Những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng

MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Nho giáo hình thành ở Trung Quốc và du nhập vào Việt Nam cách đây hàng ngàn năm. Từ khi hình thành chế độ phong kiến Việt Nam, đặc biệt từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến Việt Nam đều sử dụng Nho giáo với tư cách là hệ tư tưởng và là công cụ để trị nước và quản lý xã hội. Với tư cách là một trong những hình thái ý thức xã hội, Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhiều mặt nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt Nam, là một trong những yếu

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 6004 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tố góp phần hình thành và tác động sâu sắc đến văn hóa truyền thống Việt Nam. Ngày nay, nhân loại đang bước vào nền văn minh công nghiệp với những biến đổi sâu sắc, xu thế toàn cầu hóa ngày càng mở rộng, .... Nước ta đang tiến hành xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước. Ở nước ta hiện nay, tuy cơ sở kinh tế - xã hội của Nho giáo về cơ bản không còn tồn tại, nhưng Nho giáo không phải đã mất đi, mà nó còn tồn tại dai dẳng, lâu dài và tác động tích cực và cả tiêu cực đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt Nam. Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cấp thiết là, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta trở thành một nước “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì không thể không giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa xã hội truyền thống và xã hội hiện đại, giữa con người truyền thống và con người hiện đại Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy thì trước hết cần phải có một cái nhìn khách quan, toàn diện và đúng đắn về Nho giáo để từ đó mà hiểu đúng về Nho giáo. Trong học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, quan niệm về xã hội lý tưởng không chỉ là một trong những nội dung cơ bản nhất mà còn là sự biểu hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất trong học thuyết này. Từ trước đến nay, trong nghiên cứu về Nho giáo nói chung và quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng nói riêng vẫn chưa đi đến thống nhất, mà còn có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều nhau. Ngoài ra do, quan niệm về xã hội lý tưởng của các nhà Nho được trình bày đan xen với nhiều nội dung khác, cho nên trong những nghiên cứu này, nội dung của quan niệm ấy chưa được nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống. Vì vậy theo chúng tôi, nghiên cứu những nội dung cơ bản của Nho giáo về xã hội lý tưởng trong điều kiện hiện nay không chỉ đơn thuần là để hiểu biết thêm về Nho giáo mà điều quan trọng là có cái nhìn đúng về Nho giáo; không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những hạn chế của nó mà còn vạch ra để tiếp thu, phát triển và vận dụng những giá trị tích cực của Nho giáo trong việc thực hiện những nhiệm vụ và mục đích của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, dưới góc độ tiếp cận triết học, sự cần thiết phải nghiên cứu và trình bày quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng một cách có hệ thống và trên cơ sở đó mà chỉ ra và phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội lý tưởng theo quan niệm của Nho giáo. Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi cho rằng, cần phải tiếp tục nghiên cứu những nội dung cơ bản cùng những giá trị và hạn chế trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng trong luận văn này. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng” làm đề tài nghiên cứu của luận văn với hy vọng làm sáng tỏ thêm những tiền đề, điều kiện dẫn đến sự hình thành quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tưởng và nội dung cơ bản của Nho giáo về xã hội lý tưởng, qua đó có thể rút ra một số ý nghĩa của nó trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Nho giáo đã du nhập và phát triển ở Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử, nó đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị Việt Nam, là công cụ quan trọng trong việc cai trị, quản lý xã hội của nhiểu triều đại phong kiến Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu Nho giáo và những ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam là một vấn đề thu hút nhiều người quan tâm. Từ trước cho đến nay, việc nghiên cứu Nho giáo nói chung và quan niệm của Nho giáo về xã hội lí tưởng nói riêng có thể khái quát thành hai xu hướng chính: - Hướng nghiên cứu thứ nhất: Nghiên cứu Nho giáo là để hiểu đúng về Nho giáo, thấy được những giá trị tích cực và những hạn chế tiêu cực của Nho giáo và nhất là vai trò, ảnh hưởng của nó đối với xã hội và con người Việt Nam. Hướng nghiên cứu này thu hút được nhiều người quan tâm và được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các công trình nghiên cứu của Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đăng Thục, Đào Duy Anh, Quang Đạm, Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Phan Ngọc, Nguyễn Tài Thư, Lê Sỹ Thắng Trần Đình Hượu, Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Trần Ngọc Vương, Vũ Minh Tâm, Lê Văn Quán, Trần Nguyên Việt,…v.v. Trong các công trình nghiên cứu này, trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu của Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim,..v.v. Các ông nghiên cứu Nho giáo qua lăng kính của nhà nho và với sự tôn sùng Nho giáo, cho nên họ đều nhìn thấy Nho giáo không chỉ là một học thuyết chính trị - xã hội mà còn là học thuyết đạo đức học, học thuyết triết học. Các ông đặc biệt đề cao vai trò của Nho giáo trong xây dựng và đạo đức của con người và xã hội; coi việc tu thân là cái gốc của tề gia trị quốc, bình thiên hạ…v.v. Sau khi chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam, sự tiếp cận Nho giáo được nghiên cứu dưới lăng kính mới, với một thái độ khách quan, khoa học và biện chứng. Các công trình nghiên cứu của các tác giả này đã phân tích một cách khá toàn diện và sâu sắc tư tưởng Nho giáo. Chẳng hạn trong Nho giáo xưa và nay, tác giả Quang Đạm cho rằng, Nho giáo có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Việc vạch ra mặt hạn chế, phá hoại của Nho giáo, theo tác giả là cần thiết nhưng không phải là để “truy tố, bắt đền” nó mà để “Nhìn rõ và loại trừ tận gốc một cách khách quan và khoa học những hậu quả cụ thể của nó trong hệ tư tưởng và trong cuộc sống xã hội chúng ta ngày nay”, cũng không phải để “ truy tặng, khen thưởng” nó, mà là để “giữ gìn và phát huy nhằm thúc đẩy sự nghiệp chúng ta tiến lên”. Tập thể tác giả mà Vũ Khiêu là chủ biên của công trình Nho giáo xưa và nay đã tập trung nghiên cứu hàng loạt vấn đề như: Sự ra đời và phát triển của Nho giáo; Mối quan hệ giữa Nho giáo với kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa; Hồ Chí Minh và Nho giáo; Tình hình Nho giáo ở một số nước châu Á; Những hạn chế cũng như những giá trị mà Nho giáo mang lại cho các nước châu Á. Tác giả Phan Ngọc, trong Bản sắc văn hóa Việt Nam, từ việc đề cập đến các vấn đề cơ bản của Nho giáo, Nho học và Đạo giáo đã đi đến khẳng định, Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa truyền thống Việt Nam cũng như đời sống hiện thực của con người Việt Nam hiện nay. Không dừng lại ở đó một số công trình nghiên cứu của các tác giả như: Nguyễn Tài Thư, Trần Đình Hượu, Trần Văn Giàu, Vũ Minh Tâm, Trần Nguyên Việt, Đỗ Thị Hòa Hới, Nguyễn Thanh Bình,…v.v đều khẳng định ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội con người Việt Nam trong lịch sự và hiện nay là hết sức sâu sắc. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì một trong những vấn đề được quan tâm sâu sắc chính là tiếp tục bổ sung và cụ thể hóa những căn nguyên, cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng: ví dụ như với bài viết Bước đầu tìn hiểu Bác Hồ với học thuyết của Nho gia, tác giả Lê Văn Quán đã đưa ra những dẫn chứng để chứng minh học thuyết Nho gia đã ảnh hưởng đến Bác Hồ như thế nào ? Bác đã khẳng định cần phải kế thừa và phát huy những điểm tích cực của Nho gia, Bác nhẫn mạnh giáo dục cần phải kết hợp giữa học với hành; người cách mạng phải hội đủ 5 điều: trí – tín – nhân – dũng – liêm. Và tác giả cũng chỉ ra rằng, trên thực tế, Bác đã kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố Nho giáo với truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc: nhân, nghĩa, trí, tín, dũng, trung, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Cũng tác giả Lê Văn Quán với bài viết Bác Hồ với học thuyết Nho giáo, đã khẳng định, Hồ Chí Minh là người rất am hiểu Nho giáo và vận dụng một cách tài tình những tinh hoa của Nho giáo vào điều kiện cách mạng nước ta. Người vận dụng Nho giáo trong việc rèn luyện đạo đức cách mạng, trong việc phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ đồng thời phản đối chế độ đẳng cấp Nho giáo. Hay như tác giả Nguyễn Văn Hồng với bài viết Ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo Trung Hoa qua sự tiếp nhận chọn lọc, sáng tạo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, qua phân tích đã đi đến khẳng định, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức, Người đã chọn lọc những tinh hoa từ những chuẩn mực đạo đức Nho giáo và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam….vv. Ngoài ra, nghiên cứu vấn đề này, còn có nhiều tác giả khác như tác giả Phan Văn Hoàng với bài viết Chủ tịch Hồ Chí Minh với những yếu tố tích cực của Nho giáo; tác giả Minh Anh với bài viết Hồ Chí Minh với Nho giáo; tác giả Kiều Thu Hoạch với bài viết Hồ Chí Minh với di sản Nho giáo; tác giả Lê Ngọc Tân với bài Hồ Chí Minh và tư tưởng Khổng giáo; …v.v. - Hướng nghiên cứu thứ hai: Nghiên cứu Nho giáo chỉ chủ yếu là nhằm vạch ra những hạn chế tiêu cực của Nho giáo, để từ đó và chủ yếu là nhằm bài xích Nho giáo, coi Nho giáo là vô dụng, là có hại, không phù hợp với thời đại khoa học và dân chủ. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các công trình nghiên cứu của Vi Chính Thông, Trần Độc Tú, Trần Khuê, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Mai Trung Hậu,…v.v. Các tác giả này đã từ những yếu tố, tính chất tiêu cực và hạn chế của Nho giáo để bảo vệ quan điểm của mình rằng, Nho giáo là có hại, nó không có giá trị đối với văn hóa truyền thống và hiện nay ở Trung Quốc và Việt Nam. Chẳng hạn, theo như tác giả Mai Trung Hậu thì, “Nho giáo về cơ bản mâu thuẫn với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam”; hay như một ý kiến khác của tác giả Hà Thúc Minh cho rằng, ngay khi hình thành, “Nho giáo cũng không phải là động lực phát triển kinh tế, thì ngày nay đối với nền kinh tế thị trường càng khó có thể coi Nho giáo là một động lực phát triển kinh tế” vì theo tác giả, “Nội dung giảng dạy chủ yếu của Nho giáo là lễ giáo, đạo đức chứ không phải là sản xuất, khoa học, kinh tế”. Rõ ràng, những quan điểm trên chủ yếu là phủ nhận vai trò và ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội Việt Nam trước kia, đặc biệt là trong thời đại hiện nay. Do vậyTuy mà, những ý kiến này là siêu hình, không có sức thuyết phục và không có được sự đồng thuận cao trong giới nghiên cứu Nho giáo. Sự trình bày trên đây càng cho thấy, nghiên cứu, đánh giá về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội và con người Việt Nam là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi cần phải nghiên cứu và làm rõ thêm. Cũng trong hướng nghiên cứu thứ nhất, nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng là một vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong các công trình nghiên cứu ở Việt Nam về vấn đề này, phải kể đến các tác giả Nguyễn Tài Thư, Nguyễn Hiến Lê, Phạm Văn Khoái, Nguyễn Thanh Bình,…v.v. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng chỉ dừng lại ở các bài báo đăng trên các tạp chí, hay được nghiên cứu trong tổng thể học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, trong tổng thể tư tưởng của một số nhà Nho tiêu biểu ở Trung Quốc và Việt Nam, cho nên trong những công trình này, các tác giả cũng mới chỉ ra những nét khái quát nhất mô hình xã hội lý tưởng của Nho giáo và những đặc trưng cơ bản của xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho giáo mà thôi. Tiếp tục hướng nghiên cứu về xã hội lý tưởng của Nho giáo, từ góc độ nghiên cứu triết học, chúng tôi nhận thấy rằng, cần phải nghiên cứu, làm rõ thêm về nội dung, dù chỉ là những nội dung cơ bản trong quan niệm này của Nho giáo một cách có hệ thống để từ đó có cơ sở chỉ ra những giá trị và hạn chế cũng như ý nghĩa của nó ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Mục đích của luận văn là: Xuất phát từ Lý do chọn đề tài và Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, thông qua nghiên cứu những tiền đề, điều kiện và những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng chỉ để chỉ ra những giá trị, hạn chế chủ yếu của nó và từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ của luận văn là, để đạt được mục đích trên, Luận văn tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu sau: - Những điều kiện, tiền đề chủ yếu cho sự hình thành và phát triển quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tưởng; - Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng; - Chỉ ra một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong quan niệm trên của Nho giáo. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. Cơ sở lý luận của Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin trong nghiên cứu về xã hội và con người. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của Triết học Mác – Lênin kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp lôgic và lịch sử; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp đối chiếu – so sánh. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn. Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng Phạm vi nghiên cứu: - Một số tác phẩm của Nho giáo, chủ yếu là Tứ thư, Ngũ Kinh; - Các tác phẩm và các công trình nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo Việt Nam. 6. Đóng góp của Luận văn. Luận văn trình bày có hệ thống những nội dung chủ yếu trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. 7. Ý nghĩa của Luận văn. Từ góc độ triết học, Luận văn bước đầu làm sáng tỏ và trình bày có hệ thống những tiền đề, điều kiện ra đời và những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc gảng dạy, nghiên cứu và học tập về Nho giáo nói chung và quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tưởng nói riêng. 8. Kết cấu của Luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung của Luận văn gồm 2 chương với 5 tiết. Chương 1. Những điều kiện và tiền đề chủ yếu cho sự hình thành quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng,với 2 tiết. Chương 2. Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng, với 3 tiết. NỘI DUNG Chương 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHỦ YẾU CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ XÃ HỘI LÝ TƯỞNG. 1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc với sự hình thành và phát triển quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. Theo nhiều tài liệu sử học Trung Quốc, khoảng hơn 2000 năm tr.CN (2205 -1766), nhà Hạ - nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên ở Trung Quốc đã xuất hiện. Trải qua quá trình phát triển, đến thế kỷ thứ XVIII tr.CN, Thành Thang - người đứng đầu nhà Thương đã lật đổ vua Kiệt nhà Hạ, lập nên nhà Thương đặt và kinh đô ở đất Bạc, tỉnh Hà Nam ngày nay. Đến thế kỷ XIV tr.CN, vua Bàn Canh – nhà Thương đã dời đô đến đất Ân nên đổi tên thành nhà Ân. Rồi đến khoảng thế kỷ thứ XII tr.CN, bộ tộc Chu nổi lên ở khu vực sông Vị thuộc tỉnh Thiểm Tây, ra sức phát triển nông nghiệp và chinh phục các bộ tộc lân cận, chuẩn bị thế lực lật đổ nhà Thương. Hệ quả là đến thế kỷ thứ XI tr.CN, Chu Vũ Vương con của Chu Văn Vương đã diệt vua Trụ nhà Thương, lập ra nhà Chu ở phía Tây – gọi là nhà Tây Chu, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ lên lên giai đoạn phát triển cao hơn. Dưới thời nhà Tây Chu, vua nhà Chu tự phong là “Thiên tử”, là lãnh chúa tối cao thống trị toàn bộ đất đai và thần dân trong thiên hạ. Để biểu đạt uy quyền của thiên tử nhà Chu, trong chương Công Tôn Sửu, sách Mạnh Tử, Mạnh Tử nói “Dưới bầu trời không có chỗ nào không phải là đất nhà vua, khắp mặt đất không người nào không là tôi nhà vua”[6, tr.164]. Như vậy có thể thấy, ở thời Tây Chu, quyền lực của “Thiên Tử” là tối cao, là vô hạn, “Lễ, nhạc, chinh phạt tự Thiên tử xuất”. Tuy nhiên, đến khoảng năm 771 tr.CN, khi Chu Bình Vương dời đô về phía Đông thì nhà Chu suy yếu, “mệnh lệnh nhà Chu không ai theo, chế độ tông pháp dần bị phá bỏ, các nước chư hầu phân dã đến khoảng 160 nước. Nhà Chu không còn khống chế được các vua chư hầu. Đây là thời điểm mở đầu thời Xuân Thu (bắt đầu từ năm 770 đến năm 475 tr.CN). Trung Quốc bước vào thời kỳ giao thời giữa hai chế độ xã hội – giai đoạn suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ và sơ kỳ chế độ phong kiến đang lên” [6. tr164 – 165]. Nho giáo, như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, về cơ bản là học thuyết chính trị - xã hội và đạo đức ra đời từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc (770 – 221 tr.CN), thời kỳ suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ và hình thành chế độ phong kiến sơ kỳ. Để nghiên cứu nội dung, tính chất và những giá trị hạn chế của một học thuyết chính trị - xã hội nào đó, nhất thiết phải dựa trên một cơ sở lí luận và phương pháp luận khoa học. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, con người và ý thức của con người tuy có thể tác động vào xã hội, tồn tại xã hội nhưng ý thức, tư tưởng của con người lại do cái xã hội, cái tồn tại xã hội ấy quy định. Như C.Mác đã khẳng định: “Không phải ý thức con người quyết định tồn tại xã hội mà ngược lại, chính tồn tại xã hội đã quyết định ý thức con người” [69, tr. 6]. Cho nên, khi nghiên cứu tư tưởng của một thời đại nào đó của lịch sử, nếu chúng ta muốn có một kết luận chính xác, điều quan trọng bậc nhất là phải nắm bắt được tình hình kinh tế và tình hình chính trị của thời đại ấy; hiểu biết những nét căn bản phương thức sản xuất của thời đại ấy và những hình thức căn bản của sự phát triển những mâu thuẫn của thời đại, ở tính đối lập của những mâu thuẫn và tính thống nhất các mặt đối lập trong thời đại đó. Dựa trên cơ sở lí luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng, điều quan trọng và có ý nghĩa quyết định là nắm bắt được tình hình kinh tế, chính trị - xã hội của thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc – cơ sở hình thành quan niệm ấy của Nho giáo về xã hội lí tưởng. Ở thời kỳ này, tình hình kinh tế, chính trị xã hội biểu hiện tập trung ở những điểm sau: Thứ nhất: Nền kinh tế có những chuyển biến mạnh mẽ, sức sản xuất có bước phát triển, do “Công cụ sản xuất, nhất là công cụ bằng đồ sắt đã bắt đầu xuất hiện” với sự ra đời của nhiều công cụ lao động mới, “việc dùng bò kéo cày trở thành phổ biến” [6, tr.165]. Với sự xuất hiện của công cụ lao động bằng sắt đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền sản xuất xã hội phát triển – cơ sở của những sự chuyển biến về kinh tế, chính trị, xã hội thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc. Mô tả sự xuất hiện của kim loại trong xã hội, sách Quốc ngữ có viết: “Đồng thau để đúc kiếm kích… sắt dùng để đúc cuốc cào và quả cân” [6, tr.165]. Chính sự chuyển biến ấy “không chỉ thúc đẩy kỹ thuật luyện sắt phát triển mà còn tạo điều kiện cho việc khai khẩn đất hoang, phát triển kỹ thuật canh tác, “dẫn thủy nhập điền”, góp phần nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp” [6, tr.165] mà còn tạo điều kiện cho các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa đều phát triển, “đặc biệt là sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hóa trong các nước chư hầu Tề, Trịnh, …” [69, tr.39]. Cũng chính nhờ vào sự chuyển biến của công cụ lao động mà làm cho các nước chư hầu như Tề, Trịnh có sự phát triển vượt bậc hơn hẳn so với nhà Chu. “Trường hợp nhà họ Quý, một gia thần ở nước Lỗ được đánh giá là “giàu hơn Chu Công, ông tổ của nước Lỗ, đã phần nào minh chứng cho tình hình đó” [37, tr.125]. Vì vậy mà qua đó, các nước chư hầu có thêm điều kiện và cơ hội đua nhau gây chiến để tranh giành quyền lực, tranh giành địa vị, đất đai với nhà Chu. Và khi các nước chư hầu nhỏ, nhờ vào sự cố gắng nỗ lực của bản thân mà trở nên phát triển hùng mạnh, thì không có lí do gì các nước đó lại cam chịu bị các nước khác ở trên thống trị, nô dịch. Vì thế, việc các nước đó gây chiến tranh nhằm xác lập lại địa vị của mình, phân chia lại bờ cõi trong thiên hạ cũng là một sự tất yếu. Đây là một nguyên nhân quan trọng bậc nhất dẫn đến tình trạng xã tắc loạn lạc, tình trạng trong thiên hạ “vua không ra vua, cha không ra cha, con không ra con” diễn ra phổ biến – một bối cảnh xã hội quan trọng đưa đến sự nảy sinh, hình thành các học thuyết chính trị - xã hội, đặc biệt là học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, trong đó có quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, mặc dù đã có sự phát triển như vậy nhưng đời sống kinh tế, xã hội vẫn phụ thuộc và chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên (hạn hán, thiên tại, bão lụt,…v.v.), tình trạng mất mùa vẫn diễn ra hết sức phổ biến, tình cảnh dân ly tán, tha phương cầu thực khắp nơi. Vì vậy, một vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn được đặt ra là, muốn đưa xã hội từ tình trạng loạn lạc trở thành một xã hội có trật tự thì, “Vua phải theo đúng đạo làm vua, tôi phải theo đúng đạo làm tôi, cha phải theo đúng đạo làm cha, con phải theo đúng đạo làm con”. Nhưng để đạt được mục đích này thì một trong những yêu cầu chủ yếu là, “Thiên Tử”, các vua chư hầu, các quan đại phu phải thi hành đúng “Đạo”, đúng “Lễ” của nhà Chu, phải xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị. Và theo nhà Nho, xã hội ấy là xã hội Đại đồng, xã hội hữu đạo – đó cũng chính là xã hội lý tưởng cần phải được thiết lập, duy trì. Bởi theo như Khổng Tử thì, “Thiên hạ yên trị thì việc lễ nhạc đều xuất phát từ thiên tử; thiên hạ vô đạo thì việc lễ nhạc và chinh phạt xuất phát từ các vua chư hầu. Xuất phát từ chư hầu thì ít khi giữ nổi quá mười đời; xuất phát từ các quan đại phu ít khi giữ nổi quá năm đời. Các bồi thần nắm giữ quyền chính trong nước ít ai giữ nổi quá ba đời. Thiên hạ yên trị, việc chính trị không ở trong tay các quan đại phu. Thiên hạ yên trị thì người dân thường chẳng nghị luận việc nước” [22, tr.597 -598]. Thứ hai: Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất ra đời là cơ sở cho sự xuất hiện của các giai cấp và các tầng lớp mới trong xã hội, làm cho các mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội ngày càng mở rộng và gay gắt: Ở Trung Quốc, thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc, trong cấu trúc các quan hệ thân tộc đã có những thay đổi căn bản theo xu hướng những liên hệ thân thuộc theo huyết thống giảm dần, những liên hệ kinh tế trên cơ sở sở hữu ruộng đất tăng lên. Những chính sách về ruộng đất do những đại diện của phái Pháp gia như Quản Trọng, Thương Ưởng đưa ra đã dần làm thay đổi các quan hệ về sở hữu ruộng đất. Theo đề nghị của Quản Trọng, vua Tề Hoàn Công đã áp dụng những mức thuế khác nhau đối với ruộng đất nhằm làm giảm hiện tượng nông dân bỏ ruộng đất canh tác, ly tán bốn phương. Đến Thương Ưởng, lối chia ruộng đất bình quân theo chế độ tỉnh điền đã không còn. Những biến đổi về kinh tế tất yếu dẫn đến những thay đổi về thiết chế xã hội và các quan hệ xã hội. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội trở nên phổ biến: Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc nhà Chu và giai cấp địa chủ mới với nông dân; Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc cũ, bảo thủ muốn duy trì chế độ thống trị cũ với một bộ phận quý tộc mới muốn thực hiện cải cách để duy trì sự thống trị của mình; Mâu thuẫn giữa các phe phái trong nội bộ quý tộc với nhau muốn tiêu diệt lẫn nhau, tranh giành với nhau nhằm thiết lập quyền thống trị cho riêng mình. Trong phạm vi xã hội, đó là mâu thuẫn giữa Thiên tử với các nước chư hầu. Nếu như ở đầu thời Chu (Tây Chu), Thiên tử có quyền uy tối cao, mọi việc đều do “thiên tử xuất”, “Dưới trời đất đai nào chẳng là của vua, dân ở trên đất người nào mà chẳng là tôi tớ của vua” , thì đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, thiên tử nhà Chu không còn giữ vai trò tối cao như trước, mà giờ đây, nền chính trị lại do các nước chư hầu làm bá chủ và chi phối. Mâu thuẫn gay gắt trong giới quý tộc đã làm cho xã hội rối ren, trật tự xã hội bị đảo lộn, tình trạng cướp bóc, tranh giành nhau về địa vị, quyền lực, đất đai, ….v.v không được khắc phục, ngăn chặn. Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử đã gọi đây là thời đại: quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử (nhà vua không theo đúng đạo làm vua, bề tôi không theo đúng đạo làm bề tôi, cha không theo đúng đạo làm cha, con không theo đúng đạo làm con). Mô tả về sự hỗn loạn đẳng cấp và danh phận, trong thiên Bát dật sách Luận ngữ, Khổng tử than rằng “Các nước kém mở mang còn có vua, không hề giống như các nước ở Trung hoa (cứ như thể) không vua” [22, tr.241]. Sở dĩ có tình trạng mâu thuẫn như trên cũng xuất phát từ sự phát triển của sản xuất. Bên cạnh sự phát triển của các nước chư hầu như Tề, Trịnh thì đối lập lại với nó là sự suy vi của nhà Tây Chu, vì thế một mặt, dẫn đến tình trạng hình thành sự lớn mạnh và thôn tính lẫn nhau của các lãnh chúa địa phương; mặt khác, thiên tử, tên lãnh chúa cao nhất dần dần giảm mất địa vị và vai trò thống trị thiên hạ. Phản ánh sự suy vong của nhà Tây Chu, trong sách Kinh Thi có nói: “Đến lúc đạo vua đã suy vi, lễ nghi bị thay đổi, chính giáo bị sút kém. Chính trị trong nước đã đổi khác, phong tục trong nhà cũng đổi khác, do đó mới có những biến phong, biến nhã” (Biến phong, biến nhã- những bài nói lên sự suy vong của chế độ) [69, tr.39]. Phản ánh tình trạng rối loạn xã hội, nhất là tình hình chính trị rối ren, xã hội thối nát, sách Kinh Thi có viết: “Nhân hữu thổ điền, Nhữ phản hữu chi! Nhân hữu nhân dân, Nhữ phúc đoạt chi! Thử nghi vô tội, Nhữ phản thu chi! Bản nghi hữu tội, Nhữ phúc duyệt chi”, nghĩa là “Người ta có ruộng đất, Mày lại chiếm lấy! Người ta có người, Mày lại cướp mất! Người này đáng vô tội, Mày lại bắt giam! Kẻ kia đáng có tội, thì mày lại ưa” [62, tr. 63]. Tiếp nữa, phản ánh thời đại binh cách loạn ly, xã hội mờ tối, người ta càng sống thêm ngày nào càng khổ thêm ngày đó, có khi muốn tránh chính sự phiền hà, mà không sao hóa thành chim, thành cá để tránh cho thoát, tình cảnh ấy, trong chương Tiểu nhã, sách Kinh Thi đã chép lại rằng: “Phỉ thuần, phỉ diên, Hàn phi lệ thiên, Phỉ chiên, phỉ vũy, Tiềm đạo vu uyên!”, nghĩa là: “Không phải chim cút, không phải con diều, là sao mà bay tít lên trời cao được? Không phải cá chiên, không phải cá vũy, làm sao mà lặn trốn xuống vực sâu được ?” [62, tr. 61]. Thứ ba: Các nước chư hầu xâm lấn và thôn tính lẫn nhau, chiến tranh khốc liệt và kéo dài đã làm cho nhân dân sống trong đau khổ. Trong bối cảnh đó, bề tôi giết vua, con giết cha, anh em giết nhau đã trở thành hiện tượng phổ biến. Cảnh tượng đánh nhau giành đất, thây chết đầy đất, đánh nhau giành thành, thây chết đầy thành phản ánh một thời kỳ chiến tranh khốc liệt có một không hai trong lịch sử Trung Quốc, thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc. Từ năm (722 – 479 tr.CN), nhà Chu sau khi dời đô về phía Đông, các đời vua suy nhược, chư hầu tự do phóng túng, người xưng Công, kẻ xưng Bá, tranh giành, đánh nhau không ngớt, trong nước rối loạn, nhân dân hoặc phải làm binh lính, hoặc phải chịu hậu quả chiến tranh, đời sống của họ thật vô cùng khốn khổ. Đó là thời kỳ của 12 nước chư hầu tranh giành, thôn tính lẫn nhau, trong những nước ấy thì các nước chư hầu như nước Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống là những nước lớn và mạnh hơn cả. Tuy nhà Chu đã suy, chính lệnh thiên tử không được các nước chư hầu tuân theo nữa, nhưng ân đức của các tiên vương chưa phai mờ trong suy nghĩ của con người thời đó nên nhân tâm còn theo. Vì thế mà, “chư hầu nào có mưu lược, thường lấy cớ “Tôn phò nhà Châu, đánh dẹp giặc rợ” để làm minh chủ sai khiến thiên hạ” [66, tr.378]. Các nước chư hầu thâu tóm được quyền lực trong tay, tự xưng hùng, xưng bá, tình hiện trạng đó trong lịch sử Trung Hoa còn được gọi là thời kỳ Ngũ bá, “đó là Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, Tương Công nước Tống, Trang Công nước Sở, Mục Công nước Tần” [66, tr.378]. Đến thời Chiến Quốc, Các chư hầu đua nhau mở mang bờ cõi, lại chuyên tâm hưởng lạc, việc chính trị đều giao cho bề tôi, khanh tướng chuyên quyền nên dẫn tình trạng đoạt ngôi, cướp vị như họ Điền ở nước Tề, sáu quan Khanh ở nước Tấn. Vì thế mà ở thời kỳ này xuất hiện tình trạng bảy nước đánh nhau liên miên mà lịch sử gọi thời gian ấy là Chiến Quốc, và bảy nước ấy là Thất hùng. Chính trong hoàn cảnh lịch sử ấy đã tạo thêm những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của của nhiều tư tưởng, học thuyết. Như vậy, với sự phát triển kinh tế, những biến đổi trong lĩnh vực chính trị - xã hội như trên, có thể đi đến một số kết luận về thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc. Đó là một xã hội “hỗn loạn về quan niệm đẳng cấp và danh phận; các chư hầu xâm lấn và thôn tính lẫn nhau; sự phát triển của những mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn lãnh chúa phong kiến, và địa vị của bọn lãnh chúa phong kiến lớn bị lung lay; sự rối loạn của những quan hệ tông pháp” [69. tr.84]. Nếu như thời Tây Chu, vận hành xã hội nhờ lễ nhạc, các quan hệ xã hội cũng được đánh giá theo tiêu chuẩn lễ nhạc thì đến thời Khổng tử, lễ nhạc đã băng hoại, chư hầu lẫn át thiên tử, quan đại phu lại giàu có và thế lực mạnh hơn vua chư hầu. Trước một thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội như vậy, để duy trì sự tồn tại và giữ vững được địa vị và uy quyền của mình, các nước đã đua nhau trọng dụng kẻ sỹ. Nhiều nước đã tập hợp kẻ sỹ với số lượng lớn như trong thái ấp của Mạnh Thường Quân nuôi tới 3000 kẻ sỹ, Tín Lăng Quân ở nước Ngụy, Bình Nguyên Quân ở nước Triệu có hàng trăm, hàng ngàn kẻ sỹ trong nhà, … Nhờ phương thức “chiêu hiền, đãi sỹ” này mà các tư tưởng, các học thuyết chính trị - xã hội được nảy sinh và phát triển. Chính điều này đã tạo ra một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử tư tưởng của Trung Quốc. Người ta gọi đây là thời kỳ “Bách gia tranh minh” (Trăm nhà đua tiếng) hay “Bách gia chư tử” (Trăm nhà trăm thầy). Bách gia bao gồm nhiều học phái tiêu biểu: Âm dương gia, Nho gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia, Đạo gia, Tung hoành gia, Nông gia, Tạp gia, Binh gia, Tiểu thuyết gia, …v.v. Các học thuyết trên đã đạt trình độ tư duy khá cao, với rất nhiều tư tưởng đặc sắc, các học thuyết đó đều giải quyết một vấn đề lớn (cũng là một nhiệm vụ) thực tiễn của xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc đặt ra là, làm thế nào để đưa đất nước, thiên hạ từ trạng thái rối loạn trở thành thái bình, thịnh trị ? Mỗi học phái đều bằng cách này hay cách khác đã đưa ra phương pháp trị nước theo quan điểm và lập trường của mình. Pháp gia cho rằng, muốn trị nước, đưa đất nước trở nên giàu về kinh tế, mạnh về quân sự phải dựa vào thuật trị nước và pháp luật. Mặc gia lại khẳng định, muốn nước trị phải thực hành “kiêm ái” (cùng yêu nhau) không kể sang hèn, giàu nghèo. Bởi theo họ, nếu các nước chư hầu yêu nhau thì không còn chiến tranh, các gia chủ yêu nhau thì không còn oán hận, kẻ sang không khinh miệt người hèn, kẻ gian trá không gạt người đần độn thì loạn sẽ không thể nào có được. Nho giáo thì chủ trương con đường đức trị vì theo nhà Nho, dùng đức trị thì dân mới tâm phục, dùng sức mạnh thì mau thắng nhưng không bền,… v.v. Xét ở góc độ nhất định, một số tư tưởng về đường lối trị nước của các học thuyết nêu trên đã phát huy được trong thực tiễn phần nào giúp cho các vương hầu, qu._.ý tộc giữ được địa vị và lẫn át các nước khác. Chẳng hạn như, tư tưởng dùng pháp luật để trị nước, sự kết hợp Thế - Thuật – Pháp trong đạo trị nước do Hàn Phi Tử nêu ra và đã được vua Tần ứng dụng thành công, nhờ đó nước Tần đã chinh phục được các nước khác và thống nhất Trung Quốc vào năm 221 tr.CN, mở ra một thời kỳ lịch sử mới của Trung Quốc thời cổ đại. Trong số các học thuyết chính trị xã hội ra đời vào thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc đáng chú ý là Nho giáo, học thuyết chính trị xã hội và đạo đức tiêu biểu nhất và có ảnh hưởng lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc cũng như ở nhiều nước khác như Nhật Bản, Singapo, Việt Nam, … Người có công sáng lập ra và phát triển Nho giáo là Khổng Tử (551 – 479 tr.CN). Ông sinh ở ấp Trâu, thuộc làng Xương Bình nước Lỗ. Tổ tiên trước kia của ông là người nước Tống, cha là Thúc Lương Ngột. Lương Ngột khi đã quá tuổi lấy Nhan Thị, hai người cầu tự ở núi Ni Khâu rồi sinh Khổng Tử. Khi còn nhỏ, Khổng Tử thích chơi trò bày các khay để cúng và chơi trò tế lễ. Khi Khổng Tử mười bảy tuổi, có quan đại phu là Mạnh Ly Tử ốm sắp chết, dặn người con cả sẽ thay mình là Ý Tử: “Khổng Khâu là con cháu của bậc thánh nhân, tổ tiên bị giết ở Tống, người ông sáu đời là Phất Phụ Hà lại được nối ngôi làm vua, nhưng nhường ngôi cho Lệ Công. Đến thời chính khảo phụ giúp Đái Công, Vũ Công và Tuyên Công, ba lần được làm thượng khanh nhưng lại càng cung kính …. Khi ta chết rồi thế nào cũng phải thờ ông ta làm thầy” [58, tr.197]. Như vậy có thể thấy rằng, Khổng Tử được đánh giá là người thuộc dòng dõi quý tộc đang trên đà sa sút, học rộng biết nhiều. Sống trong thời kỳ loạn lạc, được tận mắt chứng kiến cảnh chiến tranh cướp bóc và thêm nữa, xuất phát từ quyền lợi và địa vị của bản thân thuộc tầng lớp quý tộc đang bị sa sút, Khổng Tử luôn ôm ấp hoài bão chính trị là xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị theo khuôn mẫu của thời Tam đại mà tiêu biểu là nhà Tây Chu, coi đó là một chế độ chính trị hợp lí nhất – một xã hội lí tưởng. Đó là xã hội có đạo đức, có trật tự: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử (Vua theo đúng đạo làm vua, bề tôi theo đúng đạo làm bề tôi, cha theo đúng đạo làm cha, con theo đúng đạo làm con). Như vậy một xã hội lí tưởng theo quan niệm của Không Tử là quay lại với mô hình, thiết chế xã hội thời Tây Chu. Để chứng tỏ cho điều đó, chúng ta có thể thấy qua mấy câu tóm tắt dưới đây của ông trong sách Luận ngữ, rằng : “Nhà Ân dựa theo lễ của nhà Hạ, có những điều thêm bớt thì cũng có thể biết được; Nhà Chu dựa theo lễ của nhà Ân có những điều thêm bớt cũng có thể biết