So sánh một số giống lạc trong điều kiện vụ thu 2002 trên đất Gia Lâm - Hà Nội

CHƯƠNG 1 Mở đầu . Đặt vấn đề Nước ta đang bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với mục tiêu hướng tới phát triển một nền nông nghiệp đa dạng và bền vững góp phần cung cấp nguồn nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất công nghiệp. Do đó, nước ta cần thiết chú trọng tăng cường diện tích, năng suất và sản lượng các cây trồng công nghiệp trong đó có cây lạc. Cây lạc (arachis hypogaea L.) còn có tên địa phương khác là cây đậu phộng, đậu phụng, đậu nụ - là cây thảo hàng năm, thuộc họ Đ

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu So sánh một số giống lạc trong điều kiện vụ thu 2002 trên đất Gia Lâm - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ậu (Fabaceae). Cây lạc có giá trị kinh tế cao, xếp thứ 13 trong số các loại cây thực phẩm trên thế giới (Varrell và Mc Cloud, 1975). Lạc có hàm lượng lipid và protein cao, khả năng đồng hoá của lipid và protein lạc rất cao, vì vậy lạc đã là nguồn thực phẩm giàu protein thực vật quan trọng cho con người và thức ăn gia súc ở nước ta. Ngoài giá trị sử dụng như là một nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và có giá trị kinh tế cao, cây lạc còn là một cây trồng có giá trị bồi dưỡng và cải tạo đất trong hệ thống luân canh, đặc biệt là trên đất bạc màu nghèo dinh dưỡng. Là cây trồng họ Đậu, lạc có khả năng cải tạo khu hệ vi khuẩn đất, nhất là làm phong phú hơn hệ vi khuẩn hảo khí, tạo cơ sở cho việc tăng năng suất cây trồng. Lạc có khối lượng sinh khối cao, thân lá lạc là nguồn phân xanh quan trọng, có thể cày vùi ngay tại ruộng hoặc ủ làm phân. Điều đặc biệt quan trọng là ở rễ lạc có nốt sần do vi khuẩn cố định đạm Rhizobium vigna tạo nên, có khả năng cố định nitơ khí quyển tổng hợp thành đạm cung cấp cho cây trồng. Ngày nay, lạc được trồng rộng rãi trên 100 nước trên thế giới từ 400 vỹ Bắc đến 400 vỹ Nam, thuộc vùng nhiệt đới và các vùng ấm áp trên thế giới. Hiện nay do áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến cũng như sử dụng bộ giống cho năng suất cao, sản lượng lạc trên thế giới không ngừng tăng lên. Năm 1994, diện tích trồng lạc trên thế giới khoảng 20 triệu ha và sản lượng 24 - 25 triệu tấn. Vùng trồng lạc trên thế giới tập trung chủ yếu ở các nước châu á (13,2 triệu ha) và châu Phi (6,2 triệu ha). ở Việt Nam, cây lạc được trồng rải rác khắp trên phạm vi cả nước từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ đến các tỉnh vùng núi phía Bắc nhưng tập trung ở 4 vùng trồng lạc chính là Trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ chiếm 3/4 diện tích và sản lượng lạc cả nước. Tuy nhiên năng suất và sản lượng ở các vùng chênh lệch nhau một cách đáng kể, các tỉnh phía Bắc với diện tích khoảng 140.000 ha, năng suất đạt 13,0 tạ/ha, các tỉnh phía Nam diện tích khoảng 132.600 ha, năng suất xấp xỉ 16,1 tạ/ha. Hiện nay, lạc là một trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng, đạt kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng 40 - 50 triệu USD. Ngoài ra, lạc còn được sử dụng làm thực phẩm trong nước ở nhiều dạng khác nhau. Vì vậy, sản xuất lạc ở nước ta ngày càng tăng. Từ những năm 80 trở về trước, diện tích và sản lượng lạc của nước ta rất thấp. Sau đó, trong vòng 10 năm từ 1981 - 1990 diện tích trồng tăng bình quân 7% mỗi năm, sản lượng tăng 9% mỗi năm. Từ 1990 - 1995, sản xuất lạc có xu thế tăng về diện tích và sản lượng song năng suất còn thấp, chỉ đạt trên 10 tạ/ha. Trong 3 năm (1996 - 1998), diện tích và sản lượng tăng rõ rệt, năng suất đã đạt 15 tạ/ha. Sở dĩ sản lượng và năng suất lạc tăng nhanh là do Việt Nam đã mở rộng được thị trường tiêu thụ và áp dụng một số tiến bộ kỹ thuật tiên tiến. Việc sản xuất lạc ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn như đất xấu, nghèo dinh dưỡng, diện tích được tưới không nhiều. Người nông dân còn chưa có điều kiện đầu tư nhiều