Thư viện đang cập nhật

Danh mục những từ viết tắt: BHXH: Bảo hiểm xã hội BHYT: Bảo hiểm y tế ASXH: An sinh xã hội BHTN: Bảo hiểm thất nghiệp HCSN: Hành chính sự nghiệp DNNN: Doanh nghiệp nhà nước HTX: Hợp tác xã SXKD: Sản xuất kinh doanh LỜI MỞ ĐẦU Bảo hiểm xã hội ( BHXH ) là một chính sách lớn của đảng và nhà nước được thực hiện ở nước ta ngay từ những ngày đầu thành lập. Người ta ví “ Cuộc sống không có bảo hiểm như cầu thang không có tay viện”. Do tầm quan trọng của bảo hiểm nói chung và BHXH nó

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thư viện đang cập nhật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i riêng trong công tác xã hội và phát triển đội ngũ công nhân viên chức từ đó củng cố và phát triển đất nước ngày 01/11/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 54/SL quy định các điều kiện công nhân viên chức, viên chức nhà nước được hưởng chế độ hưa trí. Thực hiện đường lối đổi mới, hầu hết các chính sách đều được thay đổi trong đó có chính sách BHXH, BHYT. Ngày 30/06/1994 quốc hội thông qua Bộ luật lao động trong đó có quy định về BHXH. Đây là điểm mốc đánh dấu sự đổi mới của chính sách BHXH ở nước ta phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH theo cơ chế mới ngày 16/02/1995 chính phủ ban hành nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc chính phủ trên cơ sỡ thống nhất các tổ chức BHXH ở trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động – Thương binh & Xã hội và Liên đoàn lao động. Tháng 01/2002 Thủ tướng chính phủ có quyết định số 20/2002/QĐ – TTg chuyển Bảo hiểm y tế ( BHYT ) Việt Nam trực thuộc Bộ y tế sang BHXH Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của BHXH trong hệ thống an sinh quốc gia (ASXH ) quốc gia. Trong những năm vừa qua việc triển BHXH đã từng bước đi vào cuộc sống thông qua việc thực hiện có hiệu quả các chế độ hưa trí, ốm đau, thai sản …. Trên cơ sỡ những thành công bước đầu, hệ thống BHXH đã và đang củng cố và chuẩn bị thực hiện một số chế độ bảo hiểm mới vào ngày 01/01/2009 đã triển khai bảo hiểm thất nghiệp ( BHTN ). Từ đó góp phần vào ổn định đời sống của người lao động. Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở Bắc Trung Bộ có diện tích tự nhiên lớn và dân cư đông bao gồm: 27 huyện thị trong đó có 2 thị xã và một thành phố. Là một tỉnh có truyền thống về lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, năm trên con đường huyết mạch từ Bắc chí Nam với cây cầu Hàm Rồng lịch sử. Quê hương của biết bao nhiêu anh hùng, danh nhân, nhà văn nhà thơ nổi tiếng của đất nước mà cứ mỗi khi ai đó nhắc đến cũng đều phải thốt lên rằng đúng là “Đất địa linh nhân kiệt “.Đất của Lê Lợi khởi binh, của dòng dõi nhà Lê, Trịnh, Hồ của Đào Duy Từ với chiến tích Luỹ Thầy của Phạm Bành, Tống Duy Tân với khởi nghĩa Ba Đình của nhà thơ Nguyễn Duy với Tre Việt Nam. Thật là may mắn khi được sinh ra ở vùng đất địa linh nhân kiệt ( đất ba vua ). Được thừa hưởng một nền văn hóa có từ lâu đời được nuôi dưỡng trong những câu hò, câu lý, được nghe sự tích về Mai An Tim, được nghe kể về sự thông minh lanh lợi của Trạng Quỳnh được tắm mình trong dòng nước mát lạnh của sông mã anh hùng. May mắn hơn lại được thực tập ở phòng Thu của BHXH tỉnh Thanh Hóa được chứng kiến không khí lao động hăng say của các cán bộ tại các phòng ban BHXH tỉnh, những con người đang nổ lực đóng góp một phần nhỏ của mình vào công cuộc xây dựng BHXH xã hội tỉnh nói riêng và BHXH Việt Nam nói chung. Để bày tỏ sự may mắn đó em đã chọn đề tài “ Thực trạng công tác thu – chi ở BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn ( 2003 – 2008 ). Đề tài của em gồm 3 phần Phần 1: Tổng quan về BHXH và quỹ BHXH Phân 2: Phân tích thực trạng thu – chi BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn ( 2003 – 2008 ) Phần 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu – chi ở BHXH tỉnh Thanh Hóa Chương 1: Tổng quan về BHXH và Quỹ BHXH 1 Giới thiệu chung về BHXH BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo hiểm khác ở vai trò, bản chất, chức năng có nhiều điểm khác biệt. 1.1 Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế - xã hội Trong cuộc sống con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc ở và đi lại. Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào con người củng chỉ gặp những thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho con người bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác như: bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già sức yếu… Ở vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần có nhu cầu được khám, chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, tai nạn, thương tật, cần có người chăm sóc nuôi dưỡng v.v..Vì vậy muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v… Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người lao động làm thuê và giới chủ cũng có nhiều mâu thuẫn . Ban đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã cam kết cả việc bảo đảm cho người lao động làm thuê có một số thu nhập để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm, tai nạn, thai sản…Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải trả một đồng nào. Mặt khác, cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải một lúc bỏ ra một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt tới đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn, sự can thiệp của Nhà nước một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ trên cơ sỡ xác xuất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải khó khăn biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ củng thấy có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng được đảm bảo. