Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Bắc Hà Nội - Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT QTRR : Quản trị rủi ro DN : Doanh nghiệp TSĐB : Tài sản đảm bảo Vốn CSH : Vốn chủ sở hữu NHNo&PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn TCTD : Tổ chức tín dụng So với NT : So với năm trước BĐS : Bất động sản DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức quản trị rủi ro tại các NHTM lớn tại Viêt Nam 29 Sơ đồ 2: sơ đồ cơ cấu tổ chức của trụ sở chính 33 Sơ đồ 3: Sơ đồ mạng lưới chi nhánh của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 34 Sơ đồ 4: Quy trình cấp t

doc103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Bắc Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ín dụng 43 Biểu đồ 1: Cơ cấu nợ xấu phân theo nhóm của Chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 2004 – 2007 41 Biểu đồ 2: Tốc độ tăng nợ xấu tại Chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 53 2004 -2007 53 Biểu đồ 3: Tốc độ tăng quỹ dự phòng rủi ro tại Chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 2004 -2007 55 Bảng số 01: Những biểu hiện của một khoản tín dụng xấu và một chính sách tín dụng kém hiệu quả 22 Bảng số 02: Các hạng mục và cho điểm tín dụng 26 Bảng số 03: Kết quả phân loại nợ của chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 2004 – 2007 41 Bảng số 04: Tỷ lệ cho vay so với giá trị TSĐB của chi nhánh Bắc Hà Nội 48 Bảng số 05: Kết quả xử lý nợ quá hạn Chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 2004 – 2007 52 Bảng số 06: Tình hình nợ xấu giai đoạn 2004 – 2007 tại ngân hàng Bắc Hà Nội 53 Bảng số 07: Tình hình trích lập quỹ dự phòng rủi ro giai đoạn 2004 – 2007 tại ngân hàng Bắc Hà Nội. 54 Bảng số 08: Kết quả huy động vốn của chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 2004 – 2007 56 Bảng số 09: Kết quả dư nợ của Chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 2004 – 2007 58 LỜI CAM KẾT Tôi xin cam kết rằng toàn bộ nội dung của chuyên đề thực tập được trình bày sau đây là do bản thân tôi tự thực hiện trên cơ sở tham khảo một số tài liệu từ các nguồn khác nhau (sẽ được ghi rõ trong mục tài liệu tham khảo). Tôi sẽ chịu trách nhiệm trước mọi vấn đề liên quan đến nội dung của chuyên đề này. LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài. Kinh doanh ngân hàng là hoạt động kinh doanh chứa đựng rất nhiều loại rủi ro. Bởi lẽ hoạt động này được thực hiện trên cơ sở niềm tin, niềm tin giữa người gửi tiền đối với ngân hàng, niềm tin của ngân hàng đối với người đi vay. Cũng bởi kinh doanh trên cơ sở niềm tin đó nên ngân hàng không bao giờ có kỳ vọng đưa được các rủi ro này về 0 mà chỉ cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất. Trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008 vừa qua , thị trường tài chính tiền tệ nóng lên chưa từng thấy, trong đó nổi cộm là tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến cuộc chạy đua lãi suất của một loạt các ngân hàng. Đây là biểu hiện của rủi ro thanh khoản mà nguyên nhân của nó rất gần với rủi ro tín dụng – loại hình rủi ro phổ biến nhất trong kinh doanh ngân hàng. Cũng trong thời gian qua em được thực tập tại phòng tín dụng NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội, đã trực tiếp tìm hiểu và nghiên cứu hoạt động tín dụng của ngân hàng và em nhận thấy rằng ngân hàng Bắc Hà Nội đã thực sự bị tác động của rủi ro tín dụng. Em được biết rằng tại ngân hàng bây giờ vấn đề quản trị rủi ro đang rất được quan tâm tuy nhiên triển khai hoạt động này lại khá mới mẻ. Qua quá trình nghiên cứu và tham khảo, em nhận thấy quản trị rủi ro trước hết là một nội dung của chuyên ngành QTKD Thương mại nên rất phù hợp để làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Sau nữa, đây là một vấn đề hết sức cấp thiết mà các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Bắc Hà Nội nói riêng phải quan tâm nếu muốn hoạt động kinh doanh của mình an toàn và hiệu quả. Nhìn bối cảnh thực trạng hoạt động kinh doanh ngân hàng thời gian qua thì việc nghiên cứu một cách toàn diện và nghiêm túc về quản trị rủi ro lại càng có ý nghĩa hơn nữa. Bởi các lý do trên nên em đã chọn đề tài “Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Bắc Hà Nội – thực trạng và giải pháp” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống lại những kiến thức về quản trị rủi ro, vận dụng trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng. Trên cơ sở đó tiến hành xem xét thực trạng của hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm giúp ngân hàng có thể hoàn thiện hoạt động này. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động quản trị rủi ro tín dụng nói chung tại các ngân hàng thương mại và thực trạng hoạt động này tại NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là thực trạng hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại NHNO&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội qua 4 năm 2004 – 2007. Kết cấu của chuyên đề. Chuyên đề gồm ba phần chính sau: Chương 1: Lý luận cơ bản về hoạt động QTRR tín dụng trong kinh doanh ngân hàng. Chương 2: Thực trạng hoạt động QTRR tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động QTRR tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội. Em xin được cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Xuân Hương đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Chương 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG 1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG. 1.1.1.Tín dụng ngân hàng 1.1.1.1 Khái niệm Trước hết tín dụng ngân hàng được định nghĩa là hoạt động giao dịch về tài sản giữa ngân hàng và khách hàng. Trong đó ngân hàng chuyển giao vốn tín dụng cho khách hàng dưới dạng một vài loại tài sản nào đó và khách hàng cam kết sẽ trả lại trong một khoảng thời gian nhất định. Hoạt động tín dụng ngân hàng có những đặc điểm cần lưu ý sau: Thứ nhất, giao dịch tín dụng được thực hiện trên cơ sở sự tin tưởng giữa hai bên khách hàng và ngân hàng. Trong đó khách hàng tin tưởng ngân hàng về khả năng cung cấp dịch vụ và thực hiện những cam kết đối với khách hàng còn ngân hàng tin tưởng ở khả năng hoàn trả cũng như tính sẵn lòng hoàn trả của khách hàng. Nghiên cứu lý luận quản trị rủi ro tức là đứng trên góc độ ngân hàng thì đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng vì rủi ro ở đây nằm ở chỗ khách hàng có hoàn trả khoản vay cho ngân hàng hay không trong đó tính “sẵn lòng hoàn trả” của khách hàng giữ vai trò quyết định. Thứ hai, giao dịch được thực hiện trên cơ sở chuyển giao tài sản từ phía ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng cấp tín dụng thực chất là tài trợ vốn cho khách hàng mà vốn là một khái niệm mang tính vô hình do đó nó phải được biểu hiện dưới một hình thái hữu hình nào đó mà ta gọi là tài sản. Tài sản này có thể là tiền, máy móc, thiết bị, hàng hóa, …nhưng chủ yếu là dưới hình thái tiền. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đặc điểm này trong quản trị rủi ro tín dụng nằm ở chỗ rủi ro ở đây nằm trong quá trình lưu chuyển vốn. Cụ thể là vốn được chuyển từ ngân hàng tới tay khách hàng dưới hình thái tiền tệ (là chủ yếu), sau đó tùy theo mục đích sử dụng của mình mà khách hàng tiếp tục chuyển hóa hình thái tiền tệ đó sang các hình thái khác…cuối cùng nó lại quay về hình thái tiền tệ để hoàn trả ngân hàng. Trong dòng lưu chuyển vốn đó rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ khâu nào và điều cần lưu ý ở đây là rủi ro đó sẽ xảy ra đối với khách hàng trước rồi mới đến ngân hàng. Bởi vậy để quản trị được rủi ro thì ngân hàng phái kiểm soát khách hàng từ việc khách hàng đã chuyển hóa đồng vốn vay như thế nào. Thứ ba, giá trị hoàn trả của khách hàng phải lớn hơn giá trị ban đầu. Đến kỳ đáo hạn, khách hàng phải hoàn trả khoản vay cho ngân hàng bao gồm khoản vay gốc và một khoản lãi vay. Khoản lãi vay này dùng để trang trải các chi phí mà ngân hàng bỏ ra (như chi phí huy động vốn, chi phí các hoạt động…) và để ngân hàng có lợi nhuận. Việc tính toán lãi của khoản vay liên quan đến vấn đề lãi suất và rủi ro lãi suất cũng nằm trong hệ thống rủi ro kinh doanh mà ngân hàng phải đối mặt, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này thì rủi ro lãi suất sẽ không được đề cập đến. Thứ tư, khách hàng cam kết sẽ hoàn trả khoản vay cho ngân hàng đúng hạn. Đặc đỉểm này hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu quản trị rủi ro tín dụng vì những lý do sau. Trước hết, khoản tiền mà ngân hàng cho vay không thuộc sở hữu của ngân hàng vì ngân hàng chỉ là một đơn vị trung gian tài chính thực hiện “kinh doanh tiền gửi” nói nôm na là “đi vay để cho vay” . Hoạt động kinh doanh tiền gửi này có một quy tắc là khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với bất kỳ thời hạn nào thì ngân hàng không có quyền từ chối nếu khách hàng đó muốn rút tiền trước thời hạn, ngược lại khi ngân hàng cho vay một khách hàng nào đó thì dù có bất cứ lý do gì cũng không được phép đòi khách hàng đó thanh toán nếu chưa đến hạn. Bởi vậy, việc các khoản vay được thanh toán đúng hạn có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Trong trường hợp này, rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ có thể là nguyên nhân của rủi ro thanh khoản mà bất kỳ ngân hàng nào cũng luôn lo sợ phải đối mặt. Một điều nữa đối với tính đúng hạn của khoản hoàn trả là “liệu ngân hàng có muốn khách hàng trả trước hạn hay không?”. Tất nhiên sẽ không có một cán bộ tín dụng nào từ chối nếu khách hàng đến trả tiền trước hạn. Tuy nhiên nếu chuyện đó xảy ra cũng sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch dư nợ của ngân hàng cũng như lợi nhuận dự kiến mà ngân hàng tính toán. Tóm lại, việc tính toán thời hạn của khoản vay và quản lý để thu nợ đúng hạn có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa sử dụng vốn sai mục đích của khách hàng cũng như thực hiện các kế hoạch của ngân hàng. 1.1.1.2. Các loại tín dụng ngân hàng Hoạt động tín dụng ngân hàng có thể phân loại theo các tieu thức sau đây: Thứ nhất, Theo phương thức cấp tín dụng thì tín dụng ngân hàng bao gồm các loại: Cho vay, chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính, thẻ tín dụng. Thứ hai, theo thời hạn cấp tín dụng bao gồm : Ngắn hạn: thời hạn <= 1 năm ( chủ yếu tài trợ bằng vốn lưu động) Trung hạn: 1< thời hạn <= 5 năm ( tài trợ dự án) Dài hạn: thời hạn > 5 năm. Thứ ba, theo mục đích sử dụng bao gồm : Tín dụng tiêu dùng, tín dụng nông nghiệp, tín dụng BĐS. Thứ tư, theo phương pháp hoàn trả gồm: Trả gốc và lãi một lần, trả gốc và lãi nhiều lần Thứ năm, theo xuất xứ việc tài trợ tín dụng bao gồm: Tài trợ trực tiếp, tài trợ gián tiếp 1.1.2. Rủi ro tín dụng và sự cần thiết phải quản trị rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng. Khái niệm rủi ro  Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng tiềm ẩn những rủi ro. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng không tránh khỏi rủi ro. Vậy rủi ro là gì? Rủi ro là sự kiện xảy ra không theo ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội … Từ đó cũng gây ra những thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. Hơn nữa, ngân hàng kinh doanh không những chỉ huy động vốn và cho vay mà còn rất nhiều lĩnh vực khác như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ đại lý … Vì vậy có thể nói rằng rủi ro ngân hàng rất đa dạng. Do đặc thù kinh doanh của mình nên hoạt động kinh doanh ngân hàng có rất nhiều các loại rủi ro, bao gồm: Rủi ro tín dụng. Rủi ro lãi suất. Rủi ro thanh khoản. Rủi ro hối đoái. Rủi ro thiếu vốn khả dụng. Rủi ro trong tín dụng quốc tế Các rủi ro khác. Trong số các loại rủi ro kể trên thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất do tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu và đồng thời là nghiệp vụ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao nhất của ngân hàng. Bởi vậy mối lo lắng lớn nhất trong hoạt động tín dụng cũng chính là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có nhiều cách định nghĩa trong đó theo Điều QĐ493 của Thống đốc ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì rủi ro tín dụng được định nghĩa là “là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. Như vậy rủi ro tín dụng phát sinh khi một hoặc các bên trong hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính thực hiện nghiệp vụ vay tiền của người này để cho người khác vay. Như vậy rủi ro tín dụng đối với ngân hàng xuất phát từ cả hai phía là người cho vay (chủ nợ của ngân hàng) và người đi vay (con nợ của ngân hàng). Trường hợp thứ nhất là người gửi tiền (người cho ngân hàng vay) muốn rút tiền mà ngân hàng lại không thanh toán được, thực ra bản chất đấy là rủi ro thanh khoản nhưng nó lại liên quan mật thiết đến trường hợp thứ hai là ngân hàng không thu được đầy đủ các khoản cho vay bao gồm cả khoản gốc và lãi, hoặc việc thanh toán các khoản nợ (gồm gốc và lãi vay) không đúng hạn. Điều này xảy ra khi khách hàng vay tiền của ngân hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ. Ngoài ra rủi ro tín dụng được biểu hiện là tỷ lệ nợ quá hạn cao. Ở các nước tỷ lệ này lên đến 5% tổng dư nợ thì được coi là báo động. Ở nước ta tỷ lệ này dao động trong khoảng 10 –11% tổng dư nợ. 1.1.2.2. Các loại rủi ro tín dụng. Việc phân loại rủi ro tín dụng nhằm hiểu rõ hơn về từng loại rủi ro và có biện pháp quản lý riêng cho từng loại. Rủi ro tín dụng có thể được phân loại như sau: Theo nguyên nhân của rủi ro Phân loại theo nguyên nhân thì rủi ro tín dụng bao gồm 2 loại là rủi ro do nguyên nhân khách quan và rủi ro do nguyên nhân chủ quan, cụ thể như sau: Thứ nhất, rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan bao gồm: Rủi ro do môi trường kinh tế có biến động bất lợi: điều này dẫn đến việc đầu tư vốn kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn và khách hàng không thể trả nợ cho ngân hàng. Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi: Hệ thống văn bản pháp luật còn nhiều bất cập, quản lý của các cơ quan nhà nước tại địa phương còn nhiều yếu kém, hệ thống thông tin quản lý hạn chế. Rủi ro từ chính sách: Những thay đổi trong chính sách của nhà nước hoặc thay đổi một số quy định của luật pháp cũng có thể gây nên rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng.Ví dụ khi ngân hàng đã kí quyết định cho một DN vay vốn sản xuất pháo vào thời điểm Nhà nước chưa cấm buôn bán sản xuất pháo đến khi Nhà nước ra quyết định cấm sản xuất pháo (khi hợp đồng còn hạn) thì rõ ràng DN không thể hoạt động và tất nhiên không thể trả nợ cho ngân hàng. Thứ hai, rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan bao gồm: Rủi ro do nguyên nhân từ phía khách hàng: Sử dụng vốn sai mục đích đã cam kết, không thiện chí trong việc trả nợ, khả năng quản lý kinh doanh kém, tình hình tài chính không lành mạnh… Rủi ro do nguyên nhân từ phía ngân hàng : công tác kiểm tra nội bộ yếu kém, cán bộ còn bất cập về trình độ chuyên môn hoặc đạo đức nghề nghiệp dẫn đến các sai phạm, thiếu kiểm tra và giám sát khách hàng sau khi cho vay; sự liên kết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại còn lỏng lẻo, CIC (trung tâm thông tin tín dụng) chưa phát huy được vai trò… b)Theo tính chất của rủi ro Theo cách phân chia này thì rủi ro tín dụng có thể phân làm hai loại: Một là, rủi ro mất vốn: ngân hàng không thu được các khoản gốc và lãi của khoản vay do người vay cố ý không trả nợ hoặc mất khả năng trả nợ. Hai là, rủi ro đọng vốn: do khách hàng sử dụng vốn không hiệu quả hoặc gặp phải rủi ro nên không thể thanh toán khoản nợ đúng hạn. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng là cung cấp tín dụng. Trong cơ cấu tổng tài sản của phần lớn các ngân hàng thương mại thì dư nợ tín dụng chiếm tới hơn 50%, thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 50% đến gần 70% tổng thu nhập của ngân hàng. Bên cạnh đó, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục tín dụng. Bởi vậy, khi ngân hàng lâm vào tình cảnh khó khăn về tài chính thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ có thể gây nên các thiệt hại sau đây: Thứ nhất, đối với nền kinh tế: hoạt động ngân hàng có liên quan đến hoạt động của nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra đối với một ngân hàng nào đó thì sẽ tác động đến tâm lý những người gửi tiền ở những ngân hàng khác và nghiêm trọng nhất là tình trạng đổ xô đến ngân hàng rút tiền. Như vậy, chỉ một ngân hàng phá sản cũng có thể gây ra hội chứng Domino khiến một loạt các ngân hàng khác gặp khó khăn. Ngoài ra, ngân hàng phá sản sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân viên gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Thêm nữa, với xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì nền kinh tế của một quôc gia có vấn đề còn có thể tác động xấu đến nền kinh tế thế giới, bời mỗi quốc gia đều có sự phụ thuộc hay liên hệ với một vài quốc gia nào đó trong khu vực hoặc trên thế giới.Hãy nhìn lại cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) hay gần hơn là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Thứ hai, đối với ngân hàng: khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn và lãi của khoản cho vay nhưng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền đã vay từ người gửi khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Nợ không thu được làm giảm vòng quay vốn tín dụng và do đó việc kinh doanh không hiệu quả.Như đã phân tích ở phần trước, rủi ro tín dụng xảy ra thì ngân hàng phải tiếp tục đối mặt với rủi ro thanh khoản tức là mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền và do đó mất uy tín với khách hàng.bản than ngân hàng cũng không thể thanh toán các khoản lương cho nhân viên của mình nên những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân hàng. Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng khi đã xảy ra có thể gây nên thiệt hại ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy trong công tác quản trị ngân hàng thương mại không thể không quan tâm đến quản trị rủi ro đặc biệt là rủi ro trong hoạt động tín dụng. 1.2. NỘI DUNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1. Nghiên cứu xác định các loại rủi ro Để quản trị được rủi ro, trước hết phải xác định được các loại rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải. Công việc này bao gồm: Nhận dạng rủi ro: ngân hàng trước hết phân tích cơ cấu cho vay theo các tiêu thức như thời hạn, khách hàng, phương thức cấp vốn, hình thức tài trợ…và xác định các loại rủi ro có thể có đối với mỗi loại hình và khả năng rủi ro xảy ra của từng loại. Đối với mỗi loại rủi ro thì việc nhận dạng bao gồm theo dõi rủi ro, xem xét rủi ro, nghiên cứu môi trường hoạt động cụ thể nhằm thống kê những rủi ro đã và đang xảy ra đồng thời cố gắng dự báo những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để đề ra những biện pháp kiểm soát và tài trợ phù hợp. Các phương pháp thường được sử dụng là phân tích các báo cáo, phân tích các hợp đồng vay vốn cụ thể và làm việc trực tiếp với các bộ phận có liên quan khi rủi ro xảy ra Phân tích định tính rủi ro: Đây là một phương pháp truyền thống và đơn giản nhất để phân tích và đo lường rủi ro tín dụng. Việc phân tích rủi ro tín dụng sử dụng công cụ chính là hệ thống chỉ tiêu tài chính đánh giá khách hàng: Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán (Liquidity ratios) Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios) Nhóm chỉ tiêu cơ cấu tài chính (Leverage ratios) Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios) Việc phân tích này nhằm mục đích trả lời câu hỏi “liệu khách hàng vay vốn này có thể tin tưởng được không”. Trong kinh doanh ngân hàng thì “chữ tín quý hơn vàng”. Ngân hàng chấp nhận cho vay dựa trên niềm tin rằng khách hàng sẽ trả nợ cho mình đúng hạn. Mà sự tin tưởng là một khái niệm trừu tượng vì vậy ngân hàng cố gắng thẩm định khách hàng thông qua những tiêu chí có thể đo lường được để khẳng định được thiện chí trả nợ của người vay. Như đã nói ở phần trước, việc khách hàng có trả nợ hay không phụ thuộc vào việc người đó có “khả năng trả nợ” và tính sẵn lòng trả nợ” trong đó tính sẵn lòng trả nợ là quyết định vì nếu người vay sẵn sàng trả nợ thì dù tài chính có khó khăn anh ta cũng sẽ cố gắng xoay sở để tìm cách trả ngân hàng nhưng nếu anh ta không muốn trả (đúng hạn) thì dù có khả năng trả nợ đi nữa thì ngân hàng cũng không thể đòi được nợ (đúng hạn). Những tiêu chí được dùng để đánh giá thường được các chuyên gia khái quát với tên gọi “6C” : tư cách (character), năng lực (Capacity),thu nhập (Cash), bảo đảm (Collateral), điều kiện (Conditions), kiểm soát (Control). Đo lường rủi ro: đây là điều mà các nhà quản lý ngân hàng rất quan tâm, vì rủi ro nếu đo lường được thì việc phòng ngừa sẽ dễ dàng hơn. Trong hoạt động ngân hàng thì đo lường rủi ro được thể hiện trên 2 phương diện: Một là, đo lường hay xác định số thiệt hại do rủi ro gây ra: phản ánh hậu quả rủi ro được xác định sau khi rủi ro đã xảy ra rồi. Số này có thể là số tuyệt đối, hoặc số tương đối theo các tiêu thức khác nhau như giá trị thiệt hại, số lần bị rủi ro, tỉ lệ tài sản bị rủi ro... Sau một thời gian nhất định, các con số phản ánh rủi ro trong kỳ có thể như sau: Tổng giá trị tài sản bị rủi ro kỳ báo cáo = Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại rủi ro mỗi lần trong kỳ Tổng % tài sản bị rủi ro trong kỳ = = Tổng giá trị TS rủi ro trong kỳ x 100% Tổng giá trị các TS có sinh lời trong kỳ Hai công thức trên dùng để xác định tài sản bị rủi ro đã xảy ra. Theo quan điểm xác suất thống kê, ta có thể lượng hoá được khả năng bị rủi ro của mỗi loại tài sản có của ngân hàng. Hai là, đo lường khả năng bị rủi ro (xác suất bị rủi ro): dựa vào công thức tính xác suất của một biến cố ngẫu nhiên theo quan điểm thống kê, xác định xác suất rủi ro tín dụng ngân hàng như sau: P rủi ro = Số món cho vay bị rủi ro trong kỳ báo cáo x100% Tổng số lần cho vay trong kỳ Báo cáo hoặc P rủi ro = Tổng giá trị tài sản bị rủi ro x100% Tổng giá trị các món cho vay trong kỳ Đồng thời, ngân hàng còn có thể tính xác suất rủi ro dự kiến, hay tổn thất dự kiến EL (Expected Loss) theo khả năng vỡ nợ PD (Probability of Default) với mức độ tổn thất khi vỡ nợ LGD (Loss Given Default) theo công thức sau: EL = Giá trị khoản vay x PD x LGD Theo các công thức này, nếu mỗi món cho vay coi như thực hiện một phép thử và nếu có số liệu thống kê rủi ro đầy đủ, xác suất bị rủi ro của từng loại tài sản của ngân hàng có thể xác định được một cách tương đối chính xác trong từng thời kỳ, từng lĩnh vực đầu tư, từng loại hình tín dụng,... Điều này có ý nghĩa rất quan trọng thể hiện ở các góc độ sau: - Trên cơ sở xác suất rủi ro đã tính toán, ngân hàng có thể xây dựng cơ cấu lãi suất cho phù hợp đảm bảo kinh doanh có lãi. Bởi vì, lợi nhuận ngân hàng thu được trên cơ sở lãi cho vay, lãi suất này phải đảm bảo chi trả phần tiền lãi đi vay, chi phí quản lý ngân hàng, bù đắp được rủi ro và có lãi. Đối với mỗi tài sản có của ngân hàng, nếu mức độ rủi ro cao, độ an toàn thấp thì lãi suất của chúng phải cao hơn. - Dựa vào xác suất rủi ro của từng loại tài sản có, người ta xây dựng các hệ số rủi ro của từng loại tài sản làm cơ sở tính hệ số an toàn vốn của ngân hàng hoặc làm cơ sở để tính phí bảo hiểm cho từng loại tài sản. 1.2.2. Xây dựng chiến lược, kế hoạch QTRR tín dụng Trên cơ sở việc nghiên cứu tính toán các loại rủi ro ngân hàng mình đã và có thể gặp phải, ngân hàng tiến hành xây dựng các chiến lược dài hạn để quản trị những rủi ro đó và cụ thể hóa thành các kế hoạch quản trị cho từng giai đoạn cụ thể. 1.2.2.1. Chiến lược quản trị rủi ro Tại các ngân hàng thương mại Việt nam, việc triển khai quản trị rủi ro mới ở thời kỳ sơ khai nên việc xây dựng chiến lược quản trị rủi ro cho một thời kỳ dài cũng chưa được thực hiện một cách đầy đủ, chỉ có một số ngân hàng lớn làm được việc này. Theo xu thế phát triển chung thì quản trị rủi ro phải trở thành hoạt động trung tâm trong các tổ chức tài chính_ngân hàng. Bởi lẽ quản lý và kiểm soát chặt chẽ các rủi ro giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả từ đó nâng cao hiệu quả các hoạt động khác trong ngân hàng. Đặc trưng của kinh doanh ngân hàng là tính rủi ro lớn hơn bất kì một hoạt động kinh doanh nào khác nên chấp nhận kinh doanh ngân hàng tức là phải chấp nhận rủi ro. Cũng với lý do như vậy bất kì ngân hàng thương mại nào cũng phải thực hiện quản trị rủi ro tín dụng nhằm nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng và việc kinh doanh của ngân hàng đó nói chung. Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng là xây dựng và thực thi các chính sách và biện pháp quản lý tín dụng nhằm đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng phải đạt được mục tiêu tối đa hóa tỷ suất thu nhập đã được điều chỉnh rủi ro hoặc giảm tối đa chênh lệch giữa mức sinh lời thực tế và kỳ vọng. Nói cách khác mục tiêu của quản trị rủi ro tín dụng là để kiểm soát mức độ rủi ro hoặc tổn thất tín dụng trong phạm vi mà ngân hàng cho là hợp lý và chấp nhận được. Để làm được điều đó, các ngân hàng đều cố gắng đánh giá, ước lượng và dự đoán mức tổn thất dự kiến trung bình và cả mức tổn thất ngoài dự kiến nữa. 1.2.2.2. Kế hoạch quản trị rủi ro Đây là sự cụ thể hóa chiên lược quản trị rủi ro thành những công việc cụ thể nhằm quản lý rủi ro tín dụng trong mỗi giai đoạn. Đó là các kế hoạch quản lý các khoản nợ vay, quản lý khách hang, quản lý các khoản nợ xấu. Trong mỗi kế hoạch phải có tính toán các bước công việc cần thực hiện, dự trù các biện pháp giải quyết những vấn đề nảy sinh (các biện pháp có thể xử lý khi rủi ro xảy ra). Kế hoạch quản trị rủi ro cũng phải để ra các công cụ mà ngân hàng sử dụng để quản trị rủi ro. Các công cụ thường được sử dụng như: a) Chính sách tín dụng. Đây là một văn bản cung cấp cho cán bộ tín dụng và các nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng. Nội dung cơ bản thường gồm: Mô tả thị trường tín dụng mục tiêu. Công bố các tiêu chuẩn đối với danh mục cho vay. Phân định quyền hạn, trách nhiệm những người liên quan trong việc ra quyết định cho vay. Quy trình, thủ tục vay vốn. Quy định chính sách, phương pháp xác định lãi suất, các khoản phí, thời hạn vay vốn. … b) Giới hạn cấp tín dụng. Để hạn chế rủi ro, ngân hàng sẽ quy định hạn mức cấp tín dụng tối đa cho mỗi cấp quản trị. Nó có thể quy định cho từng chi nhánh, từng phòng giao dịch hoặc theo loại sản phẩm tín dụng. Giới hạn tín dụng được hiểu là mức tín dụng an toàn tối đa trong đó doanh nghiệp quản trị được hoạt động của mình một cách hiệu quả và với mức này rủi ro ngân hàng có thể chịu đối với doanh nghiệp là thấp nhất.Giới hạn tín dụng gồm hạn mức của toàn bộ các hoạt động hay dịch vụ chứa đựng rủi ro mà ngân hàng cấp cho khách hàng (như dư nợ, mở L/C, bảo lãnh…). Khi vượt qua giới hạn này, rủi ro đã ở quá mức cho phép. Giới hạn tín dụng được tính toán trên cơ sở chính sách tín dụng ngân hàng, xếp hạng tín dụng của khách hàng, lĩnh vực kinh doanh và quy mô hoạt động của khách hàng, khả năng quản trị của bản thân ngân hàng. c) Xếp hạng tín dụng khách hàng. Ngân hàng thực hiện việc đánh giá rủi ro của khách hàng theo định kỳ từ đó xếp hạng tín dụng cho khách hàng. Việc xếp hạng này giống như phân loại các khách hàng theo các nhóm có độ rủi ro khác nhau nhằm có biện pháp quản lý hiệu quả đối với khách hàng cũng như sớm phát hiện và ngăn chặn các dấu hiệu bất thường xảy ra. d) Tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp là nguồn đảm bảo cho ngân hàng trong trường hợp không thu được nợ từ khách hàng. Tuy nhiên đây chỉ là điều kiện cần đẻ khách hàng được xét cho vay. Trên thực tế nhiều ngân hàng ỷ lại vào tài sản này và lơ là trong việc thẩm định khách hàng với tâm lý nếu không đòi được nợ thì bán tài sản thế chấp đi để bù. Đây là một quan điểm rất thiển cận và thiếu trách nhiệm rất cần được chấn chỉnh nếu muốn nâng cao chất lượng họat động tín dụng. e) Đa dạng hóa danh mục đầu tư. Công cụ này cũng dựa trên nguyên tắc phân tán rủi ro thường được các chuyên gia nhắc đến là “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Để quản trị tốt danh mục đầu tư thì ngân hàng cần nghiên cứu từng thị trường, ngành hàng, loại sản phẩm tín dụng…với các đặc điểm hoạt động khác nhau, mức độ rủi ro khác nhau nhằm tìm ra thị trường tín dụng mục tiêu và một cơ cấu danh mục đầu tư cân đối. 1.2.3. Tổ chức thực hiện kế hoạch quản trị rủi ro tín dụng Kế hoạch quản trị rủi ro tín dụng được triển khai ngay từ khâu đầu tiên của quy trình tín dụng tức là phải quản trị rủi ro từ khi tiếp cận khách hàng đến khi hợp đồng được thanh lý. 1.2.3.1. Lựa chọn khách hàng Đây là giai đoạn ngân hàng tiến hành thu thập các thông tin về khách hàng nhằm đưa giá các đánh giá về mức độ rủi ro và chọn lựa những khách hàng ít rủi ro nhất. Để lựa chọn được những khách hàng có độ rủi ro thấp nhất thì ngân hàng có thể sử dụng những kỹ thuật lượng hóa rủi ro khách hàng mà một trong đó là kỹ thuật xếp hạng tín dụng. Mục đích của xếp hạng tín dụng là đánh giá được tình hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán… của khách hàng trên cơ sở phân tích các báo cáo tài chính, hồ sơ lưu trữ của khách hàng…Đối với khách hàng doanh nghiệp thì quy trình đánh giá này bao gồm các công việc chính: Thứ nhất, đánh giá chung về doanh nghiệp: Xác định loại doanh nghiệp, nghành nghề kinh doanh, điểm mạnh, điểm yếu, nguồn nhân lực, tài sản đảm bảo… Thứ hai, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp: phân tích các số liệu trên các bảng báo cáo (bảng cân đối kế toán, báo cao kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiển tệ...) từ đó đưa ra các nhận xét về các chỉ tiêu tài chính như cơ cấu tải chính, tỷ trọng các khoản vốn, tỷ suất tự tài trợ, tình hình sử dụng vốn, v.v. Thứ ba, phân tích tình hình nợ và khả năng thanh toán Thứ tư, phân tích thị trường của doanh nghiệp: tình hình khách hàng, cạnh tranh. Thứ năm. đánh giá các điều kiện kinh tế chung. Cụ thể cách đánh giá như thế nào thì có nhiều cách trong đo có mô hình chấm điểm tín dụng là mô hình đơn giản và thông dụng hơn cả. Tư tưởng của mô hình này là dùng một đại lượng tổng hợp “Z” để đánh giá độ rủi ro tín dụng của một người vay. Thước đo này được tính toán dựa trên giá trị các chỉ số tài chính của người vay và tầm quan trọng của các chỉ số đó trong việc quyết định xác suất vỡ nợ của người vay vốn. Công thức tính Z là: Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5 Với: X1 ._.: vốn lưu động ròng / tổng tài sản ( NC/TA) X2 : lợi nhuận giữ lại / tổng tài sản ( NI/TA) X3 : lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ tổng tài sản ( EBIT/ TA) X4 : thị giá cổ phiếu / giá trị ghi sổ nợ dài hạn X5 : doanh thu / tổng tài sản ( S/TA) Giá trị của Z càng nhỏ thì xác suất vỡ nợ của khách hàng càng cao. Do vậy khi Z mang dấu âm thì khách hàng thuộc nhóm có nguy cơ vỡ nợ rất cao. Theo mô hình này khách hàng có trị số Z< 1,81 bị coi là có độ rủi ro cao nên ngân hàng sẽ không cho vay ít nhất khi khách hàng chưa cải thiện được điểm số lớn hơn 1,81. Ưu điểm của mô hình này tính toán đơn giản dựa trên các chỉ tiêu tài chính quen thuộc đánh giá khách hàng và kết quả tính toán rất dễ xử lý, thuận tiện cho ngân hàng ra quyết định. Tuy nhiên mô hình vẫn có một số nhược điểm: Chỉ phân chia khách hàng thành 2 loại “vỡ nợ” và “không vỡ nợ” nên tương đối cứng nhắc với thực tế đa dạng và phức tạp. Các trọng số của các chỉ tiêu trong công thức chưa được chứng minh rõ ràng, hơn nữa khi điều kiện kinh tế thay đổi thì tầm quan trọng của các chỉ tiêu cũng thay đổi nhưng trong công thức đã không được tính đến. Không tính đến các yếu tố định tính nhưng khá quan trọng trong thực tế như “mối quan hệ truyền thống” giữa khách hàng và ngân hàng hay “uy tín” đã có của khách hàng trên thị trường. 1.2.3.2. Ra quyết định và kiểm soát tín dụng a) Ra quyết định tín dụng Đây là bước có ý nghĩa quyết định đối với ngân hàng ngân hàng có thể gặp phải rủi ro trong tương lai không là do bước quyết định này. Bởi lẽ đó trước khi ra quyết định thì hồ sơ phải được thẩm định kỹ lưỡng bởi cả bộ phận tín dụng lẫn bộ phận chuyên thẩm định riêng. Theo quy định thì cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong việc ra quyết định tín dụng là Hội đồng tín dụng. Việc thẩm định không những chỉ có thẩm định tình hình tài chính của khách hàng mà còn phải thẩm định tính khả thi của phương án sử dụng vốn. Tựu trung lại, để được chấp nhận cấp tín dụng thì khách hàng cần thỏa mãn năm điều kiện là: Đủ tư cách pháp lý. Vốn vay được sử dụng hợp pháp Khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo hoàn trả tiền vay đúng hạn cam kết. Khách hàng có phương án, dự án khả thi và hiệu quả Thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định. b) Kiếm soát tín dụng Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, cán bộ tín dụng liệu có thể cho qua và tạm quên đi cho đến khi hợp đồng đáo hạn? Chắc chắn là không. Bởi lẽ trong quá trình khách hàng thực hiện dự án của mình rất nhiều bất trắc có thể xảy ra do những biến động của môi trường hoặc những vấn đề chủ quan phát sinh khác. Cán bộ tín dụng cần phải nhạy cảm với những diễn biến bất thường và kiểm tra định kỳ các khoản tín dụng cho đến ngày đáo hạn. Điều này giúp cho việc phát hiện những rủi ro tiềm ẩn từ đó tìm ra biện pháp phòng ngừa và đối phó kịp thời. 1.2.3.3. Xử lý tín dụng có vấn đề Quá trình kiểm tra tín dụng thường xuyên nếu phát hiện những dấu hiệu bất thường thì ngân hàng cần khẩn trương tìm biện pháp thu hồi những khoản tín dụng “ có vấn đề” đó. Một số điểm cần lưu ý khi thực hiện công việc này: Thư nhất, tận dụng mọi cơ hội có thể để thu hồi nợ. Thứ hai, mọi vấn đề phải được khám phá khẩn trương và báo cáo kịp thời. Thứ ba, tránh xung đột với bộ phận cho vay bằng cách thực hiện xử lý độc lập với chức năng cho vay. Thứ tư, phân tích sơ bộ những khoản tín dụng có vấn đề và tìm nguyên nhân rồi khẩn trương hội ý với khách hàng. Sau khi đã xác định được được rủi ro thì nhanh chóng xây dựng kế hoạch hành động và bổ sung hồ sơ tín dụng. Thứ năm, chuyên gia phải cân nhắc mọi phương án có thể và dự tính những nguồn có thể dùng để thu hồi nợ. Bảng số 01: Những biểu hiện của một khoản tín dụng xấu và một chính sách tín dụng kém hiệu quả Các biểu hiện của tín dụng có vấn đề Các biểu hiện của chính sách tín dụng kém hiệu quả Trả nợ vay không đúng kỳ hạn hoặc thất thường Sự lựa chọn khách hàng không đúng với cấp độ rủi ro của họ Thường xuyên xin sửa đổi thời hạn, gia hạn tín dụng Chính sách cho vay phụ thuộc vào những sự kiện có thể xảy ra trong tương lai. Có hồ sơ đảo nợ (mỗi lần vay mới thì nợ gốc giảm xuống một ít) Cho vay trên cơ sở lời hứa của khách hàng duy trì số dư tiền gửi lớn Lãi suất tín dụng cao không bình thường (để bù đắp rủi ro tín dụng) Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý từng khoản tín dụng Tài khoản phải thu hay hàng tồn kho tăng không bình thường Tỷ lệ tín dụng cao cho khách hàng có trụ sở ngoài lãnh địa của ngân hàng Hệ số đòn bẩy tăng Tỷ lệ cho vay nội bộ cao Thất lạc hồ sơ (đặc biệt các báo cáo tài chính của khách hàng) Có xu hướng thái quá trong cạnh tranh (cấp tín dụng xấu để giữ chân khách hàng) Chất lượng bảo đảm tín dụng thấp Cho vay hỗ trợ các mục đích đầu cơ Tin vào đánh giá lại tài sản để tăng vốn CSH của khách hàng Không nhạy cảm với sự biến đổi các điều kiện môi trường kinh tế Thiếu báo cáo lưu chuyển tiền tệ Khách hàng dựa vào nguồn thu bất thường để trả nợ (Nguồn: FDIC, Bank Examination Policies, Washington, D.C, selected years.) 