Phân tích thực trạng ngành nuôi tôm sú của Việt Nam & kiến nghị Một số giải pháp phát triển ngành nuôi tôm sú trong thời gian tới

Lời nói đầu Chuyển dịch cơ cấu cây trồng và vật nuôi là chủ trương tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nông thôn của Đảng với mục đích nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho nông dân.Việt Nam là nước đang phát triển , chúng ta tham gia vào quá trình hội nhập cần tận dụng lợi thế so sánh của mình, theo lý thuyết lợi thế so sánh ,các nước đang phát triển nên tập trung vào các ngành có lợi thế so sánh , tức là các ngành sử dụng nhiều lao động là các yếu tố có sẵn còn các nước phát tri

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2033 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích thực trạng ngành nuôi tôm sú của Việt Nam & kiến nghị Một số giải pháp phát triển ngành nuôi tôm sú trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển có lợi thế về vốn và công nghệ sẽ không chuyển giao hoàn toàn cho các nước đang phát triển . ở nước ta dân số đông , đa số là nông dân, đặc trưng của nghề nông là làm theo mùa, nên khi hết mùa vụ lao động dư thừa, nhàn rỗi,vì vậy chúng ta cần triệt để khai thác nguồn nhân lực dồi dào này. Thêm vào đó , thực tế nguồn lợi tự nhiên về hải sản trong các đại dương và nguồn lợi thuỷ sản không phải là vô tận và luôn có chiều hướng suy giảm do nhiều tác động khác nhau như đánh bắt quá mức , ô nhiễm môi trường , ngăn chặn các dòng sông làm thuỷ lợi, thuỷ điện và thuỷ lợi hoá ruộng đồng để phát triển nông nghiệp . Nước ta may mắn là nước có tiềm năng lớn để nuôi trồng nhưng cũng không nằm ngoài qui luật đó. Vì vậy , phát triển nuôi trồng thuỷ sản là hướng đi tất yếu của ngành thuỷ sản để đáp ứng nhu cầu về thuỷ sản ngày càng tăng trong khi nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên trên trái đất bị hạn chế và có chiều hướng suy giảm.Thực tế một số năm gần đây, phong trào chuyển từ trồng lúa sang nuôi tôm ở vùng ngập mặn phát triển. Nhờ việc chuyển dịch này mà nhiều hộ nông dân giàu lên, nhiều địa phương giảm bớt đói nghèo , góp phần tạo công ăn việc làm , giải quyết các vấn đề KT-XH. Vì vậy, lợi ích từ việc nuôi trồng tôm sú là rất lớn , cần tiếp tục nghiên cứu và phát triển . Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề nàytôi chọn đề án môn học: “Phân tích thực trạng ngành nuôi tôm sú của VN trong giai đoạn hiện nay và kiến nghị một số giải pháp phát triển ngành nuôi tôm sú trong thời gian tới” Thực trạng 1.Thực trạng ngành nuôi tôm sú ở VN Nhìn lại trong 5 năm qua (1997 –2000) ngành thuỷ sản đã có tốc độ tăng trưởng cao từ 10-16% /năm, năm sau cao hơn năm trước một cách vững vàng, năm 1996 mới đạt 670 triệu USD ; năm 1998 kim nghạch XK thuỷ sản đạt 858,6 triệu USD thì khối nuôi đạt 480 triệu USD , chiếm 55,9 % đến năm 1999 đã vươn tới 971 triệu USD thì khối nuôi đạt 480 triệu USD chiếm 58%. Dự kiến năm 2005 XK đạt 2 tỷ USD trong đó khối nuôi trồng chiếm 1,2 tỷ bằng 60%. Cùng với sự phát triển của ngành thuỷ sản trong những năm qua, nuôi trồng thuỷ sản đã có bước tiến triển được thể hiện qua con số bình quân tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 4-5%. Năm 1998 , diện tích nuôi trồng trồng thuỷ sản tăng 4.3%, sản kượng nuôi trồng thuỷ sản tăng 5.5% so với kết quả đạt được của năm 1997. Đến năm 1998, đã có 626.330 ha mặt nước được đưa vào sử dụng nuôi trồng thuỷ sản trong đó có 335.890 ha mặt nước ngọt và 290.440 ha mặt nước lợ, mặn với nhiều đối tượng nuôi phong phú . ở nước ta , nghành nuôi trồng tôm phát triển bắt đầu tại Nam Bộ ,sau đó năm 1989, tám tỉnh ven biển phía Bắc đã khá nhạy bén bước vào nghề nuôi tôm sú song đến năm 1998 mới khẳng định miền Bắc nuôi được tôm sú. Miền Bắc diện tích và sản lượng có đà tăng trưởng ,theo tạp chí Thông Tin và Giá Cả 3/2001, diện tích sản lượng tôm sú ở các tỉnh phía Bắc: TT Các tỉnh Diện tích(ha) Sản lượng(tấn) Toàn miền Bắc 1998 1999 