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. 1.2 Bản chất của BHXH Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sỡ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH ( bên nhận nhiệm vụ BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ không có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như già yếu, thai sản v.v… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất khi gặp những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hay mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế ( ILO ) cụ thể hoá như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cuộc sống cho họ + Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật; + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. 1.3 Chức năng của BHXH BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây: Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quy định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giúp những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hay mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa người đang khoẻ mạnh làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v…Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng xuất lao động cá nhân và năng xuất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh tham gia lao động sản xuất người lao động được chủ sử dụng lao động trả lường hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi già yếu đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chổ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ sẽ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng xuất lao động cá nhân và kéo theo là năng xuất lao động của xã hội. Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động v.v… Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. 1.4 Tính chất của BHXH BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội, vì vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Quỹ BHXH là một bộ phận của tổng sản phẩm quốc nội được xã hội tổ chức quản lí, bảo tồn và phân phối lại cho người lao động. Thực chất quỹ BHXH là một phần trong tổng sản phẩm quốc nội, trong đó người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ nhưng khi gặp rủi ro được cả cộng đồng trợ giúp để vượt qua khó khăn, hoạn nạn. Kết quả của sự phân phối lại đó tạo ra được sự bình đẳng hơn về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Chính từ đó góp phần tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng sức lao động, tạo thêm được nhiều điều kiện thúc đẩy sản xuất có hiệu quả, tạo thêm được nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập đồng thời phát triển tốt hơn các dịch vụ xã hội phục vụ cho con người như y tế, giáo dục, văn hoá... Hoạt động BHXH không vì mục tiêu lợi nhận mà hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn định và tiến bộ xã hội. BHXH mang tính chất nhân đạo, nhân văn, dùng tiền đóng góp khi còn trẻ khoẻ để dùng vào lúc tuổi già, đau yếu. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiện bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ đang còn trong độ tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao. 2. Quỹ BHXH 2.1 Khái niệm: Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. 2.2 Đặc điểm của quỹ BHXH Quỹ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau: Quỹ ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Vì vậy, nguyên tắc quản lý quỹ BHXH là: Cân bằng thu – chi. Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất hoàn trả thể hiện ở chổ, người lao động là đối tượng tham gia và đóng BHXH đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau, tuỳ thuộc vào những biến cố và rủi ro mà họ gặp phải, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ. Tính không hoàn trả thể hiện ở chổ, cùng tham gia và đóng góp BHXH, nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng cũng có những người được ít lần hoặc thậm chí không được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH. Quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là “ Của để dành ” của người lao động phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc tuổi già v.v…Nguồn quỹ này được đóng góp và tích luỹ lại trong suốt quá trình lao động. Nếu xem xét tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động tăng và cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH. Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là khâu tài chính trung gian cùng với Ngân sách nhà nước và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thốn tài chính quốc gia. Tuy nhiên mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn bó với một chủ thể nhất định, vì vậy chúng luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng. Thế nhưng tài chính BHXH, Ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của tưng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Đồng thời khi kinh tế - xã hội phát triển, người lao động và người sử dụng lao động sẽ có thu nhập cao hơn, do đó càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH v.v… 2.3 Nguồn hình thành quỹ BHXH Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây: Người sử dụng lao động đóng góp + Người lao động đóng góp + Nhà nước đóng và hổ trợ thêm + Các nguồn khác ( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi ) Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sỡ quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ trách được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần dể BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động. BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sỡ vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hổ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chổ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau. Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhât cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quôc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chiệu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chiệu toàn bộ chi phí quản lý BHXH v.v… Bảng 1.1 : Mức đóng góp của một số nước trên thế giới Tên nước Chính phủ Tỷ lệ đóng góp của người lao động so với tiền lương (%) Tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động so với quỹ lương (%) CHLB Đức CH Pháp Indonexia Philipin Malaixia Bù thiếu Bù thiếu Bù thiếu Bù thiếu Chi toàn bộ chế độ ốm đau, thai sản 14,8 – 18,8 11,82 3,0 2,85 – 9.25 9,5 16,3 – 22,6 19,68 6,5 6,85 – 8,05 12,75 (Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới) Ở nước ta, từ năm 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ 2 nguồn: Các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, trong đó văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó, 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. + Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu trí và tử tuất. + Nhà nước đóng và hổ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. + Các nguồn khác. Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau: + Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sỡ xác định mức đóng phí. + Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng. + Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định mức phí phải đóng. Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: Cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH xác định theo công thức: P = f1 + f2 + f3 Trong đó: P – Phí BHXH F1 – Phí thuần tuý trợ cấp BHXH F2 – Phí dự phòng F3 – Phí quản lý 2.4 Mục đích sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây: + Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH; + Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH; + Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH; Trong 3 nội dung chỉ tiêu nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất. Bao gồm các chế độ BHXH: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp sinh đẻ Trợ cấp khi tàn phế Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng) Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu. Thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó 3 Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế và chính sách xã hội 3.1 Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách xã hội Chính sách xã hội là một vấn đề rộng lớn, được cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao nhất là thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân... chính sách xã hội bao trùm lên mọi cuộc sống của con người. Trong hệ thống các chính sách xã hội thì BHXH là một chính sách quan trọng. Chính sách BHXH và các chính sách xã hội khác có mối quan hệ biện chứng với nhau, các chính sách này hỗ trợ lẫn nhau để giải quyết các vấn đề xã hội. Thực hiện tốt các chính sách xã hội sẽ góp phần thực hiện tốt chính sách BHXH và ngược lại thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ góp phần thực hiện tốt các chính sách xã hội khác. Chẳng hạn như chính sách tiền lương là cơ sở để xác định mức đóng BHXH, vì vậy mức tiền lương phải đảm bảo đủ trang trải các nhu cầu cơ bản của người lao động và phần đóng BHXH do đó chính sách tiền lương hợp lí sẽ góp phần thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội . Chính sách việc làm có liên quan đến chính sách BHXH được thể hiện khá rõ nét, số người làm việc ngày càng nhiều và mức thu nhập ổn định sẽ tạo cho BHXH có nguồn thu ổn định; ngược lại chính sách giảm biên chế, chính sách giảm lao động làm việc trong các doanh nghiệp như quyết định 176/HĐBT, quyết định 111/CP... dẫn đến tăng số người về nghỉ chế độ...làm tăng nguồn chi BHXH như hiện nay ngân sách hàng năm phải cấp bù rất lớn. Ngoài ra chính sách BHXH cũng có tác động lớn đến chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách đối với những người tham gia chiến trường B,C,K. 3.2 Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách kinh tế được thể hiện ở chỗ hai loại chính sách này có giới hạn hợp lí. Nếu không xác định được giới hạn hợp lí này sẽ dẫn đến hoặc là xây dựng một hệ thống BHXH không phù hợp khả năng và trình độ phát triển của nền kinh tế làm cho chính sách BHXH thực thi không cao, tác động tiêu cực đến nền sản xuất xã hội. Hoặc nếu chỉ tập trung phát triển kinh tế, coi trọng yếu tố năng suất lao động mà không đầu tư thoả đáng cho chính sách xã hội trong đó có chính sách BHXH sẽ làm mất ổn định xã hội. Bởi vậy thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ tạo điều kiện để giải phóng năng lực sản xuất, tạo năng suất lao động cao, sản xuất ổn định. Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách kinh tế còn thể hiện thông qua mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế tự thân nó không dẫn tới tiến bộ xã hội và càng không dẫn tới công bằng xã hội một cách trực tiếp, mặc dù tăng trưởng kinh tế ở một mức độ nào đó có thể thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải qua khâu phân phối mới đưa các chính sách BHXH nói riêng và phúc lợi xã hội nói chung tới các tầng lớp dân cư. tăng trưởng kinh tế là một điều kiện quan trọng để thực hiện chính sách BHXH có hiệu quả. Ngược lại khi xem xét chính sách BHXH dưới góc độ một chính sách kinh tế khi hoạch định chính sách BHXH không hợp lí, xây dựng mức đóng BHXH không phù hợp sẽ làm nâng giá thành sản phẩm lên cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm, hạn chế tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách BHXH cũng có sự mâu thuẫn. Qúa trình nâng cao hiệu quả kinh tế thường xuất hiện các hiện tượng cố tình không thực hiện chính sách BHXH cho người lao động như đóng BHXH không đứng mức thu nhập, kí hợp đồng lao động ngắn hạn, trang bị bảo hộ lao động không đảm bảo gây ra tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp. Việc giải quyết hài hoà mối quan hệ này phụ thuộc vào bản chất chế độ chính trị xã hội và năng lực quản lí của Nhà nước trong việc tạo điều kiện tối ưu sự kết hợp sự phát triển kinh tế với việc thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của xã hội gắn liền tiến bộ xã hội với sự phát triển toàn diện con người. Chương 2: Phân tích thực trạng thu – chi quỹ BHXH ở cơ quan BHXH Thanh Hóa giai đoạn 2003 – 2008 1 Vài nét về cơ quan BHXH tỉnh Thanh Hóa Trên cơ sỡ của việc thành lập BHXH Việt Nam. BHXH tỉnh Thanh Hoá được thành lập theo QĐ số 137/QĐ – TCCB ngày 15/06/1995 và bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ thực hiện chế độ BHXH, BHYT theo QĐ 1620/QĐ – TCCB; Quyết định 195/QĐ – TCCB ngày 17/12/2002 của Tổng Giám Đốc BHXH Việt Nam. Như vậy từ thời điểm này, ngoài việc đảm bảo các chế độ BHXH cho người lao động, cơ quan BHXH còn được giao thêm nhiệm vụ quản lý thực hiện chế độ BHYT cho cán bộ công nhân viên chức và các đối tượng khác trong xã hội. Đặc biệt ngày 26/09/2002 Quốc Hội khoá XI kỳ họp thứ 9 thông qua luật BHXH cơ sỡ pháp lý vững chắc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH. Nội dung của luật thể hiện đầy đủ chủ trương chính sách xã hội quan điểm của đảng nhà nước trong lĩnh vực BHXH. Sự hình thành và phát triển của BHXH Thanh Hoá luôn luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam. Sau 13 năm kể từ ngày thành lập cho đến nay BHXH tỉnh Thanh Hoá đã có nhiều chuyển biến mới, trụ sở của BHXH tỉnh năm trên đại lộ Lê Lợi nơi đặt trụ sở của rất nhiều cơ quan chính quyền quan trọng trong tỉnh. Hệ thống tổ chức BHXH ở nước ta: Sơ đồ 2.1 : Bộ máy tổ chức của BHXH Việt Nam CHÍNH PHỦ BHXH VIỆT NAM BHXH CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ BHXH CẤP HUYỆN, THỊ XÃ HỆ THỐNG ĐẠI LÝ CHI TRẢ BHXH - Hội đồng quản lý - Tổng giám đốc - Các phó tổng giám đốc Giám đốc Các phó giám đốc Các phòng ban: . Phòng chế độ chính sách . Phòng kế hoạch - tài chính . Phòng thu . Phòng giám định chi . Phòng BH tự nguyện . Phòng công nghệ thông tin . Phòng kiểm tra . Phòng tổ chức hành chính Giám đốc Phó giám đốc Các công chức, viên chức Theo hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam thì BHXH tỉnh Thanh Hóa bao gồm các phòng ban: Phòng bảo hiểm tự nguyện Được thành lập theo Quyết định 195/2003/QĐ – BHXH ngày 19/02/2003 của Tổng Giám Đốc BHXH Việt Nam, phòng bảo hiểm tự nguyện có chức năng nhiệm vụ cơ bản giúp Giám đốc quản lý và tổ chức thực hiện các chế độ BHYT tự nguyện theo quy định. Phòng công nghệ thông tin Được thành lập tháng 01 năm 2003, theo Quyết định số 1764/QĐ – BHXH ngày 17 tháng 12 năm 2002 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Với chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh quản lý và tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực hoạt động của BHXH tỉnh và BHXH các huyện, thị xã, thành phố. Phòng công nghệ thông tin đã tổ chức triển khai các phần mềm ứng dụng vào công tác thu, chi BHXH, BHYT, công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH, cấp và quản lý thẻ BHYT … một cách linh hoạt và hiệu quả, thiết lập và khai thác mạng nội bộ ( LAN ) đảm bảo an toàn và thông suốt; tổ chức cập nhật và lưu._. trữ cơ sỡ dữ liệu, đảm bảo khai thác hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản lý. Phòng chế độ chính sách Được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 9/1995 với chức năng giúp Giám đốc quản lý các đối tượng thụ hưởng BHXH hằng tháng; xét duyệt, thẩm định hồ sơ hưởng lương hưu, trợ cấp thường xuyên, một lần; trợ cấp tuất và xét duyệt trợ cấp ốm đau, thai sản nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ cho hàng vạn lượt người với số tiền hàng trăm tỷ đồng. Hằng tháng lập danh sách chi trả cho 12 vạn đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH; thực hiện điều chỉnh lương hưu và trở cấp đảm bảo đầy đủ, chính xác, kịp thời theo quy định. Phòng giám định chi Được thành lập năm 2003 trên cơ sỡ tổ chức lại phòng Giám định chuyển giao từ BHYT sang BHXH. Với chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh về công tác giám định y tế, bảo vệ quyền lợi của người tham gia BHYT, quản lý nguồn quỹ khám chữa bệnh BHYT, đảm bảo việc thanh quyết toán với các cơ sỡ KCB BHYT theo các quy định của Nhà nước. Trong những năm qua, Phòng đã chủ động xây dựng kế hoạch công tác, phối hợp với các phòng chức năng để phân bổ quỹ KCB BHYT, phối hợp với các cơ sỡ khám chữa bệnh BHYT ký hợp đồng khám chữa bệnh BHYT bảo đảm quyền lợi của người có thẻ BHYT khi đi khám chữa bệnh, tổ chức thanh quyết toán với các cơ sỡ KCB theo quy định; đảm bảo quyền lợi cho hàng triệu lượt người khám chữa bệnh với chi phí hàng năm gần 200 tỷ đồng. Phòng kiểm tra Phòng kiểm tra được thành lập theo Quyết định số 207/BHXH – TCCB ngày 09/10/1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam, với chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện các chế độ, chính sách thu chi BHXH, quản lý tài chính theo quy định