1.2.4. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro Đối với mỗi một hoạt động quản trị nào thì khâu kiểm tra đánh giá cũng có một ý nghĩa rất quan trọng. Nó cung cấp cho nhà quản trị những thông tin cần thiết về việc thực hiện thực hiện hoạt động quản trị như thế nào, những gì đã làm được, những gì chưa làm được cũng như những vấn đề cần được chấn chỉnh. Kết quả của công tác đánh giá cũng giúp nhà quản trị đưa ra các gợi ý để việc thực hiện hoạt động được tốt hơn. Đối với công tác quản trị rủi ro thì điều này càng đặc biệt có nhiều ý nghĩa. Việc đánh giá chất lượng công tác quản trị rủi ro phải tiến hành trên các khía cạnh chủ yếu sau: Một là, đánh giá việc tổ chức điều hành quản trị rủi ro: đánh giá việc tổ chức bộ máy, phân công nhân sự, quản lý các thông tin…Việc đánh giá phải chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu cũng như các nguyên nhân nhằm đưa ra các biện pháp hoàn thiện tổ chức quản trị rủi ro. Hai là, đánh giá hiệu quả việc tổ chức thực hiện QTRR: quy trình thực hiện có nghiêm ngặt, chặt chẽ hay không, những khâu nào thực hiện tốt, khâu nào chưa tốt, khâu nào còn bất cập. Tương tự cũng phải chỉ ra được các nguyên nhân của các mặt mạnh, yếu đó. Ba là, đánh giá được kết quả của công tác QTRR: QTRR có thực sự hiệu quả không thể hiện ở chính những kết quả nó mang lại. Bởi vậy ngân hàng tính toán, thống kê được số rủi ro đã xảy ra, các loại rủi ro hay gặp nhất, nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng, thiệt hại thực tế, kết quả của việc xử lý… Xác định được nhờ có QTRR mà số lượng, mức độ thiệt hại giảm đi như thế nào, so sánh với kế hoạch đặt ra. Từ đó có chiến lược để hoàn thiện hoạt động này trong tương lai. Một điểm cần lưu ý nữa là việc đánh giá không phải chỉ tiến hành sau mỗi chu kỳ kinh doanh mà cần phải tiến hành ngay trong quá trình tổ chức, ở tất cả các khâu, các bộ phận có liên quan để trực tiếp hỗ trợ, chấn chỉnh các hoạt động ngay khi thực hiện và phát hiện kịp thời các bất cập để đề ra biện pháp khắc phục. 1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG. KINH NGHIỆM QTRR TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO CÁC NHTM VIỆT NAM 1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng. Để quản lý được các rủi ro thì trươc hết phải biết là rủi ro đó xảy ra như thế nào cũng như cơ chế tác động của nó. Vì vậy thực chất xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng cũng chính là xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Sau đây là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng đã được hệ thống hóa. Một là, các yếu tố thuộc về phía ngân hàng bao gồm các yếu tố như: Chính sách quản trị tín dụng của ngân hàng. Mô hình quản trị rủi ro rín dụng ngân hàng áp dụng và quy trình thủ tục cấp tín dụng. Trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng. Công tác kiểm tra giám sát sau khi cho vay. Tăng trưởng tín dụng quá nhanh vượt tầm kiểm soát và tâm lý dễ dãi trong quyết định cho vay khi kinh tế tăng trưởng. Tâm lý lối mòn khi cho vay: cho vay DNNN là an toàn, tâm lý ỷ lại tài sản thế chấp… Không tính đến mức độ rủi ro của khách hàng khi định giá khoản vay. Danh mục cho vay không đa dạng hóa Quản trị nhân lực còn nhiều bất cập. Hai là, các yếu tố thuộc nền kinh tế như: Chu kỳ kinh tế, biến động trong chính sách, tình hình lạm phát, lãi suất, thị trường Bất động sản. Ba là, các yếu tố thuộc khách hàng bao gồm: các yếu tố thuôc nội tại của khách hàng như tình hình tài chính, đạo đức của khách hàng, tài sản đảm bảo…; các yếu tố khách quan ngoài ý chí của khách hàng như thiên tai, hỏa hoạn, trộm cắp… 1.3.2. Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng tại một số ngân hàng thương mại trên thế giới 1.3.2.1 .Các NHTM trên thế giới tổ chức hoạt động quản trị rủi ro tín dụng như thế nào? Tại các ngân hàng thương mại trên thế giới, hoạt động quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng được tổ chức một cách chuyên nghiệp và bài bản. Tại mỗi ngân hàng đều có một bộ phận chuyên trách về quản trị rủi ro. Do yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao và cũng để tăng hiệu quả kinh doanh thì các ngân hàng thương mại hiện đại có xu hướng tách bộ phận quản lý rủi ro ra khỏi các bộ phận kinh doanh. Tại đây họ hoạt động độc lập với các phòng kinh doanh cũng như các phòng ban nghiệp vụ khác. Rủi ro được nghiên cứu một cách hệ thống và được tính toán đo lường cụ thể các mức độ của nó. Những số liệu này được chuyển về phòng ban nghiệp vụ để họ có thể chủ động trong kinh doanh. Như vậy, nói riêng trong lĩnh vực tín dụng thì phòng tín dụng sẽ không trực tiếp thực hiện việc đo lường rủi ro của các khách hàng hay các hồ sơ xin vay vốn mà có bộ phận chuyên trách giúp họ làm việc này. Điều này giúp cho việc sử dụng nguồn lực tốt hơn và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Tại nhiều nước trên thế giới, hầu hết các tổ chức cho vay lớn đều xây dựng bảng xếp hạng tín dụng đối với các khách hàng hiện tại và tiềm năng của họ. Sau đây là ví dụ về xếp hạng tín dụng tiêu dùng thường được các ngân hàng Mỹ áp dụng: Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng (áp dụng đối với khách hàng cá nhân): Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác. Sau đây là những hạng mục và điểm thường được sử dụng: Bảng số 02: Các hạng mục và cho điểm tín dụng STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm số 1 Nghề nghiệp của người vay- chuyên gia hay phụ trách kinh doanh- công nhân có kinh nghiệm (tay nghề cao)- nhân viên văn phòng- sinh viên- công nhân không có kinh nghiệm- công nhân bán thất nghiệp 10-8-7-5- 4-2 2 Trạng thái nhà ở- nhà riêng- nhà thuê hay căn hộ- sống cùng bạn hay người thân 6-4-2 3 Xếp hạng tín dụng- tốt- trung bình- không có hồ sơ- tồi 10-5-2-0 4 Kinh nghiệm nghề nghiệp- nhiều hơn một năm- từ một năm trở xuống 5-2 5 Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành- nhiều hơn một năm- từ một năm trở xuống 2-1 6 Điện thoại cố định- có - không có 2-0 7 Số người sống cùng (phụ thuộc)- Không- Một- Hai- Ba- Nhiều hơn ba 3-3-4- 4-2 8 Các tài khoản tại ngân hàng- cả tài khoản tiết kiệm và phát Hành séc- chỉ tài khoản tiết kiệm- chỉ tài khoản phát hànhséc - không có 4-3-2-0 Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục nêu trên là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình thành khung chính sách tín dụng theo mô hình điểm như sau: Tổng số điểm của khách hàng Quyết định tín dụng Từ 28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng 29 – 30 điểm Cho vay đến 500 USD 31 – 33 điểm Cho vay đến 1.000 USD 34 – 36 điểm Cho vay đến 2.500 USD 37 – 38 điểm Cho vay đến 3.500 USD 39 – 40 điểm Cho vay đến 5.000 USD 41 –43 điểm Cho vay đến 8.000 USD 1.3.2.2. Tổ chức hoạt động QTRR tín dụng tại các NHTM Việt Nam. Theo đánh giá chung về công tác QTRR của các ngân hàng trong khu vực, so sánh với một số nước điển hình như Singapore, Malaysia, Hàn quốc, và các ngân hàng đạt tiêu chuẩn quốc tế thì các NHTM Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của công tác quản trị rủi ro. Hoạt động quản trị rủi ro đã được nhắc đến từ khá lâu nhưng thực tế triển khai hoạt động này tại ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều vấn đề đáng bàn. Khoan hãy nói về việc chi phí cho việc tổ chức riêng một bộ phận chuyên trách về công việc này mà trước hết là chúng ta chưa có cán bộ được đào tạo chuyên môn về lĩnh vực này. Hơn nữa một vấn đề gặp phải khác là thói quen trong tư duy và phương thức làm việc vốn có từ lâu. Ai cũng biết kinh doanh ngân hàng là chấp nhận rủi ro và các ngân hàng cũng cố gắng để giảm thiểu những rủi ro này. Tuy nhiên cách làm của họ là bộ phận nghiệp vụ nào tự làm công việc hạn chế rủi ro của bộ phận ấy, cán bộ nào tự chịu trách nhiệm với dự án mình phụ trách và rủi ro được xem xét theo từng giao dịch, từng hợp đồng cụ thể. Quản trị rủi ro ở NHTM Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc ước tính số lượng các giao dịch và phân tích rủi ro ở trạng thái tĩnh trong từng giao dịch. Về tổ chức hoạt động thì vẫn ở giai đoạn sơ khai. Chỉ ở các ngân hàng lớn hoặc các hội sở chính thì mới có trung tâm quản trị rủi ro riêng, còn tại các chi nhánh (mà số lượng chiếm chủ yếu) thì việc quản trị rủi ro được thực hiện tản mạn ở các phòng nghiệp vụ. Cụ thể trong lĩnh vực tín dụng, cán bộ tín dụng vừa phải thực hiện chức năng cho vay, thu nợ lại phải kiêm luôn công tác thẩm định và quản lý rủi ro. Điều này làm quá tải công việc và lại làm giảm hiệu quả của từng công việc, bên cạnh đó cũng làm tăng nguy cơ vi phạm đạo đức ở các cán bộ tín dụng. Thực tế các NHTM Việt Nam hầu như chưa ứng dụng xếp loại rủi ro tín dụng trong quy trình quản trị rủi ro tín dụng. Có một số ngân hàng lớn đang thử nghiệm kỹ thuật xếp loại tín dụng đối với doanh nghiệp lớn, còn chấm điểm tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ, khách hàng cá nhân và xếp loại khoản vay thì hầu như chưa được đề cập đến. Tuy nhiên, ngay cả với với xếp loại tín dụng đang làm thử cũng cần phải bàn thêm, vì hầu hết những thử nghiệm đang được thực hiện thiên về phương pháp xếp loại của cơ quan xếp loại độc lập hơn là của NHTM. Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức quản trị rủi ro tại các NHTM lớn tại Viêt Nam HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ GIÁM ĐỐC PHÒNG, BAN NGHIỆP VỤ PHÒNG KẾ TOÁN KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRUNG TÂM QUẢN LÝ RỦI RO PHÒNG, BAN NGHIỆP VỤ 1.3.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho các ngân hàng thương mại Việt Nam Từ việc nghiên cứu các kinh nghiệm quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại trên thế giới và thực trạng quản trị rủi ro hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt Nam, có thể rút ra các bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại Việt Nam là: Thứ nhất, ngân hàng nên tách bạch, phân công rõ chức năng nhiệm vụ của các bộ phận và tuân thủ chặt chẽ các khâu trong quy trình cấp tín dụng. Có thể thấy điều này ở các ngân hàng Bangkok bank và Siam comercial bank (SCB) của Thái Lan. Quy trình cấp tín dụng của họ có thể khái quát như sau: tiếp xúc khách hàng, phân tích tín dụng, thẩm định tín dụng, đánh giá rủi ro, quyết định cho vay, thủ tục giấy tờ hợp đồng, đánh giá chất lượng, xem lại khoản vay. Thứ hai, tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc trong quy trình cấp tín dụng. Nhìn lại cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á năm 1997 - 1998, rất nhiều ngân hàng của Thái Lan chỉ quan tâm đến tài sản thế chấp chứ không quan tâm nhiều đến dòng vận động của luồng tiền của khách hàng. Mà rủi ro tín dụng phát sinh chủ yếu trong quá trình vận động của dòng tiền này. Hậu quả là có lúc nợ xấu lên đến 40% (1997 - 1998). Một trong các nguyên nhân chủ yếu là do một số ngân hàng đã không tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc tín dụng trong quá trình cấp tín dụng. Tuy nhiên hiện nay, nhiều ngân hàng không chỉ chấp hành triệt để nguyên tắc tín dụng mà còn đặc biệt chú trọng đến thông tin của khách hàng như: tư cách, hiệu quả kinh doanh, mục đích vay, dòng tiền và khả năng trả nợ, khả năng kiểm soát vay, năng lực quản trị và điều hành, thực trạng tài chính... Thứ ba, áp dụng các phương pháp cho điểm tín dụng khách hàng (Credit Scoring) làm cơ sở ra quyết định. Thứ tư, tuân thủ nguyên tắc phân quyền trong ra quyết định tín dụng. Tức là, quy định rõ ràng việc ra quyết định tín dụng theo mức tăng dần: mức phán quyết của một người, một nhóm người hay hội đồng quản trị. Ví dụ tại các ngân hàng của Thái lan quy định : >10 triệu Baht: 1 người chịu trách nhiệm; = 100 triệu Baht: phải qua 2 người chịu trách nhiệm; = 3 tỷ Baht phải do HĐQT quyết định. Thứ năm, giám sát khoản vay sau khi ký kết hợp đồng. Sau khi cho vay, ngân hàng phải coi trọng việc kiểm tra, giám sát các khoản vay bằng cách tiếp tục thu thập thông tin về khách hàng, thường xuyên giám sát và đánh giá xếp loại khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống rủi ro. Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNO& PTNT VIỆT NAM CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHNO&PTNT BẮC HÀ NỘI 2.1.1. Sự hình thành và phát triển. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam Chi nhánh Bắc Hà Nội là một Chi nhánh cấp 1 trong mạng lưới Chi nhánh của NHNo&PTNTVN. Chi nhánh Bắc Hà Nội được thành lập theo quyết định số 342/QĐ/HĐQT-TTCB của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNTVN ngày 05 tháng 9 năm 2001. NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội có trụ sở đặt tại số 217 Phố Đội Cấn Quận Ba Đình Hà Nội. Sau 6 năm hình thành và phát triển đến nay Chi nhánh Bắc Hà Nội đã ngày càng hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của các phòng ban cũng như của các chi nhánh trực thuộc . Đến 31 tháng 12 năm 2007 mạng lưới của Chi nhánh NH No&PTNT Bắc Hà Nội được chia làm ba nhóm: Nhóm phòng ban tại trụ sở chính, các chi nhánh cấp hai trực thuộc, các phòng giao dịch trực thuộc. Thứ nhất, các phòng ban bao gồm: Phòng Kế toán - Ngân quỹ. Phòng tín dụng. Phòng Nguồn vốn và Kế hoạch tổng hợp. Phòng Thanh toán quốc tế. Phòng Kiểm tra Kiểm toán. Phòng Hành chính Nhân sự. Phòng thẻ và phát triển sản phẩm dịch vụ. Thứ hai, các Chi nhánh trực thuộc địa chỉ và Quyết định thành lập bao gồm: Chi nhánh Hoàng Quốc Việt địa chỉ tại 95 Hoàng Quốc Việt, phường Nghĩa Đô, Quận Cầu Giấy, Hà Nội. Thành lập theo quyết định số 69/QĐ/HĐQT-TCCC ngày 8 tháng 4 năm 2003 của Chủ tịch HĐQT NHNo&PTNTVN( tiền thân là phòng giao dịch số 1- NHNo&PTNT Bắc Hà Nội). Chi nhánh Kim Mã địa chỉ 129 đường Kim Mã, phường Kim Mã quận Ba Đình Hà Nội. Thành lập theo quyết định số 280/QĐ/HĐQT-TCCC ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chủ tịch HĐQT NHNo&PTNTVN. Chi nhánh Nguyễn Văn Huyên địa chỉ Lô B1-DN17, khu đất 2, đường Nguyễn Văn Huyên, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Thành lập theo quyết định số 127/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 17 tháng 5 năm 2005 của Chủ tịch HĐQT NHNo&PTNTVN. Thứ ba, các Phòng giao dịch trực thuộc bao gồm: Phòng giao dịch số 2 địa chỉ số nhà 59-61 phố Hàng Giấy, phường Đồng xuân, quận Hoàn Kiếm Hà Nội. Thành lập theo quyết định số 283/QĐ-HCNS ngày 17 tháng 5 năm 2002 của Giám đốc chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Phòng giao dịch số 4 địa chỉ lô 6 dãy E khu D74Công Binh, phường Ngọc Hà, Quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội. Thành lập theo quyết định số 547QĐ/HCNS ngày 07 tháng 10 năm 2003 của Giám đốc chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Phòng giao dịch số 5 địa chỉ số 65A Cửa Bắc, phường Trúc Bạch, quận Ba đình, Hà Nội.Thành lập theo quyết định số 276QĐ/HCNS ngày 20 tháng 5 năm 2004 của Giám đốc chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Phòng giao dịch số 1 trực thuộc chi nhánh Hoàng Quốc Việt, địa chỉ số 97, đường Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Thành lập theo quyết định số 18/HCNS ngày 05 tháng 1 năm 2006 của Giám đốc chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. 2.1.2. Chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Bắc Hà Nội có ba chức năng cơ bản: Một là, một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Hai là, khi Ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thực tế của Khách hàng tăng lên và qua đó Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán cho khách hàng, nhờ đó khách hàng dùng số tiền đó mua hàng hoá và dịch vụ. Ba là, với vai trò trung gian thanh toán, Ngân hàng thay mặt khách hàng thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ. Ngoài ra còn thực hiện thanh toán bù trừ thông qua NHTW hoặc các trung tâm thanh toán. Nhiệm vụ của Ngân hàng là khai thác thị trường khu vực thành phố Hà Nội và thực hiện các chương trình theo chỉ đạo của NH No&PTNT Việt Nam Sơ đồ 2: sơ đồ cơ cấu tổ chức của trụ sở chính GIÁM ĐỐC PHÒNG TÍN DỤNG PHÒNG KẾ TOÁN NGÂN QUỸ PHÒNG KIỂM TRA KIỂM TOÁN NỘI BỘ PHÒNG HÀNH CHÍNH NHÂN SỰ PHÒNG NGUỒN VỐN & KẾ HOẠCH TỔNG HỢP PHÒNG THANH TOÁN QUỐC TẾ PHÒNG THẺ & PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM Sơ đồ 3: Sơ đồ mạng lưới chi nhánh của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI (CẤP 1) CHI NHÁNH KIM MÃ CHI NHÁNH HOÀNG QUỐC VIỆT CHI NHÁNH NGUYỄN VĂN HUYÊN PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 2 PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 4 PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 5 PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 1 Như vậy chi nhánh Bắc Hà Nội quản lý trực tiếp 3 chi nhánh cấp 2 và 3 phòng giao dịch trực thuộc. Các phòng giao dịch trực thuộc thực chất có vị trí ngang ngàng với các chi nhánh cấp 2 nhưng quy mô nhỏ hơn nhiều nên chỉ gọi tên là “phòng giao dịch” chư không phải một chi nhánh. Riêng phòng giao dịch số 1 là phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh Hoàng Quốc Việt. 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNO&PTNT BẮC HÀ NỘI 2.2.1. Nghiên cứu xác định các loại rủi ro tín dụng. Để quản trị được rủi ro, trước hết phải nhận dạng được rủi ro đó. Đó là điều mà cán bộ tín dụng ngân hàng Bắc Hà Nội luôn ý thức được. Ngân hàng muốn xác định và nhận dạng được những rủi ro trước hết tiến hành phân tích hoạt động tín dụng theo các nghiệp vụ và xác định từng loại rủi ro trong mỗi nghiệp vụ đó. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào hoạt động cho vay nên sau đây sẽ đi vào phân tích rủi ro trong hoạt động cho vay. Nghiên cứu xác định các loại rủi ro tín dụng tại ngân hàng Bắc Hà Nội bao gồm các công việc: Nhận dạng rủi ro: ngân hàng trước hết phân tích cơ cấu cho vay theo các tiêu thức như thời hạn, khách hàng, phương thức cấp vốn, hình thức tài trợ…và xác định các loại rủi ro có thể có đối với mỗi loại hình và khả năng rủi ro xảy ra của từng loại. Đối với mỗi loại rủi ro thì việc nhận dạng bao gồm theo dõi rủi ro, xem xét rủi ro, nghiên cứu môi trường hoạt động cụ thể nhằm thống kê những rủi ro đã và đang xảy ra đồng thời cố gắng dự báo những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để đề ra những biện pháp kiểm soát và tài trợ phù hợp. Các phương pháp thường được sử dụng là phân tích các báo cáo, phân tích các hợp đồng vay vốn cụ thể và làm việc trực tiếp với các bộ phận có liên quan khi rủi ro xảy ra. Ở ngân hàng Bắc Hà Nội chủ yếu rủi ro được nhận dạng khi đã có những dấu hiệu hay biểu hiện nào đó khi rủi ro đã xảy ra hoặc đã nhìn thấy được nguy cơ. Còn việc nhận dạng rủi ro trong tương lai hay dự đoán rủi ro thực chất chỉ là những phân tích sơ bộ và đưa ra các dự báo chung chung bởi lẽ ngân hàng hiện chưa áp dụng một kỹ thuật cảnh báo và phòng chống rủi ro hiệu quả. Nói chung qua nghiên cứu thống kê những rủi ro trong quá khứ và dự báo xu thế phát triển thì những loại rủi ro ngân hàng Bắc Hà Nội gặp phải là: Thứ nhất, rủi ro từ môi trường kinh tế: do đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng khách hàng sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ mà hai đối tượng khách hàng này chịu tác động mạnh mẽ bởi môi trường kinh tế, tình hình cạnh tranh trên thị trường nên những diễn biễn bất thường ảnh hưởng trực tiếp đến khách hàng và gián tiếp gây rủi ro cho ngân hàng. Mặt khác những biến động của nền kinh tế nói chung như tình trạng lạm phát, thị trường chứng khoán suy giảm, giá cả tăng cao cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Trong thời gian vừa qua lạm phát tăng với tốc độ phi mã chính là một ví dụ điển hình vì kinh tế vĩ mô đã chỉ ra rằng lạm phát tăng cao trực tiếp gây thiệt hại cho người cho vay. Thứ hai, rủi ro từ phía khách hàng. Khách hàng của ngân hàng bao gồm cả người đi vay lẫn người cho vay, với vai trò là trung gian ngân hàng phải gánh chịu rủi ro từ cả hai phía. Từ phía người đi vay, chủ yếu là do những diễn biễn bất lợi của thị trường khiến họ gặp khó khăn cũng như xuất phát từ chính hoạt động kinh doanh thiếu hiệu quả khiến họ không trả được lãi vay và gốc vay đúng hạn. Còn về mặt rui ro đạo đức thì ngân hàng Bắc Hà Nội còn yếu kém trong việc xác định rõ những khách hàng có đủ khả năng nhưng cố tình “dây dưa” trả nợ (vì khách hàng không muốn trả đúng hạn thường cố tình đưa ra các bằng chứng chứng minh họ gặp khó khăn để xin ân hạn). Từ phía người cho vay, ngân hàng cũng như bất kỳ tổ chức tín dụng nào đều phải đối mặt với rủi ro thanh khoản khi khách hàng muốn rút tiền trước hạn (nguyên tắc là không được từ chối). Trong giai đoạn vừa qua rủi ro này biểu hiện rõ rệt hơn bao giờ hết. Do nền kinh tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, lạm phát tăng, giá cả tăng nên nhu cầu tiền chi tiêu của người dân tăng và số lượng tiền gửi khách hàng muốn rút cũng tăng, mặt khác các doanh nghiệp vay vốn cũng gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ vay , dẫn đến tình trạng ngân hàng thiếu vốn khả dụng và không thanh toán được cho người gửi tiền. Khi ngân hàng gặp kho khăn như vậy thì tâm lý người gửi tiền lại càng lo sợ và muốn rút tiền về cho an toàn, ngân hàng đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Những tháng cuối năm 2007 đầu năm 2008 là khoảng thời gian các ngân hàng nói chung rơi vào tình trạng bị rủi ro thanh khoản mạnh mẽ nhất. Thứ ba, rủi ro từ chính sách. Những thay đổi trong chính sách, các quy định của luật pháp ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Đó là những quy định về điều kiện của TSĐB, về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước áp dụng (linh hoạt hay thắt chặt), v.v Thứ tư, rủi ro từ cách tổ chức điều hành hoạt động tín dụng cũng như chính sách tín dụng của ngân hàng. Có thể thấy điều này trong chính cung cách làm việc của ngân hàng. Ví dụ như khâu thẩm định khách hàng vay vốn tại ngân hàng do bộ phận thẩm định của phòng kế hoạch nguồn vốn đảm trách, phòng tín dụng cũng có tiến hành nhưng tính độc lập của hai hoạt động thẩm định chưa được đảm bảo nên chưa đảm bảo tính tái thẩm định của hồ sơ vay vốn. Đối với tài sản thế chấp cũng vậy, việc tách bạch giữa khâu đánh giá tài sản thế chấp với bộ phận trực tiếp kinh doanh cũng còn nhiều vấn đề. Nhiều khi chính cán bộ tín dụng tham gia vào việc đánh giá nên có thể nếu họ nhận định hồ sơ của khách hàng rất tốt và rất muốn cho vay thì họ có xu hướng đánh giá tốt TSĐB để hồ sơ được phê duyệt. Phân tích và đo lường rủi ro: Các loại rủi ro được đã được xác định sẽ được phân tích và đo lường mức độ để tìm nguyên nhân rủi ro nhằm có