2000 1998 1999 2000 6493 9155 14305 838 1612 3090 1 Quảng Ninh 500 720 3870 200 300 420 2 HảI Phòng 2850 4260 4500 425 550 850 3 TháI Bình 180 250 883 40 85 205 4 Nam Định 1118 1370 1500 125 309 550 5 Ninh Bình 75 85 200 18 25 60 6 Thanh Hoá 500 1152 2000 200 258 700 7 Nghệ An 670 900 1000 106 126 160 8 Hà Tĩnh 260 318 350 40 94 90 Như vậy, Hải phòng đang dẫn đầu các tỉnh Miền Bắc về nuôi tôm sú cả về diện tích và sản lượng. Những hộ nuôi tôm giỏi tập trung nhiều ở Đồ Sơn, An Hải, Cát Bà, theo ông Phạm ánh Dương (Cát Hải) nuôi bán thâm canh trên 3800 m2, sau 90-110 ngày đã thu hoạch 1260 kg, đạt năng suất kỷ lục 3.3 tấn / ha, lãi 35 triệu đồng. Song số hộ nuôi theo phương thức bán thâm canh mới chỉ có 10.3%hộ trong năm 1999, còn lại là quảng canh và quảng canh cải tiến . Năng suất bình quân mới chỉ đạt 198 kg/ha . Năm 2000 ở Thanh Hoá đã có 2000 ha nuôi, thu hoạch 700 tấn tôm sú, đạt năng suất 350 kg/ha, ở Nam Định :1500 ha nuôi tôm sú đã cho 550 tấn, đóng góp hơn 40% kim nghạch xuất khẩu toàn tỉnh, ở Thái Bình có 883 ha tôm sú thu hoạch 205 tấn, tương đương 20 tỷ đồng . Về công tác nuôi trồng, ngay từ đầu ngành thuỷ sản đã chủ trương đẩy mạnh chương trình nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tôm từ con giống , mùa vụ công nghệ, thức ăn, chú trọng nhất là tôm sú. Do vậy, các cán bộ kỹ thuật thuỷ sản từ trung ương đến địa phương đã chỉ đạo sát sao cách chăm sóc, phòng chống dịch bệnh, hạn chế tai hại của thiên nhiên. Chú trọng công tác bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch, nâng cao tỷ lệ và giá trị sử dụng nguyên vật liệu nuôi trồng . Năm 1993, tôm nuôi ở các tỉnh phía Nam bị chết trên diện rộng. Nhiều đề tài nghiên cứu cấp nhà nước và cấp Bộ được triển khai có liên quan đến vấn đề bệnh tôm, các giải pháp công nghệ phù hợp với các vùng sinh thái khác nhau, các vấn đề môi trường và qui hoạch. Một số dự án hợp tác quốc tế đã hỗ trợ khá tốt cho vấn đề hình thành phương pháp luận như phát triển các phương pháp chuẩn đoán , phương pháp nghiên cứu dịch tễ học, xây dựng các mô hình nuôi phù hợp với các vùng sinh thái khác nhau, cụ thể như mô hình nuôi tôm trong rừng ngập mặn. Từ thí điểm đầu tiên, năm 1995 với hai trang trại Nam Hải (200 ha) và Hiệp Thành (50 ha) ở Bạc Liêu, năm 1997, xác định Trà Vinh là một trong các tỉnh có phong trào nuôi tôm mạnh nhất ở đồng bằng sông Cửu Long với nhiều hộ bắt đầu thâm canh hoá trên diện tích ao nuôi bé nhỏ của mình .Viện nuôi trồng Thuỷ sản II đã kết hợp với sở khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Trà Vinh , phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Duyên Hải nghiên cứu thực nghiệm đề tài “Xây dựng mô hình nuôi tôm sú năng suất cao qui mô hộ nông dân tại tỉnh Trà Vinh”. Nghiên cứu triển khai nuôi tôm công nghiệp ở 2 ao với diện tích tương ứng là 1500m2 và 600 m2 tại xã Long Toàn huyện Duyên Hải tỉnh Trà Vinh với đối tượng nuôi là tôm sú và thời gian nuôi là 120 ngày. Nguyên tắc áp dụng qui trình nuôi nghiêm ngặt từ khâu chọn giống, cải tạo ao quản lý môi trường nuôi, thức ăn phòng bệnh ...đã cho năng suất 5 tấn /ha/vụ. Kết quả thành công của mô hình giúp khẳng định trong điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, khả năng hạn chế của nông hộ, các cán bộ VN bước đầu đã xác định được các giải pháp công nghệ phù hợp . Với kết quả này, ở các năm sau đã góp phần vào việc nâng cao dần trình độ nuôi của người dân ở khu vực này . Năm 1998, mô hình nuôi tôm sú công nghiệp qui mô trang trại nhỏ (6000m2/ao) được nghiên cứu tốt góp phần khẳng định các kết quả nghiên cứu đã đạt được và bổ xung thêm các luận cứ khoa học cho mô hình nuôi tôm thâm canh qui mô trang trại. Từ kết quả trên, một khu nuôi tôm công nghiệp được qui hoạch trên vùng đất muối năng suất thấp cho các hộ nông dân đầu tư vào nuôi tôm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 1999, trong phạm vi đề tài : “xây dựng mô hình nuôi tôm sú công