được” và “Nhà Chu lấy cả hai đời Hạ, Ân làm gương nên đạo thịnh vượng thay! Ta theo nhà Chu” [69, tr.85]. Như vậy là, trước một thực trạng xã hội hỗn loạn về quan niệm đẳng cấp và danh phận; các chư hầu xâm lẫn và thôn tính lẫn nhau; sự phát triển của những mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn lãnh chúa phong kiến; sự rối loạn của những quan hệ tông pháp, trong xã hội Trung Quốc thời Xuân thu – Chiến quốc và đồng thời, xuất phát từ quyền lợi và địa vị thống trị của tầng lớp thống trị ấy, với tư cách là nhà tư tưởng, Khổng Tử và các nhà Nho sau ông luôn ôm ấp hoài bão được mang cái trí tuệ của mình xây dựng đất nước thái bình thịnh trị - một xã hội lí tưởng và theo các nhà Nho, xã hội lí tưởng là một xã hội được xây dựng và duy trì bằng đường lối đức trị. Chỉ bấy nhiêu điều nêu trên cũng có thể có đủ căn cứ để lí giải cho sự ra đời quan niệm của Nho giáo về xã hội lí tưởng và tại sao xã hội lí tưởng theo mô hình của Nho giáo lại là xã hội được xây dựng theo đường lối đức trị. 1.2. Những tiền đề tư tưởng, văn hóa với sự ra đời quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. Cũng giống như nhiều gia phái khác, Nho giáo với tư cách là một học thuyết chính trị - xã hội và đạo đức được ra đời trên cơ sở của hiện thực xã hội Trung Quốc lúc bấy giời. Chính nhu cầu thực tiễn của thời Xuân Thu – Chiến Quốc là nguyên nhân cơ bản nhất, trực tiếp nhất cho sự ra đời tư tưởng của Nho giáo nói chung và quan niệm của Nho giáo về xã hội lí tưởng nói riêng. Tuy nhiên, nếu như chỉ khẳng định điều kiện kinh tế - xã hội là nguyên nhân duy nhất cho sự ra đời của Nho giáo thì chưa đủ. Bản thân học thuyết Nho giáo nói chung và quan niệm về xã hội lí tưởng nói riêng của Nho giáo còn được ra đời và phát triển trên nền tảng văn hóa, tư tưởng đạo đức truyền thống của Trung Quốc từ trước đến bây giờ. Ngay từ thời kỳ nhà Hạ, nhà Thương – Ân đến thời kỳ nhà Chu – giai đoạn hình thành và phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa, thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo - duy tâm với các biểu tượng về “Thiên mệnh”, về ý chí của “Thượng đế” và quỷ thần – được xem là những lực lượng tinh thần tối cao, chi phối và quyết định sự sinh thành, biến hóa của vũ trụ, đời sống xã hội và con người. Không những thế, ở đời Thương, Chu còn tồn tại phổ biến quan niệm duy tâm thần bí rằng, con người có thể thông đạt được với Thượng đế và quỷ thần; ông vua đương triều thờ các tổ tiên của mình, trong đó người xa nhất, vị sáng lập ra dòng họ là một vị thần tối cao trên trời - đó là Đế hay Thượng Đế. Các quan niệm duy tâm tôn giáo này được truyền lại cho đời sau, nhưng đến thời nhà Chu thì, Thượng Đế dần dần mất tính nhân hình và riêng tư để trở thành ông Trời (Thiên), và Trời chủ yếu là thế lực che chở cho dòng họ của hoàng tộc nhưng đồng thời cũng là người phán xử hoàng tộc. Để biện hộ cho sự lật đổ nhà Thương, các nhà tư tưởng nhà Chu đã sáng tạo ra lý thuyết Mệnh trời (Thiên mệnh) và xây dựng ra những điển hình về các ông vua lí tưởng, hoàn hảo, mẫu mực và những hình tượng mẫu mực ấy, theo họ là các hình tượng vua Nghiêu, vua Thuấn. Đồng thời, họ gán cho những vị vua cuối cùng của nhà Thương những đặc tính trái với vị vua mẫu mực thời trước. Những đặc tính đó là: kiêu ngạo, tàn nhẫn, và cho đó là nguyên nhân khiến nhà Thương và hoàng tộc của nhà Thương bị hủy diệt. Những tội lỗi này, theo các nhà tư tưởng nhà Chu, đã khiến cho Trời không ban cho nhà Thương ân huệ là trị nước, trị dân cũng như không được hưởng nước, hưởng dân nữa, cũng không xem ông vua đó là những đứa con của trời (Thiên tử) nữa. Do đó và cũng từ đó, trong tư tưởng truyền thống tôn giáo, chính trị Trung Hoa trước thời kỳ Khổng Tử đã xuất hiện tư tưởng “Kính thiên” hay “mệnh trời” và tư tưởng “hiếu đễ”. Khi khẳng định như vậy, có thể thấy, có sự gắn bó chặt chẽ giữa tôn giáo, chính trị và đạo đức trong truyền thống tư tưởng, văn hóa Trung Hoa với Khổng tử - người có công sáng lập và phát triển Nho giáo chủ yếu thành một học thuyết chính trị - xã hội. Trung Quốc vốn là quốc gia đất rộng, người đông, có một nền văn hóa phát triển sớm và bậc cao ở thời cổ đại. Cùng với Ấn Độ và Hy Lạp, dân tộc Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại một nền văn minh lớn, là một trong ba nền văn minh cổ. Theo các nhà nghiên cứu thì, chữ viết ở Trung Hoa xuất hiện rất sớm, khoảng thế kỷ XIII – XII tr.CN. Đó là chữ “giáp cốt văn” và “kim đỉnh văn”. Những hiểu biết của người Trung Quốc về các lĩnh vực như thiên văn học, địa lý, trồng trọt, chăn nuôi, đo lường, làm lịch, thuốc chữa bệnh, xây dựng các thể chế nghi lễ… khá sâu sắc. Chẳng hạn, trong xã hội Trung Hoa cổ đã có một số bộ sách về sau được coi là kinh điển của Nho giáo như: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch. Những tri thức phong phú kể trên là kết quả của hoạt động thực tiễn lâu dài mà nhân dân lao động Trung Quốc đúc kết được. Những tri thức này không những góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất, xã hội phát triển mà còn là tiền đề cho sự ra đời các học thuyết triết học, chính trị, đạo đức, và tôn giáo ở thời Xuân Thu – Chiến Quốc, trong đó có Nho giáo. Chính Khổng Tử cũng khẳng định, ông không có ý định sáng tạo ra một thứ triết học mới, và càng không có ý định tạo ra một tôn giáo mới, mà chỉ truyền lại những tư tưởng của các hiền triết ngày xưa trước ông mà thôi. Khổng Tử đã dùng những kinh đó làm tài liệu để giảng dạy cho đệ tử của mình. Vì vậy có thể thấy một sự kế thừa những tư tưởng về “kính thiên”, về “thiên mệnh” trong việc hình thành quan niệm của nhà Nho về xã hội lý tưởng Chẳng hạn như trong thiên Nghiêu viết, sách Luận ngữ, khi đề cập đến mẫu người lý tưởng trong xã hội lý tưởng – người quân tử, Khổng tử nói: “chẳng biết mệnh trời, không lấy gì để làm người quân tử. Chẳng biết lễ, không lấy gì để lập thân. Chẳng phân biệt nổi lời phải trái, không lấy gì để biết người” [22, tr.690]. Một nhân tố nữa làm tiền đề cho sự ra đời quan niệm của Nho giáo về xã hội lí tưởng chính là những truyền thuyết, những huyền thoại cổ xưa về một thời đại hoàng kim của dân tộc Trung Hoa. Đó là huyền thoại về các vị vua sáng như vua Nghiêu và vua Thuấn – các ông vua sống rất bình dân, ở nhà lá, ăn mặc giản dị như dân, yêu dân và giỏi trị nước, an dân. Ở xã hội đó, người nào cũng sung sướng, đủ ăn, không có trộm cướp, cha thì từ, con thì hiếu, người già được kính trọng, không có ai cô độc, muộn vợ muộn chồng, … Mặc dù đây chỉ là những huyền thoại, nhưng trong những điều kiện cho phép, huyền thoại đó sẽ là điều kiện, tiền đề cho sự ra đời quan niệm của Nho giáo về xã hội lí tưởng. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, huyền thoại về các vị vua Nghiêu và vua Thuấn là do Khổng Tử tự nghĩ ra để biện giải, lí giải cho quan niệm của ông về xã hội lý tưởng. Quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo đã được hình thành trên nền tảng văn hóa truyền thống của Trung Hoa từ các thời đại Hạ, Thương, đến đầu thời nhà Chu. Ngay từ thời tam đại, vua Nghiêu đã đặt ra vấn đề “truyền hiền” (truyền ngôi cho người hiền tài). Đây là điều đáng quý nhất, các ông thánh đó không coi ngôi vua là của riêng mình, của nhà mình, của dòng họ mình. Khi tuổi cao, họ không truyền lại cho con của mình mà truyền cho người hiền. Theo các tài liệu sử học Trung Quốc thì, vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ. Đến nhà Hạ (2197 – 1766 tr.CN), khi nói về đức của vua Hạ Vũ, sử cũ đã chép rằng, vua Vũ chỉ lo kẻ sỹ đến chờ ở cổng nhà mình để góp ý kiền mà mình không tiếp được nên tóc không kịp búi, ăn một bữa đứng dậy đến 3 lần, …v.v. Ông được các nhà Nho sau này tôn sùng về đạo đức. Vua Thang ở đời nhà Thương (1766 – 1134 tr.CN) là tấm gương về đạo đức là người có đạo đức thương dân và luôn tu dưỡng không ngừng về đạo đức cho bản thân mình. Hình tượng “lưới của vua Thang” (ông đi săn chỉ bủa lưới có 3 bề) đã được nhiều nhà văn, nhà thơ sau này nhắc tới để ca ngợi những người có đạo đức. Truyền thống trọng đạo đức đã được thể hiện một cách sâu sắc và rõ nét ở thời đại nhà Chu (1134 – 221 tr.CN). Người ta đề cao hai đức “kính thiên” (kính trọng trời – vị thánh tối cao có ý chí, có nhân cách), và “hiếu tổ” ( có hiếu với tổ tiên). Kính và Hiếu là hai khái niệm đạo đức cốt lõi trong thang giá trị đạo đức ở thời nhà Tây Chu (1134 – 771 tr.CN). Ra đời trong hoàn cảnh ở Trung Quốc có rất nhiều các học phái, trào lưu tư tưởng, vì vậy quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng còn trên cơ sở tiếp thu, các tư tưởng của nhiều lý thuyết khác ở thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Và ở mức độ nhất định, quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo còn ảnh hưởng và chịu sự chi phối của các tư tưởng xã hội đương thời. Để thấy rõ hơn sự kế thừa tư tưởng của Khổng Tử với các trào lưu tư tưởng văn hóa đương thời, sách Sử ký Tư Mã Thiên có viết: “Nam Cung Kính Thúc nói với vua nước Lỗ: “Xin nhà vua cho tôi cùng Khổng Tử đến đất Chu. Vua nước Lỗ cho ông ta một cỗ xe, hai con ngựa, một người đầy tớ, cùng Khổng Tử đến đất Chu để hỏi về lễ. Khổng Tử yết kiến Lão Tử ở đấy.” [58, tr.198]. Một tài liệu khác cũng viết rằng chính Trang Tử đã từng nói đến việc Khổng Tử đã từng đi tìm Lão Đam để hỏi về chữ đạo. Khi tiễn biệt, Lão Đam – Lão Tử có nói với Khổng Tử rằng: “Tôi nghe nói người giàu sang tiễn nhau bằng tiền bạc, người nhân tiễn nhau bằng lời nói. Tôi không phải là người giàu sang, mạn phép tự coi là người nhân mà tiễn ông bằng lời này: kẻ thông minh và sâu sắc thì khó sống vì ham phê bình người; kẻ giỏi biện luận biết nhiều thì nguy tới thân vì hay nêu cái xấu của người. Kẻ làm con và kẻ làm tôi đều không có cách gì để giữ mình cả” [40, tr.43]. Chính lời khuyên ấy của Lão Tử - người sáng lập phái Đạo gia lại thể hiện rõ tư tưởng của ông, ông chủ trương phải lấy đức để báo oán, vì ông cho rằng, nếu lấy oán để báo oán thì oán sẽ tăng thêm. Ông đề cao đức khiêm nhường, khoan dung, tri túc của con người. Thêm nữa, chúng ta còn có thể thấy sự kế thừa quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo ở các học phái khác. Trước một xã hội rối loạn về quan niệm đẳng cấp và danh phận; các chư hầu xâm chiếm và thôn tính lẫn nhau; sự phát triển của những mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn lãnh chúa phong kiến, cũng sự rối loạn của những quan hệ tông pháp trong xã hội Trung Hoa thời Xuân thu – Chiến quốc ngày càng trở nên phổ biến, các học phái khác trong “Bách gia chư tử” nói chung đều đi tìm câu trả lời của thời đại. Tuy mỗi học phái có những quan niệm, lý giải khác nhau và cách giải quyết khác nhau về vấn đề trên nhưng đều có một điểm chung là đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng tương đối có hệ thống và lập luận khá chặt chẽ. Trước khi nghiên cứu, phân tích những nội dung chủ yếu trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng – phần chủ yếu của luận văn này, theo chúng tôi, sự cần thiết phải trình bày một cách khái lược nhất những nội dung chính trong quan niệm của một số trào lưu triết học, chính trị - xã hội ở Trung Hoa thời cổ đại về xã hội lý tưởng như Mặc gia, Đạo gia và Pháp gia. Mặc Tử - người sáng lập phái Mặc gia cho rằng, “muốn có một quốc gia thống nhất, quyền hành tập trung vào một người tài đức do dân cử lên, không có đảng phái, tư tưởng từ trên xuống dưới nhất loạt như nhau, ai cũng lo lợi chung của đồng bào, xã hội; dân đông đúc mà đủ ăn đủ mặc, cần và kiệm, không có sự xa hoa; tóm lại là muốn được “chính bình dân an”; cơ hồ ông còn nghĩ đến một thế giới đại đồng nữa” [40, tr.217] . Như vậy, xã hội lý tưởng trong quan niệm của Mặc Tử và phái Mặc gia là một xã hội hòa bình, thống nhất, tuyển chọn hiền tài chủ yếu là từ nhân dân mà ra, do nhân dân bầu lên, vì nhân dân mà gánh vác; là một xã hội mà trong đó, nhân dân giàu có, đủ ăn đủ mặc, …. Còn phương thức chủ yếu để đi đến một xã hội đó theo Mặc tử là “kiêm ái”, tức là mọi người cùng yêu nhau không phân biệt sang hèn. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, quan niệm của Mặc gia về một xã hội lý tưởng ấy thì tốt đẹp là vậy, nhưng con đường để tạo lập và duy trì cái xã hội đó mà phái Mặc gia đưa ra là không tưởng. Bởi vì, đứng trước một xã hội rối ren như vậy và trong một xã hội tồn tại nhiều giai cấp, đẳng cấp, đẳng cấp có địa vị, quyền lợi khác nhau, mâu thuẫn không thể điều hòa thì làm sao người ta có thể cùng yêu nhau không phân biệt đẳng cấp, danh phận được, làm sao những người ở tầng lớp trên có thể bỏ đi cái địa vị tôn quý để đứng ngang tầm với kẻ dưới mà yêu thương nhau cho được,…v.v. Lão Tử - người sáng lập ra phái Đạo gia, trong quan niệm của ông về một xã hội lý tưởng là một “nước nhỏ dân ít. Dù có khí cụ gấp chục gấp trăm sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có thuyền xe mà không ngồi, có binh khí mà không bày. (Bỏ hết văn tự) bắt dân dùng lại lối thắt dây thời thượng cổ. Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon, quần áo tầm thường mà cho là đẹp, nhà ở thô sơ là thích, phong tục giảm phát mà thấy là vui. (Nghĩa là chỉ lo ăn no mặc ấm, ở yên, sống vui, ghét xa xỉ). Các nước gần gũi có thể trông thấy nhau, nước này nghe được tiếng gà tiếng chó của nước kia mà nhân dân các của nước ấy đến già chết cũng không qua lại với nhau” [40, tr.217- 218]. Vậy là, ở quan niệm của Lão Tử thì, xã hội mà ông hình dung và chủ trương xây dựng là một nước, một quốc gia, một nước chư hầu, hay một bang chứ không phải là cả thiên hạ với sự biểu hiện hết sức đặc trưng của nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc và một tư tưởng yếm thế, trốn tránh sự đời. Điều này ngược hẳn với quan điểm của Khổng tử cũng như quan điểm của các nhà Nho. Còn trong quan niệm về xã hội lý tưởng của phái Pháp gia thì, theo Thương Ưởng và Hàn Phi, “muốn có một quốc gia thống nhất (như Mặc Tử) quyền hành tập trung vào một người là nhà vua (không do dân cử và nhà vua ấy không cần là một người có đức mà chỉ cần biết thuật trị người); Kinh tế phải khuếch trương để cho nước giàu và mạnh mà chiến thắng những nước khác, không cần văn hóa cho cao, chỉ cần nông phẩm và binh khí cho nhiều; vua chẳng cần thi ân huệ, dạy dân, cứ ngất ngưởng ngồi trên mà điều khiển guồng máy bằng cách áp dụng luật pháp một cách nghiêm khắc và công bằng không chút tư vị (dù là với người thân, vì vua không thân với ai hết, kể cả cha mẹ, vợ con) [40, tr.218]. Với phái Pháp gia, để có một xã hội giàu mạnh thì con đường đi tới xã hội đó chủ yếu và dựa vào là thuật trị nước và thi hành pháp luật. Trước một xã hội loạn lạc, rối ren như thời Xuân Thu – Chiến Quốc thì con đường, biện pháp này tỏ ra rất có ưu thế và đem lại hiệu quả nhất định. Chẳng hạn như Thưởng Ưởng đã làm cho nước Tần mạnh lên nhờ áp dụng thuật trị nước và pháp luật. Tư tưởng trị nước của phái Pháp gia trở nên hết sức thuyết phục trong tình hình xã hội loạn lạc, rối ren thời Xuân Thu – Chiến Quốc, nó như cơn mưa rào trong cảnh trời nắng hạn. Vì thế, ngay từ khi hình thành, tư tưởng trị nước của phái Pháp gia đã được xã hội đón nhận và có ảnh hưởng lớn trong xã hội thời bấy giờ. Thông qua sự trình bày trên, có thể thấy rằng, trước một xã hội loạn lạc, rối ren thì các học phái Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia đều đưa ra mô hình về một xã hội lý tưởng, cũng như phương thức để tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng. Tuy nhiên, mỗi một học phái lại đề xuất cách thức đi đến xã hội lý tưởng khác nhau: Nếu như ở Mặc gia và Pháp gia, đó là một xã hội thái bình, thống nhất, và giàu có thì trái lại, Đạo gia lại chủ trương một nước nhỏ, dân ít, sống cuộc sống bình thường đạm bạc, “an bần lạc đạo”; Nếu như phương thức để đi đến xã hội lý tưởng ở Mặc gia là “kiêm ái” – cùng yêu nhau, không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn và Đạo gia chủ trương “vô vi”, thì trái lại, Pháp gia lại chủ trương dùng thuật, dùng hình luật để đi đến xây dựng một xã hội lý tưởng. Thực tiễn lịch sử cho thấy, Pháp gia là học phái có khả năng đi đến một xã hội thái bình, giàu mạnh nhanh hơn cả, và hiệu quả hơn cả. Pháp gia có thể làm cho xã hội trở nên hùng mạnh và có trật tự nhanh nhất. Như sách Sử ký, Thương Quân chuyện có chép, Thương Ưởng khi làm tướng nước Tần, “đường xá không nhặt của rơi ; núi không có cướp giặc” [62, tr.74]. Tuy nhiên cũng thấy rằng, việc dùng hình luật mà Pháp gia chỉ làm cho dân khiếp sợ mà không dám vi phạm pháp luật chứ không làm cho dân tuân phục mà đi theo. Vì vậy, khi so sánh vai trò của đường lối chính trị của phái Pháp gia với đường lối chính trị của Nho gia, trong chương Vi chính, sách Luận ngữ, Khổng tử nói: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành” [22, tr.215]. Và khẳng định vai trò to lớn của đường lối chính trị đức trị, Khổng tử đã nói rõ thêm: “Lấy đức để làm việc chính trị, cũng ví như ngôi sao Bắc thần, ở yên vị mà các ngôi sao khác đều chầu về” [22, tr214]. Từ sự trình bày trên cho thấy, quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng ra đời còn trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc Trung Hoa như sự kế thừa tư tưởng “kính thiên” ở tôn giáo để hình thành nên vị thế, vai trò của Thiên tử trong thiên hạ. Thêm nữa ở đó còn là sự kế thừa những giá trị tinh thần trong các sách kinh điển của thời trước (kinh Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch) và những huyền thoại về những ông vua sáng như vua Nghiêu, vua Thuấn với đạo đức cao cả, với tư tưởng “truyền hiền” còn soi sáng tới muôn đời sau. Đặc biệt nữa quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo còn chịu sự ảnh hưởng và kế thừa các học phái triết học đương thời. Kết luận chương 1. Triết học Mác – Lênin đã chỉ rõ, ý thức xã hội bao giờ cũng nảy sinh, tồn tại và phát triển không thể tách rời tồn tại xã hội, điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện và hoàn cảnh sống của con người. Mỗi một hình thái ý thức xã hội đều phản ánh và chịu sự chi phối của những điều kiện hoàn cảnh ấy của xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định. Ngoài ra, nó được hình thành, phát triển trên cơ sở tiếp thu, kể thừa những di sản cùng những giá trị tư tưởng văn hóa của dân tộc ấy đã đạt được từ trước đến bấy giờ. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo cũng vậy. Trước hoàn cảnh xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc, Khổng Tử cũng như nhiều nhà Nho sau này, trong tư tưởng của họ cũng được hình thành, phát triển không chỉ là phản ánh, chịu sự chi phối của thời đại mà còn chịu sự chi phối của lợi ích, địa vị giai cấp của họ. Do vậy, để hiểu đúng quan niệm về xã hội lí tưởng của Nho giáo cần phải được nghiên cứu và đặt nó trong những hoàn cảnh thời đại cụ thể. Vì vậy, quan niệm về xã hội lí tưởng của Nho giáo nói chung chịu sự chi phối và quyết bởi những yếu tố chủ yếu sau đây: Thứ nhất: Thời đại Xuân thu – Chiến quốc là thời đại mà sức sản xuất có bước phát triển mạnh so với trước. Cơ sở kinh tế của chế độ phong kiến được xác lập do đó tạo ra sự phát triển mạnh mẽ ở một số nước chư hầu như Tề, Trịnh, …v.v. vượt hơn hẳn so với nhà Chu. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội trở nên gay gắt. Mâu thuẫn giữa tầng lớp quỹ tộc nhà Chu và giai cấp địa chủ mới với dân; Mâu thuẫn giữa quỹ tộc cũ, bảo thủ muốn duy trì chế độ thống trị cũ với một bộ phận quỹ tộc mới muốn thực hiện cải cách để duy trì sự thống trị của mình; Mâu thuẫn giữa quỹ tộc mới với quỹ tộc mới muốn tiêu diệt lẫn nhau để thiết lập quyền thống trị của mình. Thứ hai: Trong xã hội xuất hiện tình trạng rối loạn về quan hệ đẳng cấp, danh phận. Tình trạng quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử (nhà vua không theo đúng đạo làm vua, bề tôi không theo đúng đạo làm bề tôi, cha không theo đúng đạo làm cha, con không theo đúng đạo làm con) trở nên phổ biến, nhưng không được ngăn chặn, khắc phục…. Thứ ba: Sự kế thừa những tư tưởng văn hóa tinh thần của xã hội được ghi lại trong các sách kinh điển (kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Nhạc, kinh Dịch) và những giá trị tinh thần được phản ánh trong các huyền thoại về các vị vua sáng tôi hiền. Thứ tư: Sự ảnh hưởng của trào lưu triết học cùng thời đến quan niệm của Nho giáo nói chung và quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng nói riêng cũng là một trong những nhân tố dẫn đến sự hình thành quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. Như vậy, đứng trước tình hình kinh tế - xã hội như trên và kế thừa những tiền đề tư tưởng văn hóa tinh thần, từ địa vị và lợi ích giai cấp của bản thân nhà tư tưởng, Khổng tử và các nhà Nho sau này đã xây dựng hệ các quan niệm về xã hội lý tưởng với các nội dung chủ yếu sau: quan niệm về đặc trưng cơ bản của xã hội lý tưởng, về mẫu người lý tưởng trong xã hội lý tưởng và về phương thức (con đường) để tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng. Chương 2 QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ XÃ HỘI LÝ TƯỞNG 2.1. Quan niệm của Nho giáo về những đặc trưng cơ bản của xã hội lý tưởng. Trước hết để tìm hiểu và phân tích nội dung quan niệm của Nho giáo và một số trào lưu triết học Trung Hoa cổ đại về xã hội lý tưởng, chúng ta cần phải đưa ra một định nghĩa về xã hội lý tưởng để lấy đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu nội dung và thực chất xã hội lý tưởng của Nho giáo. Theo một số tài liệu thì, “Xã hội lý tưởng là một khái niệm dùng để chỉ một chế độ xã hội, một trạng thái xã hội phát triển cao nhất và hoàn thiện nhất. Cái chế độ, trạng thái xã hội ấy không chỉ là mục đích cuối cùng và cao nhất của những ước vọng và hoạt động của một giai cấp nhất định mà nó còn chi phối, định hướng toàn bộ hoạt động của giai cấp ấy. Nó phản ánh và bảo vệ lợi ích kinh tế và chính trị căn bản của một tập đoàn, một giai cấp xã hội nào đó.” [4, tr.45] Như vậy có thể thấy, xã hội lý tưởng là khái niệm dùng để chỉ một chế độ, một trạng thái xã hội phát triển cao nhất mà con người mong muốn cần đạt tới. Cho dù là như vậy, nhưng trong xã hội có giai cấp, xã hội lý tưởng ấy cũng là sự phản ánh ý chí, bảo vệ và duy trì địa vị thống trị, lợi ích kinh tế cùng những mục đích chính trị khác của một tập đoàn, một giai cấp thống trị trong xã hội mà thôi. Cũng giống như bất kỳ một học thuyết chính trị - xã hội nào khác, đặc biệt khi có thêm chức năng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, đứng trước một xã hội rối loạn bởi chiến tranh, bởi những mâu thuẫn và xung đột giai cấp, Nho giáo cũng đưa ra quan niệm về xã hội lý tưởng với những đặc trưng cơ bản – tổng quát, đó là một xã hội ổn định, thái bình, đại đồng, mọi người sống hòa mục, thân ái, bình đẳng được thiết lập và duy trì. Đề cập đến một xã hội như vậy, trong chương Quý thị, sách Luận ngữ, Khổng Tử đã nói: “Khâu nay từng nghe rằng những bậc vua chư hầu hoặc quan đại phu chẳng lo chuyện tài sản ít ỏi, mà chỉ lo chia không đều, chẳng lo dân nghèo mà chỉ lo dân không được yên ổn. Của chia đều thì dân không nghèo, dân hòa hợp thì của không ít, dân yên ổn thì nước không nghiêng đổ” [22, tr.593]. Xã hội lý tưởng theo quan niệm của Nho giáo còn là một xã hội có vua thánh, tôi hiền, mọi cái đều là của