Thơ ca Thịnh Trần - Hành trình đi tìm cái đẹp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Thành Hiệp THƠ CA THỊNH TRẦN – HÀNH TRÌNH ĐI TÌM CÁI ĐẸP LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Phạm Thành Hiệp THƠ CA THỊNH TRẦN – HÀNH TRÌNH ĐI TÌM CÁI ĐẸP Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS ĐOÀN THỊ THU VÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2011

pdf101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thơ ca Thịnh Trần - Hành trình đi tìm cái đẹp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC 2TMỤC LỤC2T ............................................................................................................................ 3 2TMỞ ĐẦU2T .............................................................................................................................. 5 2T1.Lý do chọn đề tài2T ................................................................................................................................... 5 2T .Mục đích nghiên cứu 2T ............................................................................................................................. 5 2T3.Đối tượng và phạm vi khảo sát2T .............................................................................................................. 6 2T4.Lịch sử vấn đề 2T ....................................................................................................................................... 6 2T5.Phương pháp nghiên cứu 2T ..................................................................................................................... 12 2T6.Kết cấu luận văn2T .................................................................................................................................. 12 2TCHƯƠNG 1: THỜI ĐẠI, THƠ CA VÀ CÁI ĐẸP2T ........................................................... 13 2T1.1.Thịnh Trần – thời kỳ phục hưng mạnh mẽ của dân tộc2T ...................................................................... 13 2T1.1.1.Giới thuyết về thời Thịnh Trần2T .................................................................................................. 13 2T1.1.2.Thịnh Trần – thời đại hoàng kim2T ............................................................................................... 13 2T1.2.Thơ ca thời Thịnh Trần2T ..................................................................................................................... 16 2T1.2.1.Vị trí mở đầu cho thơ ca dân tộc2T ............................................................................................... 16 2T1.2.2.Đặc điểm thơ ca Thịnh Trần2T ...................................................................................................... 18 2T1.3.Hành trình đi tìm cái đẹp2T .................................................................................................................. 21 2T1.3.1.Một số quan niệm về cái đẹpcủa phương Tây và phương Đông2T ................................................. 21 2T1.3.2.Hành trình đi tìm cái đẹp – hành trình nội tâm của con người2T .................................................... 28 2TCHƯƠNG 2: THƠ CA THỊNH TRẦN – CUỘC HÀNH HƯƠNG ĐẾN THÁNH ĐỊA CỦA CÁI ĐẸP2T ................................................................................................................... 31 2T .1.Từ sự nhận thức sâu sắc về cuộc đời2T ................................................................................................. 31 2T .1.1. Vô thường – lẽ tự nhiên chi phối vạn vật, con người2T ................................................................ 31 2T .1.2. Vô minh – nguồn gốc của mọi mê lầm, đau khổ 2T ....................................................................... 36 2T .1.3. Vai trò, trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc2T ......................................................................... 40 2T .2.Đến ý thức kiếm tìm sự viên mãn cho đời sống tinh thần2T .................................................................. 45 2T .2.1. Tìm về bản tính nội tại – thắp sáng ngọn đèn của chính mình2T .................................................. 45 2T .2.2. Trở về với cuộc sống tự nhiên thuần phác – nuôi dưỡng chân tâm2T ........................................... 51 2T .3. Và vươn đến cái đẹp hằng thường – nguồn sống kì diệu của tâm linh2T .............................................. 55 2T .3.1. Thể của chân tâm – cái đẹp ngay trong lòng thực tại2T ............................................................... 56 2T .3.2. Dụng của chân tâm – sức mạnh nội tại của con người2T ............................................................. 60 2TCHƯƠNG 3: VIÊN MÃN CỦA MỘT THỜI – HÀNH TRÌNH KHÔNG LẶP LẠI2T ..... 70 2T3.1. Mất dấu một hành trình2T ................................................................................................................... 70 2T3.2. Những thay đổi trong quan niệm về cái đẹp2T ..................................................................................... 79 2T3.3. Lý giải từ góc độ tư tưởng và thời đại2T .............................................................................................. 82 2T3.3.1. Về mặt tư tưởng2T ....................................................................................................................... 82 2T3.3.2. Về mặt thời đại2T ........................................................................................................................ 88 2TKẾT LUẬN2T ........................................................................................................................ 94 2T ÀI LIỆU THAM KHẢO2T ................................................................................................. 96 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Ngày nay, chúng ta sống trong một xã hội luôn tự hào là văn minh, phát triển, tiến bộ. Thế nhưng, chính sự phát triển không ngừng này buộc chúng ta cứ phải đi tới, tiến lên phía trước, đến nỗi không có được phút giây lắng đọng tâm tư để hiểu cuộc sống và hiểu chính mình. Vì thế, không ít người cảm thấy chông chênh, thậm chí tuyệt vọng. Đến một lúc nào đó, chúng ta hốt nhiên tự vấn “Mình đang tìm kiếm điều gì cho cuộc sống của mình?” Trở về với văn học trung đại Việt Nam, chúng tôi đã phần nào tìm thấy lời giải đáp cho đời sống tâm linh trong văn học Lý Trần, một giai đoạn văn học thể hiện được tinh thần thời đại và đậm đà tính nhân văn. Văn học Lý Trần, đặc biệt là thơ ca thời Thịnh Trần, đã cho chúng ta cảm hiểu được tầm vóc của con người thời đại, đó là những con người sống “hết kích thước cuộc sống”, cống hiến hết mình nhưng vẫn luôn giữ được sự an nhiên tự tại trong tâm hồn. Điều gì đã giúp họ có được bản lĩnh sống vững vàng và nuôi dưỡng được vẻ đẹp thuần khiết của tâm linh? Chúng tôi thử lý giải vấn đề này ở phương diện thẩm mỹ, nhìn nhận ở góc độ vai trò của cái đẹp trong cuộc sống. Cái đẹp hiện hữu khắp nơi, quanh ta và trong ta, nó có thể tồn tại ở dạng hữu hình hoặc vô hình. Cái đẹp gắn liền với cái chân, cái thiện. Chân – thiện – mỹ là đích đến cao nhất của con người mọi thời. Khi con người biết vươn tới giá trị chân – thiện – mỹ, con người sẽ ngày càng hoàn thiện mình ở mọi phương diện. Qua tìm hiểu thơ ca thời Thịnh Trần, chúng tôi cho rằng con người thời đại này hoàn toàn ý thức được vai trò của cái đẹp trong cuộc sống và hành trình của họ chính là hành trình đi tìm cái đẹp, vươn tới cái đẹp. Bối cảnh lịch sử đặc biệt với ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông và tinh thần Tam giáo đồng nguyên, trong đó Phật giáo giữ vai trò chủ đạo, đã góp phần tạo nên nét độc đáo của cái đẹp thời kỳ này, đó là cái đẹp hằng thường, vĩnh cửu. Con người tìm đến cái đẹp và hòa điệu cùng nó, tồn tại trong nó chứ không phải để chiếm hữu nó. Nếu con người hôm nay vẫn thừa nhận ý nghĩa độc đáo của cái đẹp trong đời sống của mình, chúng tôi tin rằng đề tài Thơ ca Thịnh Trần – hành trình đi tìm cái đẹp sẽ mang đến những khám phá thú vị về nhiều mặt, đặc biệt là những gợi ý để đạt được sự cân bằng trong đời sống tâm linh. 2.Mục đích nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, thứ nhất, chúng tôi muốn chứng minh sở dĩ con người thời Thịnh Trần sống hết mình với cuộc đời thực tại nhưng vẫn vững vàng về mặt đời sống tâm linh là vì họ có thiên hướng vươn tới cái đẹp, cái hoàn thiện, tìm kiếm những giá trị đích thực, vĩnh cửu trong cuộc đời. Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên hay bối cảnh lịch sử cụ thể chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để tạo nên vẻ đẹp có một không hai của con người thời đại này. Thứ hai, thông qua việc so sánh với thơ ca thời Vãn Trần, thời Lê Sơ,… chúng ta sẽ thấy được rằng cái đẹp mà con người thời Thịnh Trần hướng tới là độc đáo và khác biệt so với thời kì sau. Thứ ba, đề tài này cũng góp phần khẳng định thêm vai trò không thể thay thế của cái đẹp trong đời sống vật chất và tinh thần của con người. Thơ ca phản ánh hiện thực đời sống cũng như hiện thực tâm hồn của con người, vì vậy, chúng tôi muốn thông qua thơ ca thời Thịnh Trần để phác họa lại hành trình đi tìm cái đẹp của người xưa. Hy vọng với đề tài này, chúng ta sẽ thêm yêu quý, trân trọng giá trị thơ ca Thịnh Trần nói riêng cũng như thơ ca trung đại nói chung, đồng thời biết cách định hướng cho cuộc sống của chính mình thông qua tấm gương “sống đẹp” của con người thời Thịnh Trần. 3.Đối tượng và phạm vi khảo sát - Đối tượng: Hành trình đi tìm cái đẹp của con người thời Thịnh Trần qua thơ ca Thịnh Trần. - Phạm vi: + Thơ ca thời Thịnh Trần (từ thời Trần Thái Tông đến Trần Minh Tông) + Để làm rõ hơn đặc điểm riêng biệt trong hành trình đi tìm cái đẹp của con người Thịnh Trần qua thơ ca thời kỳ này, chúng tôi liên hệ so sánh với thơ ca các giai đoạn sau (Vãn Trần, Lê Sơ,...) + Tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến đề tài như: lịch sử, mỹ học, Thiền học,… 4.Lịch sử vấn đề Nghiên cứu về thơ ca Thịnh Trần nói chung và vấn đề hành trình đi tìm cái đẹp trong thơ ca thời Thịnh Trần nói riêng, trong quá trình sưu tầm tài liệu liên quan thực sự chúng tôi chưa thấy có những công trình trực tiếp đi sâu vào vấn đề này.Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về thơ ca Lý Trần từ trước đến nay không phải là ít. Ngay từ thời trung đại, thơ ca Lý Trần đã được sưu tầm, bình giá bởi những trí thức yêu thích thơ văn như Phan Phu Tiên với Việt âm thi tập (khắc in năm 1433), Hoàng Đức Lương với Trích diễm thi tập (soạn xong vào khoảng năm 1497), Lê Quý Đôn với Toàn Việt thi lục, Phan Huy Chú với Lịch triều hiến chương loại chí (năm 1821),… Sang đầu thế kỷ XX, thơ văn Lý Trần tiếp tục được các học giả quan tâm sưu tầm, biên soạn, dịch thuật, chú giải, giới thiệu đến độc giả. Trong số đó, đáng lưu ý là hai công trình Văn học đời Lý, Văn học đời Trần của Ngô Tất Tố ra mắtnăm 1942. Và cho đến ngày nay, văn học Lý Trần vẫn tiếp tục được các học giả nghiên cứu một cách công phu, có chiều sâu về nhiều phương diện ở nhiều cấp độ, phạm vi rộng hẹp khác nhau. Trong Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học, in trong Thơ văn Lý Trần (tập 1 – xuất bản năm 1978), Đặng Thai Mai đã có những nhận xét tinh tế vềđời sống xã hộithời Lý Trần cũng như văn học Lý Trần. Ông cho rằng đời sống xã hội thời đại này “còn có những ngày dễ chịu, vui vẻ, gần gũi với nhau (…). Hồi ấy, người ta biết sống, biết sống vui trong tình thân, trong tin tưởng”[105;tr.38] và thơ văn Lý Trần đã phản ánh trọn vẹn vẻ đẹp của tinh thần thời đại, đó là “thái độ tích cực, lạc quan trước cuộc sống”, “tình cảm tự hào, tin tưởng, vui vẻ, tích cực”[105; tr.45]. Riêng về thơ ca, ông nhận xét tình cảm thiên nhiên trong thơ không hề vay mượn từ điển cố sách vở Trung Hoa mà “bắt nguồn từ những cảm giác đã “sống”, từ những cảm giác trực tiếp”. Nhìn chung, “đây là lời thơ của một tâm trạng cân đối, hài hòa mà thanh cao”[105; tr.41]. Đây là những nhận xét chung về thơ ca Lý Trần.Tuy nhiên, theo chúng tôi, chỉ có thơ ca thời Thịnh Trần mới hoàn toàn mang được cái phong thái mà Đặng Thai Mai đã tâm đắc nói lên. Từ đó, chúng tôi muốn làm sáng tỏ thêm vì sao con người thời đại Lý Trần nói chung và thời Thịnh Trần nói riêng lại có được vẻ đẹp tâm hồn phong phú đến thế? Phải chăng vì họ ý thức được giá trị của cái đẹp trong cuộc đời nên đã kiếm tìm và đạt được cái đẹp ấy bằng phương cách riêng của mình. Cũng vì sự gắn bó đặc biệt về nhiều mặt giữa hai vương triều Lý và Trần nên thơ ca Lý Trần thường được xem như đối tượng nghiên cứu chung. Do vậy, mảng thơ thiền và thơ nho thời Thịnh Trần vô hình chung cũng nằm trong những công trình nghiên cứu về thơ ca Lý Trần. Chúng tôi tạm thời chia những công trình, những bài nghiên cứu này ra hai loại: Thứ nhất là những công trình, những bài nghiêncứu vềnhiều phương diện của thơ ca Lý Trần. Thứ hai là những công trình, những bài nghiên cứu về những tác giả thơ ca thời Thịnh Trần. Ở loại thứ nhất, có thể kể một số công trình tiêu biểu: -Năm 1996, trongVăn học Lý Trần, nhìn từ thể loại [33], Nguyễn Phạm Hùng đã nghiên cứu tất cả các thể loại của văn học Lý Trần như chiếu, hịch, phú, truyện, thơ…,trong đó có một chương tác giả trình bày về tên gọi, nội dung khái niệm, phân loại thơ, nội dung tư tưởng và nghệ thuật của thơ thiền đời Lý. - Năm 1996, Đoàn Thị Thu Vân trong công trìnhKhảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam[95] đã khảo sát thơ thiền Lý Trần từ góc độ nghệ thuật với các phương diện: ngôn ngữ, hình tượng (con người, thiên nhiên, không gian – thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả - thể hiện, giọng điệu. Song song đó, tác giả còn so sánh đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Lý Trần với thơ Nho cùng thời và với thơ thiền Trung Quốc, Nhật Bản. - Năm 2002, Nguyễn Công Lý đã có sự đầu tư nghiên cứu công phu về diện mạo và đặc điểm của văn học Phật giáo thời Lý Trần trong công trình Văn học Phật giáo thời Lý Trần, diện mạo và đặc điểm [55]. Trong mục 1.2 của chương 1, tác giả đã điểm qua gần như bao quát tình hình nghiên cứu văn học Phật giáo Lý Trần trước đó đồng thời khái quát tình hình nghiên cứu theo ba dạng: một là dạng miêu tả, liệt kê (các tác giả có điểm qua hoặc phẩm bình đôi lời về văn học Phật giáo Lý Trần); hai là dạng đan xen (khi nghiên cứu về lịch sử văn học, các tác giả ít nhiều có đề cập đến văn học Phật giáo Lý Trần); ba là dạng biệt lập (các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu trực tiếp thơ thiền Lý Trần, văn học Phật giáo Lý Trần về phương diện nội dung, nghệ thuật hoặc cả hai). Và trong công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Công Lý đã dựng lại diện mạo của văn học Phật giáo Lý Trần, từ đó tìm hiểu nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm để nêu ra đặc điểm của bộ phận văn học này. Dĩ nhiên, thôngquacách tác giả trình bày về diện mạo và đặc điểm của văn học Phật giáo Lý Trần, người đọc cũng có thể hình dung được diện mạo và đặc điểm của thơ thiền Lý Trần. - Một công trình nữa đáng lưu ý làCon người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại của Đoàn Thị Thu Vân (2007). Trong công trình này, tác giả đã nghiên cứu thơ ca sơ kì trung đại dựa trên khái niệm nhân văn – được hiểu như là những giá trị đẹp đẽ của con người. Tác giả quan niệm “một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm văn học thể hiện con người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm cách,… Tác phẩm đó hướng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người”[96; tr.5]. Trong công trình này, tác giả đã làm sáng tỏ hình tượng con người nhân văn trong thơ thời Lý, thời Trần và thời Lê Sơ với từng vẻ đẹp riêng. Đặc biệt, chương 3 đã phân tích một cách thấu đáo hình tượng con người nhân văn trong thơ thời Trần với vẻ đẹp mẫn cảm của tâm linh.Khi tìm hiểu hành trình đi tìm cái đẹp trong thơ ca thời Thịnh Trần, chúng tôi cũng quan tâm đến vẻ đẹp của con người, tuy nhiên cách nhìn và lí giải của chúng tôi là dựa vào quan niệm về cái đẹp theo tinh thần mỹ học truyền thống phương Đông chứ không đi theo khái niệm nhân văn và con người nhân văn. - Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có rất nhiều bài nghiên cứu về thơ ca Lý Trần đăng trên các tạp chí uy tín như: Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo…, hoặc được tập hợp lại trong những công trình như:Trên hành trình văn học trung đại do Nguyễn Phạm Hùng biên soạn, Văn học Việt Nam – văn học trung đại ( những công trình nghiên cứu) do Lê Thu Yến chủ biên. Có thể kể một vài bài viết tiêu biểu dưới đây: - Chất trữ tình trong thơ thiền đời Lý của Phạm Ngọc Lan, đăng trên Tạp chí Văn học, số 4 – 1986. - Một vài nhận xét về ngôn ngữ thơ thiền Lý Trần của Đoàn Thị Thu Vân, đăng trên Tạp chí Văn học số 2 – 1992. - Quan niệm về con người trong thơ thiền Lý Trần của Đoàn Thị Thu Vân, đăng trên Tạp chí Văn học, số 3–1993. - Sự quân bình giữa tâm và trí trong thiền học Lý Trần qua thuyết Tam ban của Ngộ Ấn thiền sư của Nguyễn Công Lý đăng trênTạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 4 – 2002. - Mấy ý kiến về vấn đề bản thể luận trong văn học Phật giáo thời Lý Trần của Nguyễn Công Lý đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phật học số tháng 5 – 2002. - Thơ thiền và việc lĩnh hội thơ thiền thời Lý (Nguyễn Phạm Hùng, Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001.) - Hình tượng con trâu trong thơ thiền đời Trần (Nguyễn Phạm Hùng, Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001.) - Về diễn tiến của thơ trữ tình đời Trần(Nguyễn Phạm Hùng, Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001.) Đặc biệt, trong bài Về diễn tiến của thơ trữ tình thời Trần, Nguyễn Phạm Hùng cho rằng thơ ca thời Trần có những chuyển biến so với thơ ca thời Lý, đó là nói về thế giới con người, thể hiện những trạng thái tâm hồn con người. Tác giả cũng chỉ ra sự khác biệt giữa thơ thời Thịnh Trần và thơ thời Vãn Trần. Thơ Thịnh Trần mang tính “hướng ngoại” còn thơ Vãn Trần lại mang tính “hướng nội” – “Nếu như xã hội Việt Nam thời Thịnh Trần đã tạo ra được một “phong cách thơ” cởi mở, “hướng ngoại” thì ở thời Vãn Trần, nó cũng tạo ra một “phong cách thơ” khác, “phong cách thơ” có tính “hướng nội”. Nếu như ở thời Thịnh Trần, hướng vận động chủ yếu của trạng thái tâm hồn các nhà thơ là hướng ra bên ngoài để nhập vào một cái chung lớn lao hơn, thì giờ đây, ở thời Vãn Trần, hướng vận động tâm hồn con người hình như chủ yếu là quay trở về với chính bản thân nhà thơ, là rời bỏ những gì mà nay đã thành quá cao xa, viển vông để trở về với những cái rất cụ thể, thiết thực trong cuộc sống của bản thân mình. Lời thơ không bay lên bằng đôi cánh phóng túng đến những khoảng cách không gian rộng lớn cao đẹp, mà đi bằng đôi chân có khi khá nặng nề vào cuộc sống thực tế đầy những tai ương, thất vọng, phiền muộn, lo âu” [29; tr.168]. Chúng tôi đồng tình với những nhận xét của tác giả về sự chuyển biến tâm trạng của các nhà thơ từ thời Thịnh Trần sang thời Vãn Trần. Tuy nhiên, chúng tôi không cho rằng các nhà thơ thời Thịnh Trần là những con người “hướng ngoại”, “chỉ dành ít tâm hồn, tình cảm để cho riêng mình, để nói về mình mà dành phần nhiều hơn tới những cái bên ngoài mình, đó là đất nước, là dân tộc, là thời đại,…”[29; tr.167]. Theo chúng tôi, các nhà thơ thời Thịnh Trần là những con người hoàn toàn biết hướng vào nội tâm, “phản quan tự kỷ” soi xét chính mình để thấy được chân tâm, từ đó, họ mới hướng ra cuộc sống bên ngoài (đất nước, dân tộc, thời đại,…) bằng một tâm hồn khoáng đạt và rộng mở. Đây chính là hành trình nội tâm của các nhà thơ Thịnh Trần mà chúng tôi sẽ khai thác trong đề tài của mình. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập một cách thấu đáo nhiều khía cạnh của thơ ca Lý Trần từ diện mạo, thể loại đến nội dung tư tưởng, đặc trưng nghệ thuật…, đem lại cái nhìn toàn diện về thơ ca Lý Trần và giúp cho thơ ca Lý Trần trở nên gần gũi, dễ tiếp cận hơn đối với người đọc. Ở loại thứ hai, chúng tôi thấy có những công trình nghiên cứu về các tác giả tiêu biểu của thơ ca thời Thịnh Trần như: - Huyền Quang – Cuộc đời, Thơ và Đạo [75] do Trần Thị Băng Thanh chủ biên. Công trình này gồm ba phần. Phần thứ nhất đề cập đến Huyền Quang ở góc độ một thiền gia – thi nhân. Phần thứ hai giới thiệu các thi phẩm của Huyền Quang. Phần thứ ba tập hợp những tác phẩm mà Huyền Quang xuất hiện với tư cách là một nhân vật văn học. Trong phần bình về Ngọc tiên tập của Huyền Quang, Trần Thị Băng Thanh đã cho rằng “cảm quan về thời gian chậm rãi ngưng đọng đã làm tăng vẻ tĩnh lặng của không gian, nặng thêm nỗi buồn và sự cô đơn của thi nhân. Chính điều đó đã làm mờ đi ít nhiều niềm an lạc ở đạo, sự hòa đồng với thiên nhiên mà Huyền Quang đã thổ lộ đâu đó trong thơ, khiến cho ông không giống nhiều nhà thơ thiền Lý Trần”[75; tr.65]. Tác giả khẳng định vị tổ thứ ba của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử “vẫn còn tình trạng lưỡng phân” [75; tr.76], tức là một con người thiền gia – thi nhân hoặc thi nhân – thiền gia không thể tách rời. - Ngoài ra, trong quyển Thiền học đời Trần [63] có hai bài đề cập đến Huyền Quang là Thiền sư Huyền Quang, một nhà thơ lớn của HT. Thích Minh Tuệ và Thơ Huyền Quang của Minh Chi. Năm 2008, trong luận văn thạc sĩ Thơ ca Huyền Quang – con đường của thiền và cái đẹp, Nguyễn Thị Hà An đã nghiên cứu về Huyền Quang dưới góc độ một nghệ sĩ “luôn thành tâm kiếm tìm cái đẹp của hiện hữu trong cái nhìn minh triết của một triết gia và phong thái an nhiên tự tại của một thiền sư đạt đạo”[1; tr.2]. - Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam[108] là công trình tập hợp những bài viết về Tuệ Trung Thượng sĩ vốn đã được báo cáo trong một hội thảo khoa học về ông. Những bài viết này đã tập trung làm sáng tỏ thân thế, sự nghiệp của Tuệ Trung; những đóng góp quan trong của ông với tư cách là một nhà thiền học lỗi lạc, một người con của dòng dõi nhà Trần đối với sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước, một nhà thơ với tâm hồn tự do, phóng khoáng. Thích Tuệ Đăng trong bài Thiền ngữ trong thi ca của Tuệ Trung Thượng sĩ đã nhận xét ngôn ngữ thi ca của Tuệ Trung “là một thứ ngôn ngữ giác ngộ, tự nó vốn viên thành chẳng tìm ngoài mà được, cốt quay về tự tính làm hiển lộ cái “mười phương thế giới hiện toàn chân”. Bàn về thiền phong của Tuệ Trung Thượng sĩ, trong bài Tuệ Trung Thượng sĩ và thiền phong đời Trần, Đoàn Thị Thu Vân cho rằng nét nổi bật ở Tuệ Trung là tinh thần “phá chấp triệt để”, “tùy duyên” và khẳng định chân lý – đạo – Phật ở ngay chính trong mỗi người, không phải ở bên ngoài. Đối với ông, “Thiền không chỉ là một tôn giáo mà là một cách sống, một đạo sống đẹp giúp con người đạt đến một hạnh phúc đích thực nơi trần thế với sự tự do tự tại và hài hòa cùng vạn vật, vũ trụ” [108; tr.26]. Nói đến những bài nghiên cứu về Tuệ Trung thì không thể không nhắc đến bài viết Trần Tung – một gương mặt lạ trong thơ thiền Lý – Trầncủa Nguyễn Huệ Chi từng đăng trên Tạp chí Văn học số 4 – 1977. Bài viết này đã khẳng định Tuệ Trung chính là Trần Tung chứ không phải là Trần Quốc Tảng như một số ý kiến nhầm lẫn trước đó, đồng thời còn nêu lên những nét đặc sắc trong thơ văn của Tuệ Trung như ý thức về bản ngã, về sự tự do tự tại, tinh thần phóng khoáng của một nhà tư tưởng, một nhà duy lý bên trong một thiền gia. -Trần Thái Tông – đường đời, nẻo đạo [8] của Trần Thị Băng Thanh. Bài viết đã trình bày một cách súc tích nhưng đầy đủ về cuộc đời của vua Trần Thái Tông. Bên cạnh đó, tác giả cũng nhận xét về lời thơ, giọng điệu thơ trong bài Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn và Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh; những cốt lõi tư tưởng thiền trong bài Thiền tông chỉ nam tự, Khóa hư lục; chất trữ tình, chất thơ trong những tác phẩm bàn về triết học, giảng về đạo Phật của ông. - Trần Nhân Tông và tầm vóc một thời đại [8] của Nguyễn Huệ Chi và Trần Thị Băng Thanh. Bài viết đã đánh giá Trần Nhân Tông ở cả ba phương diện: nhà vua, nhà thiền học và nhà thơ. Thơ Trần Nhân Tông được đánh giá là “thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng” [8; tr.146], “cảm hứng thế tục và cảm hứng thiền hòa quyện với nhau” [8; tr.169]. Bản thân vua Nhân Tông được xem là một cây bút có phong cách và cũng là một đỉnh cao trong thơ ca thời Thịnh Trần. Năm 2008, hội thảo khoa học về vua Trần Nhân Tông diễn ra tại Quảng Ninh. Tại hội thảo này, các học giả cũng đã có nhiều tham luận đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện về vị vua thứ ba của nhà Trần (Những bài viết này đều được đăng trên trang 2TU - Ngoài ra, các nhà thơ thế tục như: Trần Quang Khải, Trần Quang Triều, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Sưởng, Nguyễn Ức, Trương Hán Siêu,… là những tác giả rất được các nhà nghiên cứu quan tâm. Hầu như những tác phẩm của họ đều được tìm hiểu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Theo nhận xét của chúng tôi, thơ ca Lý Trần nói chung đã được nghiên cứu ở nhiều phương diện: nội dung tư tưởng, đặc trưng nghệ thuật, tác giả, tác phẩm. Tuy nhiên, tập trung nghiên cứu riêng về một vấn đề của thơ ca thời Thịnh Trần thì chưa có công trình nào thực hiện. Đây là điểm mà chúng tôi muốn khai thác theo hướng riêng của mình. Trong luận văn này, chúng tôi muốn tập trung khảo sát hành trình đi tìm cái đẹp của con người thời Thịnh Trần qua thơ ca. Nhắc đến thời Trần, đặc biệt là Thịnh Trần, chúng ta không thể quên được “Hào khí Đông A”. Điều gì đã hun đúc nên hào khí đặc biệt của dân tộc Việt vào thời kì này? Đây là câu hỏi đã từngcó nhiều câu trả lời hợp lí. Và chúng tôi muốn góp vào trong những câu trả lời đó thêm một lí do nữa, đó là con người thời Thịnh Trần luôn biết hướng đến cái đẹp mang tính chất tâm linh, họ luôn tự hoàn thiện mình bằng một hành trình nội tâm mạnh mẽ, vững vàng. Chính cái đẹp tâm linh đã tạo nên khí chất, cốt cách riêng biệt của con người thời đại. Để chứng minh cho tính thuyết phục của lời giải đáp này, chúng tôi sẽ nghiên cứu thơ ca thời Thịnh Trần – cả thơ thiền và thơ thế tục – dựa trên tinh thần mỹ học, đặc biệt là từ góc nhìn của cái đẹp. Ở hướng đi mới này chắc hẳn chúng tôi sẽ gặp không ít khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng sẽ mang lại ít nhiều những phát hiện thú vị, khoa học và có ý nghĩa choluận văn. 5.Phương pháp nghiên cứu Phương pháp hệ thống: Đây là một phương pháp quan trọng được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Chúng tôi sẽ đặt đối tượng nghiên cứu trong nhiều hệ thống khác nhau: hệ thống triết học – mỹ học, hệ thống thơ ca dân tộc,… để giúp cho việc nghiên cứu đề tài được toàn diện và bao quát hơn. Phương pháp phân tích: Phương pháp phân tích được sử dụng nhiều ở cả chương 2, chương 3 để phân tích văn bản thơ nhằm làm sáng tỏ cho các luận điểm được nêu ra trong luận văn. Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 3 khi chúng tôi so sánh hành trình đi tìm cái đẹp trong thơ ca thời Thịnh Trần với thơ ca ở các giai đoạn sau. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp hỗ trợ khác như: thống kê, phân loại,… 6.Kết cấu luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1:Thời đại, Thơ ca và Cái đẹp. Chương này nêu những nét khái quát về thời Thịnh Trần, thơ ca Thịnh Trần và trình bày các vấn đề mỹ học có liên quan. Chương 2:Thơ ca thời Thịnh Trần – cuộc hành hương đến với thánh địa của cái đẹp. Chương này cố gắng phác thảo lại hành trình đi tìm cái đẹp của con người thời Thịnh Trần qua những tác phẩm thơ ca còn để lại. Hành trình này khởi nguồn từ nhận thức về cuộc sống, đến ý thức đi tìm sự viên mãn cho đời sống tâm linh và vươn tới cái đẹp hằng thường, cái đẹp đưa con người đến sự tự do hoàn toàn. Chương 3: Viên mãn của một thời – hành trình không lặp lại. Trong chương này, để chứng minh sự “độc nhất vô nhị” của hành trình đi tìm cái đẹp đã phác họa ở chương 2, chúng tôi sẽ đối chiếu với hành trình đi tìm cái đẹp của các nhà thơ giai đoạn sau (từ thời Vãn Trần cho đến thời nhà Nguyễn, trước khi thực dân Pháp xâm lược năm 1858). CHƯƠNG 1: THỜI ĐẠI, THƠ CA VÀ CÁI ĐẸP 1.1.Thịnh Trần – thời kỳ phục hưng mạnh mẽ của dân tộc 1.1.1.Giới thuyết về thời Thịnh Trần Trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, hai vương triều Lý – Trần có mối quan hệ vô cùng đặc biệt, đó là sự chuyển giao quyền lực từ họ Lý sang họ Trần một cách êm đẹp, ít bạo lực nhất bằng cuộc hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng.Vì vậy, có thể nói, nhà Trần đã kế thừa gần như nguyên vẹn những giá trị vật chất và tinh thần từ triều đại trước và cùng với nội lực của mình, vương triều này đã phát huy sức mạnh dân tộc lên đến mức cao nhất,lãnh đạo toàn dân vượt qua những cơn bão xâm lược dữ dội từ phương Bắc, hình thành nên hào khí riêng của thời đại – hào khí Đông A. Tuy nhiên, như bất kì một triều đại nào khác, nhà Trần cũng không tránh khỏi vận thịnh suy. Nghiên cứu về nhà Trần, các nhà sử học thường chia thành hai giai đoạn rõ rệt là Thịnh Trần và Vãn Trần. Nhà Trần bắt đầu từ năm 1225 và kết thúc vào năm 1400, tổng cộng 175 năm tồn tại, trải 12 đời vua.Thịnh Trần là thời kì hoàng kim của triều đạivới năm vị vua anh minh: Trần Thái Tông (1225 – 1258), Trần Thánh Tông (1258 – 1278), Trần Nhân Tông (1278 – 1293), Trần Anh Tông (1293 – 1314) và Trần Minh Tông (1314 – 1329). Vãn Trần là giai đoạn sau, khi nhà Trần bắt đầu suy thoái, chính thức tính từ thời Trần Dụ Tông (1341 – 1369), cho đến khi mất vào tay Hồ Quý Ly vào năm 1400 dưới thời Trần Thiếu Đế (1398 – 1400). Thực ra, nếu nói về giai đoạn thịnh của nhà Trần, có thể kể thêm thời Trần Hiến Tông (1329 – 1341), bởi Hiến Tông là vị vua “tư trời tinh anh, sáng suốt” [36; tr.240], lại được sự dìu dắt của Thượng hoàng Minh Tông nên “vận nước vẫn thái bình”. Như vậy, thời Thịnh Trần kéo dài suốt gần 116 năm, và hầu hết những thành tựu rực rỡ nhất của vương triều nhà Trần đều đạt được ở giai đoạn này. 1.1.2.Thịnh Trần – thời đại hoàng kim Ngay khi thay thế nhà Lý, nhà Trần đã có ý thức xây dựng một quốc gia Đại Việt hùng cường, phía Bắc tạo được thế đối trọng với Trung Quốc, phía Tây và phía Nam kiềm tỏa được Ai Lao và Chiêm Thành. Do vậy, chính quyền đã tập trung cải cách về hành chánh, chế định pháp luật, phát triển kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, hoàn thiện về giáo dục, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là tổ chức quân đội chặt chẽ, kỉ luật nghiêm minh, sẵn sàng đương đầu với các thế lực xâm lược. Nếu thời đại LýTrần được xem là thời kỳ phục hưng lớn nhất của dân tộc thì có thể khẳng định thời Thịnh Trần chính là thời kỳ phục hưng mạnh mẽ nhất về mọi phương diện. Họ Trần tuy xuất thân làm ._.nghề chài lưới ở làng Tức Mặc nhưng khi lên nắm quyền đã thể hiện bản lĩnh vững vàng, trình độ lãnh đạo tuyệt vời và kiến tạo được vẻ đẹp tinh thần riêng của thời đại mình. Đó chính là điều đặc biệt hiếm có trong lịch sử các vương triều phong kiến Việt Nam. Sự kiện nổi bật nhất làm chói lọi cho trang hùng sử thời Thịnh Trần chính là ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông thành công. Lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, chiến thắng trước kẻ thù xâm lược mạnh mẽ không phải là chuyện hiếm, thế nhưng tại sao chiến thắng của nhà Trần lại trở thành một dấu ấn vàng son? Theo chúng tôi, vấn đề không chỉ nằm ở chỗ đối phương là một đế quốc siêu cường từng chinh phạt gần trọn châu Á, gần nửa châu Âu mà cònlà ở tư thế chủ động và đỉnh đạc của quân dân nhà Trần trong cuộc chiến không cân sức.Sự chủ động đó, chúng ta đã từng thấy ở nhà Lý với ba lần chống Tống thành công, danh tướng Lý Thường Kiệt thậm chí từng đem quân đến tận Quảng Đông, Quảng Tây để đánh trận phủ đầu mang tính chiến lược nhằm phá vỡ thế tiến công của nhà Tống. Đến nhà Trần, cách chiến đấu và xây dựng đất nước trong thế chủ động đã trở nên là một hình mẫu lý tưởng cho đến ngày nay.Để thấy được sự chuẩn bị chu đáo của nhà Trần trong những lần đối đầu này, chúng ta xem bảng thống kê sau: CÁC ĐỜI VUA TRẦN BA LẦN NHÀ NGUYÊN XÂM LƯỢC THỜI GIAN KHÁNG CHIẾN TRẦN THÁI TÔNG (1225 – 1258) 1257 – 1258 Khoảng 3 tháng TRẦN THÁNH TÔNG (1258 – 1278) TRẦN NHÂN TÔNG (1278 – 1293) 1284 – 1285 1287 – 1288 Khoảng 7 tháng Khoảng 5 tháng Nhìn vào những số liệu trên đây, chúng ta thấy chỉ 33 năm sau khi nhà Trần củng cố chính quyền đã phải đương đầu với quân đội Nguyên Mông. Khoảng 27 năm sau, cuộc chiến thứ hai diễn ra quyết liệt và gần như ngay sau đó, nhà Trần phải đối phó với cuộc xâm lược lần thứba từ phương Bắc. Thời gian trước và sau chiến tranh đều có những hoạt động ngoại giao căng thẳng giữa hai nước.Đất nước ta, xét về bất cứ phương diện nào cũng kém về qui mô so với phương Bắc nên đối đầu trực tiếp là việc chẳng đặng đừng. Vì vậy, nhà Trần chọn giải pháp ngoại giao mềm dẻo nhằm giữ mối giao hảo lâu dài. Tuy nhiên, khi đứng trước nguy cơ bị xâm lược, vua tôi nhà Trần luôn quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự chủ của dân tộc.Trước khi sang xâm lược nước ta lần thứ nhất, Ngột Lương Hợp Thai ba lần sai sứ sang bắt vua tôi nhà Trần phải thần phục. Lần nào, vua Trần cũng cho bắt giam sứ giả để tỏ rõ thái độ cương quyết của mình, bên cạnh đó là sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho một cuộc chiến không thể tránh khỏi. Trong ba lần đối đầu với đại quân của con cháu Thành Cát Tư Hãn, nhà Trần đều ở tư thế chủ động, càng về sau sự chủ động ấy càng được phát huy hơn.Chúng ta có thể thấy điều này qua câu trả lời “năm nay đánh giặc nhàn” của Tiết chếQuốc công Trần Quốc Tuấn khi vua Trần Nhân Tông hỏi về thế giặc ở cuộc chiến lần thứ ba. Điểm chung của cả ba lần kháng chiến là khi giặc mới sang, quân thanh rất mạnh, quân dân nhà Trần đều phải tạm rút lui để bảo toàn lực lượng, nhà vua xa giá khỏi kinh thành Thăng Long, thân chinh sương gió cùng tướng sĩ, nhiều lúc rơi vào tình thế nguy nan tưởng chừng phải quy hàng, nhưng nhờ vua tôi trên dưới một lòng “sát thát”, kiên trì chờ đợi thời cơ phản công nên giành được thắng lợi cuối cùng. Thời gian kháng chiến ngắn một cách đáng kinh ngạc, tổng cộng chỉ khoảng 15 thángcho ba lần “đại chiến”. Trung Hoa xâm lược nước ta bao giờ cũng đặt mục tiêu cai trị lâu dài, triệt tiêu tinh thần dân tộc, đồng hóa về mọi mặt. Nhưng suốt từ thời Lý đến thời Trần, mục tiêu này đã không thể đạt được. Ngược lại, qua mỗi lần chiến thắng, hào khí Đại Việt càng tăng, con người Đại Việt càng thể hiện được bản lĩnh và chiều sâu trong tâm hồn, trí tuệ, dân tộc Việt có thể ngẩng cao đầu trước dân tộc Trung Hoa. Sau những năm tháng chiến tranh, kể từ đời vua Anh Tông đất nước sống trong cảnh thái bình. Vua chăm lo chính sự, mở mang học thuật, trọng dụng người hiền chứ không chỉ tin dùng người trong tôn thất. Những bậc danh nho lỗi lạc như Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, Trương Hán Siêu, danh tướng Phạm Ngũ Lão,… đã góp công to lớn cho sự ổn định và phát triển của nước nhà. Bằng cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân và vua nước Chiêm Thành, Đại Việt mở mang bờ cõi xuống phía nam. Trước sự quấy nhiễu của Ai Lao, Chiêm Thành, các vua Trần thân chinh đánh dẹp và đều giành thắng lợi càng tạo uy thế cho Đại Việt. Vua Minh Tông lên ngôi, tuy có phạm một lỗi lầm đáng tiếc là giết oan Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn nhưng nhìn chung vẫn là vị vua anh minh, đức độ, kế tục xứng đáng sự nghiệp của các đời vua trước. Sản phẩm đặc biệt của thời Thịnh Trần chính là con người. Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy con người thời đại này không bị cuốn hoàn toàn vào chiến tranh, chém giết, căm thù mà ngược lại, mọi mặt đời sống đều đạt được thế cân bằng trên nền chiến tranh khốc liệt. Họ thể hiện lòng yêu nước một cách tích cực nhất, đồng thời luônkhát khao hướng tới giá trị chân thiện mỹ, đạt đến sự hài hòa giữa đời sống hiện thực và tâm linh. Trong chiến tranh, chúng ta cảm phục biết bao trước lời của Trần Thủ Độ nói với vua Trần Thái Tông “Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ đừng lo”, lời của Trần Hưng Đạo nói với vua Trần Nhân Tông “Nếu bệ hạ muốn hàng thì chém đầu thần trước đã”, lời khẳng khái của Trần Bình Trọng với tướng giặc “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Những lời nói ấy không chỉ thể hiện lòng trung nghĩa, đức hy sinh, tinh thần trách nhiệm cao độ, tạo nên bước ngoặt quan trọng trong giờ phút sống còn của dân tộc mà còn là lời thiêng mang tính chất kế thừa từ đời này sang đời khác. Đó là vẻ đẹp của con người thời ThịnhTrần trong thời chiến, còn trong đời thường chúng ta thấy cách sống, cách ứng xử của họ cũng rất “lạ”. Vua Trần Thái Tông, sau những biến cố trong đời, bèn rời hoàng cung lên núi Yên Tử tu hành nhưng không thành. Kể từ đó, ông chuyên tâm vào quốc sự và nghiên cứu Phật học. Các vua Trần có truyền thống đi tu cũng khởi nguồn từ vị vua dám từ bỏ ngai vàng như “trút bỏ chiếc giày rách” này. Về sau, từ “ngọn đuốc sáng của thiền học Việt Nam” (chữ dùng của Nguyễn Đăng Thục) Trần Thái Tông, cùng với truyền thống tôn trọng Phật giáo từ đời Lý, cộng thêm sự dẫn dắt của Tuệ Trung Thượng sĩ đã xuất hiện vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông. Đến đây, Thiền học Phật giáo kể từ khi truyền vào nước ta đã có cái tư phong của dân tộc, làm nền tảng cho tinh thần Đại Việt. Có được tinh thần chủ đạo này, “xuất” – “xử” không còn là vấn đề, mọi tham sân si dứt bỏ, con người trở nên tự do “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong suy nghĩ và hành động. Đương nhiên, hỗ trợ tích cực cho tinh thần thiền Tông chính là Nho giáo và Đạo giáo, tạo nên cái gọi là “Tam giáo đồng nguyên”. Cả ba kết hợp hài hòa do Phật giáo có khả năng dung hợp tốt với cả hai học phái kia. Nhờ vậy, thời đại này đã sản sinh ra những con người tài hoa về nhiều mặt, sống theo tinh thần nhân văn và hướng về cái đẹp vĩnh hằng. Cái chất hào hùng, phóng khoáng, cởi mở, tự tin của thời Thịnh Trần mới chính là vốn quý được hun đúc từ quá trình đấu tranh sinh tồn của dân tộc. Vinh quang chiến thắng nào rồi cũng qua đi, chỉ có giữ được vẻ đẹp tinh thần ấy mới mong giữ gìn được vận mệnh, nguyên khí của quốc gia. Vương Triều Trần trong buổi hưng thịnh đã làm được điều này. Nhà Trần trong buổi đầu hưng thịnh luôn điều hòa được hai mặt đối nội và đối ngoại. Về đối nội, trong triều vua sáng tôi hiền, chưa xảy ra tranh giành quyền lực, mưu hại lẫn nhau. Giai cấp thống trị nêu gương sáng, dân chúng được giáo hóa tốt, nhờ vậy tạo được sự đoàn kết, yêu thương, đồng thuận trong cả nước. Đó là sức mạnh nội tại của dân tộc ta thời kì này. Về đối ngoại, nhà Trần ý thức rõ điểm yếu điểm mạnh của mình, của ngoại bang để có chính sách ngoại giao phù hợp, biết tùy cơ ứng biến, khi mềm dẻo, khi cứng rắn để giữ vẹn lãnh thổ lẫn thể diện quốc gia. Nhìn chung, Thịnh Trần là thời kỳ hoàng kim trong suốt tiến trình lịch sử Việt Nam. Con người thời Thịnh Trần là sự kết tinh trọn vẹn vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ dân tộc. Thời gian trôi qua cùng bao biến thiên của lịch sử, vương triều Trần đã khép lại hơn sáu trăm năm. Vậy mà con người của thời đại hôm nay, khi tìm về với cội nguồn dân tộc, giở trang sử Thịnh Trần vẫn cảm thấy bàng hoàng về một cái gì đã mất – đã một đi không trở lại,đó chính là cách sống đẹp, sống hết kích thước của cuộc sống và vươn tới chân giá trị của một con người. 1.2.Thơ ca thời Thịnh Trần 1.2.1.Vị trí mở đầu cho thơ ca dân tộc Thời đại Lý Trần đã ghi một dấu ấn đẹp đẽ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, đồng thời, cũng đánh dấu bước khởi sắc về văn hóa, khởi sắc nhưng lại đậm đà bản sắc và có chiều sâu nhất, của nước nhà. Theo nhận xét của Phan Huy Ích “Nước ta, từ đời Lý Trần về sau, đã có tiếng là một nước văn hiến”[74; tr.82].Như vậy, nước Việt ta có thể tự hào là một nước văn hiến cũng khởi nguồn từ hai vương triều Lý Trần, và một trong những thành tựu văn hóa đáng trân trọng của thời đại này, đó chính là văn chương. Thơ văn Lý Trần mở đầu cho nền văn học thành văn Việt Nam. Với vị trí đặc biệt như thế, thơ văn Lý Trần đã được các nhà nghiên cứu văn học từ xưa đến nay dành cho những đánh giá khách quan và xứng đáng. Phan Huy Chú, người được xem là nhà bách khoa lỗi lạc của Việt Nam vào thế kỉ XIX, đã nhận định “Đến đời Lý, đời Trần nội trị, văn vật mở mang, kể tham định thì có những sách điển chương điều luật, về ngự chế thì có các thể chiếu, sắc, thi, ca. Trị bình đời đời nối tiếp, văn chương thanh nhã đầy đủ. Huống chi kẻ sĩ đời nào cũng có, văn chương nảy nở như rừng, sách vỡ ngày càng nhiều; nếu không trải qua binh lửa mà thành tro tàn thì hẳn là trâu kéo phải mệt, nhà chất phải đầy”[74; tr.111]. Ý kiến này cho thấy xã hội Lý Trần phát triển về mọi mặt, đặc biệt là về văn chương. Văn chương không chỉ có chất riêng “thanh nhã đầy đủ”, đa dạng về thể loại mà còn nhiều về số lượng “trâu kéo phải mệt, nhà chất phải đầy”. Tiếc là kho tàng văn học đồ sộ thời kì này đã bị hủy hoại một cách không thương tiếc bởi chiến tranh. Tuy vậy, khi tìm trong di sản, nhặt nhạnh lại chút ít từ đống tro tàn, chúng ta vẫn có thể hình dung được phần nào giá trị của thơ văn Lý Trần. Về khí chất văn học Lý Trần, Nhữ Bá Sĩ đã có ý kiến khá sắc sảo “Nước Việt ta, từ xưa gọi là một nước văn hiến, qua văn chương của các bậc quân tử từ thời Lý Trần cho tới trước thời Lê, đẹp mà hùng, rực rỡ mà có chất, đủ làm chứng cứ”[74, tr.132]. Quả vậy, văn học bao giờ cũng phản ánh trung thực đời sống của xã hội đương thời. Xã hội Lý Trần nhìn chung có một đời sống tinh thần tự do, dân chủ, bình đẳng, cởi mở. Chính tinh thần này đã hàm dưỡng nên những con người có bản lĩnh mạnh mẽ, khí phách hào hùng, sống cuộc đời vui tươi, giản dị. Nhờ vậy, văn chương mới có được cái khí chất đặc biệt mà Nhữ Bá Sĩ đã nói. Khi biên soạn bộ sách Thơ văn Lý Trần, các học giả cũng đã đánh giá cao vai trò, vị trí của văn học giai đoạn này: “Có thể nói đó cũng là chặng đường hoàn chỉnh đầu tiên của nền văn học viết Việt Nam, với thành tựu tổng hợp của sáu triều đại: Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ. Đó là một thời kỳ văn học phong phú, với không ít vấn đề cùng được đặt ra, có ý nghĩa xây nền đắp móng cho văn học dân tộc. Dĩ nhiên, nổi bật hơn cả trong sáu triều đại vẫn là Lý và Trần, hai cái mốc lịch sử bao trùm, nơi tập trung thành tựu của cả thời đại về nhiều phương diện”[105; tr.7]. Nằm trong nguồn mạch chung của thơ văn Lý Trần, thơ ca thời Lý Trần có vị trí đặc biệt – mở đầu cho nền thơ ca dân tộc. Trong Toàn Việt thi lục lệ ngôn, Lê Quý Đôn đã nhận xét: “Nước ta từ khi gây dựng, văn minh không kém gì Trung Quốc. Bài từ vua Tiền Lê tiễn sứ Lý Giác nhà Tống, lời lẽ nõn nà có thể vốc được. Hai vua Thánh Tông, Nhân Tông nhà Lý đều giỏi sách hay thơ… Các vua đời Trần cũng rất thích đề thơ, mỗi người đều có tập thơ riêng…, nói chung hứng thơ bằng phẳng mà khoáng đạt, tình cảm cao siêu mà thanh nhã, phong vị lai láng còn nguyên. Tuy nhiều lời lẽ nhà chùa nhưng cũng đủ để thấy những nét lớn về chính trị và giáo hóa đương thì”[105; tr.22].Lê Quý Đôn đã xem thi ca như một yếu tố đểkhẳng định văn minh nước ta không thua kém Trung Hoa. Từ thời Tiền Lê, đến thời Lý, thời Trần truyền thống thơ ca được tiếp nối. Những người đứng đầu quốc gia lại là những người yêu thơ và cũng là những nhà thơ có cốt cách, phong thái riêng. Chính tình cảm đó đã khuyến khích thơ ca đương thời phát triển. 1.2.2.Đặc điểm thơ ca Thịnh Trần Thơ ca Lý Trần vẫn thường được nghiên cứu chung với nhau, đặc biệt là mảng thơ thiền,bởi vì bối cảnh văn hóa xã hội giữa hai triều đại có mối quan hệ mật thiết nên thơ ca có nhiều điểm tương đồng.Nằm trong truyền thống của văn học nước nhà, thơ ca Lý Trần thấm đẫm tinh thần yêu nước và nhân văn. Đồng thời, về phương diện tư tưởng, thơ ca Lý Trần chịu ảnh hưởng của cả tam giáo –Nho, Phật, Lão– trong đó đạo Phật chiếm ưu thế.Tuy nhiên, nếu tách ra thì thơ ca đời Lý vẫn có những điểm khác biệt so với thơ ca đời Trần. Lực lượng sáng tác chủ yếu của thơ ca thời Lý là tăng lữ nên thơ ca thời này chủ yếu là thơ Thiền. Vì vậy, thơ thời Lý đậm chất triết lý hơn trữ tình. Xét về mặt nghệ thuật thì “thơ văn đời Lý nói chung khô khan, phần lớn nhằm mục đích thuyết minh cho đạo lý Phật giáo”[45;tr.59]. Có thể nói, thơ ca đời Lý chưa có sự đa dạng, hùng hậu về lực lượng sáng tác, sự phong phú trong đề tài và sự điêu luyện trong nghệ thuật biểu hiện như thơ ca đời Trần nhưng nó là nền tảng cho sự phát triển của thơ ca thời kì kế tiếp. Thơ ca thời Trần có thể chia làm hai chặng đường: Thịnh Trần và Vãn Trần. Sự phân chia này không đơn thuần dựa trên yếu tố lịch sử mà còn dựa vào bản thân văn học. Về mặt lịch sử, Vãn Trần là thời kì xã hội bước vào suy thoái dẫn đến sụp đổ, nhưng xét về văn học, thơ ca thời Vãn Trần không hề thua kém thơ ca thời Thịnh Trần, chỉ là về lực lượng sáng tác, nội dung tư tưởng, cảm hứng chủ đạo đã có sự khác biệt khá rõ so với thơ ca thời kì thịnh trị. Vào thời Vãn Trần, Phật giáo đã nhường bước để cho Nho giáo giữ vị trí độc tôn nênlực lượng sáng tác chủ yếu của thơ ca thời kỳ này là các nhà nho, ít thấy thơ của các thiền sư như trước đó, đồng thời tư tưởng Nho gia ảnh hưởng sâu sắc trong thơ ca, hơn hẳn Thiền và Lão Trang. Đọc thơ Vãn Trần, chúng ta luôn day dứt bởi những hoài niệm về quá khứ vàng son của triều đại, về nỗi lo đời thương dân trong sự bất lực của kẻ sĩ đương thời, về tâm sự bất đắc chí, trăn trở mãi nỗi niềm “xuất xử” của nhà nho,… Nhìn chung, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì này là nỗi buồn thế sự. Chúng ta không còn thấy phong thái tự tin, yêu đời như của con người thuở trước. Vì vậy, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi tách thơ ca Thịnh Trần ra nghiên cứu, xem nó như