của pháp luật. Xây dựng chương trình kế hoạch và phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền địa phương để kiểm tra việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT; thường trực tiếp công dân, tiếp nhận và giải quyết các đơn khiếu nại tố cáo về việc thực hiện chính sách chế độ BHXH,BHYT. Trong những năm qua, thông qua công tác kiểm tra đã phát hiện những lệch lạc trong công tác quản lý, tham mưu cho lãnh đạo nghành kịp thời chấn chỉnh, phát huy những nhân tố tích cực, phòng ngừa những vi phạm, góp phần thúc đẩy và hoàn thiện công tác quản lý trong hoạt động của ngành nhằm tăng cường kỷ cương, kỷ luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng, quản lý lao động, người lao động tham gia và thụ hưởng BHXH, BHYT. Phòng kế hoạch tài chính Phòng kế hoạch tài chính có chức năng giúp Giám đốc thực hiện công tác kế hoạch và quản lý tài chính; tổ chức hạch toán, kế toán theo quy định. Mặc dù còn gặp những khó khăn, đối tượng phát triển nhanh và số tiền thu, chi thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT ngày càng lớn, song tập thể cán bộ, công chức trong phòng biết phát huy truyền thống đoàn kết, năng động, sáng tạo và chủ động khắc phục khó khăn, vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhất là trong công tác xây dựng kế hoạch quản lý thu, chi BHXH, BHYT, chi quản lý bộ máy, đầu tư xây dựng cơ bản. Tổ chức cấp phát và quản lý chặt chẽ các nguồn kinh phí; xét duyệt và tổng hợp quyết toán tài chính; hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra việc thực hiện chế độ quản lý tài chính, kế toán trong nghành. Phòng quản lý hồ sơ Được thành lập theo Quyết định số 1549/QĐ – BHXH ngày 19/05/2005 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Phòng có chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn công tác lưu trữ đối với các đơn vị trực thuộc và trực tiếp quản lý tài liệu lưu trữ của BHXH tỉnh. Phân loại, xác định giá trị hồ sơ, tài liệu, tổ chức bảo quản an toàn, khoa học, bí mật hồ sơ, tài liệu theo quy định. Lập thủ tục di chuyển cho đối tượng khi thay đổi nơi hưởng lương hưu và trợ cấp. Phòng tổ chức hành chính Phòng Tổ chức – Hành chính có chức năng giúp Giám đốc quản lý Tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức, công tác tuyên truyền, thi đua khen thưởng và hoạt động của Văn phòng cơ quan BHXH tỉnh. Tham mưu, đề xuất xây dựng củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy các phòng chức năng, nghiệp vụ và BHXH các huyện, thị xã, thành phố. Xây dựng kế hoạch biên chế, tuyển dụng, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức viên chức. Xây dựng quy chế làm việc, công tác cải cách hành chính; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; thực hiện công tác thi đua, khen thưởng,công tác thông tin tuyên truyền, tổng hợp báo cáo và công tác văn thư theo quy định; bảo vệ, quản lý tài sản và phục vụ các hoạt động của cơ quan văn phòng BHXH tỉnh. Phòng thu Phòng thu BHXH được thành lập theo quyết định số 150/QĐ – BHXH ngày 15/06/1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Phòng có chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quản lý, thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho người lao động và đối tượng thụ hưởng BHXH, BHYT. Sau 13 năm thực hiện tổ chức hoạt động, cán bộ, công chức viên chức đã có nhiều cố gắng vươn lên khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ trên tất cả các mặt công tác, đặc biệt là phát triển đối tượng tham gia, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho đối tượng tham gia BHXH, BHYT bắt buộc 2 Thực trạng thu quỹ BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa 2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thu quỹ BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới công tác thu quỹ BHXH trong đó có những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp: 2.1.1 Chính sách tiền lương Chính sách tiền lương nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ với công tác thu BHXH, chính sách tiền lương làm tiền đề và cơ sỡ cho việc thực hiện chính sách BHXH. Khi nhà nước điều chỉnh lương tối thiểu điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng mức đóng BHXH và đương nhiên số thu BHXH cũng tăng lên. Từ năm 1990 đến năm 2008, với 8 lần tăng lương tối thiểu chung từ 120.000 đồng/ tháng lên 540.000 đồng/ tháng thì số thu BHXH hằng năm của nhóm đối tượng hưởng lương từ ngân sách cũng tăng từ 36 tỷ đồng (năm 1996) lên 239,7 tỷ (2003); 236,5 tỷ (2004); 295 tỷ (năm 2005); 353 tỷ (năm 2006); 464,4 tỷ (năm 2007) và 614,3 (năm 2008). Tuy nhiên tỷ trọng số thu BHXH trong khu vực nhà nước giảm. Bảng 2.1 : Tổng thu và tỷ trọng thu BHXH từ khu vực nhà nước Năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng thu BHXH từ khu vực nhà nước 239,7 236,5 295 353 464,4 614,3 Tỷ trọng số thu BHXH từ khu vực nhà nước 91,48% 88,24% 83,8% 78,37% 75,88% 74,92% (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam 2008) Như vậy, ở BHXH tỉnh Thanh Hóa số lao động tham gia BHXH khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng cao, tuy tốc độ có giảm, song rất chậm 2.1.2 Tuổi nghỉ hưu Tuổi nghỉ hưu là nhân tố tác động trực tiếp và chủ yếu đến BHXH chứ không phải tác động đến thu BHXH về mặt lý luận, nhưng thực tế ở Thanh Hóa là địa phương có độ tuổi nghỉ hưu bình quân thấp hơn so với cả nước (Thanh Hóa là 49,2 tuổi/ 51,8 tuổi-cả nước) do chính sách tinh giảm biên chế và do số đông lao động nghỉ hưu trước tuổi, được giảm tuổi có thời gian làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại. Theo quy định hiện hành tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60, nữ là 55. Ngoài ra, có quy định riêng với một số trường hợp về hưu ở tuổi 50 hoặc 55 đối với nam và 45 hoặc 50 đối với nữ. Việc tăng hoặc giảm tuổi nghỉ hưu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu lao động xã hội. Đối với quỹ BHXH nói chung và số thu BHXH nói riêng sẽ bị ảnh hưởng xấu nếu giảm tuổi nghỉ hưu. Bởi vì, khi giảm 5 tuổi nghỉ hưu sẽ giảm thời gian đóng BHXH 5 năm. Theo tính toán mỗi năm một người về nghỉ hưu trước tuổi Nhà nước phải bù 10,8 tháng lương. 