Hàng loạt ngành nghề thủ công truyền thống như dệt, gốm, in, chạm khắc, mĩ
nghệ… được khôi phục và phát triển. Nghệ thuật chạm trổ, điêu khắc trên gỗ,
đá, gốm đạt đến trình độ khá cao. Đặc biệt là hình ảnh con rồng – con vật linh
của người Việt đã được tạc trên đình chùa với dáng vẻ mềm mại uyển chuyển.
Nhiều công trình nổi tiếng xuất hiện như: chùa Diên Hựu (chùa Một cột) đời
Lý, Tháp Phổ Minh ở Nam Định, Tháp Bình Sơn ở Vĩnh Phúc vào đời Trần…
Thời đại này còn tạo ra bốn công trình nổi tiếng được mệnh danh là “An Nam
tứ đại khí”. Đó là: Tháp Báo Thiên, Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, chuông
Quy Điền và đỉnh (vạc) chùa Phổ Minh.
Việc học tập, thi cử đào tạo nhân tài, xây dựng đất nước cũng được
quan tâm. Ở đời Lý bên cạnh lệ bảo cử và tiến cử làm quan, đến đời Vua Lý
Thánh Tông và Lý Nhân Tông còn có kỳ thi tuyển chọn nhân tài. Nhà Lý còn
cho xây dựng Văn miếu (1070), mở trường Quốc tử giám (1076). Sang đời
Trần, nhà nước đã ra lệ thi và các kì thi đồng thời đặt ra các học vị chính thức
trong thi cử. Việc học không chỉ đóng khung ở kinh thành, trong giới quý tộc
mà còn mở rộng ra các địa phương. Các sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian
được ưa chuộng từ vua chúa đến thứ dân. Theo Đại Việt sử kí, trong cung
mỗi khi có yến tiệc, các vua quan thường múa hát theo những điệu dân gian,
tay người nọ đặt lên vai người kia, chân người nọ dẫm lên chân người kia
không phân biệt ngôi thứ, phẩm cấp. Đó là những hình ảnh sinh ._.động, hiếm
thấy trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Chính điều ấy đã tạo nên cho thời đại
Lý Trần không khí chan hòa, thân dân mà không một triều đại nào về sau có
được.
Vào thời kì này, ngoài tín ngưỡng dân gian, đạo Phật, đạo Nho, đạo
Lão đều được tiếp nhận, tinh lọc với tinh thần cởi mở và sáng tạo của con
người thời đại. Đặc biệt đây là thời kì Phật giáo đóng vai trò tích cực trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Giáo lí Phật giáo khi vào Đại Việt đã
hòa quyện với tín ngưỡng dân gian, kết hợp với Nho giáo và Đạo giáo, trở
thành một trong những nhân tố cơ bản ảnh hưởng sâu sắc đến hệ tư tưởng của
dân tộc. Chính sách “Tam giáo đồng nguyên”, dựa trên yếu tố cốt lõi là tư
tưởng tiến bộ của Phật giáo đã làm nên hào khí vang dội của thời đại Lý Trần
– Thời đại tập trung tất cả những tinh hoa trong đời sống tư tưởng của con
người: đức độ, trí tuệ và tình cảm.
Hào khí ấy, học phong ấy dựa trên nền kinh tế, chính trị, giáo dục tiến
bộ đã khiến thời đại Lý Trần phát triển đạt đến đỉnh cao của sự phồn thịnh và
tạo nên hình ảnh con người với nhân cách cao đẹp đáng kính, “phản ảnh đúng
đặc trưng tinh thần của thời đại: nhân thứ, khoan dung, rộng mở, dân chủ mà
dũng liệt” [45, tr.68]. Đó là những ông vua anh minh, thương dân như con
như Lý Thánh Tông. Làm vua mà dễ dàng từ bỏ ngai vàng như “trút chiếc
giày rách” như Trần Thái Tông lúc trẻ; khi về già lại nhường ngôi cho con,
làm thái thượng hoàng cùng xây dựng chính sự. Đó là những vị tướng vì an
nguy của xã tắc sẵn sàng xóa bỏ hiềm khích mâu thuẫn của gia tộc, ở ngôi cao
chức trọng được ân sủng đặc biệt nhưng không lạm dụng chức quyền, luôn
giữ trọn đạo làm tôi. Đó là những phi tần, công chúa quên đi việc làm đẹp,
hạnh phúc của bản thân, biết đặt quyền lợi của quốc gia trên quyền lợi của gia
đình. Đó là những thiền sư, cư sĩ tu theo đạo Phật, nhưng không ngại dấn thân
vào cuộc đời vì lợi ích của xã tắc… Ta có thể mượn một vài đoạn trong sách
sử của người xưa để hình dung rõ hơn về hào khí của con người thời ấy.
“Vua Lý Thánh Tông cũng giống các vua đời trước tuy đóng đô
ở Thăng Long nhưng tình cảm thường gắn bó với ruộng đồng và rất thương
dân (...). Một lần ngự ở điện Thiên Khánh để xử kiện, con gái vua là Động
Thiên đứng hầu bên cạnh, phạm nhân là một chàng trai trẻ phạm tội vì không
hiểu luật. Nhà vua gọi chúa ngục lại chỉ vào con gái mình mà nói:
- Ta yêu con ta như các bậc cha mẹ trong thiên hạ yêu con cái họ. Trăm
họ không hay biết nên tự phạm vào luật pháp ta rất thương xót. Từ nay các
tội bất kỳ nặng nhẹ cần răn dạy kĩ lưỡng và nhất nhất phải đều khoan giảm.
Và nhà vua đã tha bổng cho người con trai nọ. Lần khác gặp trời rất
lạnh nghĩ đến dân vua chạnh lòng với tả hữu:
- Ta ở trong thâm cung sưởi lò than, mặc áo hồ cừu mà khí lạnh còn thế
này, huống hồ những kẻ bị giam trong ngục thất xiềng xích khổ đau, ngay
gian chưa định, bụng không cơm no, thân không áo ấm, một khi gặp cơn giá
lạnh thổi há chẳng bị chết rét ư? Ta rất đỗi thương xót.
Nói rồi vua sai tả hữu đem chăn chiếu trong kho ban cho tù nhân và mỗi
ngày phát cho tù nhân ăn hai bữa cơm và vua xuống chiếu miễn cho cả nước
nửa số thuế năm đó” [78, tr.76-77].
Lý Thường Kiệt là vị tướng tài đời nhà Lý. Ông là người có công
lớn trong kháng chiến chống quân Tống. “Ông trong tỏ ra khoan minh, ngoài
thì ân huệ. Sửa đổi tục xấu cho dân, không quản khó nhọc. Làm việc thì cố
tránh phiền dân, sai dân thì cốt dỗ dân vui lòng làm việc; vì đó mà dân được
nhờ. Đem bụng khoan thứ cứu dân, lấy lòng nhân ái yêu dân; vì đó mà được
dân kính trọng. Lấy vũ oai để trừ lũ ác, lấy chính luật mà xử kiện, nhờ đó mà
không ai oán, cho nên ngục thất chẳng cần coi. Xem sự đủ ăn là nguyện của
dân, lấy việc cấy cày là gốc của nước, nhờ đó mà mùa không mất. Cai trị giỏi
nên không cần đánh dẹp. Nuôi nấng những kẻ già nua, cho nên kẻ già được
yên. Đạo ông như thế có thể coi là gốc để trị an, thuật để yên dân thật là đẹp
đẽ (…). Khi việc binh tạm rảnh, việc chính trị tạm thưa thì vui cùng sơn thủy,
giúp dựng chùa chiền…” [53, tr.118-119].
“Mậu thìn năm thứ mười một (1268). Mùa xuân, tháng giêng
vua (Trần Thánh Tông) từng bảo với tôn thất rằng: Thiên hạ là thiên hạ của tổ
tông, người nối nghiệp của tổ tông nên cùng anh em họ cùng hưởng phú quý;
tuy bên ngoài cả thiên hạ phụng sự một người tôn quý, nhưng bên trong ta
cùng các khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui, các
khanh nên lấy câu nói ấy mà truyền cho con cháu để nhớ lâu đừng quên thế là
phúc muôn năm của tôn miếu xã tắc vậy. Đến đây xuống chiếu cho các vương
hầu tôn thất, xong buổi chầu thì vào trong điện và lan đình, cùng nhau ăn
uống; hoặc có khi trời tối không về thì đặt gối dài chăn rộng cùng ngủ liền
giường với nhau để tỏ hết lòng yêu nhau. Còn như lễ lớn chầu mừng, tân
khách yến tiệc thì phân biệt ngôi thứ cao thấp. Vì thế nên vương hầu bấy giờ
không ai là không hòa thuận kính sợ, mà không có lỗi lệch vì sự nhờn mặt
kiêu căng” [42, tr.442-443].
“Quốc Tuấn là con Yên Sinh Vương, lúc mới sinh ra có người
thấy tướng trông thấy bảo rằng: Người này sau có thể giúp nước cứu đời (…).
Yên Sinh Vương với Chiêu Lăng (tức Trần Thái Tông) vốn không ưa nhau,
mang lòng hậm hực, tìm gặp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Khi
Yên Sinh Vương sắp mất cầm tay Quốc Tuấn mà giối giăng rằng: Mày mà
không vì cha lấy được thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt. Quốc Tuấn để
bụng thôi nhưng không cho thế là phải. Đến khi nước lung lay, quyền bính
quân quốc ở tay mình, Quốc Tuấn đem lời cha rặn nói với hai gia nô là Dã
Tượng, Yết Kiêu. Hai người gia nô can rằng: làm kế ấy tuy được phú quý một
lúc mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương chẳng phải phú quý hay
sao? Chúng tôi thề xin chết làm gia nô chứ không muốn làm quan mà không
có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi. Quốc
Tuấn cảm kích đến phát khóc rồi khen ngợi mãi (...). Thái Tông có vài văn bia
ở sinh từ của Quốc Tuấn để ví với Thượng phụ ngày xưa. Lại cho là có công
lớn phong làm Thượng quốc công, cho phép được phong tước cho người khác
từ tước Minh tự trở xuống duy có tước hầu thì phong trước mà tâu sau.