chung, mọi người đều có quyền lợi, đều có sản nghiệp riêng, đều được chăm sóc. Đề cập đến nội dung tổng quát này, trong thiên Lễ Vận, sách Lễ Ký thì, xã hội lý tưởng là một xã hội mà trong đó “Đạo lớn thi hành, thiên hạ thành của chung. Tuyển người hiền với người có tài năng, giảng giải điều tín thực, tu chỉnh theo hòa mục nên người ta không chỉ yêu thương người thân hay con cái mình. Người già nhờ đó mà có chỗ chôn cất, người lớn có chỗ được dùng, trẻ nhỏ được lớn lên, người cô quả, bơ vơ, phế tật có chỗ nuôi dưỡng. Nam có phận, nữ có chồng. Ghét lãng phí, vứt của đầy đất chẳng cần cất giấu. Vì thế, mẹo chẳng cần dùng, trộm cướp, giặc giã chẳng có, cửa chẳng cần đóng, ấy là xã hội đại đồng.” [37, tr.147-148] Vậy thực chất quan niệm của Khổng Tử và các nhà Nho về một xã hội đại đồng là gì ? Cái xã hội lý tưởng cần đạt tới trong quan niệm của các nhà Nho là như thế nào ? Chúng ta có thể và cần phải vạch ra những đặc trưng cơ bản của nó trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. Từ trong Tứ thư, Ngũ kinh cũng như qua câu nói của nhiều nhà Nho có thể khẳng định, xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho giáo chính là một xã hội đại đồng. Theo tác giả của cuốn sách Tư tưởng đại đồng trong cổ học Trung Hoa thì, tư tưởng về xã hội đại đồng là của Khổng Tử, được truyền cho Tử Du và đến Mạnh Tử thì tư tưởng ấy được ông luận giải và làm sáng tỏ thêm. Thêm nữa, cũng theo tài liệu này, khi đề cập đến xã hội đại đồng, Lương Khải Siêu có viết: “Học của Khổng Tử vốn có hai phái: Vi ngôn và Đại nghĩa. Vi ngôn cũng gọi là đại đồng; đại nghĩa cũng gọi là tiểu khang. Đại đồng cũng gọi là thái bình; Tiểu khang cũng gọi là bát loạn cũng gọi là thăng bình,…” và cũng theo tác giả, cái học đại đồng uyên nguyên là vậy, truyền nối là vậy, xuống đến đời Tần (245 -203 tr.CN) nó bị tuyệt diệt là vậy [62, tr.24]. Tiếp nữa, trong Tần biên cao trung bản quốc sử, tác giả Kim - Triệu - Tử khẳng định, “Tư tưởng đại đồng là của Khổng tử, nên mới đặt nó vào tiết nói về “Tư tưởng học thuật đời Xuân Thu…” (722 – 481 tr.CN), tức là thời đại của Khổng tử, vì Khổng tử sinh vào năm 21 đời Chu Linh Vương (551 tr.CN), và mất nhằm năm 41 đời Chu Kính Vương (479 tr.CN) [62, tr.25]; Cũng theo tài liệu này, Khổng – Tường – Hi, con cháu đời sau của đức Khổng, trong biểu “Khổng môn các học phái chi phân diễn”, đã khẳng nhận tư tưởng đại đồng là của Khổng tử. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng, tư tưởng đại đồng không phải là của Khổng tử, những người theo quan điểm này đều đưa ra những lí do để chứng minh cho luận điểm đó. Hơn thế nữa, theo sách Tư tưởng đại đồng trong cổ học Trung Hoa thì, tác giả của cuốn sách có khẳng định, tư tưởng đại đồng không phải là của Khổng tử mà là của các nhà Nho thời Tần – Hán và tác giả có giành hẳn một chương để trình bày những chứng cớ để khẳng nhận tư tưởng đại đồng là của Hán Nho. Mặc dù vậy, theo quan điểm của chúng tôi thì, chúng tôi tin và đứng về phía những người cho rằng, tư tưởng về xã hội lý tưởng – xã hội đại đồng là của Khổng tử. Bởi có thể những lời nói về xã hội đại đồng trong thiên Lễ vận sách Lễ Ký không phải là lời của Khổng Tử mà của các nhà Nho đời sau, nhưng quan niệm về xã hội lý tưởng đã có từ Khổng tử rồi. Đặc biệt theo tác giả Nguyễn Thanh Bình thì, “Quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo được hình thành một cách đầy đủ ở Khổng Tử, trên cơ sở lí giải những nguyên nhân dẫn đến tình trạng rối loạn của xã hội” [4, tr.45]. Từ sự trình bày trên có thể rút ra những đặc trưng cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng như sau: Thứ nhất: Xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho giáo là một xã hội thái bình, ổn định, có trật tự, có kỷ cương, mọi cái trong xã hội đều là của chung, mọi người trong xã hội đều có quyền lợi, được chăm sóc, được bình đẳng, sống hòa mục thân ái với nhau. Từ sự phê phán thực trạng xã hội hết sức rối ren loạn lạc thời Xuân thu – Chiến quốc, cũng như những nguyên nhân dẫn đến tình trạng xã hội đó, theo nhà Nho, một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội lý tưởng phải là một xã hội ổn định, đồng thời xã hội ổn định cũng là tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để tạo dựng, duy trì các xã hội ấy giàu có về người và về của cải, trong đó mọi người đều có tài sản, có quyền lợi, được chăm sóc, nuôi dưỡng. Để tạo lập, duy trì một xã hội lý tưởng mà Nho giáo nêu ra và xuất phát từ quan niệm cho rằng, gia đình là tế bào của xã hội, mọi sự rối loạn của xã hội đều bắt đầu từ sự rối loạn trong gia đình mà ra, vì vậy các nhà Nho đều cho rằng, xã hội muốn có trật tự kỷ cương, ổn định thì trước hết, gia đình phải có trật tự kỷ cương và ổn định sao cho “cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng”. Và để đạt được điều đó, các nhà Nho đều khẳng định, mọi người phải tu thân, phải được giáo dục, giáo hóa theo những chuẩn mực, luân lý đạo đức của đạo Tam cương, Ngũ thường. Cho nên không phải ngẫu nhiên, các nhà Nho đều chú trọng đề cao giáo dục, giáo hóa theo tinh thần “Hữu giáo vô loại”, “Phú nhi hậu giáo”; đồng thời còn coi đó là một trong những biện pháp chính trị căn bản nhất để duy trì trật tự kỷ._.à yêu cầu người học trong học tập trước tiên phải hiểu và nói lại được những tri thức trong sách vở, những kiến thức đã thu được trong quá trình học tập. Đối với mỗi người, học mà thuật lại được những lời nói của thánh nhân, cũng không phải là điều dễ. Nho giáo cũng rất chú trọng đến phương pháp “gợi mở vấn đề” giữa thầy với trò, giữa người dạy với người học nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của người học. Phương pháp gợi mở vấn đề là điểm nổi bật trong cách dạy của Nho giáo, là yêu cầu bắt buốc đối với cả người dạy và người học. Vì rằng, ai mà không suy xét cho kỹ các lẽ thì, dẫu có dạy cũng không có ích gì. Khổng tử còn cho rằng, người học phải gắng sức tìm hiểu, không gắng sức tìm hiểu là không thể thành tài được. Do vậy mà, không chỉ đưa ra chủ trương mà trong quá trình dạy, Khổng tử dạy học trò thường chỉ gợi ý lên một mối rồi để cho người học tự mình suy nghĩ để hiểu lấy. Như khổng tử nói: “Không bực tức thì trí không mở, không hậm hực thì ý không bật ra. Chỉ cho một góc mà không (chịu để tâm) suy ra ba góc kia ắt ta không nói ra nữa” [22, tr.347]. Mạnh tử cũng đòi hỏi người dạy và người học phải luôn luôn chuyên tâm, khiêm tốn và có thái độ cầu tiến trong học tập, vì theo ông, có như thế mới đạt được mục đích của việc học. Nho giáo còn đưa ra phương pháp tùy thuộc vào tư chất của học trò mà có những phương pháp giáo dục cụ thể. Dạy học không phải là một phương pháp bất biến, áp dụng đối với tất cả mọi người. Trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo, để đạt được mục đích của giáo dục, để triển khai đầy đủ nội dung của giáo dục thì đòi hỏi trong quá trình giáo dục phải phân biệt ra các đối tượng khác nhau để có biện pháp giáo dục cụ thể. Như Khổng tử nói, “Đối với những người từ bậc trung trở lên, có thể dạy bảo phẩn hình nhi thượng; đối với những người tù bậc trung trở xuống, không thể dạy bảo về phần hình nhi hạ.” [22, tr.333]. Hình nhi thượng là những triết lý cao siêu, khó hiểu đòi hỏi người học phải có một trình độ cao mới hiểu được. Còn hình nhi hạ, là những triết lý thông thường trong cuộc sống hàng ngày, học trò ở một trình độ kém thì cũng có thể hiểu được. Phương pháp giáo dục này đã phát huy những sở trường, tài năng và khắc phục những hạn chế của từng người. Cụ thể và làm rõ hơn vai trò của phương pháp này, Mạnh tử đã chỉ rõ, “Dạy người cũng có nhiều phương pháp. Ta không thèm dạy bảo một người nào cũng đã là dạy bảo hẳn rồi vậy” [22, tr.1284]. Ở chỗ khác, Mạnh tử nói, “người quân tử có năm cách để dạy đạo lý (tùy theo từng hạng người): Có hạng người ham thích đạo lý, như cây cỏ gặp mưa đúng hạn, mà biết đổi tâm tính. Có hạng người thuần hậu, nghe giảng mà thành tựu về đức hạnh. Có hạng người minh mẫn, nghe giảng mà thành đạt về tài năng. Có hạng người hiểu về đạo lý, nhờ nghe giải đáp những câu hỏi. Có hạng người nhờ giãn tiếp mà tự sửa mình. Đó là năm phương pháp, người quân tử tuy hạng người, mà dạy bảo” [22, tr. 1329]. Như vậy hầu hết các nhà Nho đều coi trọng phương pháp tùy thuộc vào tư chất của học trò mà có cách dạy học trò khác nhau, sao cho người học tiếp thu kiến thức cao nhất, phù hợp với mình nhất. Ngoài ra, Nho giáo còn chủ trương phương pháp “học đi đôi với hành”. Với phương châm giáo dục, giáo hóa không chỉ tạo cho người học cái trí, cái đức, mà hơn nữa, người học phải biết đem cái mình học ra thi hành, áp dụng nó vào trong cuộc sống. Trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo, để đạt được mục đích của giáo dục, thực hiện đầy đủ nội dung giáo dục và thực hành đúng, phát huy tác dụng, vai trò của các phương pháp giáo dục trên đây, Nho giáo đã đưa ra một nguyên tắc bất di, bất dịch cho cả người dạy và người học là: “Học nhi bất yếm, hối nhi bất quyện” (học mà chẳng chán, dạy bảo người mà không mệt mỏi) [22, tr.344]. Theo đó, người dạy học phải dạy hết mình, cố gắng truyền đạt được nhiều kiến thức cho học trò, như Khổng tử nói, “Nếu có người kém cỏi tới hỏi ta, dù mù mờ chăng nữa, ta cũng khai mở cho hai đầu mối, để giảng giải cho hiểu biết mọi lẽ.” [22, tr.401]. Còn đối với người học, thì cần phải nỗ lực, không quản ngại khó khăn mà phải chăm chỉ học tập, có như vậy việc học mới thu được kết quả. Như vậy, có thể thấy rằng, trong các học thuyết chinh trị - xã hội của Nho giáo thì, nhà Nho giành nhiều sự quan tâm cho tư tưởng giáo dục, coi đó là một phương thức cơ bản nhất để tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng. Do vậy mà Nho giáo đã xây dựng một hệ thống tư tưởng giáo dục khá hoàn chỉnh từ mục đích, đối tượng đến nội dung, phương pháp của giáo dục, đã đem lại những giá trị to lớn, tuy nhiên, trong tư tưởng ấy cũng còn biểu hiện những hạn chế nhất định. Ba là: Nhà vua phải có đạo đức, để làm tròn trách nhiệm của người “thay trời trị dân”, “cha mẹ của muôn dân”, để xứng đáng với cương vị của người giáo hóa cho dân trước hết vua phải là người có đạo đức, phải làm gương cho dân noi theo, phải biết chia sẻ trước những khó khăn vất vả cùng với dân. Trong chương Tử Lộ, sách Luận ngữ, Khổng tử nói “Tự mình làm gương cho dân noi theo. Chịu khó nhọc cùng những công việc khó nhọc của dân” [26, tr.365]. Vậy là muốn dân thi hành những đạo đức nhân, lễ, nghĩa, trí, tín thì trước hết nhà vua phải gương mẫu, trong mọi tình huống, mọi phong trào phải luôn gương mẫu, đi trước, phải lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Hơn thế nữa vua còn phải biết chịu khó nhọc cùng dân chứ không chỉ ra lệnh, bởi nếu nhà cầm quyền biết bỏ sức lực, cùng chịu khó nhọc cùng dân thì dân sẽ tự giác noi theo, làm theo không cần phải giáo dục hay ra lệnh. Và ông nói tiếp, “Người bề trên ngay thẳng, dù không ra lệnh, người dưới vẫn làm theo. Người bề trên không ngay thẳng, tuy có mệnh lệnh rất nghiêm, người dưới cũng chẳng theo.” [26, tr.372]. Để làm gương cho dân, để dân noi theo thì nhà vua phải là người có đầy đủ các phẩm chất đạo đức nhân, lễ, nghĩa, trí, tín và biết coi trọng những phẩm chất ấy. Khổng Tử nói “Người bề trên coi trọng lễ, thì dân chẳng ai dám coi thường khinh mạn. Người bề trên coi trọng nghĩa, thì dân chẳng ai dám không phục tùng. Người bề trên coi trọng chữ tín thì dân chẳng ai dám giả dối. Nếu làm được như vậy, thì dân bốn phương nhất định cõng con đến theo mình hết. Cần gì mình phải học việc trồng cấy ?” [26, tr.370]. Đối với nhà Nho để trị quốc bình thiên hạ, thì nhà vua, nhà cầm