phương án đối phó, xử lý phù hợp. Lý thuyết thì như vậy nhưng tại những chi nhánh cấp 1 như ngân hàng Bắc Hà Nội thì rủi ro thường chỉ được phân tích một cách định tính chứ để đo lường mức độ rủi ro thì ngân hàng chưa thực hiện được. Bởi vì ngân hàng chưa áp dụng được các phương pháp đo lường hiện đại nên chỉ tiến hành phân tích thông qua các báo cáo tài chính, dựa trên các chỉ tiêu để xác định nguyên nhân cũng như mức độ ảnh hưởng của rủi ro nhằm tìm biện pháp tác động để hạn chế tổn thất của những rủi ro đó. 2.2.2. Xây dựng chiến lược, kế hoạch QTRR tín dụng Tại ngân hàng Bắc Hà Nội, hàng năm vào dịp đầu năm Ngân hàng vẫn thường kỳ tổ chức hội nghị tổng kết đánh giá hoạt động kinh doanh năm trước và đề xuất mục tiêu biện pháp cho năm tiếp theo. Tại hội nghị này, mỗi phòng ban sẽ phải trình bày kế hoạch chiến lược hành động cho năm đó dựa trên chức năng nhiệm vụ mà phòng ban mình đảm nhiệm. Như vậy việc xây dựng chiến lược, kế hoạch quản trị rủi ro tín dụng là do phòng tín dụng thực hiện và được Ban Giám đốc phê duyệt. Như đã trình bày ở chương 1, chiến lược về QTRR mang tính dài hạn còn kế hoạch QTRR là sự cụ thể hóa trong một giai đoạn nhất định nào đó. Thực tế Ngân hàng Bắc Hà Nội mới chỉ dừng lại ở việc lập một kế hoạch ngắn hạn cho từng năm chứ cũng chưa có được chiến lược rủi ro dài hạn. Kế hoạch QTRR tín dụng thực chất cũng chỉ là một phần nằm trong kế hoạch quản trị tín dụng nói chung bởi tại phòng tín dụng không có cán bộ nào chuyên trách về vấn đề rủi ro cả. Kế hoạch quản trị tín dụng bao gồm: quản lý khách hàng tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng và quản lý điều hành tín dụng. Tuy nhiên ba bộ phận trên không tách rời mà hỗ trợ trực tiếp cho nhau. Bởi vậy khi thực hiện quản lý rủi ro tín dụng thì nhất thiết phải quan tâm đến cả công tác quản lý khách hàng và quản lý việc tổ chức điều hành tín dụng. Kế hoạch quản trị tín dụng được lập dựa trên kế hoạch kinh doanh tổng quát của ngân hàng, tình hình hoạt động của bộ phận tín dụng đến thời điểm lập và kết quả phân tích môi trường cũng như những dự báo hoạt động trong thời gian tới. Cụ thể trong kế hoạch về quản lý rủi ro tín dụng thì bao gồm: Thứ nhất, quản lý các khoản vay: Các khoản vay của khách hàng được ngân hàng lên kế hoạch quản lý trên cơ sở phân loại các khoản vay thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Mỗi khoản vay này có đặc điểm và độ rủi ro khác nhau nên ngân hàng cũng có cách hành xử khác nhau. Theo Điều 6 QĐ493 và QĐ18 (Bổ sung quyết định 493) của thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì ngân hàng tiến hành phân loại nợ vay như sau: “Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: - Các khoản nợ trong hạn và được ngân hàng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn; - Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và ngân hàng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định . Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: - Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày; - Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì ngân hàng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu); - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy._.g trả nợ Lợi nhuận hoạt động dự kiến hàng năm /Gốc và lãi tiền vay phải trả hàng năm 1 4 7 > 3 2 - 3 < 2 Tài sản đảm bảo Chất lượng Tính khả mại 1 2 4 4 6 8 > 250% giá trị khoản vay/tính khả mại cao > 250% giá trị khoản vay/tính khả mại trung bình > 250% giá trị khoản vay/tính khả mại thấp = giá trị khoản vay/ Tính khả mại cao = giá trị khoản vay/ Tính khả mại trung bình = giá trị khoản vay/ Tính khả mại thấp Tổng số điểm Phân loại chung Điểm Mức độ rủi ro Nhận xét - Đưa ra những đặc điểm cụ thể A 10 – 20 Thấp B 21 – 35 Trung bình C 36 - 50 Chấp nhận được D Trên 50 Quá cao Thực hiện tái thẩm định. Một trong những nguyên tắc khi ra quyết định cấp tín dụng là tính tái thẩm định có nghĩa là hồ sơ khách hàng phải được thẩm định nhiều hơn một lần. Cán bộ tín dụng có thể nhờ người khác thẩm định ví dụ như các công ty kiểm toán (cũng có thể là khách hàng thuê kiểm toán trước và cung cấp kết quả cho cán bộ tín dụng). Tất nhiên bên kiểm toán có đủ chuyên môn và kinh nghiệm nên họ làm việc này sẽ nhanh và hiệu quả hơn. Tuy vậy lại có một vấn đề là đây có thể là cái chỗ nảy sinh tiêu cực ví dụ như sự móc ngoặc của khách hàng với bên kiểm toán. Dù sao đi nữa kiểm toán vẫn là người thứ ba nên để hạn chế rủi ro thì cán bộ tín dụng vẫn nên xem xét lại hồ sơ nói cách khác là tái thẩm định hồ sơ. Nếu ngân hàng có bộ phận chuyên thẩm định thì cả hai bên (tín dụng và thẩm định) sẽ song song thẩm định một cách độc lập và quyết định được xây dựng dựa trên đối chiếu hai kết quả. Tại ngân hàng Bắc Hà Nội, việc thẩm định là do phòng tín dụng thực hiện. Do đó tính tái thẩm định trước khi ra quyết định cho vay không được bảo đảm, chứa ẩn nhiều rủi ro. Để giảm thiểu rủi ro thì trong thời gian tới ngân hàng Bắc Hà Nội nên có bộ phận tthaarm định độc lập với bộ phận tín dụng, tổ chức công tác này một cách nghiêm túc, đảm bảo quy trình thẩm định được chặt chẽ nhất và cho kết quả chính xác nhất. Đánh giá và quản lý tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo là công cụ hữu hiệu cho ngân hàng giảm thiểu những tổn thất khi mà rủi ro đã xảy ra vậy nên đánh giá đúng tài sản đảm bảo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Mặc dù trọng tâm của các quyết định tín dụng là khả năng trả nợ, tuy nhiên cán bộ tín dụng vẫn cần xem xét tài sản đảm bảo và giá trị của tài sản để thanh toán nợ vay trong trường hợp kế hoạch thanh toán nợ vay không thể thực hiện được theo dự kiến. Phương pháp thường được sử dụng là so sánh giá trị các khoản nợ với giá trị phát mại của tài sản. Tài sản đảm bảo có ý nghĩa quan trọng nhưng cần chú ý là đây chỉ là điều kiện cần chứ không phải điều kiện đủ. Khi đánh giá tài sản đảm bảo thì chi nhánh Bắc Hà Nội nên chú ý những điểm sau: Một là, phải xác định rõ các điều kiện cần thiết đối với tài sản đảm bảo. Ngân hàng phải tuân thủ các quy định của ngân hàng Nhà Nước cũng như chỉ đạo của ngân hàng No&PTNT Việt Nam về các điều kiện được chấp nhận đối với TSĐB. Những thay đổi trong quy định phải được cập nhật và tuân thủ. Ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến các loại TSĐB hình thành từ chính nguồn vốn vay bởi lẽ đây là vấn đề rất phức tạp. Ví dụ như trước đây các ngân hàng cho phép vay vốn đầu tư chứng khoán và bất động sản và được sử dụng chính các tài sản đó làm TSĐB nhưng hiện nay việc đó không được chấp nhận nữa do những bất ổn của hai thị trường trên. Hai là, phải đánh giá chính xác và dự báo được những biến động trên thị trường có khả năng ảnh hưởng đến giá trị của TSĐB. Việc đánh giá TSĐB phải được tiến hành nghiêm túc, không nên chỉ dựa vào thông tin khách hàng cung cấp bởi lẽ khách hàng nào cũng muốn tài sản của mình được đánh giá cao nhất. Ngân hàng phải tính toán đến khấu hao và tình hình diễn biến thị trường, có kế hoạch đánh giá lại tài sản vì rủi ro tín dụng nằm ở tương lai nên ngân hàng phải tránh được khả năng phải phát mại tài sản ngân hàng chịu thiệt nhiều do giá trị thực tế của tài sản giảm quá nhiều so với đánh giá ban đầu. Ba là, không quá coi trọng hoặc quá xem nhẹ vai trò của TSĐB. Trước hết là ngân hàng nên tránh tâm lý ỷ lại tài sản đảm bảo vì đây chỉ là phương án cuối cùng khi không còn cách nào khác để thu hồi nợ. Ngân hàng cũng không nên bỏ qua việc đánh giá nghiêm túc TSĐB đối với các khách hàng truyền thống vì nếu rủi ro xảy ra thì sẽ không có nguồn bù đắp. 3.2.2.2. Kiểm soát sau khi cấp tín dụng Chất lượng của khoản tín dụng phải được đảm bảo không những trước khi ký kết hợp đồng mà còn phải tiếp tục đảm bảo trong suốt quá trình sau ký kết. Như vậy ngân hàng cần xây dựng bộ phận chuyên trách định kỳ kiểm tra diễn biến của khoản tín dụng. Cán bộ tín dụng sẽ phải cung cấp các báo cáo, các thông tin thường xuyên về tình hình khách hàng, tình hình dự án cũng như kiểm tra các hồ sơ tín dụng và các điều kiện khác. Cán bộ tín dụng rất cần thiết phải có kế hoạch “thăm khách hàng” tức đến kiểm tra, theo dõi tại hiện trường, trực tiếp thu thập và phân tích các số liệu về tình hình tài chính và các kết quả vận hành dự án chứ không phải chỉ xem xét các báo cáo khách hàng cung cấp. Bên cạnh đó việc kiểm soát không phải chỉ thực hiện ở kiểm tra khách hàng mà cần thiết phải có bộ phận kiểm tra chính các cán bộ tín dụng, giám sát việc tuân thủ quy trình tín dụng, chính sách tín dụng, danh mục tín dụng phát hiện các dấu hiệu bất thường để báo cáo cấp trên. Ban lãnh đạo có trách nhiệm xem xét và chỉ đạo việc thực hiện, nếu có sai sót phát hiện ra như cán bộ làm không đúng quy trình, cho vay vượt hạn mức, TSĐB không hợp pháp… thì cần kịp thời có biện pháp xử lý trước khi gây hậu quả lớn hơn. Để ngăn ngừa các rủi ro đạo đức có thể xảy ra thì lãnh đạo cấp trên cũng cần thường xuyên theo dõi, quản lý cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng và những người liên quan khác. 3.2.2.3. Xử lý nợ xấu. Với sự tham gia của ngày càng nhiều các ngân hàng thương mại, chưa bao giờ cuộc chạy đua giữa các ngân hàng lại sôi động thậm chí khốc liệt như hiện nay. Chính việc ganh đua giành thị phần nên các ngân hàng tăng cường mở rộng tín dụng, “cho vay theo phong trào” dẫn đến việc chất lượng tín dụng không được bảo đảm là điều dễ hiểu. Đến khi rủi ro xảy ra thì các ngân hàng vốn rất thiếu kinh nghiệm trở nên lúng túng trong việc xử lý các khoản nợ có vấn đề. Từ những đặc điểm riêng của ngân hàng Bắc Hà Nội cũng như thực tế hoạt động xử lý nợ xấu tại ngân hàng, xét thấy ngân hàng Bắc Hà Nội đang thực sự khó khăn khi phải đương đầu với các khoản nợ này. Những biện pháp thích hợp với ngân hàng có thể đưa ra là: Khi có nợ quá hạn, ngân hàng phải tổ chức quản trị ngay bằng cách phân công cán bộ theo dõi diễn biễn của khoản nợ quá hạn và đặc biệt chú ý khi nợ đã nhảy sang nhóm 3. Mỗi cán bộ, mỗi chi nhánh cấp 2 phải báo cáo thường xuyên nhất là khi món nợ chuyển nhóm. Cán bộ phải tìm hiểu ngay nguyên nhân của khoản nợ quá hạn, xác định khả năng phục hồi và đề xuất phương án xử lý chứ không để tình trạng khi báo cáo cấp trên thì nợ đã quá xấu rồi. Để giảm tối đa thiệt hại cho cả ngân hàng lẫn khách hàng thì yêu cầu cấp thiết là ngân hàng phải xác định đúng đắn mức độ “xấu” của khoản nợ, khả năng có thể phục hồi trong tương lai. Ngân hàng nên tránh tâm lý thụ động, thấy nợ xấu là nhanh chóng nghĩ đến phương án thu hồi bằng tài sản đảm bảo. Nếu khách hàng thực sự có thiện chí trả nợ thì ngân hàng nên cố gắng giúp đỡ, hỗ trợ khách hàng. Thanh lý bằng TSĐB chỉ là phương án cuối cùng khi không còn lựa chọn khác. Trong trường hợp xác định rõ khách hàng xử dụng vốn sai mục đích hoặc có ý lừa đảo thì phải ngay lập tức ngừng việc giải ngân và tìm cách thu hồi vốn. Trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo đúng quy định. Việc này sẽ khiến ngân hàng chủ động đối phó với các rủi ro khi nó xảy ra. 3.2.3. Các giải pháp về con người Đối với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào thì con người luôn là nhân tố then chốt quyết định đến thành bại của hoạt động bởi lẽ tất cả các hoạt động hung quy lại vẫn phải được thực hiện dưới bàn tay và trí óc con người. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với kinh doanh ngân hàng bởi lẽ rủi ro cao mà theo thống kê thì rủi ro xuất phát từ đạo đức là vấn đề nổi cộm nhất. Hiểu rõ vấn đề này nên ngân hàng Bắc Hà Nội luôn chú trọng đến công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực làm mối quan tâm hàng đầu. Tại chi nhánh ngân hàng No&PTNT Bắc Hà Nội đội ngũ cán bộ được đánh giá là tương đối trẻ (độ tuổi trung bình là 30,4tuổi). Với đội ngũ cán bộ trẻ như vậy thì ưu điểm là năng động và sáng tạo, tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có khả năng thích ứng tốt với môi trường mới. Điều này rất có ý nghĩa vì quản trị rủi ro hiện còn khá mới mẻ với các ngân hàng nói chung nên việc đào tạo cán bộ những kiến thức về quản trị rủi ro đang rất được quan tâm. Tuy nhiên riêng trong hoạt động tín dụng thì cán bộ trẻ tuổi cũng gây thách thức không nhỏ do họ còn thiếu kinh nghiệm, năng lực làm việc làm việc hạn chế. Do đó ngân hàng cần có những chính sách đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ tín dụng không phải chỉ về chuyên môn mà còn rèn luyện cả về đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm công việc. Làm được điều này thì ngân hàng có thể nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động tín dụng cũng như ngăn ngừa các vi phạm đạo đức của cán bộ. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì ngân hàng cần làm tốt ngay từ khâu tuyển dụng cán bộ. Trong công tác này ngân hàng cần đặt ra những tiêu chuẩn phù hợp và chặt chẽ. Ngân hàng nên có các chính sách tạo điều kiện cho đội ngũ nhân sự trẻ này có cơ hội học tập, nâng cao khả năng phân tích, khả năng điều tra và đàm phán với khách hàng. Ngoài ra cũng cần thiết phải sắp xếp vị trí công việc và phân công rõ trách nhiệm phù hợp năng lực của họ. Ngân hàng cũng nên phân loại cán bộ tín dụng để giao cho họ phụ trách những đối tượng khách hàng phù hợp trình độ quản lý của họ nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Do hoạt động tín dụng gồm nhiều loại nên những cán bộ được chuyên môn hóa với các nhóm đối tượng khách hàng riêng sẽ làm chất lượng công việc tăng lên rõ rệt. Ví dụ cán bộ nào đã có kinh nghiệm xử lý các hồ sơ vay vốn để xây dựng công trình thì để họ chuyên môn chỉ phụ trách các dự án vay vốn với mục đích xây dựng. Tương tự sẽ có cán bộ chuyên phụ trách cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay tiêu dùng… Một công việc cũng cần quan tâm nữa là chính sách đãi ngộ đối với cán bộ. Các chính sách lương, thưởng, phạt phải được xây dựng thống nhất, hợp lý tạo được động lực cho cán bộ phấn đấu làm việc, kích thích sự sáng tạo và trách nhiệm công việc bên cạnh đó cũng phải ngăn ngừa được các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp của cán bộ. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NO&PTNT BẮC HÀ NỘI. 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ Thứ nhất, hành lang pháp lý cần phải được hoàn thiện tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của các ngân hàng nói chung và ngân hàng Bắc Hà Nội nói riêng. Các bộ luật của Việt nam lâu nay vẫn tồn tại 3 đặc điểm là không rõ ràng, thiếu nhất quán và hay thay đổi. Do đó Chính phủ rất cần nỗ lực hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật rõ ràng, phù hợp điều kiện mới của nền kinh tế, tránh sự mập mờ dễ gây hiểu lầm hoặc cố tình hiểu lầm, tránh chồng chéo cũng như mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Đặc biệt trong thời gian tới dự thảo luật các tổ chức tín dụng sửa đổi sẽ thực sự khắc phục những hạn chế của luật hiện hành góp phần tạo điều kiện cho ngành ngân hàng hội nhập tốt hơn và chủ động hơn. Theo dự kiến, sau khi được Chính phủ xem xét thông qua tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 3/2008, Dự thảo Luật Các TCTD sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ ba (dự kiến vào tháng 5/2008) và trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ tư (dự kiến vào tháng 10/2008). Thứ hai, nhằm tạo một môi trường kinh tế ổn định Chính phủ cần có các chính sách phù hợp giải quyết các vấn đề nổi cộm trong nền kinh tế hiện nay. Trong giai đoạn vừa rồi hoạt động kinh doanh ngân hàng mà trong đó đặc biệt là hoạt động tín dụng gặp rất nhiều khó khăn đòi hỏi Chính phủ phải đề ra các biện pháp giúp các ngân hàng tháo gỡ khó khăn. Báo cáo của Bộ Chính trị ngày 4 tháng 4 vừa qua cũng chỉ ra một thực tế là sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á (1997 - 1998), Nhà nước đã thực hiện chính sách kích cầu bằng việc nới lỏng tín dụng, tăng chi tiêu ngân sách cho đầu tư...nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng. Đây là chính sách phù hợp và có tác dụng tích cực trong thời kỳ "thiểu phát", nhưng khi tình hình trong nước và thế giới thay đổi, nước ta gia nhập WTO, nền kinh tế của ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhất là khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có dấu hiệu tăng cao dần thì lại chưa được điều chỉnh kịp thời cho phù hợp hoàn cảnh mới. Bên cạnh đó chính sách tiền tệ nới lỏng liên tục trong nhiều năm, nhất là trong năm 2007, làm tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế tăng mạnh, kết quả của cuộc chạy đua cho vay của các ngân hàng. Năng lực kiểm tra, giám sát của ngân hàng nhà nước chậm được tăng cường, không theo kịp tình hình khi các tổ chức tín dụng chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, không kiểm soát có hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần trong việc cho vay kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản. Trong bối cảnh hiện nay mục tiêu ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, cùng với đó là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Chính phủ cũng cần nghiên cứu trình Quốc hội cho điều chỉnh tốc độ tăng giá cả năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 ở mức độ phù hợp. Thứ ba, giữa các cơ quan chức năng cần thiết lập mối quan hệ phối hợp đồng bộ trong việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn vừa qua, thị trường chứng khoán và bất động sản có những diễn biến phức tạp ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nhiều khoản tín dụng của các ngân hàng. Nhiều món vay đầu tư chứng khoán và bất động sản trở thành gánh nặng nợ xấu đang làm nhiều ngân hàng phải đau đầu. Trong thời gian tới đây nhà nước cần chỉ đạo, rà soát để những đơn vị có đủ điều kiện và năng lực kinh doanh chứng khoán hoạt động lành mạnh; kiên quyết không cho thành lập, hoạt động đối với những đơn vị không đủ điều kiện kinh doanh. Tiếp tục thực hiện tốt chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cung cấp hàng hoá có chất lượng cho thị trường. Bên cạnh đó sớm ban hành chính sách thuế chống đầu cơ bất động sản; các chính sách và thủ tục hành chính thông thoáng để thị trường chứng khoán và bất động sản phát triển một cách lành mạnh. Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn vay ngân hàng của các công ty để đầu tư vào thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản; từng bước lành mạnh hoá hai loại thị trường này, khắc phục tình trạng đầu cơ, đẩy giá lên cao như thời gian qua. 3.3.2.Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thứ nhất, Ngân hàng nhà nước cần nắm chắc thông tin, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, việc cho vay kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh doanh tiền tệ khác. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng hợp lý dư nợ tín dụng, khả năng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và kiềm chế lạm phát. Tăng cường công tác giám sát các tổ chức tín dụng, bổ sung các công cụ giám sát theo cơ chế thị trường, thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn những biến động trên thị trường tín dụng, tiền tệ. Thứ hai, ngân hàng cần sớm có những chỉ đạo cụ thể cho các ngân hàng thương mại về các thức tổ chức tiến hành hoạt động quản trị rủi ro, ban hành các văn bản quy định về quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế. Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (Credit information Center _ CIC) nhằm giúp các ngân hàng khai thác thông tin một cách hiệu quả tại trung tâm này. Để quản trị rủi ro thì ngân hàng cần rất nhiều thông tin và phải đảm bảo tính chính xác từ đó mới đưa ra các phân tích, đánh giá và xếp loại tín dụng tuy nhiên trong điều kiện hiện nay các ngân hàng rất khó khăn khi thực hiện công việc này. Do đó nếu có thể khai thác hiệu quả những thông tin từ CIC thì chất lượng hoạt động tín dụng sẽ được nâng lên rõ rệt. 3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Thứ nhất, cần xây dựng các kế hoạch đào tạo cán bộ quản trị rủi ro và triển khai mô hình quản trị rủi ro tại hội sở sau đó tổ chức hội thảo để truyền tải kinh nghiệm cũng như hướng dẫn các chi nhánh thực hiện. Thứ hai, thường xuyên có sự kiểm tra và hỗ trợ chi nhánh về công tác quản trị rủi ro, có thể cử cán bộ chuyên môn xuống chi nhánh trực tiếp giúp đỡ, tư vấn hoặc cung cấp kinh phí cũng như các điều kiện khác hỗ trợ chi nhánh. Thứ ba, xây dựng hệ thống thông tin nội bộ thực sự hiệu quả để giữa các chi nhánh cũng như giữa chi nhánh với hội sở có thể trao đổi thông tin, kinh nghiệm về quản trị rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro trên cả mạng lưới chi nhánh KẾT LUẬN Hoạt động kinh doanh ngân hàng hiện nay đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, đây cũng là tất yếu chung khi nền kinh tế Việt Nam đang ngày một phát triển. Với vai trò là một trung gian tài chính mà thường được các chuyên gia ví von bằng hình tượng “mượn đầu heo nấu cháo”, các ngân hàng có hoạt động hiệu quả thì các thành viên khác trong nền kinh tế mới có điều kiện phát triển hoạt động của mình. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh ngân hàng lại chứa đựng quá nhiều rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng. Vì lẽ đó, quản trị rủi ro tín dụng là việc làm tất yếu nếu các ngân hàng muốn phát triển bền vững, an toàn, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế chung. Thế nhưng tại ngân hàng hiện nay lại chưa có sự đầu tư đầy đủ cho nghiên cứu và triển khai công tác này. Đây là một khó khăn rất lớn cho các ngân hàng nói chung khi hiện nay hệ thống ngân hàng phát triển rộng khắp, cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Trong thời gian thực tập và nghiên cứu đề tài “quản trị rủi ro tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội – thực trạng và giải pháp”em nhận thấy rằng tại ngân hàng chưa có một bộ phận nào thực hiện việc nghiên cứu QTRR một cách hệ thống, những gì ngân hàng làm mới chỉ là cố gắng phòng tránh và hạn chế rủi ro xảy ra mà thôi. Vì lẽ đó mà rủi ro nói chung, rủi ro tín dụng nói riêng tại ngân hàng chưa thực sự được “quản trị” một cách hiệu quả, có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường trong tương lai. Trong quá trình thực hiện đề tài, em thực sự gặp nhiều khó khăn vì lĩnh vực tài chính - ngân hàng không phải là chuyên môn em được đào tạo. Vì lẽ đó em đã cố gắng trình bày các vấn đề lý thuyết theo hướng QTRR trong kinh doanh thương mại nói chung, vận dụng cho một tổ chức kinh doanh cụ thể là NHNo&PTNT Bắc Hà Nội (trên cơ sở xem xét ngân hàng như một doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt). Việc thực hiện chuyên đề tốt nghiệp này của em hắc chắn còn nhiều thiếu sót, em kính mong các thầy cố trong Khoa Thương mại góp ý, hướng dẫn cho em có thể hoàn thiện chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Quản trị ngân hàng thương mại – Lê Văn Tề Phương pháp mạo hiểm và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh - Nguyễn Văn Tiến Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại – Lê Văn Tư Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. - Nguyễn Văn Tiến Giáo trình quản trị doanh nghiệp thương mại – GS.TS. Hoàng Minh Đường Các trang web: http/www/vnexpress.com.vn http/www/hvnhedu.com.vn/e-learning http/www/doanhnghiep24g.com.vn http/www/24h.com.vn PHỤ LỤC Kết quả kinh doanh chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2004 Kết quả kinh doanh chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2005 Kết quả kinh doanh chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2006 Kết quả kinh doanh chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2007 (tài liệu hội nghị tổng kết kết quả kinh doanh 2007 – mục tiêu và giải pháp kinh doanh năm 2008) ---------------------------------------------------------------- 1. Kết quả kinh doanh năm 2004. 