cho sản xuất, hơn nữa giá cả, thị trường thường không ổn định khiến thu nhập bấp bênh. Lạc lại là cây trồng khó dự đoán về năng suất vì bộ phận thu hoạch chính - quả lạc - nằm ở dưới mặt đất (P.S.Reddy, 1989). Do vậy, công tác chọn tạo giống càng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay mục tiêu chọn giống lạc của chúng ta tập trung vào các mục tiêu: năng suất cao, thích hợp với từng vùng sinh thái, thời gian sinh trưởng khác nhau phù hợp với các công thức luân canh trong đó chú trọng tới giống có thời gian sinh trưởng ngắn (100 - 120 ngày), giống có khả năng kháng/chống chịu sâu, bệnh, giống có khả năng chịu/tránh hạn, giống có tính ngủ tươi của hạt, giống có chất lượng hạt phục vụ cho ép dầu và xuất khẩu. Để góp phần vào công tác chọn giống lạc mới phục vụ cho sản xuất, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài : “ So sánh một số giống lạc trong điều kiện vụ thu 2002 trên đất Gia Lâm - Hà Nội ”. 1.2. Mục đích - yêu cầu Mục đích của đề tài Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, tính chống chịu và năng suất của một số giống nhập nội, đề xuất giống có triển vọng để tiếp tục khảo nghiệm đưa vào sản xuất. Yêu cầu của đề tài + Theo dõi và đánh giá một số đặc điểm hình thái, sinh trưởng, phát triển của giống lạc tham gia thí nghiệm + Xác định khả năng chống chịu và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống trong điều kiện vụ thu năm 2002. cHƯƠNG 2 tổNG QUAN TàI LIệU Theo Engen [14], lạc được trồng cách đây khoảng 3800 năm ở Las Haldas, từ thời kỳ tiền đồ gốm. Những bằng chứng cổ nhất đã khẳng định Nam Mỹ (Braxin, Peru, Achentina) là cái nôi của cây lạc và lạc được phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới trước và cùng với thời gian khám phá ra châu Mỹ. Từ vùng nguyên sản lạc được di thực đến châu Âu, tới vùng bờ biển châu Phi, á (Trung Quốc, Indonexia, ấn Độ), tới quần đảo Thái Bình Dương và cuối cùng tới vùng Đông Nam Hoa Kỳ. Sau đó, lại có sự di chuyển chéo tạo nên các trung tâm giống thứ cấp. Hệ thống phân loại lạc tương đối phức tạp, nhưng phần lớn các tác giả thống nhất theo phương pháp phân loại của Gregory (1980) và Krapovikas (1990) dựa vào tập tính sinh trưởng, sự ngủ nghỉ và chín. Theo phương pháp này, phân loại dưới loài của lạc như sau: Phân loại dưới loài của lạc trồng Arachis hypogaea L Loài phụ Thứ Dạng thực vật Kiểu phân cành Dạng cây Số hạt/quả Hypogaea Hypogaea Virginia Xen kẽ Bò - đứng 2 - 3 Hirsuta Peruvian Runner Xen kẽ Bò 2 - 4 Fastigiata Fastigiata Valencia Liên tục Đứng 3 - 5 Vulgaris Spanish Liên tục Đứng 2 Theo nhận định của nhiều tác giả, tiềm năng để nâng cao năng suất và sản lượng lạc ở các nước còn rất lớn do năng suất thu được khi tiến hành trồng trong những diện tích nhỏ cao hơn từ 4 - 5 lần so với năng suất trồng đại trà, vì vậy cần phải khai thác. 2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Trên thế giới, đặc biệt là tại các nước có nền khoa học kỹ thuật phát triển, việc nghiên cứu về cây lạc đã đạt được nhiều thành tựu trong đó riêng về giống lạc đã tạo ra nhiều giống mới có tiềm năng năng suất cao, phẩm chất tốt, khả năng chống chịu khá...nhờ đó mà năng suất và sản lượng lạc tăng không ngừng. Varell và Mc Cloud (1976) đã báo cáo về số giống lạc trồng trọt hiện có ở những nước trồng lạc chính trên thế giới, không kể tập đoàn đặc biệt, các dòng lai biến dị thế hệ đầu, các đột biến tự nhiên và các giống địa phương, nhập nội đã có khoảng 30.000 mẫu giống [14]. Kinh nghiệm của ấn Độ cho thấy, nếu sử dụng giống mới kết hợp với kỹ thuật canh tác tiến bộ đã tăng 50 - 63% năng suất lạc [2]. Nhiều vùng sản xuất lạc hiện nay đều quan tâm tới các giống lạc chín sớm để tận dụng lượng mưa trong vụ, phù hợp với hệ thống luân canh nhất là thời gian ngắn giữa hai vụ lúa. Hiện tại ở AI CORPO (ấn Độ), một số giống có thời gian sinh trưởng ngắn được giới thiệu trong sản xuất, đặc biệt là “ Chico ” có ưu việt về năng