Nhưng Quốc Tuấn chưa từng phong tước cho một người nào. Khi giặc Hồ
xâm lấn, Quốc Tuấn bảo nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, chỉ cho làm
Lang tướng giả chứ không làm Lang tướng thực, ông kính cẩn giữ tiết làm tôi
như thế. Ông từng làm sách để khích lệ tướng hiệu dưới quyền, dẫn việc Kỉ
Tín lấy mình chết thay cho Hán Cao, Do Vu lấy lưng chịu giáo thay cho Sở
Tử, đều là dạy đạo lòng trung vậy” [42, tr.502-504].
Như vậy có thể thấy thời đại Lý Trần là thời đại của sự phục hưng và
tinh thần nhân văn cao đẹp. Thời đại ấy để lại cho dân tộc nhiều di sản văn
hóa có giá trị, đặc biệt là về hệ tư tưởng. Trong đó Phật giáo là một trong
những yếu tố căn bản tạo nên tinh hoa và bản sắc của dân tộc. Vì vậy khi đề
cập đến văn học – tác phẩm tinh thần của những con người ưu tú của thời đại
này, cần phải quan tâm đến sự ra đời và phát triển của Phật giáo, đặc biệt là
đặc điểm của nó trong thời đại Lý Trần.
1.2. Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần
Phật giáo khởi nguyên ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ thứ VI trước Công
Nguyên. Người sáng tạo ra đạo Phật là thái tử Tất Đạt Đa. Cảm thông trước
nỗi khổ của người dân, đặc biệt là tầng lớp nô lệ, năm 29 tuổi ngài đã từ bỏ
ngai vàng và cuộc sống phú quý trong cung điện để tìm con đường giải thoát
cho chúng sinh. Sau gần 7 năm lang thang, ngài đã giác ngộ được con đường
giải thoát trong lúc ngồi suy ngẫm dưới gốc cây bồ đề. “Con đường giải
thoát” mà ngài tìm ra là con đường tránh được hai cực: lạc thú và khổ hạnh.
Ngài xem con người là sự tập hợp của nhiều yếu tố vật chất không ngừng biến
hóa nên sẽ không có cái gọi là linh hồn bất tử.
Khi Phật Thích Ca mất, Phật giáo phân chia thành nhiều tông phái.
Trong đó nổi bật nhất là hai tông phái: Tiểu thừa và Đại thừa. Tông phái Tiểu
thừa phát triển ở miền Nam Ấn Độ và truyền sang các nước Sơrilanca, Thái
Lan, Campuchia… (nó còn được gọi là Phật giáo Nam phương hay Phật giáo
Pali). Tông phái Đại thừa phát triển ở Bắc Ấn và truyền qua các nước Tây
Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản… (tông phái này còn được gọi là Phật giáo Bắc
phương hay Phật giáo Sanskrit).
Việt Nam là đất nước nằm trong bán đảo Đông Dương, giữa chiếc nôi
của hai nền văn minh lớn là Ấn Độ và Trung Quốc nên hiển nhiên sẽ chịu ảnh
từ cả hai phía. Tuy nhiên nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo truyền vào
nước ta từ thế kỉ thứ II bằng con đường tiếp nhận tự nguyện từ các thương
buôn và tu sĩ người Ấn Độ trước khi Trung Quốc áp dụng chính sách đồng
hóa nước ta. Trong công trình Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Lang có
viết: “Luy Lâu là trụ sở của Giao Chỉ, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng
Việt Nam, tức huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc ngày nay. Từ đây có những
tuyến đường thủy bộ nối với Bành Thành và Lạc dương. Các nhà buôn người
Ấn Độ và người Trung Á đến buôn bán ở đây rất sớm và theo sau họ là các
nhà sư đến hành đạo và truyền đạo... Ở đây lại xuất hiện một trong những tác
phẩm Phật giáo viết sớm nhất bằng chữ Hán, đó là cuốn Lý hoặc Luận của
Mâu Tử, viết vào thế kỉ thứ II, xuất hiện những người trưởng thành về tu
luyện rồi sang Trung Quốc truyền đạo như Mâu Tử, Khương Tăng Hội...”
[106, tr.29]. Nhà sư Đàm Thiên (người Trung Quốc) khi trả lời Tùy Văn Đế
về Phật giáo Giao Châu cũng khẳng định: “Xứ Giao Châu có đường thông
sang Thiên Trúc. Phật giáo vào Trung Quốc chưa phổ cập đến Giang Đông
mà xứ ấy đã xây ở Liên Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được 500 vị tăng và dịch
được 50 bộ kinh rồi. Thế xứ ấy theo đạo Phật trước ta...” [106, tr.32].
Điều kiện địa lí kết hợp với những nhận định nêu trên cho phép kết
luận Phật giáo buổi đầu được truyền trực tiếp từ Ấn Độ sang nước ta bằng con
đường tiếp nhận tự nguyện thông qua quá trình giao lưu văn hóa từ các thủy
thủ và thương nhân, theo sau họ có thể là những tăng sĩ truyền đạo. Nhưng
đạo Phật truyền vào Việt Nam thời kì này có giáo lí như thế nào và gồm các
tông phái ra sao thì đến nay vẫn chưa có câu trả lời cụ thể. Có thể là tông phái
Đại thừa với hạt nhân là Thiền tông du nhập vào nước ta từ Ấn Độ. Vì theo
tác giả Lịch sử Phật giáo Việt Nam thì “ Nam Ấn là vùng đầu tiên xuất hiện
kinh Đại thừa Bát Nhã. Hán dịch là trí tuệ (...) chính dựa trên bộ kinh Bát Nhã
mà luận sư Long Thọ (Nagajuna) đã xướng thuyết Trung luận nổi tiếng có
ảnh hưởng sâu rộng đến Phật giáo Việt Nam” [106, tr.23-24]. Ngoài ra có thể
căn cứ vào hành trạng của các nhà sư nước ngoài đầu tiên đến truyền đạo ở
Giao Châu để thấy được phần nào diện mạo của Phật giáo Việt Nam thời kì
này. Theo Cao tăng truyện của Huệ Hạo, Ma-ha-kì-vực là người xứ Thiên
Trúc đi khắp mọi nơi truyền đạo và có phép thuật linh dị. Khâu-đà-la lại gắn
với sự tích về Man nương và tượng “tứ pháp” (pháp vân, pháp vũ, pháp lôi,
pháp điện). Trong cuốn Lý hoặc luận của Mâu Tử, Phật không được giới
thiệu như một nhân vật lịch sử mà xuất hiện như một vị thần có phép thần
thông quảng đại “có thể biến đi, có thể hiện ngay, có thể đi trên lửa mà không
cháy, dẫm trên dao mà không bị thương, trong chỗ nhiễm không bị bẩn, trong
chỗ họa mà không chịu tai ương, muốn đi thì bay, ngồi thì phát sáng...” [106,
tr.40]. Đến thế kỉ thứ III, tăng sĩ xứ Đại Nhục Chi là Chi-cương-lương-lâu với
sự hỗ trợ của tăng sĩ Việt Nam là Đạo Thành đã dịch một số kinh Đại thừa ở
Giao Châu. Nổi tiếng nhất là bộ kinh “Pháp hoa tam muội”. Qua bộ kinh này
“có thể thấy học phái của Chi-cương-lương-lâu và Đạo Thành là Đại thừa
giáo và có khuynh hướng Thiền học” [106, tr.75].
Từ năm 580, thiền sư Ấn Độ là Tì-ni-đa-lưu-chi sang Giao Châu truyền
giáo và lập ra Thiền phái thứ nhất ở Việt Nam. Ông là học trò đắc pháp của
Tăng Xán, tổ thứ 3 của Thiền tông Trung Hoa, nhưng dòng Thiền này vẫn
mang sắc thái của Thiền học Ấn Độ. Phái Thiền này coi trọng sự tu định và
tham thiền. Đây chính là pháp môn của Bồ-đề-đạt-ma, một đại biểu xuất sắc
của Thiền tông Ấn Độ.
Năm 820, thiền sư Trung Hoa hiệu Vô Ngôn Thông, sang chùa Kiến Sơ
làng Phù đổng tỉnh Bắc Ninh (Nay là Hà Bắc) lập ra phái Thiền thứ hai tại
Việt Nam. Vô Ngôn Thông đắc pháp từ thiền sư Bách Trượng – học trò đời
thứ 3 của lục tổ Huệ Năng rồi sang Việt Nam truyền đạo. Tư tưởng cơ bản
của dòng thiền Vô Ngôn Thông là “chân lí không phải ở đâu xa mà ở ngay
hiện tiền, ở trong bản thân mỗi người, nhưng chân lí đó chỉ có thể tu chứng
trực tiếp chứ không thể nào nắm bắt được qua ngôn ngữ văn tự” [106, tr.119].
Đó chính là “đốn ngộ”.
Từ thế kỉ thứ X và trong suốt các thời kì Ngô, Đinh, Tiền Lê, Phật giáo
vẫn tiếp tục phát triển. Một số trung tâm Phật giáo mới xuất hiện như Đại La,
Hoa Lư… Hai phái Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông vẫn tiếp tục
tồn tại và phát triển. Ở giai đoạn này thật khó nêu lên sự khác biệt của hai
phái Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông. Dường như đối với các nhà
sư thuộc phái Vô Ngôn Thông, các vấn đề cơ bản của Thiền học được quan
tâm nhất là: Tâm – Phật, sinh tử – vô sinh tử, chân như… Ở các nhà sư thuộc
phái Tì-ni-đa-lưu-chi ta thường gặp các hình thức tu tập mang tính chất Mật
giáo. Các nhà sư hay đọc các bài thần chú để chữa bệnh, cầu mưa... làm công
việc giống các đạo sĩ Đạo giáo. Ngoài ra các nhà sư còn dùng hình thức kệ,
sấm để tác động đến dư luận, nhất là việc chuẩn bị cho các cuộc vận động
chính trị (Pháp Thuận, Vạn Hạnh). Yếu tố Mật giáo còn được thể hiện ở các
cột kinh ở Hoa Lư. Tuy nhiên Mật giáo chỉ biểu hiện ở những khía cạnh riêng
lẻ, chưa hình thành tông phái độc lập. Ở Việt Nam thời bấy giờ cũng như về
sau chỉ có các phái Thiền tông.