1.1. Nguồn vốn. Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2004 đạt 3.422 tỷ đồng tăng 15,7% so với năm 2003. Trong đó nguồn vốn nội tệ là 2.683 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 78,4% tổng nguồn, nguồn vốn ngoại tệ đạt 739 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 21,6% tổng nguồn vốn. 1.2. Sử dụng vốn. 1.2.1. Doanh số cho vay thu nợ. Doanh số cho vay: 1463 tỷ đồng Doanh số thu nợ :1322 tỷ đồng 4.1.2.2. Dư nợ Tổng dư nợ đến thời điểm 31/12/2004 đạt 1027,6 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 30% tổng nguồn vốn ( tăng 127 tỷ đồng so với 2003). Trong đó nội tệ là 711,09 tỷ chiếm tỷ trọng 69,2%, ngoại tệ quy đổi 316,51 tỷ chiếm tỷ trọng 30,82%. 1.2.3. Nợ xấu. Đến thời điểm 31/12/2004 : 1.747 triệu đồng chiém tỷ trọng 1,7% tổng dư nợ. 1.3. Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. - Thanh toán hàng nhập khẩu: 886 món và tổng trị giá 18.764.749 $. - Thanh toán hàng xuất khẩu: tổng số 21 món và tổng trị giá 869.928 $ - Doanh số mua – bán ngoại tệ: tổng trị giá 75.705.805 $. Trong đó: + Doanh số mua ngoại tệ: 37.062.789 $ + Doanh số bán ngoại tệ: 38.051.466 $ 4.1.4 Thanh toán trong nước. - Doanh số chuyển tiền trong nước: tổng số tiền 13.566 tỷ đồng với 5702 món. - Thu chi tiền mặt ( bao gồm cả ngoại tệ quy đổi): + Doanh số thu tiền mặt: 3.115 tỷ đồng + Doanh số chi tiền măt: 3.127 tỷ đồng 1.5. Kết quả tài chính - Tổng thu: 216.352 tỷ đồng - Tổng chi: 184.116 tỷ đồng - Chênh lệch thu chi: 32.236 tỷ đồng 2.Kết quả kinh doanh năm 2005 2.1. Nguồn vốn. Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2005 đạt 4.046 tỷ đồng, tăng 624 tỷ đồng so với đầu năm với tỷ lệ tăng 18,24%. Trong đó: nguồn vốn nội tệ 3.444 tỷ đồng, tăng so với đầu năm 761 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng 85,12% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn ngoại tệ quy đổi dạt 603 tỷ đồng, giảm 136 tỷ đồng so với đầu năm, chiếm tỷ trọng 45,9 % tổng nguồn vốn. Cơ cấu nguồn vốn phân ra như sau: - Cơ cấu nguồn vốn huy động theo thời gian: + Nguồn vốn không kỳ hạn: 1.121 tỷ đồng, chiếm 27,7% tổng nguồn, trong đó ngoại tệ quy đổi đạt 25 tỷ đồng. + Nguồn vốn có kỳ hạn dưới 12 tháng : 1.856 tỷ đồng chiếm 45,9% tổng nguồn vốn. trong đó ngoại tệ quy đổi đạt 467,4 tỷ đồng. + Nguồn vốn có kỳ hạn từ 12 đến 24 tháng đạt 468 tỷ đồng chiếm 11,6 % tổng nguồn. trong đó ngoại tệ quy đổi đạt 94,8 tỷ đồng + Nguồn vốn có kỳ hạn trên 24 tháng đạt 601 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 14,85% tổng nguồn. trong dó ngoại tệ quy đổi 15,9 tỷ đồng. 2.2. Sử dụng vốn 2.2.1 Doanh số cho vay thu nợ - Doanh số cho vay: 1632 tỷ đồng trong đó: + Phân theo thời gian cho vay: ngắn hạn 1331 tỷ đồng, trung hạn 301 tỷ đồng + Phân theo thành phần kinh tế: DNNN 512 tỷ đồng, DNNQD 839 tỷ đông, HỘ SXKD và tư nhân cá thể và cho vay khác 281 tỷ đồng, riêng cho vay tiêu dùng 121 tỷ dồng - Doanh số thu nợ: 1498 tỷ đồng. Trong đó: + Phân theo thời gian cho vay: ngắn hạn dạt 1239 tỷ đồng; trung hạn 259 tỷ đồng. + Phân theo thành phần kinh tế : DNNN 561 tỷ đồng; DNNQD 799 tỷ đồng; tư nhân cá thể và thu nợ khác 138 tỷ đồng, riêng thu nợ cho vay tiêu dùng đạt 111 tỷ đồng. 2.2.2.Dư nợ Tổng dư nợ đến thời điểm 31/12/2005 đạt 1.163,6 tỷ đồng, chiếm 28,75% tổng nguồn vốn, tăng 136 tỷ ( tăng 13%). Trong đó: nội tệ 770,2 tỷ chiếm tỷ trọng 66,19 %. Ngoại tệ ( quy VNĐ) 393,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33, 81% tổng dư nợ. + Dư nợ ngắn hạn: 647 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 55% trong tổng dư nợ, trong đó ngoại tệ quy đổi 148,8 tỷ đồng. + Dư nợ trung, dài hạn: 516,6 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 45% tổng dư nợ. trong đó ngoại tệ quy đổi đạt 244,5 tỷ đồng. - Cơ cấu dư nợ phân theo thành phần kinh tế. + Dư nợ cho vay DNNN: 317,5 tỷ đồng. chiếm tỷ trọng 27.29% + Dư nợ cho vay DNNQD: 712,1 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 61,19% + Dư nợ cho vay hộ SXKD, tư nhân cá thể và cho vay khác: 134 tỷ dồng, chiếm tỷ trọng 11,5% , trong đó cho vay tiêu dùng là 85,5 tỷ đồng. 2.2.3 Nợ quá hạn Đến thời điểm 31/12/2005: 1868 triệu đồng chiếm tỷ trọng 0,16%. Trích lập quỹ dự phòng: 8 tỷ bao gồm cả dự phòng cụ thể và dự phòng chung. 2.3. Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. 2.3.1 Thanh toán hàng nhập khẩu: Với tổng số món 1055 món và tổng trị giá 88.274.058 $ tăng 169 món ( tăng 19,07 % so với năm 2004) tăng trị giá 27.021.239$ ( tăng 44% năm 2004) 2.3.2. Thanh toán hàng xuất khẩu: Với tổng số 45 món và tổng trị giá 3.279.628$ ( tăng 277 % so với 2004) 2.3.3. Doanh số mua bán ngoại tệ: Với tổng trị giá 87.873.792 $ tăng 17% so với 2004, trong đó : Doanh số mua ngoại tệ : 43.734.092 $ tăng 18% so với 2004 Doanh số bán ngoại tệ : 44.139.700 $ tăng 16% so với 2004 2.3.4.Phục vụ dự án: Rút vốn về TK đặc biệt phục vụ dự án với tổng số 3.772.257 $ 2.3.5 Chi trả kiều hối: - Qua kênh Western Union: 372 món với số tiền 342.527 $ tăng 784 % so với năm 2004 - Qua tài khoản cá nhân: 67 món với số tiền 373.362 $ tăng 4% so với năm 2004 2.3.6.Triển khai thành lập các bàn thu đổi ngoại tệ Chi nhánh đã tích cực triển khai công tác Marketing tìm kiếm các cửa hàng vàng để ký kết hợp đồng đại lý thu đổi ngoại tệ góp phần tăng nguồn ngoại tệ phục vụ công tác TTQT. Năm 2005 đã mở thêm 5 bàn tăng tổng số bàn đại lý thu đổi ngoại tệ lên là 10 bàn, với tổng số ngoại tệ mua được từ các bàn thu đổi là gần 3 triệu $. 2.4. Thanh toán trong nước - Doanh số chuyển tiền điện tử: + Số món: 6.102 món + Số tiền ; 14.923 tỷ đồng - Doanh số thanh toán điện tử liên ngân hàng; + Số món: 16: 16.234 món + Số tiền: 31.609 tỷ đồng - Thu, chi tiền mặt 9 bao gồm cả ngoại tệ quy đổi) + Doanh số thu tiền mặt: 3.823 tỷ + Doanh số chi tiền mặt : 3.836 tỷ đồng + Công tác ngân quỹ: được đảm bảo an toàn, đúng chế độ, không để sai sót nhầm lẫn. Trong năm bộ phận ngân quỹ đã phạt hiện được 13.675.000 đồng tiền giả, có 23 lượt cán bộ trả thiền thừa cho khách hàng với tổng số 86 món, số tiền là 232.980.000 đồng, 1000EUR và 300$. 2.5. Kết quả tài chính Tổng thu: 276.541 triệu đồng Tổng chi: 226.199 triệu đồng Chênh lệch thu – chi: 50.362 triệu đồng. Tăng 56% so với 2004 Quỹ tiền lương xá lập theo đơn giá cả năm: 7.778 triệu đồng Hệ số lương đạt được binh quân năm 2005:2,32 lần 3. Kết quả kinh doanh năm 2006 3.1.Nguồn vốn Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2006 đạt 4.558 tỷ đồng, tăng so với đầu năm là 512 tỷ đồng với tỷ lệ tăng là 12,65%. Trong đó nguồn vốn nội tệ 4.096 tỷ đồng, tăng so với đầu năm 652 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng 89,86% tổng nguồn; Nguồn vốn ngoại tệ quy đổi đạt 462 tỷ đồng, giảm 141 tỷ đồng so với đầu năm, chiếm tỷ trọng 10,14% tổng nguồn vốn. Cơ cấu nguồn vốn phân ra như sau: - Cơ cấu nguồn vốn huy động phân theo thời gian: + Nguồn vốn không kỳ hạn 1426 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 31,28% so với tổng nguồn vốn. Trong đó ngoại tệ quy đổi 42 tỷ đồng + nguồn vốn có kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 1.311 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 28,74% tổng nguồn vốn. Trong đó ngoại tệ quy đổi 285 tỷ đồng; + Nguồn vốn có kỳ hạn >= 24 tháng đạt 782 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16% tổng nguồn. Trong đó ngoại tê quy đổi đạt 22 tỷ đồng - Cơ cấu nguồn vốn huy động theo thành phần kinh tế: + Nguồn vốn dân cư : 735 tỷ đồng , tăng 167 tỷ đồng , chiếm tỷ trọng 16% tồng nguồn. Trong đó ngoại tệ quy đổi 171 tỷ đồng + Nguồn vốn TCKT: 3.093 tỷ đồng , tăng 895 tỷ đồng .chiếm tỷ trọng 67,8% tổng nguồn. Trong đó ngoại tệ quy đổi 72 tỷ đồng + Nguồn vốn tiền gửi, tiền vay TCTD : 731 tỷ đồng ( bao gồm TG NHLD Việt Thái: 200 tỷ đồng , SGDI_NHPT: 130 tỷ đồng ), Trong đó ngoại tệ quy đổi 218 tỷ đồng 3.2 Sử dụng vốn 3.2.1.Doanh số cho vay, thu nợ Doanh số cho vay: 1,780 tỷ đồng , trong đó nợ ngắn hạn 1.540 tỷ đồng, trung hạn 170 tỷ đồng và dài hạn 70 tỷ đồng Doanh số thu nợ : 1.450 tỷ đồng , trong đó ngắn hạn là 1.292 tỷ đồng , trung hạn là 105 tỷ đồng và dài hạn là 52 tỷ đồng 3.2.2. Dư nợ: Tổng dư nợ đến thời điểm 31/12/2006 đạt 1491 tỷ đồng , chiếm tỷ trọng 32,71 tổng nguồn vốn. Trong đó nội tệ 1.114,5 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 74,75%, ngoại tệ quy dổi 376,9 tỷ đồng . chiếm tỷ trọng 25,28% trên tổng dư nợ, cụ thể: - Cơ cấu dư nợ phân theo thời gian: Dư nợ ngắn hạn 923 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 62% trong tổng dư nợ. Trong đó ngoại tệ quy đổi 187 tỷ đồng; dư nợ trung, dài hạn 568 tỷ đồng , chiếm tỷ trọng 38% tổng dư nợ, Trong đó ngoại tệ quy đổi 190 tỷ đồng - Cơ cấu dư nợ phân theo thành phần kinh tế: Dư nợ cho vay DNNN là 359 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 62% trong tổng dư nợ , trong đó ngoại tệ quy đổi là 187 tỷ đồng; dư nợ trung, dài hạn là 568tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 38% tổng dư nợ . trong đó ngoại tệ quy đổi đạt 190 tỷ đồng. 3.2.3. Nợ xấu : Tổng số nợ xấu đến thời điểm 31/12/2006 là 34,8 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 2,3% tổng dư nợ. 3.2.4. Trích lập dự phòng rủi ro: 26.356 triệu đồng. - Dự phòng chung: 2 tỷ đồng - Dự phòng theo phân loại nợ: 24.356 triệu đồng 3.3 Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế: 3.3.1 Thanh toán hàng nhập khẩu: Trong năm 2006 chi nhánh Bắc Hà nội đã thanh toán hàng nhập khẩu 1.168 món với tổng trị giá 74.387.355$ và 4.854.403 CNY , tăng 111 món so với 2005. 3.3.2 Thanh toán hàng xuất khẩu: Tổng số 48 món với tổng trị giá là 2.747.704 $ tăng 3 món so với 2005. 3.3.3.Doanh số mua bán ngoại tệ: Tổng doanh số mua bán ngoại tệ là 76.721.446 $ trong đó doanh số mua 38.313.462 $ và doanh số bán 38.407.984$ 4.3.3.4 Phục vụ dự án: Tổng số vốn rút qua tài khoản đặc biệt phục vụ dự án là 2.548.061 $ 3.3.5 Chi trả kiều hối: Tổng số 728 món với tổng trị giá 1.001.998 $ trong đó qua kênh western union 613 món với số tiền 483.717$ tăng 30% năm 2005 và qua tài khoản cá nhân 115 món với số tiền 518.281$ tăng 38% so với 2005. 3.3.6 Mở các đại lý thu đổi ngoại tệ. Tổng số bàn đại lý thu đổi ngoại tệ của chi nhánh đến thời điểm 31/12/2006 là 14 bàn, tăng 4 bàn so với năm 2005. Trong năm 2006 Chi nhánh đã mua từ các bàn đại lý được 3,1 triệu$. 4.3.4.Thanh toán trong nước. - Doanh số chuyển tiền trong nước: tổng số 61.694 tỷ với 15.840 món - Thu chi tiền mặt( bao gồm cả ngoại tệ quy đổi): doanh số thu tiền mặt 5.917 tỷ đồng và doanh số chi 5.918 tỷ dồng - Công tác ngân quỹ đảm bảo an toàn đúng chế độ, không đẻ sai sót nhầm lẫn. Trong năm, bộ phận ngân quỹ đã phát hiện được7.590.000đồng tiền giả, 273 lượt cán bộ trả tiền thừa cho khác hàngvới số tiền 99.085.000 đồng. 3.5. Kết quả tài chính Tổng thu: 391.212 triệu đồng. Tổng chi: 334.526 triệu đồng Chênh lệch thu- chi: 56.940 triệu đồng Quỹ tiền lương xác lập theo đơn giá cả năm: 9.422 triệu đồng Hệ số lương đạt được bình quân năm 2006 đạt 2,2 lần. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27771.doc