một mảng thơ ca đặc thù biểu hiện trọn vẹn vẻ đẹp của con người thời đại – những con người khao khát vươn lên, mạnh mẽ về nội tâm, biết đi tìm cái đẹp và đạt được cái đẹp hằng thường trong đời sống. Thơ ca Thịnh Trần bao gồm cả hai mảng thơ thiền và thơ thế tục (thơ nho). Nếu như thơ thiền đời Lý chủ đạo vẫn là chất triết lý thì Thơ thiền đời Trần có sự kết hợp hài hòa giữa chất triết lý và trữ tình. Thiền học thời kì này dường như xâm nhập vào đời sống ở mức độ tinh vi và sâu sắc hơn trước, nó không còn ở giai đoạn truyền bá giáo lý mà chuyển sang cảnh giới “Thiền trong ta, ta trong Thiền”. Con người thời Thịnh Trần không chỉ thấy Thiền trong giáo lý mà còn thấy Thiền trong đời sống hàng ngày, trong từng chuyển động của cánh bướm, nụ hoa, ngọn cỏ. Thiền đã thăng hoa thành cảm xúc, hòa vào dòng cảm xúc thi ca. Vì vậy,“Thơ thiền thời Trần không trực tiếp biểu đạt thiền lý như thơ thiền thời Lý mà chứa đựng thiền vị sâu xa và tinh tế trong cách nhìn, cách cảm về thiên nhiên cuộc sống”[96; tr.26]. Riêng ở mảng thơ thế tục, đề tài khá phong phú: thơ bang giao khi tiếp tiễn sứ thần phương Bắc, thơ vịnh sử của Trần Anh Tông, thơ hoài cổ, thơ vịnh cảnh, thơ ca yêu nước chống ngoại xâm,… Trước thời Trần, chưa bao giờ thơ ca dân tộc lại đa dạng về đề tài, dạt dào về cảm xúc như lúc này.Có thể nói, từ thơ thiền và thơ ca thế tục thời Thịnh Trần đã hình thành nên truyền thống yêu nước và nhân văn trong thơ ca Việt Nam. Sau đây là bảng thống kê tác giả và số lượng tác phẩm thơ ca thời Thịnh Trần: STT TÊN TÁC GIẢ - NĂM SINH MẤT SỐ BÀI THƠ GHI CHÚ 1 Trần Thái Tông (1218 – 1277) 35 thơ, kệ, vấn đáp 2 Trần Tung –Tuệ Trung (1230 – 1291) 51 thơ, kệ, ngữ lục 3 Trần Thánh Tông (1240 – 1290) 16 4 Trần Quốc Toại (1254 – 1277) 3 5 Trần Quang Khải (1241 – 1294) 9 6 Đinh Củng Viên (? – 1294) 1 7 Trần Nhân Tông (1258 – 1308) 35 thơ, kệ, vấn đáp 8 Trần Thì Kiến (?) 1 9 Trần Đạo Tái (?) 1 10 Nguyễn Sĩ Cố (? – 1312) 2 11 Vương Vụ Thành (?) 1 12 Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320) 2 13 Trần Anh Tông (1276 – 1320) 14 14 Nguyễn Chế Nghĩa (?) 1 15 Khuyết danh 2 16 Đỗ Khắc Chung (? – 1330) 2 17 Bùi Tông Hoan (?) 3 18 Trần Quang Triều (1286 – 1325) 11 19 Pháp Loa (1284 – 1330) 3 20 Huyền Quang (1254 – 1334) 24 21 Nguyễn Thị Điểm Bích (?) 1 22 Mạc Ký (?) 1 23 Trương Hán Siêu (? – 1354) 7 24 Nguyễn Sưởng (?) 16 25 Trần Minh Tông (1300 – 1357) 27 26 Trần Hiệu Khả (?) 1 27 Phạm Ngộ (?) 6 28 Phạm Mại (?) 5 29 Mạc Đĩnh Chi (1284 – 1361) 4 Bảng thống kê tác giả, số lượng tác phẩm này chúng tôi dựa vào quyển Thơ văn Lý Trần, tập 2, quyển thượng, Viện Văn học, Nxb Khoa học xã hội, 1978. Tổng cộng có 29 tác giả và 284 tác phẩm. Bảng thống kê trên giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về thành tựu thơ ca thời kì này. Số lượng tác giả tuy không nhiều nhưng có thể thấy lực lượng sáng tác phong phú, bao gồm vua, quý tộc, quan lại, thiền sư, đáng chú ý có một nhà thơ nữ là Nguyễn Thị Điểm Bích. Trong đó, có những tác giả giữ nhiều vai trò khác nhau như vừa là vua vừa là thiền sư, vừa là quý tộc vừa là cư sĩ; cũng có người tuy làm quan nhưng lại tỏ ra hâm mộ thiền hoặc để lòng nơi thú giang hồ tiêu dao. Rõ ràng, đó là biểu hiện của tinh thần “Tam giáo đồng nguyên” ở con người Thịnh Trần. Chính sự đa dạng và hài hòa trong tư tưởng của con người thời đại này đã góp phần làm cho những sáng tác thi ca của họ mang một sắc thái riêng không lẫn lộn với bất kì thơ ca thời kì trước hay sau đó. Cách chọn tác giả được chúng tôi căn cứ vào mốc lịch sử Thịnh Trần đã xác định lúc đầu. Những tác giả nào sống vào thời Thịnh Trần sẽ được xếp vào đây. Một số tác giả chưa rõ năm sinh, năm mất thì căn cứ vào cách sắp xếp của các học giả biên soạn cuốn Thơ văn Lý Trần và nội dung biểu hiện trong thơ ca của họ. Cái khó là sự lựa chọn một số tác giả tiêu biểu sống vào buổi giao thời giữa Thịnh và Vãn Trần như Trần Quang Triều, Nguyễn Ức, Nguyễn Sưởng. Tuy chưa rõ năm sinh mất của Nguyễn Ức và Nguyễn Sưởng nhưngcó thể đoán họ sống cùng thời với Trần Quang Triều vì cả hai đều là thành viên của nhóm Thi xã Bích Động do Trần Quang Triều sáng lập. Xét về thời gian, Trần Quang Triều (1286 – 1325) phù hợp để xếp vào thời kì Thịnh Trần. Tuy nhiên, với một số người nghiên cứu thơ ca Vãn Trần, họ vẫn chọn ông để khảo sát. Thơ Trần Quang Triều thực tế vẫn mang phong thái tự tin, phóng khoáng, dạt dào Thiền vị của con người thời thịnh trị, nhưng với bẩm tính vô cùng nhạy cảm, tinh tế, ông đã sớm cảm nhận được sự “manh nha của mầm mống suy yếu và loạn lạc” [96;tr.69], cho nên thơ ông còn có những khoảnh khắc trầm tư trước cuộc đời, những suy nghĩ sâu sắc về nhân sinh. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu coi ông như “gạch nối giữa Thịnh Trần và Vãn Trần”[96; tr.69]. Trên cơ sở năm sinh mất và nội dung mười một bài thơ còn để lại của Cúc Đường chủ nhân, chúng tôi xếp ông vào danh sách những tác giả của thời Thịnh Trần. Riêng Nguyễn Ức và Nguyễn Sưởng, chúng tôi thấy tuy sống cùng thời và là bạn thơ với Trần Quang Triều nhưng các nhà biên soạn Thơ văn Lý Trần lại xếp Nguyễn Sưởng vào quyển 2, Nguyễn Ức vào quyển 3. Sau khi đọc thơ của hai tác giả này, nhận thấy thơ của Nguyễn Sưởng gần với phong cách của thơ thời Thịnh Trần hơn Nguyễn Ức, chúng tôi quyết định chọn Nguyễn Sưởng, còn Nguyễn Ức thì xếp vào thời Vãn Trần. Về số lượng tác phẩm được thống kê, chúng tôi đặc biệt chú ý đến tác phẩm của những tác giả Trần Thái Tông, Tuệ Trung và Trần Nhân Tông. Bởi vì, ở ba tác giả này, ngoài những bài thơ ra còn có các bài kệ hoặc các câu thơ nằm xen trong những tác phẩm văn xuôi, chẳng hạn như Phổ thuyết tứ sơn, Niệm tụng kệ của Trần Thái Tông, Thượng sĩ ngữ lục của Tuệ Trung, Sư đệ vấn đáp của Trần Nhân Tông. Chúng tôi thống nhất cách thống kê như sau: - Mỗi bài kệ được tính là một đơn vị tác phẩm - Tất cả những câu thơ nằm xen trong các bài vấn đáp, ngữ lục,… được tính là một đơn vị tác phẩm. Khi xem đây cũng là những đơn vị tác phẩm thơ, chúng tôi có thể sử dụng để minh họa trong bài viết của mình, cách ghi tên sẽ căn cứ vào tên gốc của tác phẩm. 1.3.Hành trình đi tìm cái đẹp 1.3.1.Một số quan niệm về cái đẹpcủa phương Tây và phương Đông Cái đẹp là một phạm trù trung tâm của mỹ học, có bao nhiêu học thuyết mỹ học từ thời cổ đại cho tới nay thì có bấy nhiêu quan niệm về cái đẹp. Dường như, khi nào còn tồn tại, con người vẫn luôn muốn tìm cho mình một định nghĩa hoàn hảo nhất về cái đẹp. Thời cổ đại ở phương Tây, mỹ học chưa phải là một khoa học riêng mà nóđược gieo trồng trên mảnh đất trù phú của triết học. Có thểnói, ba nhà triết học Hy Lạp lừng danh Socrate, Platon, Aristotleđã hợp thành nền tảng đầu tiên của mỹ học“nếu không đi ngược lên cơn lũ lớn của tư tưởng phương Đông, nếu không nhắc lại các cụ kỵ phương Tây là Bảy Hiền triết, hoặc ít nhất là Heraclite hay Hesiode”[28;tr.7]. Socrate đưa ra quan điểm về “cái đẹp tự nó” khi trả lời cho Hippias rằng “cái đẹp không phải là thuộc tính riêng của một nghìn lẻ một đối tượng; chắc chắn những con người, những con ngựa, áo quần, nàng trinh nữ hay chiếc đàn lia đều là những vật đẹp; nhưng trên cả những thứ đó, có vẻ đẹp tự nó”[28;tr.9]. Không dễ gì để hiểu được quan điểm về cái đẹp mang tính siêu hình này của Socrate. Tuy nhiên, người học trò xuất sắc của ông, Platon, đã phát triển quan điểm của thầy mình trên tinh thần biện chứng, đẩy “cái đẹp tự nó” lên đến mức tuyệt đối, có tính phổ quát và siêu việt. Đó là cái đẹp mang tính chất thần thánh. Nhà nghiên cứu mỹ học Lâm Vinh đã nhận xét quan niệm về cái đẹp của Platon như sau: “Theo Platon, thế giới chúng ta đang sống chỉ là cái bóng thô thiển của một thế giới khác hoàn mỹ hơn, thế giới ấy hư ảo không thể nhìn thấy được, ông cho đó là thế giới của ý niệm vĩnh cữu, do Thượng Đế tạo ra. Ta muốn tìm cái đẹp lý tưởng thì phải đi tìm nơi nó, một cái đẹp thần thánh, vĩnh viễn không bao giờ phai nhạt, hoàn toàn không thể tìm thấy trong cuộc đời tầm thường mà ta đang sống”[99;tr.45]. Dù quan điểm của Socrate, Platon được cho là duy tâm, thoát ly hiện thực đời sống nhưng nó lại cho chúng ta một cái nhìn thiêng liêng đối với cái đẹp, một cái đẹp vĩnh hằng mà con người luôn luôn vươn đến để nâng cao giá trị của mình lên “Và phải chăng khi ngắm vẻ đẹp vĩnh hằng với cơ quan duy nhất có thể nhìn thấy được nó, kẻ đó có thể sản sinh ra và tạo ra không phải là những hình ảnh đức hạnh, bởi anh ta không gắn bó với những hình ảnh này, mà là những đức hạnh có thực và đích thực, vì kẻ đó chỉ có yêu chân lý mà thôi” [28;tr.16]. Platon chưa bao giờ xác định thật chính xác cái đẹp là gì, nhưng Aristotle, trong cuốn Nghệ thuật thơ ca thì không ngần ngại làm rõ nét thế nào là đẹp. Theo ông, “cái đẹp – kể cả động vật hay bất kỳ đồ vật gì – gồm những phần nhất định hợp thành, nó không những cần có sự sắp xếp, mà còn phải có một kích thước nhất định: cái đẹp là ở trong kích thước và trật tự”[2;tr.41].Như vậy, cái đẹp theo quan niệm của Aristotle là cái hiện hữu trong đời sống, không hềvượt ngoài tầm với của con người. Bản thân cái đẹp luôn có cấu trúc hoàn chỉnh, cấu trúc ấy phải nằm trong một kích thước và trật tự hài hòa. Aristotle cũng cho rằng nghệ thuật, cụ thể là thơ ca, nảy sinh từ đời sống, từ khả năng mô phỏng tài tình của con người và sản phẩm mô phỏng ấy mang lại sự thích thú cho con người. Sự mô phỏng đó không phải là bê nguyên xi hiện thực vào nghệ thuật mà là sự “sinh sản sáng tạo ra những hình thức mới”[28, tr.23]. Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, nhất là chủ nghĩa nhân văn của Bacon là nằm trong tư tưởng này của Aristotle. Kể từ sau thời cổ đại, mỹ học phương Tây phát triển dần theo sự biến chuyển của xã hội. Kinh qua các thời kỳ Trung cổ, Phục Hưng, Khai sáng, đến khi xuất hiện các nhà mỹ học của chủ nghĩa cổ điển Đức như Immanual Kant, Hegel,… các nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga như Biêlinxki, Tsecnưsepxki,… quan niệm về cái đẹp luôn luôn biến đổi và hầu như chưa đi đến một quan điểm đồng nhất nào. Nhìn chung, sự khác biệt trong quan niệm về cái đẹp là do các nhà mỹ học đã xuất phát từ cơ sở triết học khác nhau, đó là duy vật hay duy tâm, chủ quan hay khách quan.Là một nhà duy tâm chủ quan, Kant không nghiên cứu bản thân đối tượng và thuộc tính thẩm mỹ của nó mà chỉ nghiên cứu những phán đoán thẩm mỹ về đối tượng. Đối với ông, mọi vẻ đẹp là do sự đánh giá chủ quan. Ông viết:“Sở thích là năng lực xét đoán một đối tượng hay một cách thức biểu hiện bằng sự hài lòng hay không thích thú một cách hoàn toàn vô tư. Người ta gọi đối tượng hài lòng ấy là đẹp” hay “Cái gì được thừa nhận, mà không cần có khái niệm, như đối tượng của một sự hài lòng tất yếu, là đẹp”[28, tr.36-37]. Rõ ràng, Kant đã đề xướng tính chủ quan tuyệt đối trong cảm thụ cái đẹp, tính tự do, vô tư phi thực dụng của cái đẹp, đồng thời Kant cũng cho mọi người thấy rằng tình cảm thẩm mỹ mang tính chất vô tư, không vụ lợi. Hegel cũng như Kant là một nhà duy tâm, nhưng là nhà duy tâm khách quan. Từ quan niệm về ý niệm tuyệt đối nằm ngoài bản thân con người, nằm ngoài vật chất, có trước vật chất, là nền tảng sáng tạo ra tất cả mọi cái đang tồn tại, ông đã đề cao cái đẹp trong nghệ thuật. Với ông, cái đẹp của nghệ thuật hơn hẳn cái đẹp của tự nhiên bởi vì nó được con người sáng tạo nên, gắn bó với tinh thần, với ý niệm tuyệt đối thông qua tư tưởng và lý trí của họ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng quan điểm về cái