suất, tỷ lệ bóc vỏ, hàm lượng dầu. Từ một số tổ hợp lai giữa “Chico, 91176” (Spanish/Valencia) với “Robut 33 - 1 và Tifrun ” đã chọn được những giống lạc chín sớm hơn khoảng 15 - 20 ngày, tăng năng suất quả 18 - 30% [14]. Qua nghiên cứu của TS. Duan Shufen [13], ở Trung Quốc hơn 200 giống lạc có năng suất cao đã được phát triển và phổ biến cho sản xuất từ những năm cuối của thập kỷ 50. Kết quả ghi nhận là các giống lạc được trồng ở tất cả các vùng đất rộng 38,46 triệu ha, trong thời gian này đã bốn lần thay giống. ở miền Nam Trung Quốc cho tới những năm 50 còn trồng các giống thuộc nhóm Virgina. Sau khi mở rộng vụ lạc thu và luân canh với lúa, các giống thuộc loại hình Spanish được sử dụng để thay thế giống cũ. Giống mới chín sớm với những đặc tính nông học tốt như San ưu 27, Yeuyou 116, Yeusuan 58, Yeuyou 92 đã thay thế những giống được phổ biến trong thập kỷ 80. Đáng chú ý là các giống Longhua 3, Hoa 5, Yeuyou 92 chống bệnh chết ẻo và giống San ưu 27 chống gỉ sắt lạc đã được phổ biến cho nông dân sử dụng trong những năm 80 đóng vai trò quan trọng trong việc phòng chống các bệnh này. Theo Perdido (1996) [16], trong những năm 1986 - 1990 các giống lạc như UPLPn6, UPLPn8, BPIPn2 đã được đưa vào sản xuất ở Philippin. Các giống lạc này đều có kích thước hạt lớn, kháng với bệnh gỉ sắt và bệnh đốm lá muộn. Việc chọn tạo giống lạc ở Indonexia cũng tập trung vào các mục tiêu là năng suất cao, phẩm chất tốt, chín sớm và kháng bệnh. Năm 1991, các giống có triển vọng như Mahesa, Badak, Biawar và Komodo đã được khuyến cáo và đưa vào sản xuất [15]. Tại Thái Lan tiến hành đưa vào sản xuất các giống lạc có đặc tính năng suất cao, chín sớm, thời gian sinh trưởng từ 100 - 110 ngày, kháng bệnh đốm lá, gỉ sắt, chịu hạn, kích thước hạt lớn như Khon Kean 60-3, Khon Kean 60-2, Khon Kean 60-1 và Tainan 9 (Joglog và cộng sự, 1992, 1996) [17]. Achentina cũng là một nước thành công trong nghiên cứu và ứng dụng các kỹ thuật tiến bộ trong sản xuất lạc. Trong suốt 50 năm (1932 - 1982), năng suất lạc của Achentina chỉ ở mức khiêm tốn, trên dưới 700 kg lạc hạt (tương đương 1,0 tấn lạc vỏ/ha). Từ năm 1982, nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đã được tăng cường. Đến năm 1991, năng suất lạc bình quân của Achentina đạt 2,0 tấn/ha, gấp 2 lần năm 1980. Các giống mới có chất lượng cao được gieo trồng trên 70% diện tích trồng lạc cả nước [2]. ở Mỹ có ba chương trình nghiên cứu sử dụng một số loài dại trong chi Arachis lai với loài lạc trồng Arachis hypogaea để tăng cường tính chống sâu bệnh ở Bắc Carolina, Oklahoma và Texas [10]. Trong thời gian 10 năm (1980 - 1990), ở Mỹ đã đưa vào sản xuất 16 giống lạc mới bao gồm 9 giống thuộc loại hình Runner (Sunbelt Runner, Sun Runner, GK7, Langley, Okrun, Southern Runner, Tamrun 88, Georgia Runner, Marci), 5 giống thuộc loại hình Virgina (Va 81B, NC 8C, NC 9, NC 10C, NC - V11), 2 giống thuộc loại hình Spanish (Pronto, Spanco)[10]. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Điều kiện thời tiết có ảnh hưởng lớn tới sự sinh trưởng, phát triển của cây lạc nhất là các yếu tố nhiệt độ, ánh sáng và lượng mưa. Lạc cần nhiệt độ trung bình cho suốt quá trình sinh trưởng, phát triển khoảng 25 - 340C thay đổi tuỳ theo yêu cầu của từng giai đoạn. Là cây C3, lạc phản ứng tích cực với cường độ ánh sáng đặc biệt trong thời kỳ ra hoa - làm quả, đồng thời lạc cho sản lượng cao ở những vùng có lượng mưa từ 500 đến 1250 mm phân phối đều. Điều kiện tự nhiên ở nước ta hầu như khá thích hợp cho cây lạc sinh trưởng, phát triển. Đồng thời, lạc là cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn (khoảng 3 - 4 tháng), thuận tiện bố trí vào các công thức luân canh tăng vụ, phù hợp với nền nông nghiệp đa canh ở nước ta, nhằm tăng thu nhập trên đơn vị diện tích cho bà con nông dân. Hơn nữa, lạc lại là cây cải tạo, bồi dưỡng đất góp phần bảo vệ và nâng cao độ phì của đất. Với điều kiện của nước ta