Như vậy kể từ lúc du nhập vào Việt Nam cho đến cuối thời Tiền Lê,
Phật giáo đã trải qua một chặng đường phát triển khá dài với các đặc điểm nổi
bật sau:
Phật giáo Việt Nam là sự hòa hợp từ 3 nguồn du nhập:
+ Phật giáo Đại thừa mang đậm xu hướng Thiền từ Nam Ấn trực tiếp
du nhập vào Việt Nam vào thế kỉ thứ II.
+ Thiền tông Ấn Độ qua Trung quốc truyền vào Việt Nam ở thế kỉ thứ
VI qua thiền sư Tì-ni-đa-lưu-chi.
+ Thiền tông Trung Quốc trực tiếp truyền sang Việt Nam vào thế kỉ thứ
X qua thiền sư Vô Ngôn Thông.
Phật giáo truyền vào Việt Nam không hoàn toàn giống Phật giáo
của đức Thích Ca cũng như Phật giáo Ấn Độ đương thời. Nó đã thay đổi cho
phù hợp với tín ngưỡng và truyền thống tư tưởng của người Giao Châu gắn
với trung tâm Luy Lâu.
Thiền tông là tông phái chủ yếu của Phật giáo ở nước ta. Thiền
tông buổi đầu còn chịu ảnh hưởng từ Mật tông và Tịnh độ tông (chủ trương
niệm Phật để cầu vãng sinh cực lạc), nhưng càng về sau càng biến đổi cho
phù hợp với tâm lí người Việt.
Sang đời Lý, hai phái Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông tiếp
tục phát triển song song. Theo Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi có các thiền sư
như Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Minh Không, Thiền Nham... đều nổi tiếng có phép
thuật, thể hiện rõ sự ảnh hưởng của khuynh hướng Mật giáo. Họ không chỉ tu
đạo mà còn góp phần giải quyết nhu cầu thực tế như: cầu an, chữa bệnh, thu
phục thú dữ… Phái Thiền Vô Ngôn Thông tồn tại ở đời Lý từ thế hệ thứ 5
đến thế hệ thứ 15. Nổi bật là các thiền sư có tên tuổi như: Đa Bảo, Viên
Chiếu, Lý Thái Tông, Mãn Giác, Ngộ Ấn… Các thiền sư phái này chủ trương
“đốn ngộ”. Muốn đạt đến cảnh giới bừng sáng ấy thì người tu Thiền không
được có cái tâm phân biệt và phải chống lại sự phân tích lí tính. Ở Thiền phái
này cũng chịu ảnh hưởng của Mật giáo nhưng không sâu đậm như ở ở phái
Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi.
Nhìn chung các nhà sư đời Lý đều đề cao “đốn ngộ” nhưng không gạt
bỏ “tiệm ngộ”. Trong văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh dựng năm
1118, thiền sư Pháp Bảo có viết: “tuy giáo pháp chia ra đốn và tiệm; là tùy cơ
ngộ có nông sâu. Khiến chúng sinh vượt hố đoạn thường; lên bờ tịch diệt.”
[97, tr.332].
Đặc biệt ở thời Lý, ngoài hai tông phái đã nêu trên còn xuất hiện phái
Thiền Thảo Đường. Người mở đầu cho phái Thiền này là thiền sư Thảo
Đường, người Trung Quốc. Ông theo sư phụ sang Chiêm Thành truyền đạo,
bị Lý Thái Tông bắt làm gia nô của quan Tăng lục khi bình định Chiêm
Thành. Về sau vì có đạo hạnh nên ông được vua tôn làm quốc sư. Sách vở của
phái thiền Thảo Đường còn lại rất ít nên ta có thể lĩnh hội tinh thần của tông
phái này qua lời của Thảo Đường trong bài Cảnh sách: “Thiền vốn không có
cửa vào nhất định, không phải người có đủ linh căn thì phần nhiều rơi vào
đường lầm lạc, trọn đời trôi nổi, khó mà giác ngộ. Phép quán tâm thì rất tế
nhị, tinh vi, nếu không có trí tuệ Bát nhã thì ít đạt tới sự chứng nghiệm. Chỉ
có lối niệm Phật rất mau lẹ, tiện lợi. Từ xưa đến nay người thông minh, kẻ
ngu độn cùng tu được, đàn ông, đàn bà đều chuộng, muôn người không một
sai lầm như bốn lời dạy đã tỏ rõ. Chỉ cần tự phân tích lấy tâm mình, chớ nghi
ngờ mình làm không được...” [13, tr.20-21]. Như vậy tinh thần của phái Thảo
Đường tổng hợp cả Thiền và Tịnh, gần gũi với dân thường, tiếc là sự truyền
thừa của nó không được kéo dài (qua 4 đời).
Tóm lại đạo Phật thời Lý thể hiện sự dung hòa của cả Thiền, Mật và
Tịnh, trong đó Thiền tông vẫn là yếu tố chủ đạo. Đó là đạo Phật rất đại chúng,
góp phấn tạo nên sự hưng thịnh cho triều đại nhà Lý về nhiều mặt. Đáng tiếc
là về cuối đời Lý, đạo Phật lại có biểu hiện suy thoái. Năm 1198, tể tướng
Đàm Dĩ Mông tâu với vua Lý Cao Tông: “đương nay số tăng đồ và phu dịch
ngang nhau. Chúng quy kết bè lũ, lập càn người chủ, tụ họp từng bọn làm
nhiều điều ô uế...” [103, tr.116].
Sang đầu đời Trần, sự thay đổi của thời đại đã thổi một luồng không
khí mới vào Phật giáo làm nó trở nên trong sạch và nhập thế. Các nhà Thiền
học uyên thâm như: Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông đều là
những con người xông pha trận mạc, lập bao chiến công hiển hách. Đối với
các thiền sư cũng như tất cả người yêu Thiền lúc bấy giờ, Phật giáo là đạo
Phật hết sức gần gũi.
Nói đến Phật giáo đời Trần không thể không nhắc đến sự hình thành
của phái Thiền Trúc Lâm – phái thiền của Việt Nam. Người chính thức khai
sáng và được xem là tổ thứ nhất của phái Thiền này là Trần Nhân Tông. Song
tư tưởng của phái Thiền này thì đã bắt nguồn từ nhiều bậc thầy trước đó như
Trần Thái Tông, Đại Đăng, Tiêu Dao, gần nhất là Tuệ Trung Thượng sĩ – một
thiền gia với tư tưởng đặc biệt phóng khoáng, cởi mở, có thể xem là đại biểu
cho phong thái Thiền tông đời Trần. Trên cơ sở kế thừa Thiền tông đời Lý,
dung hòa “tiệm ngộ” và “đốn ngộ”, chắt lọc sự tinh túy của Nho giáo và Đạo
giáo, đời Trần đã tạo nên một đạo Phật có đặc điểm riêng, phù hợp với người
Đại Việt.
Từ những khảo sát trên, ta thấy Thiền tông Việt Nam thời Lý Trần
ngoài tôn chỉ chung của Thiền tông là “phá chấp” (cởi bỏ mọi vướng mắc,
chấp trước, phân biệt “nhị nguyên”), “đốn ngộ” (“kiến tính” bằng con đường
trực giác), “tâm truyền” (trao truyền thẳng vào lòng người, không thông qua
văn tự), còn có một số nét riêng:
Thiền được đưa vào cuộc sống, gắn bó với cuộc sống, phục vụ nhân
dân. Nhiều thiền sư trong giai đoạn này chọn lối sống cư sĩ, nhưng khi đất
nước cần thì sẵn sàng tham chính, mặc áo giáp ra trận, vừa hành đạo vừa làm
việc đời. Đạo Phật trở thành thứ đạo lí để nuôi dưỡng chân tính, tu dưỡng
nhân cách của con người, giúp họ an nhiên tự tại, vui sống, tự tin vào bản
thân.
Thiền dung hợp với yếu tố tích cực của cả Nho giáo và Đạo giáo để
giúp con người phát triển toàn diện, phù hợp với con đường phát triển của
thời đại. Thiền dung hợp với cả với Tịnh độ, Mật tông, hòa cùng tín ngưỡng
dân gian bản địa để phù hợp với thực tiễn và mang tính đại chúng.
Tóm lại Phật giáo thời Lý Trần là hệ tư tưởng phù hợp với đạo lí và
tâm lí của con người Đại Việt, là một trong những yếu tố giúp Đại Việt khởi
sắc. Nó vừa góp phần tạo lòng tin cho mỗi người, vừa khuyến khích con
người quay trở về với chân tâm của mình. Đó là đạo Phật đầy sức sống,
không hề hư vô, yếm thế, không thoát li khỏi đời sống. Nó là hệ tư tưởng
được nhiều người chọn để thể hiện trong thơ văn, tạo nên cho thời đại Lý
Trần một dòng văn học đặc biệt mà mỗi cái tên là một khám phá thú vị.
1.3. Tuệ Trung Thượng sĩ – thân thế và hành trạng
Tuệ Trung thượng sĩ tên thật là Trần Tung (1230 – 1291), là con cả của
An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm (vợ của vua Trần Thánh Tông). Khi
Trần Liễu mất (1251), Thượng hoàng Trần Thái Tông “cảm vì nghĩa nhận
Trần Tung làm con nuôi, cho thừa kế đất thang mộc của cha và phong cho
ông tước Hưng Ninh Vương” (Thượng sĩ hành trạng).