đẹp của Hegel vừa có tính nhất quán vừa có tính mâu thuẫn. Nhất quán ở chỗ, từ đầu đến cuối quan điểm về cái đẹp của ông xuất phát từ ý niệm tuyệt đối, tức từ tinh thần; mâu thuẫn ở chỗ ông buộc phải thừa nhận quy luật lịch sử khách quan của cái đẹp. Các nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga thế kỷ XIX Biêlinxki, Tsecnưsepxki đều cho rằng “cái đẹp là cuộc sống”, “cái đẹp trong nghệ thuật là sự phản ánh cái đẹp ngoài đời”[18; tr.38]. Họ phản đối quan niệm về cái đẹp bất động, bất biến, bất tử của các nhà mỹ học duy tâm, đồng thời cho rằng cái đẹp phụ thuộc vào những điều kiện sinh sống của nhân dân, trong xã hội có giai cấp thì cái đẹp cũng có tính giai cấp rõ rệt. Với họ, lý luận mỹ học đã trở thành vũ đài đấu tranh chính trị. Trên thực tế, chúng ta thấy còn vô số những phát ngôn khác nhau về cái đẹp, đó có thể là phát ngôn của nhà triết học, khoa học, nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ,… Cái đẹp vốn dĩ là điều rất gần gũi với đời sống, thế nhưng để nắm bắt bản chất của nó là điều không dễ dàng. Chính vì vậy, nhà nghiên cứu Lâm Vinh đã nói“chân lí về cái đẹp là cuộc hành hương triết học đã mất hơn hai nghìn năm”[99; tr.4].Và có lẽ, cuộc hành hương này sẽ vẫn còn tiếp tục cùng với bước đi của nhân loại trong tương lai. Đối với Việt Nam, triết học và mỹ học phương Tây chỉ mới theo bước chân xâm lược của thực dân Pháp du nhập vào kể từ thế kỷ XIX trở đi, trước đó rất lâu, chúng ta chịu ảnh hưởng hoàn toàn vào triết học và mỹ học truyền thống phương Đông, mà chủ đạo là các hệ tư tưởng Nho, Phật và Lão.Thời Thịnh Trần lại là giai đoạn “Tam giáo đồng nguyên” dung hợp trọn vẹn và hài hòa nhất. Vì vậy, cần thiết phải tìm hiểu một số quan điểm mỹ học chứa trong nguồn minh triết phương Đông ấy để có thể hiểu được cái đẹp mà con người thời Thịnh Trần hướng đến có nét đặc sắc như thế nào. Trước hết, chúng ta đi tìm cái đẹp trong tư tưởng Phật giáo, cụ thể là mỹ học Thiền. Giai thoại đặc biệt về việc trao truyền tâm ấn của Đức Phật cho Ma Ha Ca Diếp là điều đầu tiên chúng tôi nghĩ đến khi tìm hiểu về cái đẹp trong truyền thống Phật giáo Thiền tông. Hôm đó tại Linh Sơn, Như Lai không hề thuyết pháp một lời, một lúc sau ngài từ từ đưa lên một cành hoa sen, trong khi mọi người còn chưa kịp hiểu điều gì thì Ma Ha Ca Diếp đã mỉm cười. Đức Phật nói:“Ta có một kho tàng về cái thấy của chánh Pháp, tâm ý mầu nhiệm của niết bàn, thực tại không dấu vết, đã trao truyền cho Ma Ha Ca Diếp”[21;tr.50]. Có một số điểm đáng lưu ý trong giai thoại này: sự im lặng của Đức Phật, đóa hoa sen và nụ cười của Ma Ha Ca Diếp. Giáo lý của Phật là phương tiện hướng dẫn chúng sinh vượt qua biển khổ, đến bờ giác ngộ để đạt được sự an lạc hoàn toàn. Con người chỉ có thể đạt được sự an lạc khi tìm về với bản thể của chính mình thông qua sự thực chứng từ bên trong nội tâm. Giáo lý của Phật dù thâm diệu đến đâu cũng chỉ là “ngón tay chỉ mặt trăng”, nếu chấp vào giáo lý thì mãi mãi không thể thấy mặt trăng, tức không thể đạt đến giác ngộ được. Tâm an lạc (chân tâm, Phật tính) vốn là cái đẹp nội tại trong bản thân mỗi người, cái này vốn dĩ không thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt.Chính vì vậy, Đức Phật mới dùng sự im lặng để biểu đạt, đó là tinh thần vô ngôn “Bất lập văn tự” của mỹ học Thiền Phật giáo. Thiền sư Nhất Hạnh đã kiến giải về vấn đề này rất sâu sắc: Khi ta nói: “có một thế giới thực tại bản thể” tức là ta đặt thế giới này vào trong phạm trù có, một phạm trù đối lập với phạm trù không. Tuy nhiên, khái niệm về có và không, như ta đã biết, chỉ có thể áp dụng với thế giới khái niệm. Thế giới chân tâm đã._.rõ của ai, vua bảo: “Không ai đến nhận, cho khanh lấy mà tiêu”. Lối ứng xử tuyệt vời như thế thử hỏi từ sau thời Thịnh Trần, có thời nào còn lặp lại? Lê Quý Đôn nhận xét: “Nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi không bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ. Cho nên nhân tài đời ấy có chí khí tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ sách sử, nên trên không hổ với trời, dưới không thẹn với đất. Ôi! Đời người sao có thể theo kịp thế nào được. Từ bản Triều (nhà Lê) về sau phong độ ấy dần dần không được nghe thấy nữa!”. Một thời đại đầy tính nhân văn như vậy kéo dài hơn một trăm năm đã tạo điều kiện cho con người được tự do phát huy hết khả năng của mình, tâm hồn và trí tuệ trở nên rộng mở. Ở trình độ phát triển cao như thời Thịnh Trần, văn học nghệ thuật theo đó cũng phát triển nhằm đáp ứng đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu và khát vọng vươn tới những giá trị Chân – Thiện – Mỹ trong cuộc sống của con người. Điều này góp phần lý giải vì sao thơ ca thời Thịnh Trần phát triển và có một khí chất hào hùng, khoáng đạt hơn các thời khác. Vào thời Vãn Trần, Nho giáo bắt đầu lên ngôi so với Phật và Đạo. Thời này không phải không có nhân tài, những bậc đại thần phò tá từ thời vua Minh Tông, Hiến Tông vẫn tiếp tục chăm lo việc triều chính. Thế nhưng, vua Dụ Tông chơi bời quá độ, bỏ bê chính sự, tin dùng bọn gian thần, khiến cho người hiền tài thất chí.Đểgiữ gìn khí tiết, họ lui về ở ẩn mà trong lòng lúc nào cũng mang tâm sự nặng nề. Sau khi vua Trần Dụ Tông mất, việc tranh giành ngôi vị diễn ra dẫn đến nhà Trần suy yếu nhanh chóng. Hồ Quý Ly nhân đó cướp ngôi nhà Trần (năm 1400). Từ đó, kết thúc tất cả những giá trị tốt đẹp mà triều Trần đã dày công gây dựng được trong thời kì hưng thịnh. Sau khi chiến thắng quân xâm lược nhà Minh, triều Lê được thành lập. Thời Lê Sơ (1428 – 1527), nhất là dưới triều vua Lê Thánh Tông, được đánh giá là một trong những thời đại hưng thịnh nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Thế nhưng, bản chất của triều Lê ngay từ buổi đầu đã có nhiều khác biệt so với nhà Trần, đó một triều đại theo chế độ phong kiến quân chủ độc đoán, chủ trương độc tôn Nho học – không phải là Nho học của thời hưng thịnh mà theo tư tưởng Tống Nho mang nhiều yếu tố tiêu cực – dùng Tống Nho vào việc củng cố, bảo vệ quyền lực của nhà nước phong kiến. Sự chọn lựa này đã làm mất đi tư tưởng Phật giáo Thiền tông độc đáo vốn có một vai trò quan trọng trong mọi mặt đời sống, nhất là đời sống tâm linh của dân tộc vào thời Thịnh Trần. Vì không coi trọng đời sống tâm linh, trong khi quyền lực tập trung quá lớn nên vị vua đầu tiên của triều Lê đã bị cuốn vào vòng xoáy của quyền lực, địa vị, hưởng thụ, dẫn đến giết hại những bậc khai quốc công thần đã từng vào sinh ra tử với mình. Lý tưởng nhân nghĩa của nhà nho, tiêu biểu là nho thần Nguyễn Trãi, vì vậy cũng không có cơ sở để thực thi. Nhà Lê ngay từ buổi đầu đã không có sự ổn định. Trong triều, quan lại chia phe kéo cánh, mưu toan hãm hại lẫn nhau. Trong tôn thất, anh em ruột thịt giết nhau để tranh giành ngôi vị. Năm 1459, vua Lê Nhân Tông và Tuyên Từ Hoàng thái hậu bị Nghi Dân cho đồng bọn đang đêm lẻn vào cấm cung giết chết. Sau đó, Nghi Dân bị các đại thần Đinh Liệt, Nguyễn Xí truất phế, đưa hoàng tử Tư Thành, tức Lê Thánh Tông, lên ngôi. Sự kiện này khiến chúng ta liên tưởng đến một câu chuyện xảy ra vào đời vua Trần Thánh Tông được chép trong Đại Việt sử kí toàn thư. Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang(con trai trưởng của vua Trần Thái Tông) múa điệu múa người Hồ cho Thượng Hoàng xem. Thượng Hoàng Thái Tông cởi áo ban cho Quốc Khang. Vua Trần Thánh Tông (con trai thứ hai của Trần Thái Tông) bấy giờ muốn xin chiếc áo ấy nên cũng múa điệu múa người Hồ. Quốc Khang nói: “Cái quý nhất là ngôi hoàng đế, hạ thần còn không tranh với chú hai. Nay đức chí tôn ban cho thần một vật nhỏ mọn mà chú hai cũng muốn cướp lấy chăng?”. Thượng Hoàng nghe xong khen Tĩnh Quốc Đại Vương là đã coi cái áo xoàng và ngôi vua chẳng hơn kém gì nhau. Bất cứ triều đại phong kiến nào khi mới thành lập ít nhiều đều phải dùng đến bạo lực. Nhà Trần cũng không ngoại lệ. Thế nhưng sự khác biệt giữa nhà Trần với các triều đại sau là ngay từ buổi đầu vua Trần Thái Tông đã thực hiện nhân nghĩa, gieo trồng hạt giống từ bi, bác ái trong tư tưởng Phật giáo cho con cháu đời sau. Chẳng thế mà Trần Dụ Tông từng tự hào khi nói về cái đẹp nhân ái của tổ phụ mình mà cũng là của văn hóa dân tộc Đại Việt: “Đường Việt khai cơ, hai Thái Tông / Đường xưng Trinh Quán, ta Nguyên Phong / Kiến Thành bị giết, An Sinh sống / Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng” (Đường Thái Tông dữ bản triều Thái Tông). Thiết nghĩ, câu thành ngữ “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” bao giờ cũng đúng. Vua Lê Thái Tổ đã có những biểu hiện ham mê quyền vị, giết hại trung thần, vong ân phụ nghĩa nên công đức nhà Lê bị tổn hại nhiều, tuy kéo dài suốt mấy trăm năm nhưng trong cảnh tương tàn (Lê – Mạc, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, vua Lê – chúa Trịnh ở Đàng Ngoài), chỉcó mỗi triều Lê Thánh Tông (1460 – 1497) là huy hoàng rực rỡ, được sử sách ca tụng. Nhưng dù sao, đối với sự kiện loạn nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, loạn nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, các nhà nho vẫn có thể chấp nhận được và vẫn nuôi hy vọng vào triều đại mới tốt đẹp hơn triều đại cũ đã suy yếu. Nguyễn Trãi vẫn đi thi và ra làm quan cho nhà Hồ. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn ra ứng thí và làm quan cho nhà Mạc. Đó là một biểu hiện rất phóng khoáng, cởi mở của nhà nho Việt Nam so với tư tưởng trung quân khắc nghiệt của Nho giáo. Sự thất vọng, nỗi bi đát thật sự đến với nhà nho là vào thời Lê Trung hưng, khi nhà Lê được sự phò tá của họ Trịnh. Trần Nho Thìn cho rằng: “Từ Lê Trung hưng cho đến mãi 1786, các chúa Trịnh ngày một lấn át vua Lê, biến vua Lê các đời thành bù nhìn. Thành thử, trong cái nhìn của nhà nho, sự kiện Lê Trung hưng tuy đem lại ngôi vị cho nhà Lê sau mấy chục năm bị họ Mạc lật đổ, nhưng là một sự thất bại của đạo Nho. Các nhà nho đứng trước một thực tế hiển nhiên là danh phận bị chà đạp bởi chính những kẻ nắm quyền lực cao nhất. Trong các triều đại trước, tuy thịnh suy có khác nhau, song chưa khi nào có cảnh tượng vua chúa cùng tồn tại như vậy. Biết nói gì nữa đây về trung hiếu, về tu – tề – trị – bình, về ưu ái, về ngôn chí trong một hoàn cảnh danh phận không rõ ràng như vậy”[77; tr.73]. Trong hoàn cảnh như vậy, nhà nho chỉ còn biết hướng sự quan tâm của mình đến đời sống hiện thực của nhân dân hoặc nói lên tâm sự bất đắc chí, vỡ mộng của mình. Nhà Nguyễn thành lập không tỏ ra có điểm tiến bộ hơn so với trước đó, thậm chí là một bước thụt lùi so với hai mươi tám năm tồn tại của triều Tây Sơn. Vua Gia Long tiếp tục chủ trương độc tôn Nho học, xây dựng nhà nước chuyên chế độc tài. Để tập trung quyền lực tối cao, vua không đặt chức tể tướng, không lập hoàng hậu, giết hại các bậc công thần như Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường. Việc này cũng cho thấy vua Gia Long không có đủ niềm tin vào nội lực của mình, không có đủ niềm tin vào sức mạnh của hệ tư tưởng Nho học mà ông chủ trương dùng làm nền tảng cho sự ổn định và phát triển của triều đại. Thế nên, dù đưa Nho học lên vị trí độc tôn nhưng nhà Nguyễn cũng không cứu nổi nho phong sĩ khí đã xuống dốc từ mấy trăm năm qua, không thể đem lại niềm tin cho lớp trí thức nho học đương thời. Huống chi, nhà Nguyễn lại chỉ lo tập trung quyền lực, đi ngược lại với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân, khiến cho khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên dẫn đến nước nhà ngày càng suy yếu. Trước hiện thực