hiện nay, các yếu tố kinh tế, kỹ thuật cần cho sản xuất lạc còn hạn chế. Trong đó, sâu bệnh là một yếu tố hạn chế quan trọng. Đồng thời những biến động thất thường của thời tiết và các khó khăn về kỹ thuật, vốn đầu tư sản xuất thấp ... là những nguyên nhân cơ bản hạn chế năng suất lạc ở nước ta. Nhưng như ông cha ta nói “ cố công không bằng giống tốt ” thì nguyên nhân chủ yếu hạn chế năng suất lạc có lẽ là vấn đề một bộ giống tốt, thích ứng với điều kiện của các vùng sản xuất. Các giống địa phương như Cúc, Lỳ, Đỏ Bắc Giang, Lụa Nam Định ... ít giống có tiềm năng năng suất cao, thiếu giống có chất lượng, các giống đang được gieo trồng thoái hoá và lẫn tạp nhiều, dẫn đến năng suất thấp (năm 2001 năng suất trung bình cả nước chỉ đạt 15,0 tạ/ha), phẩm chất hạt và khả năng chống chịu giảm. Trong công tác chọn giống, điều quan trọng là phải có được sự đa dạng về di truyền để có thể có sự lựa chọn mang các đặc tính mong muốn. Việc thu thập nguồn gen trong nước và nhập nội các nguồn giống nước ngoài, đánh giá, bảo quản là hết sức cần thiết cho mục tiêu trước mắt và lâu dài. Từ những năm 80, Trung tâm Nghiên cứu giống cây trồng Việt - Xô (Viện KHKTNN Việt Nam) đã tiến hành thu thập và nhập nội một cách hệ thống. Số lượng mẫu giống trong tập đoàn lạc lên tới 1271 (Trần Đình Long và CTV,1991). 100 giống địa phương và 1171 mẫu giống nhập nội từ 40 nước là kết quả đáng khích lệ trong giai đoạn 1984 - 1990 cho tập đoàn lạc Việt Nam. Từ 1991 - 2000, Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ đã nhập nội trên 1894 mẫu giống từ ICRISAT, ấn Độ để tiến hành đánh giá, chọn lọc. Viện Khoa học Nông nghiệp Miền Nam đã và đang nghiên cứu 250 mẫu giống [2]. Phát triển cây lấy dầu trong đó có cây lạc đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (NN & PTNT) xác định là một trong những vấn đề trọng điểm trong chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn của nước ta. Từ năm 1990 đến nay, công tác nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trồng lạc ở nước ta đã được quan tâm hơn trước. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển cây lạc được tăng cường thông qua chương trình hợp tác với Viện ICRISAT ấn độ và mạng lưới Đậu đỗ và Cây cốc châu á (CLAN), chúng ta đã chọn tạo được các giống lạc mới có tiềm năng năng suất cao, chất lượng tốt góp phần tăng năng suất lạc cả nước từ 10,0 tạ/ha (1990) lên 14,3 tạ/ha (1998) và 18 tạ/ha (2000) [2]. Vì lạc được trồng ở các hệ thống luân canh cây trồng và điều kiện sinh thái khác nhau do vậy mục tiêu cụ thể của công tác chọn giống cũng luôn thay đổi để phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Từ năm 1974, Bộ môn Cây công nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội bắt đầu nghiên cứu chọn tạo giống bằng phương pháp lai hữu tính và phương pháp phóng xạ. Kết quả bằng phương pháp gây đột biến giống Bạch sa (giống nhập nội từ Trung Quốc) bằng tia g CO 60 với bức xạ chiếu 5000 Rơnghen đã tạo ra được dòng B.5000 có năng suất cao và ổn định, phẩm chất tốt, vỏ mỏng, tỷ lệ bóc vỏ đạt 70 - 72%, hạt to, vỏ lụa màu hồng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo phương pháp lai hữu tính thì trong 24 tổ hợp lai thu được 4 dòng lai có triển vọng là 75/25, 75/20, 75/15, 75/16 xuất phát từ hai tổ hợp lai (Mộc Châu trắng x Trạm xuyên) và (Mộc Châu trắng x Cúc Nghệ An). Giống Sen lai 75/23 có khả năng sinh trưởng khoẻ, nảy mầm cao, tương đối chịu rét, năng suất cao và ổn định, số quả nhiều, tỷ lệ nhân cao, hạt to, vỏ lụa màu hồng, tỷ lệ dầu khá (Lê Song Dự và cộng sự, 1986) [3]. ở miền Bắc trong những năm 1960 - 1970 đã nhập nội một số giống tốt của Trung Quốc và đạt những kết quả đáng kể. Các giống Sư tuyển 64, Trạm xuyên, Bạch sa được giới thiệu rộng rãi ở các vùng trồng lạc miền Bắc là kết quả của công tác nhập nội trong thời gian này. Đây là những giống có năng suất cao, hạt to, sinh trưởng khoẻ đã thay thế một phần giống địa