Đến nay vẫn còn nhiều tài liệu nhầm lẫn Tuệ Trung là Trần Quốc Tảng,
con trai của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Sự thật thì Trần Quốc Tuấn
có người con trai tên là Trần Quốc Tảng, nhưng được phong tước Hưng
Nhượng Vương. Thêm nữa theo các tác giả quyển Thơ văn Lý Trần, tập II,
quyển thượng, trong An Nam chí lược của Lê Trắc, quyển IV, mục chinh
thảo vận hướng nói về cuộc xâm lược lần thứ ba của giặc Nguyên Mông có
chỗ chép: “Nhị nguyệt thế tử khiển tòng huynh Hưng Ninh Vương Trần Tung
lũ lai ước hàng, cố tạo ngã sư. Dạ nãi khiển kí cảm tử giả kiếp chư dinh”
(tháng hai năm Mậu Tý 1288, Thế tử Đại Việt phái người anh con bác ruột là
Hưng Ninh Vương Trần Tung nhiều lần tới ước hẹn đầu hàng cốt làm cho
quân ta mệt mỏi rồi ban đêm cho quân cảm tử tới cướp doanh trại). Theo tài
liệu đó có thể khẳng định Trần Tung là bác của Trần Quốc Tảng.
Trần Tung là một trong những người có công trong kháng chiến chống
quân Nguyên – Mông. Cũng như phần lớn các vương hầu thân tín của nhà
Trần, trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông (1257-1258,
1285, 1287-1288), Trần Tung đã trực tiếp tham gia cầm quân đánh giặc. Dưới
quyền điều khiển của Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn, trong cuộc kháng
chiến lần thứ hai vào ngày 10 tháng 6 năm 1285, khi Thoát Hoan núng thế bắt
đầu rút khỏi bờ bắc Sồng Hồng thì ông cùng với Hưng Đạo Vương đem quân
đón đánh, kịch chiến với tướng giặc là Lưu Thế Anh, đuổi Thoát Hoan đến
sông Như Nguyệt. Và như đã đề cập ở trên, trong cuộc kháng chiến lần thứ
ba, ông còn được giao nhiệm vụ ngoại giao quan trọng nhiều lần đến đồn giặc
vờ ước hẹn trá hàng làm quân giặc mất cảnh giác, sau đó đem quân cướp
doanh trại. Trần Nhân Tông trong Thượng sĩ hành trạng đã khẳng định:
“Thượng sĩ được cử trấn giữ quân dân ở Lộ Hồng. Hai lần giặc Bắc xâm lăng,
có công với nước lần hồi được thăng chuyển giữ chức tiết độ sứ vùng biển tại
Thái Bình” [58, tr.544].
Về cốt cách, theo Trần Nhân Tông “Thượng sĩ là người khí lượng thâm
trầm, phong thần nhàn nhã. Ngay từ còn để chỏm đã hâm mộ cửa không. Đến
tham vấn thiền sư Tiêu Dao ở Phúc Đường, người đã lãnh hội được yếu chỉ
bèn dốc lòng thờ làm thầy. Ngày ngày chỉ lấy việc hứng thú với thiền học làm
vui, không hề bận tâm đến công danh sự nghiệp” [58, tr.544-545].
Như vậy cũng như khá nhiều nhân tài thời Trần, lúc binh biến Tuệ
Trung dốc hết lòng hết sức vì xã tắc, song lúc thái bình ông không hề chú
trọng việc làm quan, danh vọng chức tước mà yêu cuộc đời an vui bình dị. Có
lẽ chính vì thế mà tên tuổi của ông ít đi vào sử sách chăng?
Tuy nhiên nếu xét trong giới thiền đời Trần, mặc dù không xuất gia đi
tu nhưng Tuệ Trung là một gương mặt đặc biệt được nhiều người kính trọng.
Đương thời Trần Thánh Tông rất mực tôn kính ông. Tháng 2 năm 1287
Hoàng hậu Thiên Cảm qua đời, vua Thánh Tông cúng chay trong cung, bảo
Nhân Tông mời Tuệ Trung đến dự. Có mặt trong buổi lễ ấy là nhiều vị tôn túc
trưởng lão của Thiền môn. Thánh Tông thỉnh mỗi vị một bài kệ ngắn để bày
tỏ kiến giải của mình. Nhưng kết quả bài nào cũng “ngầu bùn sũng nước”
chưa được khai thông. Vua bèn đem giấy đến cho Thượng sĩ. Thượng sĩ liền
viết bài kệ sau đây:
Kiến giải trình kiến giải,
Tự niết mục tác quái.
Niết mục tác quái liễu,
Minh minh thường tự tại.
Dịch thơ:
Kiến giải bày kiến giải,
Như dụi mắt làm quái.
Dụi mắt làm quái rồi,
Sáng sủa liền tự tại.
Vua Thánh Tông đọc xong liền viết tiếp như sau:
Minh minh thường tự tại,
Diệc niết mục tác quái.
Kiến quái bất kiến quái,
Kỳ quái tất tự hoại.
Dịch thơ:
Sáng sủa thường tự tại,
Cũng dụi mắt làm quái.
Thấy quái, không thấy quái,
Quái kia liền tự hoại.
Tuệ Trung đọc xong rất mực bằng lòng. Thánh Tông rất khâm phục đạo
học của ông. Chính vua là người đầu tiên cung kính gọi Tuệ Trung là Thượng
sĩ (giống như Bồ tát). Vua Trần Nhân Tông – người sáng lập ra phái Thiền
Trúc Lâm từng tôn Tuệ Trung làm thầy và luôn hết lòng tôn kính, đề cao:
“Thượng sĩ trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng chứ không trái hẳn với
người đời. Nhờ đó mà tiếp nối theo được hạt giống pháp và dìu dắt được kẻ
sơ cơ. Người nào tìm đến hỏi han, người cũng chỉ bảo cho điều cương yếu,
khiến họ trụ được cái tâm, mặc tính ngang tàng, không rơi vào danh hay thực”
[58, tr.545]. Trần Nhân Tông còn dành riêng bài Tán Tuệ Trung Thượng sĩ
để ca ngợi người thầy của mình:
Vọng chi nhĩ cao
Toàn chi nhĩ kiên
Hốt nhiên tại hậu
Chiêm chi tại tiền
Phù thị chi vị
Thượng sĩ chi thiền
Dịch thơ:
Càng nhìn càng cao
Càng khoan càng bền
Chợt phía sau đó
Ngắm phía trước liền
Cái này tên gọi
Là Thượng Sĩ Thiền
(Đỗ Văn Hỷ dịch)
Như thế đủ biết đạo học của Tuệ Trung rất uyên thâm và hành trạng
của ông có nhiều điều độc đáo. Đó là người tinh sâu biết rõ, ngược xuôi thật
khó mà lường.
Năm 1290, Thượng hoàng Trần Thái Tông băng, Tuệ Trung Thượng sĩ
về kinh đô chịu tang. Vài tháng sau ông cũng nhiễm bệnh ở Dưỡng Chân
trang. Trần Nhân Tông kể lại: lúc sắp mất người không nằm ở phòng riêng mà
cho kê một chiếc giường gỗ ở ngôi nhà bỏ trống và “nằm theo phép kiết
tường, nhắm mắt mà tịch. Người hầu và thê thiếp trong nhà khóc rống lên.
Thượng sĩ mở mắt ngồi dậy, gọi người lấy nước rửa tay, súc miệng, đoạn quở
nhẹ rằng: Sống chết là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối
chân tính của ta? Dứt lời người êm thấm mà tịch. Bây giờ là ngày mồng một
tháng tư năm Tân Mão, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ bảy, hưởng thọ 62
tuổi” (Thượng sĩ hành trạng).
Với đạo học uyên thâm kết hợp với lối sống phóng khoáng, cởi mở,
tiến bộ, Tuệ Trung đã sáng tác một khối lượng lớn tác phẩm vừa hàm chứa tư
tưởng Thiền, vừa thấm đẫm chất thi ca. Tuy nhiên tác phẩm của Thượng sĩ
không được chú thích mốc thời gian cụ thể. Vì thế ta không thể chia sáng tác
của ông thành các giai đoạn như vẫn thực hiện được với nhiều tác giả khác.
Theo các tác giả cuốn Thơ văn Lý Trần, sáng tác của Thượng sĩ được
tập hợp trong bộ Thượng sĩ Ngữ Lục. Đây là bộ sách gồm ba phần. Phần thứ
nhất là phần Ngữ lục gồm những bài giảng của ông cho học trò tập hợp trong
Đối cơ và những ý kiến của ông về những công án xưa, còn gọi là Tụng cổ.
Phần thứ hai gồm 49 bài thơ dưới nhiều đề tài và nhiều thể loại. Phần thứ ba
gồm 1 bài Thượng sĩ hành trạng của Trần Nhân Tông, 8 bài của tám nhà
Thiền học của phái Trúc Lâm và 1 bài bạt của Đỗ Khắc Chung. Toàn bộ tập
sách do sư Tuệ Nguyên chùa Long Động khắc in vào năm Quý Hợi, niên hiệu
Chính Hòa thứ 4 (1683), được khắc lại một lần nữa vào năm Quý Mùi, niên
hiệu Cảnh Hưng thứ 24 (1763), rồi lại được sư Thanh Cừ khắc lại năm Quý
Mão (1903).
Như vậy sáng tác của Thượng sĩ có thể tóm tắt trong ba phần chính:
Đối cơ, Tụng cổ, Thi ca.
Đối cơ là những mẫu đối thoại của Thượng sĩ và các thiền sinh tham
vấn học hỏi về các chủ đề liên quan đến giáo lí Phật giáo. Đây cũng là một
hình thức sáng tác trong văn học Thiền. Câu trả lời trong cuộc hội thoại
thường đưa người học ra ngoài thế giới suy luận thông thường, bỏ những khái
niệm vọng tưởng để từ đó mà chứng ngộ.
Tụng cổ là thể loại sáng tác khá đặc biệt trong thơ Thiền. Người tụng
thường trình bày các ý tưởng của mình dựa trên các điển cố, công án mà mình
tâm đắc. Từ đó giúp người học tiếp nhận thông điệp Thiền ý.
Thi ca là những bài thơ thể hiện sự chứng đắc về Thiền ý với nguồn
cảm hứng vô tận mang tính thẩm mĩ và những tư tưởng uyên áo.