ấy,những nhà nho chân chính càng thêm thất vọng nặng nề. Một nhà nước chuyên chế độc tài không thể là một nhà nước vì nhân dân, thân dân như chủ trương tốt đẹp bề ngoài của nó. Nhà Lê, nhà Mạc, chúa Trịnh hay nhà Nguyễn lên nắm chính quyền đều chủ trương xây dựng nhà nước phong kiến chuyên chế, dùng duy nhất một hệ tư tưởng Nho học để trói buộc đời sống tinh thần của con người. Hậu quả là suốt quá trình lịch sử 430 năm (từ khi nhà Lê thành lập từ năm 1428 đến khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược năm 1858 vào thời nhà Nguyễn) thời thịnh trị thì hiếm hoi mà thời tao loạn thì nhiều vô kể. Nhà Trần dĩ nhiên cũng có điểm yếu nên mới dẫn đến suy vong, nhưng các triều đại sau chẳng những đã không biết khắc phục những điểm yếu, phát huy những giá trị vật chất và tinh thần độc đáo đã được kiến tạo từ thời đại Lý Trần mà còn dần đi vào cực đoan, độc đoán, chuyên chế khiến cho nước nhà ngày càng suy yếu. Bất kì một triều đại nào, một khi nhân dân oán thán, tầng lớp trí thức không được nói lên tiếng nói của mình, mọi tư tưởng đối lập đều bị thủ tiêu, triều đại đó sớm muộn cũng bị thay thế. Nhà nho quan niệm văn chương có nguồn gốc cao quý, có thể dùng văn chương để giáo hóa con người. Cái chính của văn chương Nho giáo vẫn là truyền thụ đạo lý, nhưng bên cạnh đó nó không phủ nhận việc bày tỏ hiện thực đời sống, bộc lộ cảm xúc chân thật trong lòng. Khổng Tử nói: “Thi (Kinh Thi) có thể làm phấn khởi ý chí, có thể giúp quan sát phong tục, hòa hợp với mọi người, bày tỏ nỗi sầu oán, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại biết được chim muông cây cỏ”. Như vậy, ngay trong quan điểm của Khổng Tử, văn chương không hề là một công cụ đơn thuần để truyền bá đạo lý mà nó còn phản ánh nhiều mặt của đời sống, kể cả đời sống nội tâm. Khổng Tử cũng không phản đối việc biểu hiện tình yêu đôi lứa trong thơ văn. Ông khen bài Quan thư trong Kinh Thi là “lạc nhi bất dâm, ai nhi bất thương”. Thơ văn không chỉ nói “đạo”, nói “chí” mà còn nói “tình”, nhưng cần lưu ý là cái tình phải có sự chừng mực, không buông tuồng, thái quá. Khi nhà nước phong kiến chủ trương độc tôn Nho học, lấy Nho học để bảo vệ chế độ của mình thì về mặt chính thức nó đòi hỏi văn chương cũng phải phục vụ cho chế độ của nó. Văn chương phải ca ngợi triều đại, đạo đức và lễ giáo phong kiến. Đòi hỏi này có thể được đáp ứng khi triều đại hưng thịnh, vua sáng tôi hiền như thời vua Lê Thánh Tông. Nhưng, một khi nhà nước phong kiến rơi vào khủng hoảng, suy thoái thì sẽ hình thành nên những quan niệm văn chương mang tính đối lập với quan niệm văn chương truyền bá đạo lý, chỗ đối lập đó thể hiện khát khao vươn tới cái đẹp, cái tự do trong tư tưởng, khẳng định giá trị và quyền sống của con người. Trào lưu văn học hiện thực và nhân đạocuối thế kỉ XVIIIđầu thế kỉ XIX với những tên tuổi lớn như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… đã ra đời như một sự phản ứng lại với sự hà khắc của chế độ phong kiến đang trên đà suy yếu. Nhìn chung, thời Thịnh Trần cơ bản có sự thống nhất về quyền lợi giữa nhân dân và giai cấp thống trị phong kiến, tất cả cùng nhau chiến đấu chống ngoại xâm và cùng xây dựng đất nước độc lập tự cường, bên cạnh đó sự định hướng về tư tưởng, lối sống, cách ứng xử chuẩn mực của những người thuộc tầng lớp trên đã tạo một nền tảng vững chắc cho tinh thần thời đại. Trong khi kể từ thời Vãn Trần trở đi, giai cấp thống trị tập trung củng cố quyền lực của mình, ít quan tâm đến sự hài hòa trong mối quan hệ trong nội bộ, sự hài hòa với quần chúng nhân dân, không định hướng về tư tưởng, lối sống theo bản sắc và tinh thần dân tộc như đã có ở thời Thịnh Trần. Tựu trung lại, thời Thịnh Trần tam giáo đồng nguyên trên cái cái nền Phật giáo Thiền tông đầy sáng tạo, mang được tầm vóc, bản lĩnh, trí tuệ và tâm hồn dân tộc và đó là thời kì duy nhất được lãnh đạo bởi những con người có tài, có tâm, biết coi trọng đời sống tâm linh, biết hướng dân tộc đến những giá trị Chân – Thiện – Mỹ vĩnh hằng. Lúc nào vai trò của nhân dân cũng được đề cao trong xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng thiết nghĩ, trong một xã hội có tổ chức, có bộ máy nhà nước điều hành, vai trò của người lãnh đạo mới thật sự mang tính quyết định đến mọi mặt của đời sống dân tộc. Họ có thể đưa dân tộc đi lên một tầm cao mới hoặc đẩy dân tộc xuống vực sâu tăm tối chỉ bằng sự lựa chọn và thực thi các đường lối, chính sách của mình. Như vậy, qua sự đối chiếu giữa hành trình đi tìm cái đẹp, quan niệm về cái đẹp của thời Thịnh Trần với các giai đoạn Vãn Trần, Lê Sơ, Lê – Mạc, Lê – Trịnh, Nguyễn, có thể nói rằng hành trình đi tìm cái đẹp của con người thời Thịnh Trần là một đi không trở lại hay nói đúng hơn là kể từ thời Vãn Trần trở về sau đến cuối thời trung đại, chúng ta đã mất dấu một hành trình vươn tới cái đẹp hằng thường vốn từng là nguồn sống tâm linh của dân tộc. KẾT LUẬN Thơ ca Thịnh Trần nằm trong giai đoạn phát triển rực rỡ đầu tiên của tiến trình thơ ca trung đại Việt Nam, nó là bằng chứng cụ thể nhất để khẳng định trình độ phát triển của văn hóa dân tộc trong buổi đầu xây dựng quốc gia độc lập tự chủ. Thông qua thơ ca Thịnh Trần, thế hệ sau có thể cảm nhận được vẻ đẹp kì diệu về mọi mặt của đất nước và dân tộc Đại Việt trong một thời kì lịch sử vô cùng đặc biệt, trong đó, đẹp nhất chính là hình ảnh con người đạt tới trí tuệ minh triết, thấy được chân tâm trong sáng. Cũng qua thơ ca, chúng ta thấy được hành trình đi tìm cái đẹp của con người thời đại, đó là một hành trình nội tâm, hành trình tìm về với chính mình. Hành trình này được thực hiện bởi niềm khao khát khám phá ý nghĩa của cuộc sống, kiếm tìm những giá trị đích thực mang lại niềm hạnh phúc, an lạc cho tâm hồn, làm sao để trong cuộc đời ngắn ngủi này, con người không bỏ lỡ bao sự sống nhiệm màu chứa trong lòng thực tại giản đơn. Cái đẹp mà con người Thịnh Trần vươn tới là cái đẹp đã được chuyển hóa vào bên trong nội tâm thông qua sự trực cảm tâm linh. Cái đẹp đó không giới hạn ở bất kỳ một sự vật hiện tượng cụ thể nào mà nó bao la, vô tận. Khi thấy được chân tâm, con người sẽ nhận ra sự thật rằng bản thể của mình và thế giới vốn không có sự phân biệt, do đó có thể đạt đến một sự hòa hợp tuyệt đối. Sự hòa hợp này là cơ sở của mọi tình cảm yêu thương, mọi nguồn sức mạnh và là điều kiện để con người đạt tới trạng thái tự do hoàn toàn. Kết quả nghiên cứu đề tài này thêm một một lần nữa khẳng định ý nghĩa lớn lao của tinh thần “tam giáo đồng nguyên” đối với dân tộc. Ở đây, người viết đã cố gắng nêu ra sự khác biệt cơ bản về “cơ chế” đồng nguyên tam giáo của thời Thịnh Trần so với thời Vãn Trần trở về sau,đó là sự đồng nguyên trên cái nền của Phật giáo Thiền tông chứ không phải trên cái nền của Nho học độc tôn. Điều này cho thấy việc lựa chọn và vận dụng tinh thần tam giáo –Phật, Nho, Đạo – trong đời sống xã hội thời Thịnh Trần đặc biệt mang tính sáng tạo và phù hợp với tình hình thực tế, đem lại những lợi ích thiết thực cho nước nhà. Cũng thông qua đề tài nghiên cứu này, có thể thấy rằng hành trình đi tìm cái đẹp mà con người thời Thịnh Trần đã theo đuổi và đạt được một cách viên mãn là một hành trình không lặp lại ở các giai đoạn lịch sử về sau. Vậy nên, khi khám phá lại hành trình ấy chúng ta vô cùng hân hoan nhận ra giá trị bất biến của nó trong đời sống dân tộc, đời sống nhân loại nói chung. Đến ngày nay, nhân loại đã đi qua nhiều hình thái xã hội khác nhau, vận dụng nhiều nguồn tư tưởng vĩ đại khác nhau từ Đông sang Tây để mong tìm kiếm một hình thái xã hội tốt nhất, hoàn hảo nhất đem lại hạnh phúc cho con người, nhưng thật sự cuộc tìm kiếm đó vẫn chưa có được một kết quả mỹ mãn, thậm chí có nguy cơ phá sản khi thế giới đang ngày càng bị đe dọa bởi sự phát triển vật chất vượt quá tầm kiểm soát và việc chạy đua vũ trang giữa các quốc gia đã trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Phương Đông từng có một nền minh triết rực rỡ nhưng lại nghèo khổ, chậm phát triển nên đã từ bỏ truyền thống của mình để chạy theo nền văn minh kĩ nghệ và vật chất của phương Tây, đó là biểu hiện rõ nhất của việc từ bỏ đời sống tâm linh để phát triển thuần túy về mặt lý trí. Điều này cũng có nghĩa là con người đã và đang quay lưng lại với chính mình, đánh mất chính mình một cách vội vàng trong khi chưa tìm được một lối thoát hữu hiệu. Xã hội hiện đại đã đem con người đến với bốn bức tường cách biệt, hưởng thụ những tiện nghi quá mức nhưng lại trống trải về tinh thần, hoang mang, cô độc trong thế giới của riêng mình. Tình yêu thương, sự đồng cảm giữa con người với nhau cũng trở nên cạn kiệt vì có quá nhiều khoảng cách. Phản ứng lại với thế giới hiện đại chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời với tham vọng đưa ra một cách giải thích, một cái nhìn mới đối với thế giới. Khi truyền thống duy lý – tư sản châu Âu không còn được thừa nhận như một chân lý, khoa học tự nhiên, khoa học chính xác cũng như triết học truyền thống dựa trên bộ máy khái niệm logic bị nghi ngờ thì sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại là điều tất yếu. Chủ nghĩa hậu hiện đại muốn chiếm lĩnh thế giới như nó vốn có bằng cách dựa vào trực giác với những liên tưởng, hình tượng, ẩn dụ và khả năng “đốn ngộ” trong giây lát. Chủ nghĩa hậu hiện đại ở phương Tây đã gợi nhắc lại truyền thống tâm linh của phương Đông. Chính lúc này đây, con người thấy cần trở về với chính mình, tìm lại sức mạnh ở bên trong, tìm lại một sự an lạc trong tâm hồn. Và phương Tây đã thực hiện điều đó bằng cách tìm về với nền minh triết của phương Đông, trong đó Thiền học Phật giáo được quan tâm một cách đặc biệt. Sự tìm về với những giá trị của đời sống tâm linh đã trở thành một nhu cầu tất yếu trong xã hội ngày nay. Qua đó, chúng ta thấy rằng cái đẹp tâm linh mà con người thời Thịnh Trần vươn tới là mang tính vĩnh hằng, mang tính nhân loại. Có người cho rằng đời sống của con người có ba cấp độ, đó là giác quan, ý thức và tâm linh. Thế nên, để sống trọn vẹn với ý nghĩa của đời sống, tức đạt đến hạnh phúc thật sự, con người cần phải trải nghiệm và hưởng thụ đời sống đủ cả ba cấp độ. Sự trải nghiệm và hưởng thụ ba cấp độ của đời sống này thực chất là sự phát triển và chuyển hóa từ giác quan, ý thức đến tâm linh giúp cho con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.Vì vậy, đối với mỗi chúng ta, khám phá lại con đường mà con người thời Thịnh Trần đã từng đi, cách mà họ đã từng sống để đạt được một đời sống tâm linh viên mãn là một điều rất có ý nghĩa. Chúng ta có thểtìm thấy ở đó nhiều gợi ý minh triết để điều chỉnh lối sống của mình sao cho thật cân bằng, hài hòa trong một xã hội đang bị cuốn theo nền văn minh vật chất và truyền thông đa phương tiện. Đó chính là giá trị thực tiễn mà chúng tôi mong muốn đạt đến khi thực hiện đề tài này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Hà An (2008), Thơ ca Huyền Quang – Con đường của Thiền và cái đẹp, Luận văn thạc sĩ. 2. Aristote, Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca – Văn tâm điêu long, Nxb Văn học. 3. Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ Thiền Đường Tống, Phước Đức dịch, Nxb Đồng Nai. 4. Trương Bồi Canh (2011), “Thẩm mỹ: tâm hồn thưởng thức thế giới vô tận”, Tạp chíVăn hóa Phật giáo, (124). 5. Nguyễn Huệ Chi (1977), “Trần Tung – một gương mặt lạ trong thơ thiền Lý – Trần”, Tạp chí Văn học, (4). 6. Nguyễn Huệ Chi (1986), “Đề nghị một cách hiểu mối quan hệ giữa văn học đời Trần và cuộc kháng chiến chống xâm lược đời Trần”, Tạp chí Văn học (3,4). 