quyền cần phải coi trọng ba điểm: Lễ - Nghĩa – Tín. Nếu người bề trên mà biết coi trọng lễ, nghĩa, thì trong thiên hạ đâu đâu ở nơi nào, ở chỗ nào cũng được truyền bá, phổ biến những phép tắc lễ nghĩa, được tuyên truyền nếp sống hợp với đạo thì dân chẳng ai dám coi thường. Ngược lại nếu người bề trên không biết coi trọng lễ nghĩa thì sao có thể đòi hỏi thiên hạ, những người ở dưới coi trọng lễ nghĩa cho được; Nếu người bề trên coi trọng điều tín, biết giữ chữ tín, nói đi đôi với làm, thì trong thiên hạ mọi người sao dám nói điều dả dối, ngược lại nếu người bề trên không giữ chữ tín thì thiên hạ sẽ lâm vào cảnh nồi da xáo thịt, tranh cướp lẫn nhau. Không những thế, các nhà Nho đều cho rằng, nhà cầm quyền, người cai trị phải có đạo đức, hành động có đạo đức mới được lòng dân, mới được dân tin. Được lòng dân và lòng tin của nhân dân đối với nhà cầm quyền, theo các nhà Nho là điều kiện tiên quyết nhất đối với sự tồn tại, hưng thịnh của mỗi một triều đại, mỗi một chế độ, như khi Tử Cống hỏi về đạo trị nước, Khổng Tử đáp rằng: “Phải đầy đủ binh lực, đầy đủ lương thực, được nhân dân tín phục” [26, tr.348]. Vậy là một xã hội lý tưởng trong quan niệm của các nhà Nho không chỉ nhà vua, người cầm quyền có đạo đức mà tất cả mọi người trong xã hội cũng phải có đạo đức. Muốn cho thiên hạ có đạo đức thì nhà cầm quyền cần phải có đạo đức, cần phải giáo dục đạo đức. Đúng như chủ nghĩa Mác đã nói: “nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục” [49, tr.30]. Để tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng, thì nhà vua, người cầm quyền không chỉ có đạo đức, mà còn phải yêu mến dân nữa. Trong chương Học Nhi , sách Luận ngữ, Khổng tử nói: “Quản lí lãnh đạo một quốc gia có nghìn cỗ xe ngựa, phải …., yêu mến dân, sử dụng sức dân trong thời gian thích hợp” [26, tr.105], lòng yêu thương dân của nhà vua không chỉ thể hiện bằng lời nói mà phải thể hiện bằng hành động, nhà vua có đem lại niềm hạnh phúc cho dân hay không ? Có đem lại ấm no cho dân hay không ? Kế thừa quan điểm trên của Khổng tử, ở Mạnh tử, để thích hợp với tình hình của thời đại, “ông đã giải thích thêm về quan điểm “suy ân” - tức là mở rộng ân huệ, Mạnh tử khuyến khích các lãnh chúa “thương” dân [69, tr.226)]. Bốn là: Dân phải có đời sống vật chất đầy đủ, là sản phẩm của nền nông nghiệp, đồng thời là hệ tư tưởng và công cụ thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến trong việc củng cố, duy trì bộ máy nhà nước và trật tự xã hội phong kiến, Nho giáo không thể không trở thành một công cụ để bảo vệ cơ sở kinh tế và cơ cấu xã hội - giai cấp, của xã hội phong kiến. Mặc dù các nhà Nho đều thừa nhận, sự tồn tại của những mâu thuẫn giai cấp, tình trạng bất công, bất bình đẳng xã hội – nảy sinh từ cơ sở kinh tế phong kiến. Nhưng trong quan niệm về xã hội lý tưởng, các nhà Nho không chủ trương xóa bỏ sự tồn tại và phân chia xã hội thành những giai cấp, có địa vị và quyền lợi căn bản đối lập nhau. Trên thực tế, bằng học thuyết chính trị, đạo đức vừa linh hoạt vừa bảo thủ, vừa nhân đạo vừa phản động các nhà Nho đều nhất quán duy trì trạng thái và trật tự của xã hội phong kiến sao cho giai cấp thống trị bóc lột mãi mãi là giai cấp thống trị bóc lột, còn giai cấp bị trị, bị bóc lột phải yên phận ở địa vị bị thống trị, bị bóc lột. Do vậy mà không phải ngẫu nhiên các nhà Nho đều ca ngợi đến mức tuyệt đối hóa sự tồn tại vĩnh viễn xã hội nông nghiệp, coi nghề nông là gốc (nông vi bản), công thương là ngọn (công vi mạt). Đồng thời để biện hộ cho sự tồn tại mãi mãi của xã hội nông nghiệp ấy, trong cách phân chia thứ hạng dân, các nhà Nho đều coi Sĩ (người đi học), Nông ( người làm nông nghiệp), có vị trí và vai trò quan trọng hơn công (thợ thủ công, công nghiệp), thương (buôn bán); coi hai hạng sĩ nông là cơ sở, nền tảng của xã hội, còn hai hạng người kia chỉ làm tha hóa đạo đức con người, xã hội. Trong chương Học Nhi, sách Luận Ngữ còn viết, sự tồn vong, an nguy của triều đại, của đất nước gắn chặt và phụ thuộc vào những chủ trương, biện pháp của vua, nhà cầm quyền có được lòng dân hay không. “Người được lòng dân thì được cả thiên hạ, người mất lòng dân thì mất cả thiên hạ…” [26, tr.106]. Nhưng để được lòng dân, để được dân chúng, theo các nhà Nho, nhà vua, người cầm quyền đối với dân và trong quan hệ với dân: phải coi dân là gốc, nước là quý; sai khiến dân phải thận trọng, tùy thời phải giữ trung tín với dân, phải chăm lo đời sống của dân, phải biết “dân dĩ thực vi thiên”, phải là tấm gương sáng cho dân. Để xã hội tránh được cảnh rối ren, loạn lạc, sống trong điều kiện mới có nhiều thay đổi, vai trò của tầng lớp địa chủ phong kiến mới đang lên, thêm vào đó là cuộc đấu tranh của nông dân diễn ra ở khắp nơi nên để xoa dịu cuộc đấu tranh ấy, Mạnh tử chủ trương “Dân là quý, xã tắc là thứ yếu, nhà vua là chuyện không đáng coi trọng” [69, tr.227]. Không những trọng dân mà, các nhà Nho còn tiến đến tư tưởng lo cho dân làm sao để dân có được đời sống vật chất đầy đủ. Bởi nếu dân được ấm no thì không còn cảnh nổi loạn, không còn cảnh dân đứng lên đấu tranh, cướp bóc,…v.v. Vì vậy Mạnh tử nêu rõ phương châm “dân có của luôn thì lòng cũng tốt luôn” (tức là hễ có hằng sản thì có hằng tâm) [69, tr.228]. Cho nên “Một mặt thì Mạnh tử phê bình “bá đạo”, một mặt khác ông lại đưa ra cái gọi là “vương chính” (một nền chính trị theo kiểu tam vương). Ông cho rằng chỉ có “vương chính” mới có thể cứu ván được chế độ phong kiến. Mạnh tử nói: “Đạo của các vua Nghiêu, Thuấn là: không thi hành nhân chính (một nền chính trị lấy đạo nhân làm gốc) thì không thể bình trị được thiên hạ” (Ly lâu thượng). “Thi hành nhân chính mà cai trị thiên hạ, thì chẳng ai có thể chống nổi”(Công tôn sửu thượng) [69, tr.239]. Ông còn nhẫn mạnh, “chỉ cần người nào có thể thực hành “vương đạo”, “nhân chính”, không kể họ có nhiều hay ít đất đai và lực lương, “vua Thang bắt đầu có bẩy mươi dậm, Văn vương bắt đầu cớ một trăm dậm”, cũng đều có thể giành được phần đông nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ “yên định” thiên hạ “về một mối” [69, tr.245]. Kết luận chương 2. Có thể thấy, đứng trước một xã hội rối loạn đẳng cấp và danh phận, các chư hầu xâm chiếm và thôn tính lẫn nhau, sự phát triển của những mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn lãnh chúa phong kiến, giữa bọn địa chủ phong kiến với nhau ngày càng trở nên gay gắt, cũng sự rối loạn của những quan hệ tông pháp trong thiên hạ ngày càng trở nên phổ biến, Khổng Tử và các nhà Nho đã cố gắng tìm ra con đường, phương thức để tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng, đưa xã hội từ trạng thái loạn sang trạng thái trị. Đó là một xã hội thái bình, ổn định, vua thánh tôi hiền, nhân dân có đời sống vật chất đầy đủ, có đạo đức, có giáo dục, mọi người trong xã hội được chăm sóc. Tuy nhiên, xã hội lý tưởng đó theo quan niệm của nhà Nho là một xã hội có trật tự đẳng cấp, có danh phận đã qua nhằm bảo vệ vĩnh viễn trật tự đẳng cấp đương thời. Trong quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo, một nội dung không thể thiếu chính là mẫu người lý tưởng. Mẫu người lý tưởng của trong xã hội lý tưởng theo quan niệm của nhà Nho là người quân tử. Mặc dù người quân tử mang nhiều ý nghĩa khác nhau, nhưng về cơ bản có thể hiểu người quân tử là những người thuộc tầng lớp trên của xã hội, những người có phẩm chất đạo đức, có trí tuệ, được học hành, hiểu được thiên mệnh, biết tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, những người có khả năng kiến tạo nên một xã hội lý tưởng. Để đưa xã hội từ loạn đi đến thái bình thịnh trị, các nhà Nho đã tìm ra và nhất trí cho rằng nguyên nhân của tình trạng rối loạn đẳng cấp và danh phận trong xã hội là do danh không chính. Vì vậy vấn đề quan trọng để lập lại trật tự xã hội lúc bấy giờ là phải “chính danh”. Đây được xem như là biện pháp cơ bản đầu tiên để tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng. Tuy nhiên, chính danh chỉ là biện pháp cơ bản đầu tiên để đưa xã hội từ trạng thái loạn sang trạng thái trị còn để duy trì xã hội lý tưởng, đảm bảo cho sự tồn tại lâu dài của xã hội, theo nhà Nho, cần phải thực hiện bằng con đường giáo dục, giáo hóa. Bởi một mặt có giáo dục, giáo hóa thì trong thiên hạ ai ở danh nào mới tự giác ở yên danh ấy, một mặt khác, có giáo dục, giáo hóa và giáo hóa bằng đạo đức, thì dân mới tin, mới phục tận gốc. Cùng với chính danh và giáo dục, giáo hóa là phương thức cơ bản để tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng. Các nhà Nho còn cho rằng, để tạo lập và duy trì xã hội lí tưởng thì ông vua trong thiên hạ còn phải là người có đạo đức, phải biết yêu mến dân, phải làm cho dân có đời sống vật chất đầy đủ. Có như vậy những đặc trưng bản chất của xã hội lý tưởng mới có điều kiện trở thành hiện thực. KẾT LUẬN Trong các môn phái thuộc “Bách gia chư tử”, Nho giáo là một học phái đề cập đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người như: triết học, chính trị - xã hội, đạo đức, giáo dục,…v.v. Những nội dung này đan xen, thâm nhập vào nhau tạo thành một hệ thống tương đối hoàn chỉnh. Trong số những tư tưởng đó, thì tư tưởng về chính trị - xã hội là một nội dung quan trọng bậc nhất đối với các nhà Nho. Tư tưởng chính trị - xã hội đó lại được biểu hiện tập trung nhất trong quan niệm về xã hội lý tưởng. Xuất phát từ thực tiễn xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc, một xã hội rối loạn về quan niệm đẳng cấp và danh phận; các nước chư hầu xâm chiếm và thôn tính lẫn nhau; sự phát triển của những mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn lãnh chúa phong kiến, cũng sự rối loạn của những quan hệ tông pháp trong thiên hạ ngày càng trở nên phổ biến. Nho giáo với tư cách là một học thuyết chính trị - xã hội đã mong muốn, mơ ước về một xã hội lý tưởng. Đây được xem như là điều kiện cơ bản đầu tiên – cơ sở cho sự hình thành quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng hình thành còn là sự kế thừa những tư tưởng văn hóa Trung Hoa, được đúc kết trong các di sản văn hóa được đức Khổng tử san định lại như các kinh Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, và những giá trị truyền thuyết huyền thoại về các đời sáng như vua Nghiêu, vua Thuấn,…v.v. Bên cạnh đó quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo còn là sự phản ánh về ước vọng của tầng lớp quỹ tộc đang xa xút dưới thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Xã hội lý tưởng mà nhà Nho xây dựng thực chất là một xã hội không phải là hướng lên phía trước theo sự phát triển lịch sử nhân loại, hướng đến tương lai, mà là hướng về, mơ về một xã hội đã trải qua trong quá khứ, thiên Lễ Vận sách Lễ Ký khi đề cập đến xã hội đại đồng cho chúng ta thấy điều đó khi Khổng Tử nói:“Xã hội mà, Đạo lớn thi hành, anh tài đông đúc như thời tam đại, ấy là những gì khâu chưa thấy nhưng vẫn muốn nhắm vào…..” [37, tr147-148]. Điều đó chứng tỏ rõ lập trường quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho giáo, đó là sự luyến tiếc, sự bảo vệ lợi ích cho tầng lớp quỹ tộc đang thất thế trong tình hình xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Thêm nữa nó còn cho thấy cái xã hội lý tưởng mà nhà Nho xây dựng không phải là một xã hội công bằng dân chủ, không có sự phân biệt đẳng cấp, danh phận, mà xã hội đó là một xã hội xây dựng nhằm duy trì vĩnh viễn trật tự đẳng cấp, danh phận mà thôi. Nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng, chúng ta còn nhận thấy, xã hội lý tưởng mà nhà Nho xây dựng là một xã hội mà nhân dân có đời sống vật chất tương đối đầy đủ và có đạo đức. Qua đó nhà Nho chỉ ra cho chúng ta thấy một