nghiệp hiệu quả cao, ít thay nước ở các tỉnh ven biển Nam Bộ”, Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II đã tiến hành thử nghiệm nuôi tôm sú công nghiệp trên các vùng địa lý khác nhau của đồng bằng sông Cửu Long. Các kết quả đạt được từ lần thực nghiệm này đã góp phần vào việc xây dựng qui trình sơ bộ nuôi tôm sú công nghiệp các vùng địa lý khác nhau cho các tỉnh Nam Bộ, đồng thời tạo tiền đề cho việc phổ biến truyền bá kiến thức và kỹ thuật nuôi tôm công nghiệp đến tay nhiều bà con nông dân. Tháng 4 năm 1999, đoàn thanh tra chất lượng sản phẩm Mỹ (FDA) vào VN đã yêu cầu phía VN kiểm soát các chất tác hại đến môi trường nuôi trồng thuỷ sản như sulfites, chỉ lượng thuốc thú y, dư lượng thuốc thì sau sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thuỷ sản nuôi trồng XK và thị trường này. Họ đã nói rõ chỉ mua nguyên liệu chế biến thuỷ sản sạch vào thị trường Mỹ, nêu rõ biện pháp quản lý sulfites không vượt quá 10 ppm tính theo SO2 nhằm sớm hoàn chỉnh kiểm tra chất lượng sản phẩm HACCP. Năm 2000, một số kỹ thuật nuôi mới đã được đưa vào áp dụng theo xu thế giảm việc sử dụng hoá chất và tránh gây ô nhiễm môi trường . Nuôi tôm sú công nghiệp trong hệ thống nước xanh kết hợp việc sử dụng một số chế phẩm vi sinh đã cho kết quả tốt với hệ thống nuôi công nghiệp ở Bà Rịa –Vũng Tàu . Do nuôi tôm có lãi suất khá cao nên các hộ nông dân ở ven biển đã sử dụng hầu hết diện tích mặt nước các vùng bãi triều ven sông ,ven đầm đưa vào nuôi trồng thuỷ sản. Trước tình hình thiếu mặt nước để phát triển nuôi thuỷ sản ,nhiều hộ nông dân đã bước đầu khai thác các vùng đất cát ven biển đưa vào nuôi tôm sú ,địa điểm nuôi đầu tiên tại thôn Từ Thiện –Ninh Thuận .Phong trào nuôi tôm trên cát ở đây phát triển mạnh, khu vực nuôi xây dựng từ năm 1999 lúc đầu chỉ có một hộ nuôi diện tích 0.5 ha thu hoạch được 4 vụ, mật độ thả nuôi 10-20 con tôm giống cỡ 2-3 cn/m2, năng suất đạt 2-3 tấn / ha/ vụ. Trước những thành quả đó đã kéo thêm 20 hộ đang thi công xây dựng ao nuôi với diện tích 30 ha , tuy nhiên để đảm bảo các yêu cầu bảo vệ giữ gìn môi trường sinh thái việc mở rộng nuôi tôm phải có qui hoạch , nuôi gắn với trồng rừng và giữ rừng, nuôi gắn với phát triển thuỷ lợi . Nghề nuôi tôm ở nước ta không ngừng phát triển; trình độ nuôi tôm ngày càng ổn định và nâng cao, việc nuôi quảng canh năng suất thấp ngày càng được thay thế. Điều này đòi hỏi ngành công nghiệp chế biến thức ăn phải phát triển tương xứng và chất lượng ngày càng hoàn thiện hơn. Yếu tố hàm lượng các chất dinh dưỡng phải thích hợp với nhu cầu sinh trưởng của con tôm được đặt lên hàng đầu; công thức chế biến mang tính khoa học. Do tập tính bắt mồi đặc biệt của con tôm nên thức ăn phải có độ bền trong nước tức là thức ăn phải mềm nhưng không bị rã. Bên cạnh các vấn đề như địa điểm, công nghệ và qui trình kỹ thuật, thức ăn ...của việc nuôi thì vấn đề về tôm sú giống cũng đặc biệt phải quan tâm . Hiện nay, đồng bằng Nam Bộ chưa tự túc đủ số lượng về tôm giống, chất lượng giống quá kém đang bị thả nổi (qui định con giống được sinh sản lần 1 , lần 2, lần 3 và qua kiểm dịch mới được bán nhưng thực tế tôm giống được sinh ra do ép tôm mẹ đẻ tới lần 5, lần 6, lần 7. Khi đem bán hay mua, cự ly vẩn chuyển xa tôm bị xây sát, bị mắc bệnh... ) Giống như tình hình chung, về phân bố hệ thống trại giống thuỷ sản trong cả nước, các trại giống tôm cả nước có 2669 trại, sản xuất mỗi năm được 7,2 tỷ con tôm giống thì 75% lại nằm ở các tỉnh miền Trung, các tỉnh miền Nam chiếm khoảng 82% diện tích tôm nuôi của cả nước nhưng lại chỉ có 631 trại giống, mỗi năm sản xuất được 2,84 tỷ con tôm giống. Cà Mau có 354 trại chỉ đáp ứng được 24% nhu cầu tôm giống của tỉnh mình, Bạc Liêu mỗi năm sản xuất được 150 triệu con tôm giống chỉ đáp ứng 5-6%; Sóc trăng có diện tích nuôi tôm khá lớn song chưa sản xuất được tôm sú giống .Tóm lại, các tỉnh Nam Bộ mới chỉ đảm bảo tự túc được 8-10% sản lượng tôm giống còn 