phương như Đỏ Bắc Giang, Nụ Tuyên Quang ... Đề tài chọn tạo giống đậu đỗ cấp nhà nước trong thời gian 1986 - 1990 do Viện sĩ Trần Đình Long chủ trì [5], về cây lạc đã nghiên cứu khảo sát 1216 lượt mẫu giống nhập từ 40 nước trên thế giới trong đó có hơn 100 mẫu giống địa phương, rất đa dạng vể kiểu gen và kiểu hình. Có các mẫu giống cực ngắn như Lỳ và Tainan (83 ngày ở miền Nam), Cúc Nghệ An (90 - 95 ngày ở miền Bắc), các giống có kiểu hình có số quả trên cây cao là V4499, K1501 (27 - 29 quả), tỷ lệ nhân cao ở các giống U4502, U962 (26 g/cây). Từ 79 nguồn gen ngắn ngày nhập nội từ ICRISAT, Nguyễn Thị Chinh (1996) [2] chọn được 9 mẫu giống có thời gian sinh trưởng từ 105 - 110 ngày trong điều kiện vụ xuân ở miền Bắc Việt Nam, như ICGV 86055, ICGV 87883, số còn lại có thời gian sinh trưởng khoảng 120 ngày. Đây thực sự là nguồn gen ngắn ngày cho công tác lai tạo giống. Các giống JL24 và L05 (ICGV 86143) được tác giả chọn tạo có thời gian sinh trưởng ngắn và năng suất cao. Từ 1989 - 1992, Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ tiến hành 19 tổ hợp lai theo hướng ngắn ngày trong đó có sử dụng các nguồn gen nhập nội. Kết quả đã chọn lọc được một số dòng có triển vọng là ICGV 90014, ICGV 90068, ICGV 90016 [2]. Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ đã tiến hành lai tạo, nhập nội bộ giống có thời gian sinh trưởng trung bình cho năng suất cao. Những giống này được chia ra làm hai nhóm: nhóm cho vùng thâm canh và vùng không chủ động nước tưới. Từ đó, chọn ra được 12 giống có nhiều triển vọng cho vùng thâm canh là TQ6, TQ3, QĐ1, QĐ2, QĐ3, QĐ4, QĐ5, QĐ6, QĐ7, QĐ8, QĐ9, ĐL1 đều là những giống có nguồn gốc từ Trung Quốc. Còn các giống cho vùng không tưới là 9208.11 (L12), 9205b, X96, trong đó giống L12 là giống có nhiều triển vọng nhất, khối lượng 100 hạt lớn (52,8g), vỏ mỏng (76,5%), đạt năng suất 38,7 tạ/ha tại Nghệ An. Giống lạc L03 là giống được chọn ra từ tổ hợp lai giữa giống địa phương Sen Nghệ An và giống nhập nội ICGV 87157 cho năng suất và chất lượng cao trong sản xuất, hiện giống L03 được Bộ NN & PTNT cho phép khu vực hoá trên diện rộng tại miền Bắc [2]. Giống V79 do Viện KHKT Nông nghiệp và Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội tạo ra bằng phương pháp đột biến bằng tia Rơngen trên giống Bạch sa - Trung Quốc. Giống V79 thuộc loại hình Spanish, sinh trưởng khoẻ, ra hoa, tạo quả tập trung, thời gian sinh trưởng 120 - 125 ngày, khối lượng 100 quả 130 - 135g, khối lượng 100 hạt 48 - 52g, tỷ lệ nhân 74 - 76%, năng suất 20 - 25 tạ/ha, vỏ quả mỏng nhẵn, vỏ hạt màu hồng nhạt, chịu hạn khá, nhiễm trung bình các bệnh đốm nâu, gỉ sắt, đốm đen, héo xanh vi khuẩn [12]. Hoàng Tuyết Minh và CTV (1995) [2] đã tiến hành gây đột biến giống lạc Sen lai năm 1989 và chọn ra được hai dòng D332 và D329 có năng suất cao (23 - 24 tạ/ha), ổn định, có khả năng chống chịu tốt. Dòng D332 đã được Bộ NN & PTNT cho phép khu vực hoá từ năm 1995. Đánh giá 15 giống ngắn ngày, Viện KHNN Miền Nam cho thấy 3 giống ICGV 87883, ICGV 87391, ICGV 90068 là những giống có triển vọng, thuộc dạng hình Spanish, thời gian sinh trưởng 90 ngày, khối lượng 100 hạt lớn nhưng vỏ dày hơn các giống địa phương. Giống HL25 (ICGS 56) nhập nội từ ICRISAT đã được Viện chọn lọc và đưa vào sản xuất (Hoàng Kim 1987, 1990) [2]. Kết quả cải tiến giống đã đưa ra các giống như L02, LTV, 4329 có khối lượng 100 hạt từ 50 - 60g cao hơn so với các giống cũ như Sen Nghệ An, Lỳ, Mỏ Két (37 - 45g). Những nguồn gen có kích thước hạt lớn cũng được nhập nội (76 dòng) và đánh giá từ năm 1996. Có 4 mẫu có khối lượng 100 hạt trên 100g là ICGV 9564, ICGV 91089, ICGV 95173, ICGV 95152. Tuy nhiên, chúng có thời gian sinh trưởng dài và năng suất thấp nên được sử dụng trong chương trình lai tạo theo hướng cải tiến khối lượng hạt (Trần Nghĩa, 1996) [2]. Khảo nghiệm một số giống lạc vụ xuân trên đất Gia Lâm, Hà Nội, Bùi Xuân Sửu [7] thấy trong 6 dòng