7. Nguyễn Huệ Chi (1978), “Các yếu tố Nho – Phật – Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và trong văn học Lý Trần”, Tạp chí Văn học, (6). 8. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (2010), Gương mặt văn học Thăng Long, Nxb Hà Nội. 9. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (2010), Gương mặt văn học Thăng Long, Nxb Hà Nội. 10. Doãn Chính (chủ biên) (1999), Tuyển tập triết học Trung Quốc cổ đại, Nxb Trẻ. 11. Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên) (2006), Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội. 12. Thiều Chửu (2000), Hán Việt tự điển, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 13. Suzuki Teitaro Daisetz, Thiền luận (quyển thượng), Trúc Thiên dịch, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 14. Ngô Di (1973), Thiền và Lão Trang, Đồ Nam dịch, Một nhóm người học Phật xuất bản. 15. Phạm Văn Diêu (1960), Văn học Việt Nam, Nxb Tân Việt, Sài Gòn. 16. Will Durant (2002), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Văn hóa thông tin. 17. Đại học sư phạm Hà Nội – Trung tâm Trung Quốc học (2000), Đạo gia và văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin. 18. B. A. Erengrôxx (1984), Mỹ học – khoa học diệu kì, Phạm Văn Bích dịch, Nxb Văn hóa. 19. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2002), Thiền, Thuần Bạch soạn dịch, Nxb Tôn giáo. 20. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục, Trung tâm học liệu xuất bản. 21. Nhất Hạnh (1971), Nẻo vào thiền học, Nxb Lá Bối. 22. Thích Nhất Hạnh (2009), Đường xưa mây trắng, Nxb Văn hóa Sài Gòn. 23. Hermann Hesse (1982), Câu chuyện dòng sông, Phùng Khánh, Phùng Thăng dịch, Phật học Viện Quốc tế xuất bản. 24. Hêghen (1999), Mĩ học (tập 1), Phan Ngọc dịch, Nxb Văn học. 25. Hêghen (1999), Mĩ học (tập 2), Phan Ngọc dịch, Nxb Văn học. 26. Kiều Thu Hoạch (1965), “Tìm hiểu thơ văn của các nhà sư Lý Trần”, Tạp chí Văn học (6). 27. W. Holmes, Ch. Horioka (2006), Nghệ thuật thiền qua hội họa, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 28. Denis Huisman (1999), Mỹ học, Huyền Giang dịch, Nxb Thế giới. 29. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 30. Nguyễn Phạm Hùng (1992), “Thơ thiền và việc lĩnh hội thơ thiền thời Lý”, Tạp chí Văn học, (4). 31. 1TNguyễn Phạm Hùng (1998), “Trần Nhân Tông giữa cảnh đời hư thực”1T, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (4). 32. 1TNguyễn Phạm Hùng (2007), “ 1TVài nét về khuynh hướng văn học Thiền thời Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (3). 33. Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lý Trần, nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục. 34. Đỗ Huy (1984), Cái đẹp – một giá trị, Nxb Thông tin lý luận. 35. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông – Gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội. 36. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên,… (1993), Đại Việt sử kí toàn thư, Viện Khoa học xã hội Việt Nam dịch, Nxb Khoa học xã hội – Hà Nội (chuyển sang ấn bản điện tử bởi Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai,… năm 2001). 37. Trần Đình Hượu (1991), “Về ảnh hưởng của Nho giáo trong văn học Việt Nam cổ cận đại”, Tạp chí Văn học, (3). 38. Trần Đình Hượu (2007), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Lại Nguyên Ân biên soạn, Nxb ĐHQG Hà Nội. 39. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo dục. 40. Francois Jullien (2004), Minh triết phương Đông và triết học phương Tây, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb Đà Nẵng. 41. Đỗ Văn Khang (2002), Mỹ học đại cương, Nxb trường Đại học Quốc gia Hà Nội. 42. Trần Trọng Kim (1920), Việt Nam sử lược (ấn bản điện tử đọc bằng Mobipocket Reader), Nxb Tân Bắc Trung Văn. 43. Jiddu Krishnamurti (2004), Đối diện với cuộc đời, Nguyễn Tường Bách dịch, Nxb Phụ nữ. 44. Jiddu Krishnamurti, Giải thoát tri kiến, Nguyễn Minh Tâm, Trạm Nhiên dịch, Nxb An Tiêm. 45. Liên tổ văn học Việt Nam biên soạn, Lịch sử văn học Việt Nam (tập 2) (1976), Văn học viết thời kì I, Tủ sách Đại học Sư phạm, Nxb Giáo dục. 46. I. X. Lixêvich (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Trần Đình Sử dịch, Nxb Giáo dục. 47. Phương Lựu chủ biên (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 48. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục. 49. Phương Lựu (1971), “Vài nét về lí luận văn học, mỹ học cổ điển Trung Quốc”, Tạp chí Văn học (6). 50. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục. 51. Nguyễn Công Lý (2001), “Mấy đặc điểm văn học Lý – Trần”, Tạp chí Hán Nôm (2). 52. Nguyễn Công Lý (2002), “Sự quân bình giữa tâm và trí trong thiền học Lý – Trần qua thuyết Tam ban của Ngộ Ấn thiền sư”, Tạp chíNghiên cứu Tôn giáo, (4). 53. Nguyễn Công Lý (2000), “Mấy nét đặc trưng về thời đại Lý – Trần”, Tạp chí nghiên cứu Phật học, (3). 54. Nguyễn Công Lý (2002), “Mấy ý kiến về vấn đề bản thể luận trong văn học Phật giáo thời Lý – Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (5). 55. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý Trần, diện mạo và đặc điểm, Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM. 56. Huỳnh Lý chủ biên và giới thiệu (1978), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập 3) – Thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb Văn học. 57. Trần Nghĩa (1970), “Góp phần tìm hiểu quan niệm văn dĩ tải đạo trong văn học cổ Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (2). 58. Bùi Văn Nguyên (chủ biên) (1989), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 59. Bùi Văn Nguyên (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục. 60. Bùi Văn Nguyên (2003), Thơ quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục. 61. Chân Nguyên, Nguyễn Tường Bách (1999), Từ điển Phật học (bản điện tử đọc bằng Mobipocket Reader), Nxb Thuận Hóa. Nguồn: 2TU 62. Nhiều tác giả (1986), Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học xuất bản, Hà Nội. 63. Nhiều tác giả (2003), Thiền học đời Trần, Nxb Tôn giáo – Hà Nội. 64. Nhóm biên soạn Lê Thước, Trương Chính (1978), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học. 65. Nhóm giáo sư Quốc văn (1974), Quốc văn 12 ABCD, Trường Thi xuất bản. 66. Osho (2004), Thiền và nghệ thuật đối diện với cuộc đời – Hành trình nội tại, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 67. Bùi Thanh Quất chủ biên (2000), Lịch sử triết học (Giáo trình dùng cho các trường đại học và cao đẳng), Nxb Giáo dục. 68. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Viện sử học dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 69. Trương Hữu Quýnh (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục. 70. Matthieu Ricard, Trịnh Xuân Thuận (2009), Cái vô hạn trong lòng bàn tay (Từ Big Bang đến giác ngộ), Phạm Văn Thiều, Ngô Vũ dịch, Nxb Trẻ. 71. Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, sử nhà Trần, Nxb Hải Phòng. 72. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 73. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 74. Nguyễn Minh Tấn chủ biên (1981), Từ trong di sản – những ý kiến về văn học từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XX ở nước ta, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 75. Trần Thị Băng Thanh chủ biên (2001), Huyền Quang – Cuộc đời, Thơ và Đạo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 76. Thích Tâm Thiện (2000), Vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 77. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục. 78. Trịnh Xuân Thuận (2005), Khoa học và Phật giáo: trước ngã tư đường (bản PDF), Cư sĩ Tâm Hà dịch. 79. Nguyễn Đăng Thục (1997), Thiền học Việt Nam, Nxb Thuận Hóa. 80. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Trần Thái Tông, Nxb Văn hóa Thông Tin. 81. Lương Duy Thứ, Nguyễn Lộc biên soạn (1997), Thơ ca cổ điển Trung Quốc, Nxb Trẻ. 82. Lương Duy Thứ, Nguyễn Lộc biên soạn (1997), Thơ ca cổ điển Trung Quốc, Nxb Trẻ. 83. Hà Văn Thư, Trần Hồng Đức (2004), Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin. 84. Lê Thước, Trương Chính biên soạn (1973), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học. 85. Ngô Tất Tố (1942), Văn học đời Lý, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội. 86. Ngô Tất Tố (1942), Văn học đời Trần, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội. 87. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương – Thẩm mỹ và Văn hóa, Nxb Giáo dục. 88. Thích Hạnh Tuệ (2010), “Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên: khác biệt giữa Việt Nam với Trung Hoa”, Văn hóa Phật giáo, (118). 89. Lão Tử (2001), Đạo Đức Kinh dễ hiểu, Phan Ngọc dịch, Nxb Văn học. 90. Lão Tử (2006), Đạo Đức Kinh, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Văn hóa thông tin. 91. Khổng Tử (2002), Luận ngữ, viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa phương Đông, Trần Trọng Sâm biên dịch, Nxb Văn hóa Thông tin. 92. Khổng Tử (1991), Kinh Thi (quyển 1), Tạ Quang Phát dịch, Nxb Văn học, Hà Nội. 93. Trang Tử (2001), Nam Hoa Kinh, Nhượng Tống dịch, Nxb Văn học – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 94. Trương Lập Văn (chủ biên) (1998), Tâm, Triết học phương Đông, Nxb Khoa học xã hội. 95. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam, NXB Văn học. 96. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại, Nxb Giáo dục. 97. Đoàn Thị Thu Vân (1993), “Quan niệm về con người trong thơ thiền Lý Trần”, Tạp chí Văn học, (3). 98. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Thơ văn thế kỷ XI – thế kỷ XIV (tập 1) – Thơ thiền Lý – Trần, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Hội nghiên cứu giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh. 99. Lâm Vinh (1997), Mĩ học, về cái đẹp – về nghệ thuật – về con người, Đại học Sư phạm, Đại học Quốc gia TP. HCM (lưu hành nội bộ). 100. Lâm Vinh, Lê Ngọc Trà (1984), Đi tìm cái đẹp, Nxb Tp Hồ Chí Minh. 101. Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội. 102. Lê Trí Viễn chủ biên (1997), Văn học trung đại Việt Nam, Ấn phẩm lưu hành nội bộ trường ĐHSP TP. HCM. 103. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 104. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục. 105. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý Trần (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 106. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 107. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý Trần (tập 3), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 108. Viện Khoa học xã hội, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm (2000), Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam, Nxb Đà Nẵng. 109. Trần Quốc Vượng (1993), “Bản ngã và cộng đồng trong và qua nền văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (6). 110. Trần Ngọc Vương giới thiệu và tuyển chọn (2007), Trần Đình Hượu tuyển tập (tập 1), Nxb Giáo dục. 111. Trần Ngọc Vương giới thiệu và tuyển chọn (2007), Trần Đình Hượu tuyển tập (tập 2), Nxb Giáo dục. 112. Lê Thu Yến chủ biên (2000), Văn học Việt Nam – Văn học trung đại (Những công trình nghiên cứu), Nxb Giáo dục. 113. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên. 114. Trần Thị Hồng Y, Tìm hiểu thơ các vua thời Thịnh Trần (Trần Thái Tông đến Trần Minh Tông), Luận văn thạc sĩ. 115. Lê Anh Minh, Vào cõi tranh thiền. Nguồn: ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5624.pdf
Tài liệu liên quan