90% phải nhập từ miền Trung . Trong khi đó các tỉnh miền Bắc chưa chủ động được tôm giống, có tới 90% phải mua từ miền Trung hoặc Trung Quốc. Họ chưa có nguồn giống tốt, còn nguồn thức ăn cho tôm phần lớn nhập từ Hàn Quốc , Hà Lan, Đà Nẵng, kết hợp với thức ăn tự chế biến và tự nhiên .Công nghệ nuôi tôm sú cũng chưa thực sự đến với người dân và họ cũng chưa nghiêm ngặt tuân thủ.Trước đòi hỏi đó, Bộ Thuỷ sản đã quan tâm cho đầu tư 14 trại sản xuất giống phục vụ con giống cho dân nuôi tôm thương phẩm xuất khẩu, song do nhiều nguyên nhân chủ quan , khách quan các trại chưa cho tôm sú đẻ thành công , không đáp ứng được yêu cầu con giống cho phong trào nuôi tôm sú ở miền Bắc. Bởi vậy bộ Thuỷ sản đã chủ trương cho di chuyển giống tôm sú từ miền Trung chuyển ra miền Bắc ,ương lên giống 2-3 cm cung ứng cho dân .Năm 1999, giống tôm sú chuyển ra miền Bắc đạt 250 triệu con, chất lượng con giống đạt tiêu chuẩn của nghành và đến năm 2000 đạt 364 triệu con .Tuy số lượng tăng nhưng về chất lượng có một số tư thương chuyển tôm ra không đúng kích cỡ, chất lượng kém .Vì vậy để tôm không lây truyền dịch bệnh, khi giống tôm đem bán cần phải kiểm tra, nếu thấy dịch bệnh phải tiêu huỷ ngay .Trên đà phát triển của năm 2000,sáu tháng đầu năm 2001 ngành thuỷ sản tiếp tục đạt được những thành tích lớn ,thực hiện trên 50% kế hoạch sản lượng và kim nghạch xuất khẩu. Ngay từ những ngày đầu năm 2001, toàn ngành thuỷ sản đã rầm rộ ra quân, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế , thực hiện đồng bộ các chương trình mục tiêu, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về sản xuất – xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên thị trường .Trong 6 tháng đàu năm 2001 , toàn ngành đã đạt tổng sản lượng 1.106 triệu tấn thuỷ sản , bằng 51% kế hoạch năm và vượt 13% so với cùng kì năm trước .Trước những kết quả đạt được do nuôi tôm, nghe những lời tuyên truyền nuôi tôm có thể mang lãi ròng hàng trăm triệu đồng trên 1 ha nên khi được nghị quyết 09/2000/NQ- CP của chính phủ mở đường , phong trào đồng khởi đưa nước mặn về đồng , chuyển dịch lúa sang nuôi tôm nổ ra ồ ạt .Ban đầu ở đồng bằng Nam Bộ , sau lan dần ra vùng ven biển cả nước kể từ cuối năm 2000 sang đầu năm 2001. Chỉ trong vòng nửa năm diện tích nuôi tôm tăng thêm đã vượt quá tổng diện tích nuôi tôm từ trước đến nay . Năng lực sản xuất giống đã lên tới 15 tỷ P15 mà vẫn không theo kịp mức tăng diện tích nuôi lên đã dẫn đến tình trạng thiếu hụt, giá tôm giống tăng vọt và chất lượng con giống bị xem nhẹ . Người nuôi tôm thiếu kiến thức, công trình nuôi thiếu kỹ thuật , thiếu qui hoạch, con giống thiếu và chất lượng không đảm bảo, bằng ấy yếu tố cộng thêm điều kiện thời tiết không thuận lợi đã khiến ở một số nơi tôm chết hàng loạt . Chẳng hạn như các tỉnh ven biển phía Bắc , các số liệu điều tra ban đầu cho thấy diện tích nuôi tôm toàn vùng của năm 2000là 22484 ha thì sang vụ tôm đầu năm 2001 đã lên tới 33000 ha .Tỉnh Quảng Ninh tăng diện tích nuôi tôm lên 2,4 lần ; các tỉnh Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình tăng 2 lần ; các tỉnh từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế cũng tăng từ 30-50% diện tích nuôi tôm chỉ có sau 1 năm .Số tôm thả nuôi cũng tăng rất nhanh .Trong năm 2000, toàn vùng mới thả gần 500 triệu tôm giống , thì sang vụ tôm năm nay đã tăng gấp đôi . Do năng lực sản xuất tôm giống trong vùng còn hạn chế nên phần lớn tôm giống đều được chuyển từ miền Trung ra hoặc nhập từ Trung Quốc về. Mật độ thả tôm giống cũng tăng lên nhanh chóng. Những hộ nuôi năm trước thắng lợi đã mạnh dạn thả tới 20 con /m2, thậm chí tới 25-30 con/m2. Nhiều hộ chưa có kinh nghiệm nuôi , thấy các hộ khác có lãi lớn cũng thả tới 20 con/ m2 .Năm 2000, sản lượng nuôi tôm toàn vùng đạt khoảng 4200 tấn , xuất khẩu tôm đạt 100 triệu USD, chiếm 7% giá trị xuất khẩu tôm cả nước .Nhưng ngay từ cuối tháng 2 và đầu tháng 3/2001 , ở nhiều ao đầm thả sớm ở