lai được khảo sát tất cả đều có khối lượng hạt khá lớn (từ 40 - 50g/100hạt), vỏ hạt màu hồng, phù hợp với mục tiêu xuất khẩu lạc nhân, trong đó có 2 dòng (C x H17) và (B.5000 x B) cho năng suất cao, vỏ quả mỏng, hạt màu sắc đẹp, có triển vọng đưa vào các vùng lạc thâm canh. Từ 1991 - 1995, tại Viện Cây có dầu bằng phương pháp chọn lọc cá thể, dòng lạc VD1 đã được chọn ra từ giống địa phương Lỳ với năng suất bình quân trong điều kiện thí nghiệm là 3493 kg/ha, cao hơn giống đối chứng Lỳ 19%, hàm lượng dầu cao hơn 3%, thời gian sinh trưởng tối đa 90 ngày. Hiện nay, giống này đã được Bộ NN & PTNT cho phép khu vực hoá ở phía Nam. Các giống OPI 9422, OPI 9423 được chọn ra từ phương pháp lai hữu tính có năng suất tương đương với giống Lỳ nhưng khối lượng 100 hạt cao hơn [2]. Tại Viện Cây có dầu, Ngô Thị Lâm Giang và cộng sự [2] đã đánh giá trên 400 mẫu giống nhập nội, lai tạo và chọn lọc ra một số giống có triển vọng, có thời gian sinh trưởng trung bình là VD2, VD3, VD4, VD5 các giống này có năng suất cao, hàm lượng dầu và khối lượng 100 hạt cao. Từ 1996 - 1998, Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ đã đánh giá bộ giống kháng bệnh đốm lá nhập nội từ ICRISAT thấy rằng có 6 giống vừa cho năng suất khá vừa kháng bệnh là ICGV 91227, ICGV 87846, ICGV 91234, ICGV 98256, ICGV 91215, ICGV 91222. Hai giống ICGV 86325 và ICGV 86699 tuy năng suất không cao nhưng kháng bệnh cao đã được thử nghiệm tại Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Bắc Trung Bộ. Kết quả cho thấy giống ICGV 91234 cho năng suất khá (28 tạ/ha) so với đối chứng (21,4 tạ/ha) [2]. ở miền Nam, trong những năm 1996 - 1999, 77 dòng lạc kháng héo xanh được nhập nội từ ICRISAT đã được đánh giá trong đó 2 dòng VD9 (ICG 8666) và VD10 (ICG 8645) được xác định là có triển vọng, cho năng suất vượt trội giống đối chứng từ 22 - 26%, tỷ lệ cây chết tương ứng là 0,1 và 1,6% trên nền tự nhiên ngoài đồng (Ngô Thị Lâm Giang và cộng sự, 1999) [2]. Nguyễn Xuân Hồng, Nguyễn Văn Liễu, Nguyễn Thị Yên (1991 - 1999) [2] đánh giá 684 mẫu giống lạc nhập nội từ ICRISAT và Trung Quốc theo hướng kháng bệnh héo xanh vi khuẩn. Kết quả chỉ ra có 5 mẫu giống phản ứng kháng bệnh là Taishansanlirow, MD7, ICG1703 (KPS 5), ICG 7893 (KPS 6) và ICG 1704. Hiện nay, giống MD7 được Bộ NN & PTNT công nhận giống quốc gia. Giống Gié Nho Quan là một nguồn gen quý về tính kháng bệnh héo xanh vi khuẩn đã được phát hiện khi đánh giá khả năng kháng bệnh của các giống địa phương. Tỷ lệ sống sót sau 70 ngày trồng trong điều kiện tự nhiên là 92,65% và trên nền nhiễm bệnh nhân tạo là 82,5% so với giống đối chứng nhiễm bệnh (Đỏ Bắc Giang) là 37,2% và 28,7% (Nguyễn Văn Liễu, Nguyễn Xuân Hồng, 1996) [2]. Hiện nay, giống Gié Nho Quan đang được Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ sử dụng làm nguồn gene kháng bệnh trong công tác lai tạo giống theo hướng kháng bệnh héo xanh vi khuẩn. Trong 2 năm 1998 - 1999, Nguyễn Xuân Hồng và cộng sự [2] đã đánh giá 112 mẫu giống thu thập được trên nền nhân tạo về khả năng kháng bệnh mốc vàng thấy rằng chỉ có 5 mẫu không bị nhiễm bệnh là VAG 54-1, VAG 54-3, VAG 29, VAG 43-47. Trong số các giống đang khuyến cáo trồng trong sản xuất thì BG78, BG51, V79 tỏ ra kháng với nấm. Các giống L02, L05, MD7 kháng ở mức trung bình, giống LVT và 4329 bị nhiễm nặng. Đánh giá 35 dòng lạc kháng mốc vàng nhập từ ICRISAT, Trần Nghĩa (1996) [2] cho rằng chỉ có 2 giống cho năng suất cao hơn giống địa phương (Mỡ Cam Ranh) là ICGV 91300 và ICGV 91279 trong điều kiện miền Bắc Việt Nam. Còn ở phía Nam, Ngô Thị Lâm Giang (1999) đánh giá phản ứng của 9 dòng/giống với bệnh thấy hai giống VD2 (OPI 9404) và VD7 có tỷ lệ nhiễm nấm thấp 3,5 và 3,9% tương ứng trong điều kiện nhân tạo. Giống VD2 có năng suất và chất lượng tương đối cao (năng suất quả 34,2 tạ/ha, khối lượng 100 hạt trên 48g), đây là giống có triển vọng đang được nhân nhanh để đưa ra sản xuất. Một số dòng được