2.1.3 Chính sách lao động và việc làm Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, họ là những người trong độ tuổi lao động, là những người trực tiếp tạo ra của cải xã hội. Như vậy nếu một quốc gia có dân số “ già ” tức là số người trong độ tuổi lao động thấp trên tổng số dân sẽ dẫn đến việc mất cân đối quỹ BHXH, bởi vì số người tham gia đóng góp ngày càng ít, trong khi số người hưởng các chế độ BHXH, đặc biệt là chế độ hưu trí ngày càng tăng. Trong điều kiện của nước ta hiện nay với số dân trẻ số người trong độ tuổi lao động ước tính xấp xỉ 45 triệu người chiếm khoảng 54,9% tổng số dân. Thanh Hóa có 1.856.126 người trong độ tuổi lao động, chiếm trên 49,5% tổng số dân, đây là đối tượng chính tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Hiện nay tỉnh Thanh Hóa mới có 161.222 người tham gia đóng BHXH, chiếm 8,69% số người trong độ tuổi lao động và chiếm 4,3% dân số. Chính sách lao động, việc làm có ảnh hưởng lớn đến khu vực kinh tế ngoài nhà nước và ảnh hưởng trực tiếp đến việc tham gia đóng BHXH của người lao động và người sử dụng lao động. Chẳng hạn: Khi nhà nước tạo ra nhiều việc làm giảm tình trạng thất nghiệp, số lao động tăng thì số người tham gia đóng BHXH cũng tăng do đó quỹ BHXH tăng lên. 2.1.4 Tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu người Tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của nhà nước, vì thế nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chắc chắn đời sống của người lao động cũng được cải thiện; việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được thuận lợi, do đó các chủ doanh nghiệp cũng sẵn sàng tham gia BHXH. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững phản ánh nhiều người lao động có thu nhập cao thông qua quá trình lao động, đây là điều kiện tiền đề để người lao động có cơ hội tham gia BHXH. 2.1.5 Nhận thức, ý thức tâm lý, thói quen của người lao động và người sử dụng lao động BHXH là một cơ chế phức tạp với nhiều mối quan hệ đa dạng, trong đó nỗi bật là quan hệ lợi ích, tức là quyền trách nhiệm của các bên tham gia BHXH. Dù là người lao động hay là người sử dụng lao động thì tâm lý chung là làm sao lợi ích càng nhiều càng tốt, lợi ích không giới hạn và trách nhiệm càng ít càng tốt. Nhiều khi, từ chổ nhận thức giản đơn về việc tham gia BHXH, tức là không tham gia, hoặc chưa tham gia ở mức độ nhất định và không ảnh hưởng tới hoạt động của đơn vị, doanh nghiệp, nên người sử dụng lao động không có kế hoạch tài chính chủ động việc đăng ký tham gia BHXH. Chủ doanh nghiệp chỉ thấy lợi trước mắt, thiếu quan tâm tới đời sống và quyền lợi BHXH của người lao động nên tìm mọi cách trốn tránh đăng ký tham gia BHXH cho người lao động hoặc đăng ký theo kiểu đối phó. Tình trạng doanh nghiệp ký hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng với người lao động và hợp đồng vụ việc, để lách luật BHXH. Để nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong việc tham gia BHXH của người lao động và người sử dụng lao động, thì vài trò của cấp ủy Đảng và các cấp chính quyền có tác động rất lớn đến BHXH nói chung, đến công tác thu BHXH nói riêng. Đó là việc kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị trong đó có nghĩa vụ đóng BHXH thông qua tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng trong doanh nghiệp. Đó là việc yêu cầu của các doanh nghiệp khi đăng ký thành lập, hoạt động phải có chỉ tiêu thực hiện BHXH thông qua tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng doanh nghiệp. Đó là việc yêu cầu các doanh nghiệp khi đăng ký thành lập, hoạt động phải có chỉ tiêu thực hiện BHXH; thành lập các đoàn thanh tra, xử lý các vi phạm. Ở BHXH tỉnh Thanh Hóa giữa năm 2006 số lao động tham gia BHXH bắt buộc khu vực ngoài nhà nước ở Thanh Hóa mới đạt 42,7% trong tổng số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, trước tình hình trên Tỉnh ủy và UBND tỉnh có chỉ thị số 11, 15 về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng thực hiện chế độ BHXH đã làm chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người sử dụng lao động, người lao động và xã hội, tạo ra bước phát triển vững chắc trong công tác thu BHXH, số người lao động tham gia BHXH của cả tỉnh tăng nhanh, đạt gần 63% số lao động thuộc diện đóng BHXH bắt buộc. 2.2 Tổ chức và quản lý thu BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa Từ năm 1995 trở về trước, ở Thanh Hóa việc quản lý thu BHXH do Liên đoàn lao động quản lý và một phần do nghành Thuế, nghành Tài chính trực tiếp thu. Nhìn chung tình hình quản lý thu BHXH thời kỳ này không tập trung lại chồng chéo, quản lý thiếu chặt chẽ, việc sử dụng, quản lý nguồn thu có nhiều sơ hở dễ phát sinh tiêu cực, thất thoát. Tháng 9/1995, BHXH tỉnh Thanh Hóa bắt đầu đi vào hoạt động, theo đó công tác quản lý thu BHXH do cơ quan BHXH trực tiếp thực hiện và được quản lý tập trung, thống nhất theo hệ thống dọc 3 cấp từ Trung ương đến tỉnh, huyện. Hệ thống tổ chức, bộ máy của BHXH tỉnh Thanh Hóa hiện nay, bao gồm 36 đơn vị trực thuộc, ở văn phòng tỉnh