các tỉnh, tôm nuôi đã bị nhiễm bệnh , nhiều nơi tôm đã chết. Bệnh lan tràn ra khắp tỉnh (trừ Quảng Trị) trong tháng 4, tháng 5, và tháng 6. Theo số liệu điều tra ban đầu của Viện nghiên cứu nuôi trông thuỷ sản I, ở 8 tỉnh ven biển phía Bắc (từ Quảng Ninh đến Hà Tĩnh ), ở 21 huyện và 194 hộ nuôi tôm đã có166 hộ (85,5%)có tôm nuôi bị mang mầm bệnh . Phần lớn tôm nuôi bị các bệnh đốm trắng, đốn vàng, bệnh MBV, mức độ thiệt hại về bệnh của tôm nuôi cũng rất khác nhau . ở Hải Phòng một số ao tôm ở Đồ Sơn, Kiến Thuỵ bị tổn thất nặng, ước tính toàn thành phố có khoảng 400 ha nuôi tôm bị nhiễm bệnh , ở Ninh Bình nơi có tốc độ chuyển đổi đất sang nuôi tôm rất nhanh thì ước tính có tới 59% diện tích nuôi tôm bị bệnh, ở 400 ha ao đầm tôm chết rải rác, ở 300 ha tôm chết hàng loạt; ở Kỳ Anh (Hà Tĩnh), Quỳnh Lưu (Nghệ An) cũng bị tổn thất nặng. Thực trạng đó đã gây tâm lý hoang mang, lo lắng; nhưng sau những lỗ lực của cán bộ khoa học, kỹ thuật , quản lý trong ngoài ngành và các địa phương, cùng bà con nông ngư dân khắc phục tình trạng trên, đem lại vụ tôm trúng lớn 2 Đánh giá hiệu quả ngành nuôi tôm sú Trong nền kinh tế quốc dân, thuỷ sản là một trong những ngành có nhiều khả năng và tiềm năng huy động để phát triển, có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao vào những năm tới và tiến kịp các nước trong khu vực nếu có các chính sách thích hợp và được đầu tư thỏa đáng Nuôi tôm sú là một nghề có lợi ,nó được nhận định rằng thực tế là giá cả hấp dẫn và ổn định của con tôm trên thị trường thế giới cùng giá đất tương đối thấp của vùng duyên hải đã đưa đến sự bùng nổ và phát triển nghề nuôi tôm , điều đáng chú ý là kỹ thuật nuôi tôm không quá phức tạp nhưng bản thân hệ sinh thái lại khá nhạy cảm với việc nuôi thâm canh ,hệ thống sản xuất thiếu tính bền vững dẫn đến nhiều thiệt hại cho nghề nuôi tôm . Theo tạp chí Thuỷ Sản 3/2000,một cuộc điều tra đánh giá toàn diện về hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi tôm sú thương phẩm ở Khánh Hoà ,được thực hiện qua 134 phiếu điều tra các hộ nuôi tôm ở Nha trang , Ninh hoà ,Vạn Ninh và Cam Ranh về các chỉ tiêu : diện tích ,số vụ nuôi ,hình thức nuôi ,năng suất ,sản lượng ...Thông qua các số liệu điều tra nhận thấy có một số vấn đề sau : Bảng1: Mức đầu tư và hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi tôm sú thương phẩm Khánh Hoà -1999 Chỉ tiêu Đơn vị Tổng số Quảng canh tiên tiến Bán thâm canh Thâm canh Diện tích ha 117.99 42.6 56.3 19.09 SS Số ao cái 216 56 119 41 Số vụ vụ 360 89 221 50 Tổng sản lượng kg 222250 19570 122990 79690 Tổng thu triệu đồng 22030.1 1732.5 11510.8 8786.8 Tổng chi triệu đồng 12617.4 1146 7004.9 4466.5 Chi vật chất và dịch vụ triệu đồng 11485.7 1013.3 6353.2 4119.2 Chi lao động triệu đồng 834.1 96.7 488.6 248.8 Chi khác - 297.6 36 163.1 98.5 Từ số liệu đó,tính được doanh thu ,chi phí sản xuất, lợi nhuận ..bình quân cho một ha ao nuôi như bảng sau: Bảng 2:Một số chỉ tiêu kinh tế cho 1 ha ao nuôi tôm sú thương phẩm ở Khánh Hoà -1999 chỉ tiêu đơn vị Tổng số quảng canh tiên tiến bán thâm canh Thâm canh 1-tiền mua đất triệu đồng 50 –70 100 –150 100 -150 100 2-giá đầu tư triệu đồng 30 – 50 50 –100 150 –200 100 3-diện tích trung bình ha/ao 0.76 0.47 0.47 0.55 4-số vụ nuôi vụ 1.6 1.9 1.2 1.7 5-doanh thu triệu đồng 40.67 204.45 460.28 186.71 6-chi phí sản xuất triệu đồng 26.9 124.42 233.97 106.94 7-năng suất kg/ha 459.39 2184.55 4174.44 1883.63 8-giá hoà vốn đồng 58560 56950 56050 56770 Xét về các khoản mục chi phí sản xuất trong các loại hình nuôi tôm khác nhau thì cơ cấu chi phí sản xuất trên 1 ha ao nuôi tôm sú thương phẩm ở Khánh Hoà -1999: Bảng3 : Cơ cấu chi phí sản xuất trên 1 ha ao nuôi tôm sú thương phẩm ở Khánh Hoà -1999: Chỉ tiêu quảng canh cải tiến bán thâm canh thâm canh số tiền triệu đồng tỉ trọng % số tiền triệu đồng tỉ trọng % số tiền triệu đồng Tỉ trọng % -Chi vận chuyển và dịch vụ 23.78 88.4 112.84 90.7 215.78 92.2 -Giống 