xác định là chịu hạn qua đánh giá tại ICRISAT đã được thử nghiệm ở nước ta và một số dòng có triển vọng đã được giới thiệu là ICGV 95393, ICGV 93255, ICGV 94149 ở phía Bắc (Trần Nghĩa 1996) và ID2, ID3, ID12, ID13, ID14 ở phía Nam (Ngô Thị Lâm Giang 1999) [2]. Trải qua nhiều năm, công tác nghiên cứu và chọn tạo giống lạc mới ở nước ta đã có những kết quả khả quan, hiện nay có nhiều giống mới phục vụ cho sản xuất lập thành bộ giống khá đầy đủ: Giống ngắn ngày: Chio JL24, L05, VD1. Giống cho vùng nước trời: V79, L12, L03. Giống cho vùng thâm canh: LVT, L02 và một số giống có triển vọng L04, L06, L14. Giống cho phẩm chất hạt cao: L08 (130 hạt/100g). Giống chống bệnh héo xanh vi khuẩn: MD7. Các cơ quan nghiên cứu chọn tạo ra giống mới có tiềm năng năng suất cao nhưng do thiếu vốn, thiếu cơ sở vật chất để tổ chức sản xuất và dịch vụ cung ứng nên tốc độ phát triển giống mới còn rất chậm so với sản xuất yêu cầu. Ước tính đến vụ xuân 1999, diện tích trồng các giống lạc mới còn chiếm tỷ lệ thấp, bình quân cả nước mới đạt khoảng 20%. Vì vậy, bên cạnh việc tiếp tục nghiên cứu và chọn tạo các giống mới thì cần nâng cao hiệu quả thực tế của các thành tựu về giống. CHƯƠNG 3 NộI DUNG Và PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU 3.1. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 3.1.1. Vật liệu nghiên cứu Thí nghiệm gồm có 4 giống tham gia: TQ6: là giống lạc có nguồn gốc Trung Quốc. MD7: Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp tuyển chọn từ tập đoàn lạc kháng bệnh héo xanh vi khuẩn quốc tế, nhập nội từ Trung Quốc. L14: Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp tuyển chọn từ tập đoàn lạc kháng sâu bệnh có nguồn gốc Trung Quốc nhập vào Việt Nam năm 1996. Hiện đang được gieo trồng trên diện rộng ở tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang (đối chứng). MD9: được nhập nội từ Trung Quốc năm 1996, là giống kháng bệnh khô xanh tương đối tốt. 3.1.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm - Công thức thí nghiệm : 1/ Công thức 1: giống TQ6. 2/ Công thức 2: giống MD7. 3/ Công thức 3: giống L14. 4/ Công thức 4: giống MD9. - Diện tích ô thí nghiệm : 3m x 4m = 12m2 . Tổng diện tích tiến hành thí nghiệm (ô thí nghiệm và dải bảo vệ): 155m2. - Phương pháp bố trí thí nghiệm: Phương pháp ngẫu nhiên. - Số lần nhắc: 3 lần. - Đối chứng: Giống L14. Sơ đồ thí nghiệm Dải bảo vệ Dải bảo vệ Dải bảo vệ 4 2 1 3 2 1 2 3 4 1 4 3 Dải bảo vệ 3.1.3. Các biện pháp canh tác (yếu tố phi thí nghiệm) Ngày gieo: 07/08/2002. Mỗi ô chia làm 5 hàng, rạch hàng, bón lót, gieo hạt. Mật độ gieo: 40 cây/m2. Gieo hàng kép: Khoảng cách giữa 2 hàng rộng : 45cm. Khoảng cách giữa 2 hàng hẹp : 15cm. Khoảng cách cây : 8cm. - Bón phân: + Lượng phân: Supe lân: 350kg/ha (420g/ô). Kali clorua: 100 - 150kg/ha (120 - 180g/ô). ure: 40kg/ha (48g/ô). Vôi bột: 400kg/ha (480g/ô). + Cách bón: Bón lót : 100% Supe lân và 50% vôi bột. Bón thúc : 50% ure khi cây có 2 - 3 lá thật. 50% ure và 50% vôi bột khi lạc ra hoa. 100% Kali clorua trước khi vun. Làm cỏ và xới vun: + Lần 1: khi cây có 2 - 3 lá thật, xới nhẹ kết hợp với bón phân ure, không vun. + Lần 2: trước khi cây ra hoa, sau lần 1 khoảng 10 - 15 ngày, xới rộng, sâu, không vun. + Lần 3: khi cây ra hoa rộ, vun cao đến cặp cành cấp 1, tạo điều kiện bóng tối và điều kiện cọ xát cơ giới cho lạc đâm tia, kết hợp bón phân Kali clorua. - Tưới nước: tưới đầu vụ lúc gieo và thời kì ra hoa. Phòng trừ sâu bệnh: + Đối với sâu: khi sâu xuất hiện cần phun thuốc kịp thời. + Đối với bệnh: cần phun phòng và định kì khi cây bắt đầu xuất hiện bệnh, đặc biệt chú ý tới bệnh đốm lá. 3.2. Các chỉ tiêu theo dõi 3.2.1. Theo dõi sinh trưởng - Thời gian sinh trưởng: + Thời gian và tỷ lệ mọc mầm: * Thời gian từ gieo đến 10% số cây mọc. * Thời gian từ gieo đến 50% số cây mọc. * Thời gian từ gieo đến kết thúc mọc. Phương pháp theo dõi: đếm tổng số cây mọc/hàng có đánh dấu trước, mỗi ngày một