Tuy nhiên điều đáng lưu ý là ngay trong cả hai phần Đối cơ và Tụng cổ
cũng có không ít câu, đoạn mang giá trị thi ca. Thông qua ba phần này, toàn
bộ tư tưởng Thiền học, triết học của Tuệ Trung đã được phô diễn rất tinh tế cả
về nội dung lẫn nghệ thuật. Kế tục tư tưởng trong sáng tác của người đi trước,
Thượng sĩ ngữ lục đã trở thành tác phẩm mở đường cho Thiền phái Trúc
Lâm, tham gia đóng góp giúp đạo Phật hưng thịnh, làm rạng rỡ thời đại.
Chương 2:
NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ NỘI DUNG – TƯ TƯỞNG CỦA
TUỆ TRUNG CHO THƠ THIỀN VIỆT NAM
2.1. Tư tưởng “tuỳ duyên”
Kế tục lối sống “hòa quang đồng trần” của các vị thiền sư đi trước, đến
Tuệ Trung Thượng sĩ, lối sống ấy càng được thể hiện đậm nét. Điều này có
thể thấy rõ qua lời nhận xét của Trần Nhân Tông trong Thượng sĩ hành
trạng: “Thượng sĩ trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng chứ không trái
hẳn với người đời. Nhờ đó mà tiếp nối theo được hạt giống pháp và dìu dắt
được kẻ sơ cơ. Người nào tìm đến hỏi han, người cũng chỉ bảo cho điều
cương yếu, khiến họ trụ được cái tâm, mặc tính ngang tàng, không rơi vào
danh hay thực” [58, tr.545]. Đó chính là thái độ sống, lối sống “tùy duyên”
của Thiền tông. Nếu các vị Bồ tát trong kinh Phật luôn đề cao sự dấn thân và
hòa mình vào cuộc đời để phụng sự chúng sinh thì với Tuệ Trung, Thiền tông
cũng không còn là triết lý cao siêu xa lạ. Qua thơ văn của mình, Thượng sĩ đã
thể hiện một triết lí thiền gần gũi với cuộc đời, ở ngay trong đời sống hằng
ngày. Với ông “đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, trong lửa lò hồng một đóa sen”
[58, B.103]. Triết lí thiền của Tuệ Trung là sự ung dung, khoan thai trong mọi
hành động, khi tâm tĩnh thì hành động luyện tính tất thành.
Thượng sĩ quan niệm sống ở đời là phải biết tùy nghi, không nên khư
khư chấp vào quy tắc cứng nhắc:
Khỏa quốc hân nhiên tiện thoát y,
Lễ phi vô dã, tục tùy nghi._.– chậm, vĩnh cửu – nhất
thời… Kiểu kết cấu này được tác giả vận dụng trong bài Vạn sự quy như,
nhưng đặc biệt thành công ở bài Đốn tỉnh:
Đoán tri không hữu bất tương sa,
Sinh tử nguyên tòng nhất phái ba.
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt,
Tân niên hoa phát cố niên hoa.
Tâm sinh thúc hốt chân phong chúc,
Cửu giới tuần hoàn thị nghĩ ma.
Hoặc vấn như hà vi cứu cánh,
Ma – ha bát – nhã tát – bà – ha.
Bài thơ gồm tám câu, nhưng có tới sáu câu nêu lên sự vận động,
chuyển hóa của sáu cặp đối lập. Cặp đối lập ở câu một là không và có; Cặp
đối lập ở câu hai là sống và chết, cặp đối lập ở câu 3, 4 là cái nhất thời trong
một dạng vật chất cụ thể và cái hằng thường của quy luật; cặp đối lập ở câu 5
là lâu dài và khoảnh khắc; cặp đối lập ở câu 6 là cái lớn lao và cái nhỏ bé. Sáu
cặp đối lập này không đưa tới kết luận làm nổi bật một trong hai mặt đối lập
hay chỉ sự hữu hạn của cuộc đời con người như vẫn quen gặp trong thơ
Đường mà nhấn mạnh vào sự biện chứng chuyển hóa giữa các mặt đối lập để
khẳng định tính nhất nguyên của nó (Ma – ha bát – nhã tát – bà – ha tức là
như thị, như thế ấy). Kiểu kết cấu này đặc biệt phù hợp với tinh thần phá chấp
triệt để của Tuệ Trung. Ông đả phá mạnh mẽ những con người có đầu óc chấp
nê cứ bám vào các hiện tượng nhìn thấy được rồi giữ mãi tri kiến hẹp hòi đó
mà bỏ mất cơ hội tìm ra bản thể chân như.
Ở thể loại cổ phong phóng khoáng tự do, Tuệ Trung đã phối hợp các
câu dài ngắn trong một đoạn thơ nhằm mục đích nhấn mạnh và gây sự chú ý.
Sự phối hợp này thường đi kèm với kết cấu lặp cấu trúc và kết cấu vòng
tròn. Ví dụ như ở bài Phật tâm ca, trừ khổ thơ mở đầu, 11 khổ còn lại có
chung một dạng kết cấu: Hai câu đầu (mỗi câu 3 chữ) có tác dụng cô đúc ý
chính của khổ, những câu còn lại triển khai rõ ý chính này. Việc lặp lại như
thế có tác dụng nhấn mạnh kết luận: con người hãy từ bỏ cả tâm và Phật,
đừng bám vào cái này hoặc cái kia thì sẽ đạt đến trạng thái vi diệu, mở được
“con mắt huệ”. Kiểu kết cấu vòng tròn trong bài thơ được thể hiện ở chỗ: mở
đầu tác giả nêu lên hai vấn đề Phật không thể thấy, tâm không thể nói và mối
quan hệ biện chứng giữa Phật và tâm (“Khi tâm sinh thì Phật sinh, khi tâm
diệt thì Phật diệt”). Những khổ thơ còn lại là những lí lẽ chứng minh cho hai
vấn đề đó. Riêng khổ thơ cuối là lời cảnh tỉnh đối với người học đạo:
Tỉnh! Tỉnh! Tỉnh!
Thức! Thức! Thức!
Bàn chân dẫm đất đừng chống chếnh.
Ai người tin tưởng ở nơi đây,
Bước lên đầu Phật trèo lên đỉnh.
Hét!
(Huệ Chi dịch)
Đây cũng là dạng kết cấu được sử dụng trong bài Trữ từ tự cảnh văn. Lối kết
cấu vòng tròn ở tác phẩm này dẫn dắt người đọc trở về điểm khởi đầu của bài
thơ để phát hiện thấu đáo vấn đề, cũng như khẳng định vấn đề bằng cách thực
hành sáng suốt. Kết cấu này càng phát huy tác dụng khi Thượng sĩ kết hợp nó
với nhịp thơ mạnh cùng với tiếng hét có tác dụng cảnh tỉnh:
Chắp tay trân trọng,
Bè bạn thân tình.
Hoặc ai người có thánh có linh,
Mở tầm mắt ta cùng tiến tới.
Hét!
(Huệ Chi – Đỗ Văn Hỷ dịch)
Trong phần Đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, Tuệ Trung vận dụng thành
công kiểu kết cấu theo hình thức đối cơ. Đây là phương thức mẫu mực, độc
đáo của Thiền tông, hàm súc tất cả khí phách hùng hồn qua một cuộc đối
thoại, vượt hẳn ra ngoài suy diễn luận lí và các khái niệm vọng tưởng. Căn cứ
vào Thiền uyển tập anh thì dạng kết cấu này đã xuất hiện từ thời Pháp Hiền
(?- 626) và được thịnh hành vào thời Lý khi Viên Chiếu viết Tham đồ hiển
quyết với những công án nhằm dạy cho những người tham Thiền. Thực tế,
các thiền sinh thường là những người thụ động với những lí luận, khái niệm
ngôn từ giả hợp. Thay vì giải thích cặn kẽ các nghi ngờ, thiền sư lại “ra đòn”
khiến người hỏi choáng ngợp. Con đường duy nhất để thoát khỏi tình huống
đó là thiền sinh cần vượt ra ngoài các khái niệm, tự hóa giải mâu thuẫn nội tại
để ngộ ra thiền ý. Kiểu kết cấu Đối cơ mà Tuệ Trung vận dụng tuy theo mô
thức truyền thống, nhưng ở ông vẫn có nét đặc sắc riêng. Thượng sĩ thường
lật ngược hẳn ý của câu hỏi vốn là những điều cốt lõi của kinh điển để người
tham vấn sững sờ và khuất phục, sau đó nói bài kệ ngắn có tác dụng khai tâm.
Chẳng hạn như hội thoại thứ bảy trong phần Đối cơ:
Lại hỏi: Trong giáo lí nói “không tức là sắc, sắc tức là không”, ý nghĩa
thế nào?
Sư im lặng giây lâu, hỏi: Đã hiểu chưa?
Đáp lại: Chưa hiểu.
Sư nói: Ngươi có sắc thân không?
Đáp lại: Có.
Sư nói: Vậy sao nói “sắc tức là không”?
Lại hỏi tiếp: Ngươi có nhìn thấy cái “không” có diện mạo gì không?
Đáp lại: Không.
Sư nói: Vậy sao nói “không tức là sắc”?
Lại hỏi: Rốt cuộc là thế nào?
Sư nói:
Sắc vốn chẳng phải không,
Không vốn không phải sắc.
Môn tăng lễ tạ.
Sư bảo: Nghe kệ ta đây:
Sắc tức là không, không tức sắc,
Ba đời chư Phật quyền biến đặt.
Không vốn không sắc, sắc không không,
Thể tính sáng lâu, chẳng được mất.