5.03 18.7 12.40 10 16.01 6.8 Thức ăn 12.39 46.1 68.12 54.8 128.59 55 -Phòng bệnh 1.23 4.6 6.69 5.4 16.32 7 -Năng lượng 1.42 5.3 6.46 5.2 20.12 8.6 -Khấu hao tài sản cố định 2.46 9.1 9.95 8 16.62 7.1 -Chi vật chất khác 0.96 3.6 6.89 5.5 14.35 6.1 -Chi dịch vụ khác 0.29 1.1 2.33 1.8 3.77 1.6 +Chi lao động 2.27 8.3 8.68 7 13.03 5.6 - Lao động thuê 0.74 2.8 1.43 1.1 1.57 0.7 +Chi phí khác 0.85 3.2 2.90 2.3 5.16 2.2 Tổng chi phí 26.90 100 124.42 100 233.97 100 Vì vậy, sự thay đổi các khoản mục chi phí sản xuất trong các loại hình nuôi tôm khác nhau: *- Chi phí thức ăn chiếm tỉ trọng cao nhất trong tất cả các loại hình nuôi tôm sú thương phẩm :12,39 triệu đồng cho nuôi quảng canh cải tiến (46.1%); 68,12 triệu đồng cho nuôi bán thâm canh (54.8%) và 128.59 triệu đồng cho nuôi thâm canh (55%) *- Chi phí tôm giống, khấu hao tài sản cố định, tiền công lao động chiếm tỉ trọng tương đối cao, tăng dần về giá trị tuyệt đối và giảm dần về giá trị tương đối từ nuôi quảng canh cải tiến đến thâm canh *- Phòng trừ dịch bệnh, năng lượng chiếm tỉ trọng tương đối cao trong nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh, tăng cả về giá trị tuyệt đối lẫn giá trị tương đối từ quảng canh cải tiến đến thâm canh . Bảng 4: Chi phí và kết quả sản xuất trên 1 ha ao nuôi tôm sú ở Khánh Hoà-năm 1999 chỉ tiêu quảng canh cải tiến bán thâm canh thâm canh chi phí trung gian(IC) 2.91 107.22 205.89 khấu hao tài sản cố định(KH) 2.46 9.95 16.62 tiền công lao động gia đình (CL) 1.53 7.25 11.46 tổng chi phí (IC+CL+KH) 26.90 124.42 233.97 giá trị sản xuất (GO) 40.67 204.45 460.28 giá trị gia tăng(VA) 17.76 97.23 254.39 thu nhập hỗn hợp (MI) 15.30 87.28 237.77 lợi nhuận(Pr) 13.77 80.03 226.31 Như vậy, lợi nhuận thu được trên 1 ha mặt nước nuôi theo hình thức thâm canh bằng 2.8 lần nuôi bán thâm canh và bằng 16.4 lần nuôi quảng canh cải tiến . Ngành nuôi trồng tôm sú được xác định là nghành chính của nhiều địa phương nên việc chăm lo đầu tư rất được coi trọng. Khi so sánh giữa chi phí sản xuất và kết quả thu được đối với từng loại hình (với định mức lao động/ha nuôi tôm quảng canh cải tiến là 2, bán thâm canh là 3,thâm canh là 5) thì thấy hiệu quả của đồng vốn đầu tư đối với từng loại hình nuôi tôm là khác nhau (xem bảng 5) Bảng 5 : Hiệu quả kinh tế của 1 ha ao nuôi tôm sú ở Khánh Hoà -năm 1999: Chỉ tiêu Quảng canh cải tiến Bán thâm canh Thâm canh 1.Giá trị sản xuất/Chi phí trung gian (GO/IC) 1,77 1,9 2,24 -Giá trị sản xuất/tổng chi phí sản xuất (GO/TC) 1,51 1,64 1,97 -Giá trị sản xuất/1 lao động (GO/LĐ), triệu đồng 20,335 68,15 115 2.Giá trị gia tăng/Chi phí trung gian (VA/IC) 0,78 0,91 1,24 -Giá trị gia tăng/tổng chi phí sản xuất (VA/TC) 0,66 0,78 1,09 -Giá trị gia tăng /1 lao động(VA/LĐ) ,triệu đồng 8,88 32,41 63,6 3.Thu nhập hỗn hợp/Chi phí trung gian (MI/IC) 0,67 0,81 1,15 -Thu nhập hỗn hợp/tổng chi phí sản xuất (MI/TC) 0,57 0,7 1,02 -Thu nhập hỗn hợp/1 lao động (MI/LĐ), triệu đồng 7,65 29 59,4 4.Lợi nhuận/Chi phí trung gian (Pr/IC) 0,6 0,75 1,1 -Lợi nhuận/tổng chi phí sản xuất (Pr/TC) 0,51 0,64 0,97 -Lợi nhuận/1 lao động(Pr/LĐ), triệu đồng 6,9 26,7 45,2 *Giá trị sản xuất (GO) hay doanh thu -Các hộ nuôi tôm khi bỏ ra 100 đồng chi phí trung gian sẽ tạo được 177 đồng doanh thu (giá trị sản xuất) đối với nuôi quảng canh cải tiến;190 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 224 đồng với nuôi thâm canh; khi bỏ ra 100 đồng tổng chi phí sản xuất sẽ tạo ra 151 đồng doanh thu đối với nuôi quảng canh cải tiến ;164 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 197 đồng đối với nuôi thâm canh. -Một lao động trong năm tạo ra được 20.335 triệu đồng giá trị sản suất đối với nuôi quảng canh cải tiến; 68.15 triệu đồng đối vối nuôi bán thâm canh;115 triệu đồng đối với nuôi thâm canh. *Giá trị gia tăng (VA): -Các hộ nuôi tôm khi bỏ ra 100 đồng chi phí trung gian sẽ tạo được 78 đồng giá trị gia tăng đối vơí nuôi quảng canh cải tiến; 91 