lần vào các buổi sáng. Tỷ lệ mọc mầm = (Số cây mọc / Tổng số hạt gieo) x 100. + Thời gian phân cành (theo dõi từ mọc đến cành cấp 1 thứ nhất): mỗi lần nhắc lại theo dõi 10 cây, khi cây đầu tiên có cặp cành cấp 1 thứ nhất dài 2 cm thì theo dõi 2 ngày 1 lần đến khi 80% số cây phân cành cấp 1 thứ nhất thì dừng lại. Ghi ngày xuất hiện cặp cành cấp 1 thứ nhất. + Thời gian ra hoa và động thái nở hoa: * Thời gian từ mọc đến 10% số cây ra hoa. * Thời gian từ mọc đến 50% cây ra hoa. * Thời gian từ mọc đến 80% số cây ra hoa. * Thời gian từ mọc đến khi tắt hoa. Phương pháp theo dõi: mỗi lần nhắc lại theo dõi 10 cây, đếm số hoa nở hàng ngày trên cây. + Thời gian đâm tia: * Thời gian từ mọc đến 10% số cây đâm tia. * Thời gian từ mọc đến 80% số cây đâm tia. Phương pháp theo dõi: mỗi lần nhắc lại theo dõi 10 cây, tiến hành 2 ngày/lần. - Theo dõi một số chỉ tiêu sinh trưởng: Chiều cao cây, chiều dài cành cấp 1 và số lá thân chính: mỗi lần nhắc lại theo dõi 10 cây có đánh dấu (đo từ cặp cành cấp 1 đến đỉnh sinh trưởng ngọn và đếm số lá trên thân chính). Đo, đếm sau gieo 20 ngày, sau đó 7 ngày đo một lần đến khi thu hoạch. 3.2.2. Theo dõi một số chỉ tiêu sinh lý - Động thái tích luỹ chất khô các bộ phận và toàn cây: mỗi công thức lấy mẫu 3 cây, cân trọng lượng tươi và trọng lượng khô không đổi của riêng từng bộ phận: rễ (từ tử diệp trở xuống), cơ quan sinh sản (hoa, tia quả, quả non), lá, thân (cùng với cành, cuống lá), tiến hành sau gieo 30 ngày, định kỳ 10 ngày. - Động thái diện tích lá và chỉ số diện tích lá: tiến hành cùng với theo dõi tích luỹ chất khô, sử dụng phương pháp cân nhanh. 3.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi khác Sự hình thành nốt sần: tiến hành đếm và cân trọng lượng các nốt sần cùng với theo dõi khả năng tích luỹ chất khô. Mức nhiễm sâu bệnh hại: theo dõi trên mỗi lần nhắc theo đường chéo 5 điểm. Thang điểm bệnh hại của ICRISAT: Điểm 1: tất cả các cây không bị hại. Điểm 2: 1 - 5% cây bị bệnh. Điểm 3: 6 - 10% cây bị bệnh. Điểm 4: 11 - 20% cây bị bệnh. Điểm 5: 21 - 30% cây bị bệnh. Điểm 6: 31 - 50% cây bị bệnh. - Khả năng chống đổ: đếm số cây bị đổ ở mỗi lần nhắc lại ở các thời kỳ ra hoa rộ - hình thành quả và quả vào chắc - quả chín, tính %. Đặc điểm hình thái: + Màu sắc thân, hình dạng, màu sắc lá. + Hình dạng quả, eo quả, mỏ quả, gân quả. + Hình dạng hạt, màu sắc vỏ hạt. 3.2.4. Các yếu tố tạo thành năng suất và năng suất (Theo dõi 10 cây/ô khi thu hoạch): + Cân khối lượng chất khô các bộ phận lần cuối. + Các chỉ tiêu yếu tố năng suất: tổng số quả trên cây, tổng số quả chắc, số quả một nhân, hai nhân, ba nhân. + Cân khối lượng 100 quả, 100 hạt: mỗi lần nhắc lại lấy 100 quả, 100 hạt đem cân, tính trung bình giữa các lần cân. + Tính tỷ lệ bóc vỏ: mỗi lần nhắc lại cân khối lượng 100 quả, bóc vỏ, cân khối lượng hạt. Tỷ lệ bóc vỏ (%) = P hạt/quả x 100. + Tính hệ số kinh tế: HSKT = Năng suất cá thể / P khô toàn cây. + Năng suất cá thể: cân trọng lượng quả khô chắc của 10 cây theo dõi lấy trung bình. + Năng suất lý thuyết = Năng suất cá thể x mật độ cây (tạ/ha). + Năng suất thực thu: năng suất thực tế thu được trên ô thí nghiệm quy đơn vị tạ/ha. + Năng suất hạt = Năng suất thực thu x Tỷ lệ bóc vỏ (tạ/ha). 3.2.5. Tính toán thống kê các số liệu thu được Sử dụng chương trình xử lý số liệu của IRRISTAT. CHƯƠNG 4 KếT QUả NGHIÊN CứU Và THảO LUậN Một số đặc điểm thực vật của các giống thí nghiệm Mỗi giống đều có đặc điểm hình thái riêng, nó thể hiện qua các bộ phận thân, lá, quả. Nhờ đó mà công tác chọn tạo và phân loại được thuận tiện. Bảng 1: Một số đặc điểm thực vật của các giống Đặc trưng Giống TQ6 Giống MD7 Giống L14 Giống MD9 Dạng cây Kiểu phân cành Màu sắc thân Màu sắc lá Hình dạng lá (tỷ lệ dài/rộng) Eo quả Mỏ quả Gân quả Hình dạng hạt Màu sắc vỏ lụa Đứng Liên tục Xanh Xanh 1,92 Trung bình Trung bình Rõ Bầu dục Hồng nhạt Đứng Liên t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0102.doc