Trong cuộc hội thoại trên, Tuệ Trung bác bỏ một mệnh đề nổi tiếng của
kinh Phật được nhiều người nhắc đến và nghiễm nhiên thừa thận: “không tức
là sắc, sắc tức là không”. Lần thứ nhất, khi thiền sinh đồng ý mình có sắc
thân, Tuệ Trung đã hỏi dồn: Vậy sao nói “sắc tức là không”? Lí trí không cho
phép thiền sinh khẳng định điều này. Lần thứ hai, khi được hỏi: Ngươi có
nhìn thấy cái “không” có diện mạo gì không? Thiền sinh với suy nghĩ lí trí
buộc phải phủ nhận. Tuệ Trung tiếp tục hỏi dồn: Vậy sao nói “không tức là
sắc”?. Đó quả là câu hỏi nan giải mà người tham vấn với suy nghĩ theo lôgic
thông thường không thể trả lời. Như thế cả hai lần, bằng cách vận dụng kết
cấu Đối cơ, Thượng sĩ đã bác bỏ vấn đề mà người học đạo đưa ra một cách
hiệu quả. Từ đó ông đi đến một mệnh đề mới, đối lập hoàn toàn với kinh điển
Phật giáo, có tác dụng khơi mở tâm hồn những người còn vướng mắc vào
khái niệm, chịu sự ràng buộc của cái nhìn “nhị kiến”. Người đọc có phong
thái nho nhã, ưa sự trau chuốt ngôn từ sẽ khó thích lối nói này của Tuệ Trung.
Nhưng đây là những đòn đánh cần thiết cho những ai còn mê lầm, chấp vào
cực này hay cực kia. Đọc Đối cơ của Tuệ Trung, người đọc cần cái tâm tĩnh,
nhưng phải có tinh thần phá chấp mạnh mẽ. Có như thế mới thấy được cái
thâm hậu riêng của người sử dụng nó.
Việc kết hợp các thể loại thơ với kiểu kết cấu hài hòa cho riêng từng
bài, từng thể loại đã khiến cho thơ Thiền của Tuệ Trung trở nên sinh động
hơn. Nó vừa gây ấn tượng, vừa “đốn tỉnh” người học đạo và phần nào thể
hiện được phong thái riêng của Thượng sĩ.
KẾT LUẬN
Từ việc đề cập đến những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ
thiền Việt Nam, người viết đi đến một số kết luận như sau:
1. Lý Trần là một trong những thời đại để lại dấu ấn rực rỡ nhất trong
lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Đây là thời đại độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước với hào khí vang dội từ những cuộc chiến chống giặc
ngoại xâm. Đồng thời cũng là thời đại phục hưng những giá trị tinh thần của
dân tộc. Vượt qua những khó khăn thử thách của giai đoạn đầu khôi phục đất
nước sau gần mười một thế kỉ bị lệ thuộc, dưới thời đại Lý Trần, Đại Việt đã
tạo dựng nên nhiều thành tựu về kinh tế, chính trị, giáo dục, hệ tư tưởng...
Đặc biệt, đây là giai đoạn hưng thịnh bậc nhất của Phật giáo trong lịch sử Việt
Nam.
Trải qua một thời gian dài, đến thời đại Lý Trần, Phật giáo với tông
phái chính là Thiền tông đã bắt nhịp với cuộc sống, hòa vào hào khí của thời
đại, trở thành hệ tư tưởng tiến bộ làm thăng hoa những giá trị tinh thần cao
đẹp của một dân tộc đang vươn lên để khẳng định nền độc lập tự chủ của
mình. Đó là thứ tôn giáo nhập thế, phù hợp với đòi hỏi của thời đại và tín
ngưỡng dân gian của người Việt nam.
Yếu tố thời đại kết hợp với sự phát triển của Phật giáo ở giai đoạn này
đã tạo nên những con người có hành trạng và cách hành xử đặc biệt. Bên cạnh
những nhà sư tu Thiền tại chùa, còn có không ít bậc cư sĩ đi theo đường lối tu
Phật nhưng không xuất gia, vừa tham vấn Thiền học vừa hành đạo giúp đời.
Tuệ Trung là một mẫu người như thế. Ông vừa hoàn thành sứ mệnh của con
người thời đại, góp phần đánh giặc cứu nước, đồng thời là đỉnh cao trong giới
thiền gia đời Trần. Con người ấy có hành trạng đặc biệt và đạo học uyên
thâm. Sáng tác của ông còn lại được tập hợp trong bộ Thượng sĩ ngữ lục.
Đây là bộ sách có giá trị tư tưởng đặc sắc, đồng thời cũng là thi phẩm nghệ
thuật được nhiều người đánh giá cao.
2. Dấu ấn thời đại và ảnh hưởng của hào khí dân tộc đã thể hiện khá rõ
nét trong thơ của Tuệ Trung. Ngược lại, đến lượt mình Thượng sĩ đã góp phần
xây dựng nên cho thời đại chủ nghĩa nhân văn cao đẹp. Điều đó thể hiện qua
những đóng góp của thơ thiền Tuệ Trung cho thơ thiền Việt Nam về nội dung
– tư tưởng.
Tiếp nối hành động dấn thân vào cõi phàm trần để phụng sự chúng
sinh của các vị Bồ tát, phát huy tư tưởng “tùy tục” của thiền sư Trường
Nguyên, Thường Chiếu đời Lý, Tuệ Trung mang đến cho thơ thiền Việt Nam
tư tưởng “tùy duyên” tiến bộ. Đề xuất quan điểm “hòa quang đồng trần”, ông
muốn mỗi người tham Thiền không xa lánh trần tục mà đi vào đời, góp phần
làm đời thêm sáng tươi. Tinh thần “tùy ngộ nhi an” đến Tuệ Trung đã được
thực thi hiệu quả.
Cội nguồn của lối sống Thiền tích cực đó chính là tinh thần phá chấp
triệt để. Tuệ Trung chỉ cho con người thấy nếu vượt lên trên mọi ràng buộc
của khái niệm, của cái nhìn sai biệt chia thế giới làm hai, con người dù ở đâu,
lúc nào cũng có thể sống an nhiên, tự tại.
Khi không còn sự phân biệt trong tâm thì sẽ không cần tìm thánh, cầu
Phật, vì tâm Phật cũng chính là tâm ta. Thượng sĩ đã tạo cho con người niềm
tin mạnh mẽ vào bản thân khi chỉ rõ Phật tính vốn có trong tâm họ, đức Phật
tồn tại ngay trong đời sống hàng ngày.
Ông đồng thời cũng là người góp công trong việc dung hòa tinh hoa
của các hệ tư tưởng Nho – Phật – Đạo. Nhận thức đúng yếu chỉ Thiền tông,
con người trong thơ Tuệ Trung tự do hành xử theo triết lí hành tàng của Nho
gia, ung dung rong chơi trong cõi thế với tinh thần vô vi, phóng nhiệm của
Lão – Trang.
Những tư tưởng tiến bộ trong thơ thiền của Tuệ Trung đã góp phần mở
ra một lối đi tích cực cho Thiền tông Việt Nam. Đó là lối đi xuất phát từ chủ
nghĩa nhân văn và rất gần gũi với những giá trị văn hóa dân gian, tín ngưỡng
của dân tộc. Lối đi ấy phù hợp với lối tư duy và tinh thần năng động, sáng tạo
của con người thời đại.
3. Với 49 bài thơ cùng với các câu, các đoạn trong cả hai phần Đối cơ
và Tụng cổ, Tuệ Trung đã mang lại cho thơ Thiền Việt Nam những sắc màu
mới.
Ngôn ngữ trong sáng tác của Tuệ Trung không đơn thuần là những điển
tích, điển cố, Thiền ngữ... mà là hệ thống ngôn ngữ sinh động. Ngôn ngữ thơ
của ông có khi mang tính chất vô ngôn, nghịch ngôn tiêu biểu của thơ thiền
nói chung, khi gần gũi đẫm chất khẩu ngữ, lúc lại đằm thắm, trữ tình. Đó
chính là thứ ngôn ngữ phức hợp của nhà thơ có tâm hồn phong phú.
Thế giới hình tượng trong tác phẩm của Thượng sĩ từ hình ảnh con
người, thiên nhiên đến không gian và thời gian nghệ thuật đều rất đa dạng.
Bên cạnh những phần mang phong vị Thiền là những phần phản ánh cuộc
sống đa hương, đa sắc. Sự kết hợp nhuần nhị này khiến nhiều sáng tác của
Tuệ Trung trở thành những bài thơ trữ tình với ngụ ý, ẩn ngôn sâu sắc, tinh
diệu.
Giọng điệu trong thơ của ông cũng biến đổi linh hoạt. Giọng điệu ấy
lúc trầm, lúc bổng, khi gay gắt, trào lộng, triết lí nhưng có khi lại đằm thắm,
trữ tình như lời tâm tình của một con người lấy chính cuộc đời mình thể nhập
để phát hiện ra sự diệu kì trong giáo lí Thiền tông.
Tuệ Trung không chỉ sử dụng thể thơ ngũ ngôn như nhiều thiền sư đời
Lý, ông sử dụng rất nhiều thể thơ để bày tỏ tư tưởng và tình cảm của mình.
Bên cạnh những bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn tứ tuyệt diễn đạt ngắn
gọn giáo lí kinh điển của Phật giáo là những bài thơ thất ngôn bát cú hoặc cổ
phong giãi bày cặn kẽ những vấn đề uyên áo hay giây phút chứng ngộ và tâm
hồn tự do, phóng khoáng của thiền gia đạt đạo. Các thể thơ ấy phát huy tác
dụng hơn khi Thượng sĩ kết hợp với nhiều dạng kết cấu như: kết cấu vòng
tròn; kết cấu vận động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; kết cấu bậc thang;
kết cấu lặp lại; kết cấu nêu ví dụ để đi đến kết luận...
Từ những giá trị nghệ thuật được đúc kết, có thể khẳng định Tuệ Trung
là nhà thơ theo đúng nghĩa với phong cách thơ trữ tình – triết học. Tác phẩm
của ông không chỉ nhằm truyền giảng đạo lí, nó còn chuyên chở bao tâm tình,
cảm xúc của một thiền sư – cư sĩ theo đạo mà không lánh đời. Nói như tác giả
Nguyễn Duy Hinh: “Thơ thiền của Tuệ Trung thoát tục mà không xuất thế,
cuồng mà không say” [47, tr.254]. Nó xây dựng một thế giới thiền lung linh,
huyền ảo, nhưng cũng rất gần với cuộc đời. Nói cách khác các tác phẩm của
Tuệ Trung đã hoàn thành nhiệm vụ văn học của mình trước khi thực hiện
chức năng truyền giảng đạo. Đó là những bài thơ mang dấu ấn cá nhân. Vì thế
khi tiếp xúc với thơ của Tuệ Trung, trước khi giác ngộ ra bài học về đạo,
chúng ta đã được tiếp xúc với thông điệp truyền cảm của một nghệ sĩ.