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 124 đồng đối với nuôi thâm canh; khi bỏ ra 100 đồng tổng chi phí sản xuất sẽ tạo ra được 66 đồng giá trị gia tăng đối với nuôi quảng canh cải tiến;78 đòng đối với nuôi bans thâm canh và 109 đồng đối với nuôi thâm canh . -Một lao động trong năm tạo ra được 8.88 triệu đồng giá trị gia tăng đối với quảng canh cải tiến; 32.41 triệu đồng đối với bán thâm canh; và 63.6 triệu đồng đối với nuôi thâm canh . *Thu nhập hỗn hợp -Các hộ nuôi tôm khi bỏ ra 100 đồng chi phí trung gian sẽ tạo được 67 đồng thu nhập hỗn hợp đối vơí nuôi quảng canh cải tiến; 81 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 115 đồng đối với nuôi thâm canh; khi bỏ ra 100 đồng tổng chi phí sản xuất sẽ tạo được 57 đồng thu nhập hỗn hợp đối với quảng canh cải tiến; 70 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 102 đồng đối với nuôi thâm canh -Một lao động trong năm tạo ra được 7.56 triệu đồng thu nhập hỗn hợp đối với quảng canh cải tiến; 29 triệu đồng đối với bán thâm canh; và 59.4triệu đồng đối với nuôi thâm *Lợi nhuận (Pr) -Các hộ nuôi tôm khi bỏ ra 100 đồng chi phí trung gian sẽ tạo được 60 đồng lợi nhuận đối vơí nuôi quảng canh cải tiến;75đồng đối với nuôi bán thâm canh và 110 đồng đối với nuôi thâm canh; khi bỏ ra 100 đồng tổng chi phí sản xuất sẽ tạo được 51 đồng lợi nhuận đối với quảng canh cải tiến; 64đồng đối với nuôi bán thâm canh và 97 đồng đối với nuôi thâm canh -Một lao động trong năm tạo ra được 6.9 triệu đồng lợi nhuận đối với quảng canh cải tiến; 26.7triệu đồng đối với bán thâm canh; và 45.2triệu đồng đối với nuôi thâm canh . Tóm lại : * Mức đầu tư cho nuôi tôm theo các loại hình nuôi, khác nhau cả về vốn xây dựng cơ bản và chi phí sản xuất.Tổng vốn đầu tư cho 1 ha ao nuôi quảng canh cải tiến khoảng 100 triệu đồng, bán thâm canh khoảng 200 triệu đồng, thâm canh khoảng 300-400 triệu đồng * Chi phí sản xuất bình quân cho 1 ha ao nuôi quảng canh cải tiến là 27 triệu đồng, bán thâm canh là 124 triệu đồng, thâm canh là 234 triệu đồng. Trong đó chi phí thức ăn chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng chi phí ở các loại hình nuôi cả về gía trị tuyệt đối và giá trị tương đối, chi phí năng lượmg tăng theo các loại hình nuôi, từ quảng canh cải tiến đến bán thâm canh và thâm canh, cả về giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối . Các chi phí khác như: con giống, khấu hao tài sản cố định, phòng trừ dịch bệnh, tiền lương có xu hướng tăng về giá trị tuyệt đối nhưng giảm về giá trị tương đối. * Giá thành sản xuất khoảng 57000 đồng /kg tôm thương phẩm * Lợi nhuận và doanh thu của 1 ha ao nuôi tăng dần theo các hình thức nuôi từ quảng canh cải tiến đến bán thâm canh và thâm canh Như vậy, lợi nhuận do nuôi thâm canh bằng 2.8 lần nuôi bán thâm canh,16.4 lần nuôi quảng canh cải tiến. Hiện nay, nuôi trồng thuỷ sản hầu hết ở mức độ nuôi quảng canh hoặc quảng canh cải tiến, chưa có các vùng nuôi qui mô lớn, nuôi công nghiệp để tạo ra sản lượng hàng hoá lớn, ổn định giá cạnh tranh. Năng suất nuôi còn thấp, khoảng 150 –200 kg/ha đối với nuôi quảng canh, mới bằng 1/4-1/10 năng suất trung bình hiện nay của các nước trong khu vực. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản còn có khả năng mở rộng, nếu sử dụng vùng đất cao triều và bãi triều ven biển thuận lợi để nuôi trồng thuỷ hải sản thì còn có thể tăng thêm 300.000 ha, chưa kể đến diện tích nhiều eo vịnh cũng có thể đưa vào nuôi trồng hải sản. Trên thực tế, rất nhiều hộ nông dân trở nên giầu có nhờ nuôi tôm, với mức thu nhập bình quân 30-50 triệu đồng /năm, kết quả đó khiến cho các hộ nông dân vùng ven biển đã sử dụng gần hết diện tích mặt nước ở các bãi bồi ven sông, biển đưa vào nuôi trồng thuỷ sản. Sự phát triển của nuôi tôm sú đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn ven biển đồng thời còn kéo theo sự phát triển của hàng loạt các nghành khác, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và