gồm 9 phòng chức năng, nghiệp vụ và 27 cơ quan BHXH huyện, thị xã, thành phố. Việc đảm nhận chức năng quản lý thu BHXH do Phòng Quản lý thu BHXH tỉnh và BHXH các huyện đảm nhận theo phân cấp. Thực hiện Quyết định số 195/2003/QĐ-BHXH ngày 19/02/2003 của tổng giám đốc BHXH Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ công tác thu BHXH bắt buộc được thực hiện ở địa phương, như sau: + Xây dựng kế hoạch thu BHXH hằng năm, quý, tháng và phân bổ chỉ tiêu cho BHXH huyện, thị xã, thành phố thực hiện; + Tổ chức thu BHXH của người lao động, người sử dụng lao động và các đối tượng bắt buộc khác và thẩm định số thu BHXH bắt buộc, cấp ghi sổ BHXH, xác nhận số thu BHXH làm cơ sở cho việc giải quyết chế độ BHXH cho người lao động. + Hướng dẫn kiểm tra, đôn đốc việc thu BHXH bắt buộc… thực hiện chế độ thông tin, thống kê tổng hợp báo cáo; + Tiếp nhận, phân loại, khai thác sử dụng và tổ chức quản lý, lưu trữ hồ sơ, tài liệu liên quan đến thu BHXH theo quy định. Do biên chế cán bộ của BHXH tỉnh còn ít, việc bố trí nhân sự chuyên quản công tác thu BHXH bắt buộc mới phân định rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn ở Văn phòng tỉnh (Phòng Quản lý thu bố trí 16 cán bộ) còn ở BHXH cấp huyện mới bố trí mỗi đơn vị 2-3 cán bộ, riêng BHXH thành phố có 8 cán bộ chuyên thu. Như vậy, công tác bố trí nhân sự của BHXH tỉnh Thanh Hóa làm công tác thu BHXH bắt buộc trong nhiều năm qua tuy hợp lý so với tổng biên chế được giao, song đều quá tải so với nhiệm vụ. Nếu tính bình quân mỗi cán bộ chuyên quản thu BHXH, phải đảm nhận số thu hàng năm gần 7,5 tỷ đồng (bình quân toàn nghành, mỗi cán bộ phải thu là 2,19 tỷ đồng và chi trả là 6,1 tỷ đồng) chưa kể phải đảm nhận thực hiện hướng dẫn công tác nghiệp vụ cấp sổ BHXH.v.v.. 2.3 Quy trình thu nộp BHXH BHXH tỉnh có thể thu trực tiếp từ các doanh nghiệp và cơ quan đóng BHXH ở BHXH tỉnh, đồng thời giao chỉ tiêu kế hoạch cho BHXH cấp huyện. Quá trình thu nộp BHXH ở BHXH cấp huyện gồm những bước sau: Bước 1: Nắm đối tượng Bước 2: Lập kế hoạch thu Bước 3: Triển khai thực hiện kế hoạch thu BHXH Bước 4: Xác nhận số đã thu (nộp) đối với người lao động 2.4 Kết quả thu Nhờ những nỗ lực của các cán bộ của phòng thu cũng như những cán bộ của BHXH tỉnh trong thời gian qua BHXH tỉnh Thanh Hóa đạt được những thành quả: Một là: Quản lý đối tượng tham gia BHXH Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua hoạt động quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa luôn hướng vào mục tiêu tăng nhanh đối tượng tham gia BHXH ở mọi thành phần kinh tế phù hợp với ưu cầu hội nhập và phát triển kinh tế xã hội của địa phương thực hiện thu đúng, thu đủ, kịp thời và quản lý và thực hiện cải cách hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ đối tượng tham gia BHXH, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Bám sát vào mục tiêu trên, BHXH Thanh Hóa có nhiều biện pháp tổ chức thực hiện nhằm tăng nhanh số người tham gia BHXH. Nhưng việc thực hiện gặp nhiều khó khăn, do trong gần 50 năm hoạt động BHXH ở nước ta thực hiện theo cơ chế bao cấp, người lao động hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH mà chưa phải thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH; thông lệ này đã đi vào tiềm thức của từng người, nếu là cán bộ công chức nhà nước thì đương nhiên được hưởng tiền lương và các chế độ phúc lợi khác. Do đó khi chính sách đổi mới thực hiện quan hệ hữu cơ giữa nghĩa vụ đóng góp với quyền lợi hưởng thụ thì gặp nhiều khó khăn cả về nhận thức và tổ chức thực hiện. Trong những năm qua, BHXH tỉnh Thanh Hóa đã tập trung thực hiện có hiệu quả nhiều biện pháp như: chủ động phối hợp với các ban, nghành chức năng kịp thời xử lý các vướng mắc ở cơ sở, tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng lao động tham gia thực hiện tốt chế độ, chính sách BHXH cho người lao động. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chế độ, chính sách BHXH theo cơ chế mới. Kết hợp chặt chẽ đăng ký thu, nộp BHXH với việc cấp sổ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH. BHXH tỉnh đã tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy có Chỉ thị 11 CT/TU( ngày 12/03/2007) và Chủ tịch UBND tỉnh có chỉ thị 15/CT-UBND ( ngày 8/6/2007) về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH, tạo ra bước phát triển vững chắc cho sự nghiệp BHXH ở địa phương. Đến cuối năm 2008 trên địa bàn có gần 17 vạn lao động tham gia BHXH khu vực nhà nước chuyển biến khá, nếu năm đầu tiên thực hiện mở rộng đối tượng theo Nghị định 01/2003/NĐ-CP mới có 271 doanh nghiệp với 12.129 lao động tham gia BHXH, thì đến năm 2008 có 1.527 đơn vị tham gia với số lao động 58.248 tham gia BHXH. Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một trong những vấn đề mấu chốt của nghiệp vụ thu BHXH, là nội dung cơ bản của quản lý thu trong đó mở rộng, phát triển đối tượng tham gia BHXH được đặc biệt quan tâm. Theo báo cáo hàng năm của BHXH tỉnh Thanh Hóa, cho thấy năm1995 mới có 711 đơn vị sử dụng lao động và số lao động tham gia BHXH là 83.723. Cùng với quá trình phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, số lao động tham gia và số thu BHXH cũng tăng dần đặc biệt tăng đột biến từ năm 2003 và cơ cấu trong các lĩnh vực cũng thay đổi. Bảng 2.2 : Tình hình lao động tham gia BHXH tại Thanh Hóa (2003 – 2008) Đơn vị: Người Các năm Loại hình Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng số lao động 128.397 133.266 137.727 139.990 147.170 166.321 Trong đó: - HCSN 66.604 68.627 70.426 70.609 72.217 74.227 - DNNN 38.236 34.993 28.869 20.550 18.360 17.112 - Xã, phường. 