Với những đóng góp tích cực ấy, thơ thiền của Tuệ Trung rất xứng
đáng được coi trọng và nghiên cứu như những bông hoa trong vườn thiền đa
hương sắc. Với những điều đã trình bày trong luận văn, người viết hi vọng
góp phần đưa Tuệ Trung đến gần hơn với bạn đọc chưa có dịp tiếp cận thơ
thiền Việt Nam nói chung và thơ thiền của Tuệ Trung nói riêng.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Kí hiệu các từ viết tắt trong luận văn
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1: THỜI ĐẠI LÝ TRẦN VÀ TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
1.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội thời Lý Trần ..................................................16
1.2. Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần .........................................................21
1.3. Tuệ Trung Thượng sĩ – thân thế và hành trạng......................................28
Chương 2: NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ NỘI DUNG – TƯ TƯỞNG CỦA
TUỆ TRUNG CHO THƠ THIỀN VIỆT NAM
2.1. Tư tưởng “tuỳ duyên”.............................................................................35
2.2. Tinh thần phá chấp triệt để .....................................................................40
2.3. Tinh thần tự tin vào bản thân..................................................................48
2.4. Tinh thần dung hợp Tam giáo ................................................................54
Chương 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ NGHỆ THUẬT CỦA TUỆ
TRUNG CHO THƠ THIỀN VIỆT NAM
3.1. Về ngôn ngữ ...........................................................................................61
3.2. Về hình tượng nghệ thuật .......................................................................69
3.2.1. Con người ........................................................................................69
3.2.2. Thiên nhiên ......................................................................................81
3.2.3. Không gian nghệ thuật.....................................................................86
3.2.4. Thời gian nghệ thuật........................................................................89
3.3. Về giọng điệu .........................................................................................95
3.4. Về thể loại và kết cấu ...........................................................................102
KẾT LUẬN ........................................................................................................111
TÀI LIỆU THAM KHẢO
THƯ MỤC TÁC PHẨM CỦA TUỆ TRUNG
KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. NXB : Nhà xuất bản
2. PTS : Phó Tiến sĩ
3. TCVH : Tạp chí văn học
4. Ths : Thạc sĩ
5. Tp. Hồ Chí Minh : Thành phố Hồ Chí Minh
6. tr : trang
7. Ts : Tiến sĩ
8. Ví dụ [54, tr.128] : tài liệu số 54 ở mục tài liệu tham khảo,
trang thứ 128 trong tài liệu này.
9. Ví dụ [58, B.62] : tài liệu số 58 ở mục tài liệu tham khảo,
bài thứ 62 theo sắp xếp trong tài liệu này.
10. (Giang hồ tự thích, B.82) : Giang hồ tự thích bài số 82, phân biệt
với bài Giang hồ tự thích bài số 91 (áp
dụng cho hai bài thơ khác nhau có cùng
tựa đề).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andrew Skillton (2004), Đại cương lịch sử Phật giáo thế giới
(Nguyễn Văn Sáu dịch), NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
2. Ban Phật giáo Việt nam – Ban Phật giáo chuyên môn (1995), Thiền
học đời Trần, NXB Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
3. Ban văn học Việt Nam (1971), Về việc nghiên cứu thơ văn Lý –
Trần, TCVH, số 5, tr.117.
4. Bùi Duy Tân chủ biên (2004), Hợp tuyển văn học trung đại Việt
Nam (thế kỉ X –XIX), tập 1, NXB Giáo Dục.
5. Bùi Văn Nguyên – Phạm Sĩ Tấn (1961), Giáo trình lịch sử văn học
Việt Nam, tập II, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
6. Bùi Văn Nguyên (1975), Bàn về một khía cạnh trong thơ trữ tình
đời Trần, TCVH, số 1, tr.18.
7. Cao Hữu Đính (1971), Văn học sử Phật giáo, NXB Minh Đức, Sài
Gòn.
8. Đinh Gia Khánh (1950), Văn học cổ Việt Nam, NXB Giáo Dục, Hà
Nội.
9. Đinh Gia Khánh chủ biên (2000), Văn học Việt Nam (Thế kỉ X – nửa
đầu thế kỉ XVIII), NXB Giáo Dục.
10. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đại học sư phạm Huế
(2008), Vua Trần Nhân Tông và bài học giải phóng dân tộc,
nguồn: http:// tuanvietnam.net.
11. Đoàn Thị Thu Vân (1992), Một vài nhận xét về thơ thiền Lý Trần,
TCVH, số 2, tr.35.
12. Đoàn Thị Thu Vân (1993), Quan niệm về con người trong thơ
thiền Lý Trần, TCVH, số 3, tr.12
13. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ
thiền Việt Nam thế kỷ X – thế kỷ XIV, NXB Trung tâm nghiên
cứu Quốc học và NXB Văn Học.
14. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Khoảnh khắc “Quên” trong thơ thiền,
TCVH, số 4, tr.90
15. Đoàn Thị Thu Vân chủ biên (2008), Văn học trung đại Việt Nam
(Thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX), NXB Giáo Dục.
16. Đoàn Trung Còn (1970), Các tông phái đạo Phật, NXB Trí Đức,
Sài Gòn.
17. Đỗ Văn Hỷ (1975), Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ
thiền, TCVH, số 5, tr.130.
18. Hà Quảng, Hiểu thêm tâm trạng của Tuệ Trung Thượng sĩ qua một
số bài thơ thiền, http:// gio-o.com.
19. Huệ Thiên, Những dòng thơ đời của Tuệ Trung Thượng sĩ,
nguồn: http:// www quangduc.com.
20. Huỳnh Công Bá (2006), Lịch sử Việt Nam, NXB Thuận Hóa.
21. Lê Anh Dũng (1994), Con đường tam giáo Việt Nam từ khởi
nguyên đến thế kỉ XIX, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
22. Lê Anh Dũng, Con đường tam giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến
thế kỉ XIX, www. Thienlibuutoa.com.
23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điiển thuật
ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà nội.
24. Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận án
tiến sĩ ngữ văn.
25. Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (từ Lý Thánh
Tông đến Trần Thánh Tông), tập III, NXB T.p Hồ Chí Minh.
26. Lê Mạnh Thát (2000), Trần Nhân Tông toàn tập, NXB Tp. Hồ Chí
Minh.
27. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (từ Lý Nam Đế
đến Lý Thánh Tông), tập II NXB Tp. Hồ Chí Minh.
28. Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập I,
NXB Tp. Hồ Chí Minh.
29. Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập
II, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
30. Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập
III, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
31. Lê Mạnh Thát (2004), Trần Thái Tông toàn tập, Nxb Tổng hợp Tp.
Hồ Chí Minh.
32. Lê Ngọc Trà (1990), Lí luận và văn học, NXB Trẻ.
33. Lê Phạm Trung Dung, Về bài thơ thiền đời Trần, nguồn:
leslauriers.word.com.
34. Lê Thiếu Nhơn, Thơ thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung,
http:// lthieunhon.com.
35. Lê Thu Yến chủ biên (2000), Văn học Việt Nam – Văn học trung
đại những công trình nghiên cứu, NXB Giáo Dục.
36. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam,
NXB Giáo Dục.
37. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB
Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
38. Lê Trí Viễn (2005), Đến với thơ hay, hai tập, NXB Giáo Dục (tái
bản lần thứ bảy).
39. Lê Trí Viễn chủ biên (1997), Văn học trung đại Việt Nam, Trường
đại học sư phạm Tp. Hồ Chí Minh (tài liệu lưu hành nội bộ).
40. Minh Chi (1992), Góp phần tổng kết Phật giáo đời Trần, TCVH,
số 4, tr.27.
41. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư, tập I (Cao Huy Du
dịch, Đào Duy Anh hiệu đính), NXB Văn hóa thông tin (tái bản
lần 3).
42. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư, tập II (Cao Huy Du
dịch, Đào Duy Anh hiệu đính), NXB Văn hóa thông tin (tái bản
lần 3).
43. Ngô Tất Tố (1942), Văn Học Việt Nam: Văn học đời Lý, NXB Mai
Lĩnh, Hà Nội.
44. Ngô Tất Tố (1967), Văn Học Việt Nam: Văn học đời Trần, NXB
Khai Trí, Sài Gòn.
45. Nguyễn Công Lý (1997), Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền
tông thời Lý Trần, NXB Văn hóa thông tin.
46. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý Trần – Diện
mạo và đặc điểm, NXB Đại học quốc gia Tp. Hồ chí Minh.
47. Nguyễn Duy Hinh (1992), Phật giáo với văn học Việt Nam,
TCVH, số 4, tr.4.
48. Nguyễn Duy Hinh (1998), Tuệ Trung nhân sĩ – Thượng sĩ – Thi sĩ,
NXB Khoa học xã hội.
49. Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo, NXB
Khoa học xã hội.
50. Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, bốn
tập, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
51. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập IV,
NXB Tp. Hồ Chí Minh.
52. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Trần Thái Tông, NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
53. Nguyễn Đăng Thục (1997), Thiền học Việt Nam, NXB Thuận Hoá.
54. Nguyễn Huệ Chi (1977), Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng
thơ thiền thời Lý – Trần, TCVH, số 4, tr.116.
55. Nguyễn Huệ Chi (1978), Các yếu tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu
và chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học
thời Lý – Trần, TCVH, số 6, tr.76.
56. Nguyễn Huệ Chi (1992), Hiện tượng hội nhập văn hóa dưới thời
Lý – Trần từ một trung tâm Phật giáo tiêu biểu: Quỳnh Lâm,
TCVH, số 4, tr.13.
57. Nguyễn Huệ Chi (1994), Vài cảm nhận văn học Việt Nam, TCVH,
số 2, tr.7.
58. Nguyễn Huệ Chi (1998), Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển thượng,
Uỷ ban KHXHVN, viện văn học, NXB khoa học xã hội, Hà
Nội.