tạo điều kiện cho các vùng ngư dân ven biển xoá đói giảm nghèo. Mặc dù, các kết quả nghiên cứu cho thấy việc nuôi trồng thu được lợi nhuận cao nhưng thực tế rất nhiều hộ nông dân gặp rủi ro, bị thua lỗ mà nguyên nhân chủ yếu là do dịch bệnh .Trong khi đó, dịch bệnh và sự suy thoái môi trường là những thách thức lớn đối với nghành nuôi tôm, song người nông dân hầu như thiếu quá nhiều những điều kiện cần thiết cho nghề này. Đó là thiếu kiến thức sinh vật học của con tôm, chưa nắm vững và thực hiện đúng qui trình kĩ thuật công nghệ nuôi tôm. 3.Triển vọng thị trường tôm sú thế giới Nét đặc sắc của thị trường thuỷ sản trên thế giới là trong khi phần lớn các hàng nông sản thực phẩm là loại hàng hoá trao đổi nhiều trên thị trường giữa các nước phát triển với nhau hay giữa các nước đang phát triển với nhau thì hàng thuỷ sản có giá trị cao lại được chia thành 2 thị trường rõ rệt: người mua là những nước có trình độ phát triển cao và giàu có còn người bán là các nước đang phát triển và nghèo. Thị trường thuỷ sản thế giới bị chi phối chủ yếu vẫn là các quốc gia có khả năng khai thác, chế biến và tiêu thụ thuỷ sản với khối lượng lớn như các nước Châu á (Nhật Bản, Thái Lan, …), Bắc Mỹ và EU. Chính vì vậy mà thông thường hàng thuỷ sản có giá trị cao thường được giá trên thị trường. Một mặt khác, nhu cầu về hàng hoá thuỷ sản giá trị cao lại tăng trưởng theo đà phát triển của nền kinh tế, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế đã mở ra khả năng phát triển cho nhiều nền kinh tế khác và vì vậy nhu cầu về hàng thuỷ sản có giá trị cao ngày càng trở nên lớn hơn. Theo thống kê của tổ chức nông –lương thế giới –FAO, sản lượng thuỷ sản thế giới sau khi đạt tốc độ tăng trưởng cao vào thập niên 80 đã có xu hướng tăng chậm vào thập niên 90 với tốc độ tăng bình quân 2.5%/năm. Dự báo đến năm 2010, khả năng tăng sản lượng bình quân của thuỷ sản thế giới khoảng 0.32 %/năm. Nguồn cung cấp từ khai thác thuỷ sản có xu hướng giảm sút từ năm 1997 trở lại đây (từ tỷ trọng chiếm 86,17% tổng sản lượng thuỷ sản thế giới giảm còn 76%năm 1997 và 73.7% năm 1998) trong khi tỷ trọng của thuỷ sản nuôi trồng trong tổng sản lượng thuỷ sản thế giới đã tăng từ 11.3% năm 1991 lên 26 % năm 1998. Việc tăng sản lượng thuỷ sản của thuỷ sản thế giới vào đầu thế kỷ XXI chủ yếu dựa vào phát triển nuôi trồng thuỷ sản, còn khả năng tăng sản lượng khai thác thuỷ sản là rất hạn chế (sản lượng khkhai thác trong vài thập kỷ tới cao nhất chỉ ở mức 100 triệu tấn /năm ) do nguồn lợi thuỷ sản cạn kiệt cùng với vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Theo FAO, trong 200 đối tượng khai thác hải sản chính có tới 35% bị khai thác quá giới hạn, 25% có nguy cơ tuyệt chủng, chỉ còn 40% có khả năng phát triển . Tới năm 2005, sản lượng nuôi tôm thuỷ sản thế giới sẽ là 51.9 triệu tấn và đạt gần 100 triệu tấn vào các thập kỷ tiếp theo. Khả năng cung ứng thuỷ sản ngày càng thấp: mức cung cấp thuỷ sản bình quân đầu người trong 10 năm tới của thế giới chỉ đạt 13.5kg/ năm, thấp hơn so với những năm 80 đạt 14 kg /người/ năm. Nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản thế giới hiện đang tăng mạnh ở tất cả các quốc gia ( bình quân phải 3%/ năm) do tăng dân số, tăng thu nhập và thay đổi thói quen tiêu dùng. Nhu cầu tiêu thụ thực phẩm thuỷ sản của thế giới sẽ tăng từ 17 kg/ người/ năm thời kỳ 1995-1997 lên 19-20 kg/ người/ năm vào năm 2030 và nhu cầu về thuỷ sản thế giới có thể vượt quá khả năng khai thác và nuôi trồng. Trong khi đó từ nay đến năm 2010, khả năng tăng sản lượng thuỷ sản không nhiều( khoảng 0.32%), vì vậy, sẽ dẫn đến việc tăng nhanh chu chuyển thuỷ sản trên qui mô toàn cầu.Trong thập kỷ qua, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới bình quân 25%/ năm.Theo dự báo trị giá chu chuyển thuỷ sản thế giới vẫn tiếp tục tăng ở mức 20-25%/ năm. Quan hệ cung cầ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0058.doc
Tài liệu liên quan