trong những nguyên nhân đưa đến tình trạng xã hội loạn chính là do dân không ăn đủ no, mặc không đủ ấm. Và khi dân đã ăn đủ no, mặc đã đủ ấm rồi thì cần phải dạy dân, phải xây dựng một xã hội giáo dục. Xã hội lý tưởng mà nhà Nho xây dựng được trình bày một cách có hệ thống và đầy đủ. Đó là một mô hình xã hội hoàn thiện, đẹp đẽ. Một xã hội mà người hiền tài, có năng lực được sử dụng; người già có chỗ lương tựa, trai tráng được thi thố hết tài năng, trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc; người tàn tật, cô quả được chăm sóc,…v.v. Nhưng cũng nhận thấy rằng xã hội lý tưởng mà nhà Nho nêu ra là một mô hình không tưởng trong thời đại xã hội rối ren, chiến tranh liên tục lúc bấy giờ nhằm du ngủ, đè bẹp sự phản kháng của nhân dân đối với bọn quỹ tộc địa chủ. Tuy nhiên mô hình ấy cũng có giá trị tích cực, góp phần an ủi con người trong xã hội thời đó. Để kiến tạo nên một xã hội lý tưởng như trên, thì chủ thể kiến tạo xã hội, mẫu người kiến tạo nên xã hội lý tưởng theo quan niệm của các nhà Nho là người quân tử. Thuật ngữ “quân tử” xuất hiện từ thời Tây Chu ( thế kỷ XI. Tr.CN) và được các nhà Nho kế thừa, phát triển. Trong Luận Ngữ thuật ngữ “quân tử” được nhắc đến tới 105 lần, trong các đoạn có dùng đến thuật ngữ “quân tử” có thể thấy những ý nghĩa chính mà thuật ngữ này bao chứa. Tổng kết lại có thể hiểu người quân tử là những người thuộc tầng lớp trên của xã hội, những người có phẩm chất đạo đức, có trí tuệ, được học hành, hiểu được thiên mệnh, biết tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, những người có khả năng kiến tạo nên một xã hội lý tưởng. Khi đề cập đến phương thức tạo lập và duy trì xã hội lí tưởng, theo các nhà Nho đã đề ra một số phương thức nhằm tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng. theo đó điều cốt yếu để đưa xã hội từ trạng thái rối loạn sang trạng thái hòa bình ổn định là chính danh. Chính đức Khổng tử đã khẳng định điều ấy. Có chính danh thì trong thiên hạ mới “ làm vua phải trọn đạo vua, làm tôi phải trọn đạo tôi, làm cha phải trọn đạo cha, làm con trọn đạo con” [26, tr.353]. Thêm nữa, Khổng Tử và các nhà Nho còn đề ra giải pháp để đạt được chính danh. Nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục, giáo hóa trong việc tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng. Các nhà Nho khẳng định sự cần thiết của giáo dục, giáo hóa trong việc tạo lập và quy trì xã hội lý tưởng, và trước một xã hội rối loạn về danh phận và đẳng cấp ở thời Xuân Thu – Chiến Quốc thì nội dung mà nhà Nho mang ra giáo dục, giáo hóa không phải là những kiến thức về khoa học tự nhiên, không phải là dạy người ta cày cấy hay làm vườn mà là những giá trị “luân lý”, những chuẩn mực đạo đức (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín,….v.v). Cũng chính nội dung giáo dục, giáo hóa của Nho giáo như trên mà không ít người đã lầm tưởng và cho rằng Nho giáo không quan tâm đến việc làm giàu, hay Nho giáo chưa bao giờ là động lực cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên cần phải thấy rằng, các nhà Nho không phải là không quan tâm đến lợi ích vật chất, không quan tâm đến việc làm giàu, mà đứng giữa lợi ích vật chất với đạo đức thì nhà Nho chọn đạo đức, chọn cái lớn mà hi sinh cái nhỏ, chọn cái chung mà hi sinh cái riêng mà thôi. Trong điều kiện một xã hội rối loạn, “vua không ra vua, bề tôi không ra bề tôi….”, để tạo lập và duy trì một xã hội lý tưởng nhà Nho chủ trương nhà vua phải là người có đạo đức, phải làm gương trong thiên hạ, phải yêu quý dân. Như vậy có thể thấy thực chất của chủ trương đó là dùng đức trị để giáo hóa dân, để dẫn đắt dân có như vậy thì dân mới tin, dân mới tâm phục. Dùng sức mạnh thì mau thắng nhưng không bền,… v.v. Vì vậy mà Khổng tử nói “Dùng mệnh lệnh pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lí dân, làm như vậy tuy có thể giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được như thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng.” [26, tr.123]. Khi nhận thức được một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng xã hội rối loạn là do dân không có cuộc sống vật chất đầy đủ. Để tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng, nhà Nho còn chủ trương, nhà cầm quyền phải làm cho dân có đời sống vật chất đầy đủ. Có thể thấy đây là một chủ trương hết sức hợp lí của Nho giáo, nó không những phù hợp với hoàn cảnh xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc mà nó còn phù hợp với đường lối chính sách của nước ta hiện nay. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trước hết phải xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng nước ta thành một nước công bằng dân chủ văn minh, trước hết và hơn hết cần làm cho dân nước ta trở nên giàu có. Nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng với tư cách là sự biểu hiện tập trung nhất của học thuyết chính trị xã hội là một vấn đề hết sức phức tạp, không chỉ giới hạn trong luận văn này đã đề cập. Do đó tác giả nhận thấy rằng chưa thể làm sáng tỏ một cách đầy đủ như mong muốn đặt ra và cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định nên trong phạm vi cho phép cũng chỉ dừng lại ở việc trình bày khái quát một cách có hệ thống những nhiệm vụ đặt ra cho luận văn. Để hoàn thiện đề tài này cần thực hiện trong thời gian dài hơn và ở những công trình lớn hơn về sau. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Minh Anh (2000), “Hồ Chí Minh với Nho giáo”, Tạp chí Triết học, (số 6), tr.16 -18. Nguyễn Thanh Bình (200), “Đôi điều suy nghĩ về đối tượng và nội dung giáo dục, giáo hóa của Nho giáo”, Tạp chí Giáo dục lí luận, (số 10), tr.50 -54. Nguyễn Thanh Bình (2001), “Quan niệm của Nho giáo về xã hội lí tưởng, Tạp chí Triết học, (số 3), tr. 38-42. Nguyễn Thanh Bình (2007), Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Doãn Chính – Trương Văn Chung – Nguyễn Thế Nghĩa – Vũ Tình dịch, (2003), Đại cương Lịch sử triết học phương Đông cổ đại, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội. Nguyễn Kim Chung (2003), “Mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong “Luận Ngữ” của Khổng Tử”, Tạp chí Triết học, (số 9), tr. 47 -52. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002) Một số vấn đề về triết học – con người – xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quý (1997), Những quan điểm cơ bản của C.Mác và – F.Ănghen – V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phan Đại Doãn (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Văn Đức (2005), “Một số nét đặc thù của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (số 9), tr. 5 -12. Trần Văn Giàu (1990), Các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Mai Trung Hậu (1995), “Chữ Hán và Nho giáo đâu có phải là truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận, (số 2), tr. 41-43. Nguyễn Hùng Hậu (1998), “Một số suy nghĩ về đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (số 5), tr. 39 -42. Nguyễn Hùng Hậu, (2003), “Đặc điểm của Nho Việt”, Tạp chí Triết học, (số 3), tr. 41-43. Chu Hy (1998), Tứ thư tập trú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. Phan Văn Hoàng (1994), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với những yếu tố tích cực của Nho giáo”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (số 4), tr.1-7. Kiều Thu Hoạch (1993), “Hồ Chí Minh với di sản văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (số 4), tr.54-58. Nguyễn Ngọc Hồi (2006), “Tương lai của nhân loại vẫn thuộc về chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Cộng sản, (số 8), tr.49 -52. Dương Hồng – Vương Thành Trung – Nhiệm Đại Viện – Lưu Phong (Chú dịch) (2006), Tứ thư, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội. Nguyễn Văn Hồng (1998), “Ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo Trung Hoa qua sự tiếp nhận chọn lọc, sáng tạo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (số 3), tr.32 -39. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soan giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Huy (2006), “Về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (số 1), tr. 9 -12. Trần Đình Hượu (1997), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Vũ Khiêu (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và đạo đức, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Trọng Kim (2001), Đại cương triết học Trung hoa Nho giáo, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. Phạm Văn Khoái (2004), Khổng Phu Tử và Luận ngữ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Tập 1, Nxb. Hà Nội, Hà Nội. Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Tập 2, Nxb. Hà Nội, Hà Nội. Nguyễn Hiến Lê (2006), Khổng Tử, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Nhị Lê (2004), “Kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (số 17), tr. 25 -28. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mát – xcơ – va. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mát – xcơ – va. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 33, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. V.I.Lênin (1987), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Mát – xcơ – va. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mát – xcơ – va. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mát – xcơ – va. Nguyễn Thế Long, Đỗ Chí Hùng (1997), “Nho giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, (số 8), tr. 49 -50. C.Mác và F.Ănghen (2004), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và F.Ănghen (2004), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. C.Mác và FĂnghen (2004), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và F.Ănghen (2004), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và F.Ănghen (2004), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và F.Ănghen (2004), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hà Thúc Minh (1996), “Phải chăng Nho giáo là động lực phát triển kinh tế”, Tạp chí Triết học, (số 6), tr. 21 -24. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Phan Ngọc (1999), Bộ sách giới thiệu những kiến thức thời đại của Max KalTenMark Triết học Trung Hoa, Nxb. Thế giới, Hà Nội. Phan Ngọc dịch (2003), Sử ký Tư Mã Thiên, Nxb. Văn học, Hà Nội. Lê Văn Quán (1997), “Bác Hồ với học thuyết Nho giáo”, Tạp chí Cộng sản, (số 6), tr 21. Lê Văn Quán (1997), “Bước đầu tìn hiểu Bác Hồ với học thuyết của Nho gia”, Thông báo Hán Nôm học năm 1996, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tr328 – 337. Bùi Văn Sơn (2003), “Tư tưởng chính trị trong Kinh Dịch”, Tạp chí Triết học, (số 8), tr. 33 -37. Sơn Tùng – Hà Thúc Trâm (1950), Tư tưởng đại đồng trong cổ học Trung Hoa, Văn hóa 10, Phố Hàng Bún – Hà Nội xuất bản Lê Hữu Tầng (2000), “Về bản chất của chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Triết học, (số 4), tr. 27-30. Lê Ngọc Tân (1994), “Hồ Chí Minh với tư tưởng Khổng giáo”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (số 5), tr.11-12. Lê Sĩ Thắng (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Thảo Đường Cư Sĩ - Trần Văn - Hải Minh (1991), Bách Gia Chư Tử, Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Nguyễn Tài Thư (1998), “Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam: Góc nhìn tín ngưỡng và vai trò lịch sử”, Tạp trí Triết học, (số 5), tr. 33 -38. Lã Trấn Vũ (1964), Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb. Sự thật, Hà Nội. Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam (Trịnh Khắc Mạnh – Chu Tuyết Lan) (2007), Thư mục Nho Giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCH0647.doc
Tài liệu liên quan