59. Nguyễn Huệ Chi (1998), Trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm và hiện
tượng hội nhập văn hóa thời Lý – Trần, TCVH, số 8, tr.11.
60. Nguyễn Hùng Hậu (2000), Đại cương triết học Phật giáo Việt
Nam, tập I, Từ khởi nguyên đến thế kỉ XIV, NXB Khoa học xã
hội.
61. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – quan niệm
con người và tiến trình phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
62. Nguyễn Khắc Thuần (1998), Thế thứ các triều đại Việt Nam, NXB
Giáo Dục, Hà Nội.
63. Nguyễn Khắc Thuần (1998), Việt sử giai thoại, tập III – 71 giai
thoại đời Trần, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
64. Nguyễn Khắc Thuần (2000), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam,
ba tập, NXB Giáo dục, Hà Nội.
65. Nguyễn Khắc Thuần (2002), Nước Đại Việt thời Lý – Trần, NXB
Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.
66. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn
học – Công ty phát hành sách Hà Nội.
67. Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lý – Trần nhìn từ thể loại,
NXB Giáo Dục.
68. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ thiền Việt Nam – Những vấn đề
lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội.
69. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
70. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên (2002), Tiến trình lịch sử Việt Nam,
NXB Giáo Dục.
71. Nguyễn Văn Hầu (1957), Việt Nam tam giáo sử, NXB P. Văn
Tươi, Sài Gòn.
72. Nguyễn Văn Hoàn (1975), Thơ văn Lý – Trần và hào khí của một
thời đại anh hùng, TCVH, số 1, tr.12.
73. Nhiều tác giả (1973), Các tông phái đạo Phật (Tuệ sĩ dịch), Tu thư
Vạn Hạnh, Sài Gòn.
74. Nhiều tác giả (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
75. Nhiều tác giả (2000), Giảng văn văn học Việt Nam, NXB Giáo
Dục.
76. Phạm Ngọc Lan (1986), Chất trữ tình trong thơ thiền đời Lý,
TCVH, số 4, tr.92.
77. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn
chương cổ Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
78. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng (1995), Các triều đại Việt Nam, NXB
Thanh niên (tái bản lần 2).
79. Suzuki (1992), Thiền luận (Trúc Thiên dịch), quyển thượng, NXB
Tp. Hồ Chí Minh.
80. Suzuki (1998), Lăng Già Đại thừa kinh (Thích Chơn Thiện và
Trần Tuấn Mẫn dịch), NXB Tp. Hồ Chí Minh.
81. Tuệ Đạt, Những dặc trưng hình ảnh con người Lý Trần, nguồn:
http:// hoalinhthoai.com.
82. Thích Đức Thắng, Con trâu đất – một biểu tượng độc đáo của
Tuệ Trung, http:// www thuonghylenien.com.
83. Thích Đức Thắng, Pháp dạy người của Thượng sĩ Tuệ Trung,
nguồn: www. daitangkinhvietnam.org.
84. Thích Mật Thể (1960), Việt Nam Phật giáo sử lược, NXB Minh
Đức, Sài Gòn.
85. Thích Phước Sơn (1992), Nhìn khái quát Phật giáo đời Trần,
TCVH, số 4, tr.22.
86. Thích Thái Hòa, Tuệ Trung Thượng sĩ với Nghĩa như kinh kim
cương, tập san nghiên cứu Phật học pháp luận, nguồn:
www.phatviet.com.
87. Thích Thanh Kiểm (1989), Lược sử Phật giáo Ấn Độ, Thành hội
Phật giáo Việt Nam phát hành.
88. Thích Thanh Kiểm (1991), Lược sử Phật giáo Trung Quốc, Thành
hội Phật giáo Việt Nam phát hành.
89. Thích Thanh Từ (1999), Thiền sư Việt Nam, Trung tâm Phật giáo
Tp. Hồ Chí Minh xuất bản.
90. Thích Thanh Từ, Tuệ Trung Thượng sĩ Ngữ lục giảng giải,
nguồn: http:// www thuvienhoasen.com.
91. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục.
92. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
93. Trần Đình Sử (2006), Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam – Văn
học dân gian và văn học cổ cận đại, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội.
94. Trần Lý Trai (2008), Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền
phái Trúc Lâm, Luận án tiến sĩ ngữ văn.
95. Trần Nghĩa (1974), Quan niệm văn học thời Lý – Trần, TCVH, số
6, tr.29.
96. Trần Nho Thìn (2002), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa, NXB Giáo Dục.
97. Trần Thị Dư Khánh (1998), Phân tích tác phẩm từ góc độ thi pháp,
NXB Giáo Dục.
98. Trần Trọng Kim (2006), Việt Nam sử luận (bản mới nhất), NXB
Văn hóa thông tin.
99. Trần Văn Giáp (1942), Việt Nam Phật giáo sử lược, NXB Hà Nội.
100. Trần Văn Giàu (2000), Bản lĩnh Việt Nam, NXB Trẻ.
101. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng
tập văn học Việt Nam (trọn bộ 42 tập), tập I, NXB Khoa học và
xã hội.
102. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng
tập văn học Việt Nam (trọn bộ 42 tập), tập II, NXB Khoa học
và xã hội.
103. Trương Hữu Quýnh chủ biên (2000), Đại cương lịch sử Việt
Nam, tập 1, NXB Giáo Dục.
104. Trương Văn Chung – Doãn Chính đồng chủ biên (2008), Tư
tưởng Việt Nam thời Lý – Trần, NXB Chính trị quốc gia, Tp.
Hồ Chí Minh.
105. Trương Văn Chung (1996), Tư tưởng triết học của Thiền phái
Trúc Lâm đời Trần, Luận án phó tiến sĩ.
106. Ủy ban Khoa học xã hội – Viện triết học (1988), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, NXB Khoa học xã hội – Hà Nội.
107. Viện khoa học xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm (2000),
Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, NXB Đà
Nẵng.
108. Viện văn học – Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ
văn học trung đại, NXB Khoa học xã hội.
109. Viện văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học, NXB
Tp. Hồ Chí Minh
110. Vũ Khiêu (1992), Đọc văn học Lý – Trần, tập II, quyển thượng,
TCVH, số 4, tr.80.
111. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
112. Vũ Khiêu chủ biên (1980), Thơ văn Nguyễn Trãi (tuyển), NXB
Văn học Hà Nội.
113. Vũ Quần Phương, Thơ thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ, nguồn:
http:// www daouduytue.com.
THƯ MỤC TÁC PHẨM CỦA TUỆ TRUNG
(Theo thứ tự trong cuốn Thơ văn Lý Trần – tài liệu số 58)
61. Kiến giải (Kiến giải)
62. Dưỡng chân (Nuôi dưỡng chân tính)
63. Thủ nê ngưu (Giữ con trâu đất)
64. Phỏng Tăng Đường đại sư (Thăm đại sư Tăng Điền)
65. Vấn Phúc Đường đại sư tật (Thăm bệnh đại sư Phúc Đường)
66. Hý Trí Viễn Thiền sư khán kinh tả nghĩa (Đùa thiền sư Trí Viễn xem
kinh giảng nghĩa)
67. Điệu tiên sư (Thương xót bậc thầy xưa)
68. Thị chúng (Gợi bảo mọi người)
69. Thị học (Gợi bảo người học đạo)
70. Ngẫu tác (Chợt hứng làm thơ)
71. Giản đề tùng (Cây thông dưới khe)
72. Xuất trần (Ra khỏi bụi Trần)
73. Chí đạo vô nan (Đạo lớn không khó)
74. Tâm vương (Vua tâm)
75. Phóng ngưu (Thả trâu)
76. Đề tinh xá (Đề tinh xá)
77. Ngẫu tác (Chợt hứng làm thơ)
78. Chiếu thân (Soi mình)
79. Tự tại (Tự tại)
80. Thị tu Tây phương bối (Gợi bảo những người tu Tây phương)
81. Thoát thế (Thoát đời)
82. Giang hồ tự thích (Vui thích giang hồ)
83. Thị đồ (Gợi bảo học trò)
84. An định thời tiết (Thời tiết an định)
85. Nhập trần (Vào vòng cát bụi)
86. Vạn sự quy như (Muôn việc đều về cõi chân như)
87. Thế thái hư huyễn (Thói đời hư ảo)
88. Họa huyện lệnh (Họa thơ huyện lệnh)
89. Họa Hưng trí thượng vị hầu (Họa thơ Hưng trí thượng vị hầu)
90. Tụng Thánh Tông đạo học (Ca tụng đạo học của Thánh Tông)
91. Giang hồ tự thích (Vui thích giang hồ)
92. Vật bất năng dung (Vật không thể tùy theo mọi người)
93. Thướng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư, I (Trình Thiền sư Tiêu Dao ở
Phúc Đường, I)
94. Thướng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư, II (Trình Thiền sư Tiêu Dao
ở Phúc Đường, II)
95. Phúc Đường cảnh vật (Cảnh vật Phúc Đường)
96. Tặng Thuần Nhất pháp sư (Tặng pháp sư Thuần Nhất)
97. Khuyến thế tiến đạo (Khuyên đời và đạo)
98. Thị chúng (Gợi bảo mọi người)
99. Trụ trường tử (Chiếc gậy)
100. Tự đề (Tự đề)
101. Đốn tỉnh (Chợt tỉnh)
102. Thoái cư (Lui về)
103. Phật tâm ca (Bài ca Phật và tâm)
104. Phóng cuồng ngâm (Bài ngâm cuồng phóng)
105. Sinh tử nhàn nhi dĩ (Sống chết là lẽ thường mà thôi)
106. Phàm thánh bất dị (Phàm thánh chẳng có gì khác nhau)
107. Mê ngộ bất dị (Mê lầm và giác ngộ không có gì khác nhau)
108. Trì giới kiêm nhẫn nhục (Trì giới và nhẫn nhục)
109. Trừu thần ngâm (Bài ngâm bĩu môi)
110. Trữ tự từ cảnh văn (Bài văn trữ tình tự răn)
111. Đối cơ (Tùy theo cơ duyên mà ứng đối)
112. Tụng cổ (Tụng cổ)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7557.pdf