11.428 10.836 10.784 10.876 11.237 11.566 - NCL 3.368 4.584 5.340 6.333 7.758 8.111 - DNNQD 7.664 12.151 19.510 27.736 32.706 39.434 - DN FDI 615 960 758 818 1.245 1.467 - HTX 482 1.041 1.635 2.304 2.656 3.121 - Hộ SXKD 74 405 764 991 11.283 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003 – 2008) Bảng 2.3 :Tình hình đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH (2003 – 2008) Các năm Loại hình Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng số đơn vị 3.308 3.592 4.025 4.356 4.929 5.234 Trong đó: - HCSN 2.220 2.223 2.281 2.307 2.535 2.738 - DNNN 188 168 130 102 87 67 - Xã , phường 629 633 634 634 634 638 - NCL 48 155 158 146 188 198 - DNNQD 137 233 367 513 680 802 - DNFDI 2 3 5 6 11 18 - HTX 84 177 263 321 354 401 - Hộ SXKD 80 111 120 187 327 372 ( Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003 – 2008) Biểu 2.1 : Phát triển lao động tham gia BHXH Qua số liệu ở các biểu trên cho thấy đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước cơ cấu các loại hình tham gia BHXH thay đổi doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh cả về số đơn vị và lao động trong khi đó doanh nghiệp nhà nước giảm dần và khu vực hành chính sự nghiệp, đảng đoàn thể nhìn chung ổn định, tuy có tăng, nhưng không đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, quy mô sản xuất giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản. Đối với lực lượng lao động khu vực hành chính sự nghiệp không giảm điều đó cho thấy việc thực hiện cải cách hành chính công còn hạn chế, chưa phản ánh đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước về tinh giảm biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Hai là: Quản lý tiền lương đóng BHXH Tiền lương, tiền công trả cho người lao động là trách nhiệm của người sử dụng lao động. Đối với công chức, viên chức làm việc trong khu vực nhà nước do Nhà nước trả lương, người lao động làm việc ngoài khu vực nhà nước do người sử dụng lao động quy định và tiền lương này được hạnh toán vào giá thành sản phẩm. Trách nhiệm của cơ quan BHXH là căn cứ vào các quy định của Nhà nước về chế độ tiền lương và các quyết định nâng lương của cấp có thẩm quyền để thu BHXH đúng quy định, trường hợp nâng lương không đúng quy định, cơ quan BHXH từ chối thu BHXH yêu cầu đơn vị sử dụng lao động thực hiện. BHXH tỉnh Thanh Hóa thường xuyên phối hợp với các sở ban nghành để nắm vững phân cấp quản lý lao động, tiền lương làm cơ sở cho việc thống kê phân loại xác định các mức thu tỷ lệ thu và phương thức thu của từng nhóm đối tượng. Trên cơ sở nắm chắc tổng quỹ lương của từng đơn vị và tiền lương của người lao động, nên trong những năm qua mặc dù Nhà nước thường xuyên thay đổi chế độ tiền lương và đối tượng tham gia BHXH biến động lớn, nhưng việc thu nộp BHXH được thực hiện không có sự Đơn vị:Triệu đồng Các năm Loại hình Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 HCSN 669.208 688.939 806.750 1.120.470 1.372.993 1.454.231 DNNN 301.465 274.060 298.529 290.422 291.768 292.123 Khu vực ngoài NN 90.229 128.320 213.576 389.330 529.025 613.475 Trong đó: DNFDI 16.945 20.179 22.328 26.686 29.640 30.867 DNNQD 54.234 83.228 152.923 301.530 415.176 478.142 HTX 736 3.097 6.087 10.423 14.690 18.789 NCL 18.314 21.637 30.954 46.395 63.736 77.145 Hộ SXKD 179 1.284 4.296 5.783 8.532 Bảng 2.4 : Tổng quỹ lương đóng BHXH của người lao động và người sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ( 2003 – 2008 ) Đơn vị:% Các năm Loại hình Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 HCSN 63.07 63.13 61.17 62.24 62.58 62.89 DNNN 28.41 25.11 22.63 16.13 13.3 10.2 Khu vực ngoài NN 8.52 11.76 16.2 21.63 24.12 27.01 Trong đó: DNFDI 1.59 1.8 1.69 1.48 1.35 1.12 DNNQD 5.11 7.6 11.6 16.75 18.9 21.12 HTX 0.07 0.28 0.46 0.58 0.67 0.80 NCL 1.75 2.06 2.35 2.58 2.94 3.01 Hộ SXKD 0.02 0.1 0.24 0.26 0.96 Bảng 2.5 : Tỷ trọng số thu BHXH trong các lĩnh vực Chỉ tiêu Thời kỳ Tổng hệ số ( hệ số ) Tổng quỹ lương ( Tr.đ ) Số tiền đóng BHXH ( Tr.đ ) Ghi chú 01/2003 – 9/2005 ( 290.000 đ ) 2.885.452,0 836.781 167.356 Thời điểm 09/2005 10/2005 – 9/2006 ( 350.000 đ ) 3.796.773,9 1.328.870 265.770 Thời điểm 09/2006 10/2006 – 12/2007 ( 450.000 đ ) 3.727.753,4 1.677.481 335.496 Thời điểm 12/2007 Từ 01/2008 ( 540.000 đ ) 3.654.251,9 1.973.295 394.659 Thời điểm 12/2008 Bảng 2.6 : Sự biến động tiền đóng BHXH qua các thời kỳ của nhóm đối tượng hưởng lương từ ngân sách ( Bảng 2.4, 2.5, 2.6. nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003 – 2008) Qua các bảng trên ta thấy ở khối hành chính sự nghiệp số thu đóng vào quỹ BHXH vẫn tăng đều qua các năm song tỷ trọng của nó trong quỹ BHXH tương đối ổn định. Đối với loại hình doanh nghiệp nhà nước số thu năm 2003 là 301, 465 tỷ đồng thì đến năm 2008 giảm chỉ còn 292,123 tỷ đồng, tuy nhiên tỷ trọng số thu BHXH lại giảm qua các năm từ 28,1% năm 2003 xuống còn 10,2% năm 2008. Tổng thu BHXH từ khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh qua các năm từ 90,229 tỷ năm 2003 lên 613,75 tỷ năm 2008, sự tăng này kéo theo sự tăng tỷ trọng số thu BHXH từ 8,52% năm 2003 lên 27,01% năm 2008. Sự tăng lên này là do sự tăng nhanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2003 số thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới là 54,234 tỷ thì đến năm 2008 con số đó đã là 478,142 tỷ đồng thời tỷ trọng số thu BHXH cũng tăng nhanh từ 5,11% năm 2003, 11,6% năm 2005 và đến 21,12% năm 2008. Ba là: Quản lý nguồn thu BHXH Nguồn thu như trình bày ở trên được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hổ trợ của Nhà nước. Sự hỗ trợ của Nhà nước đóng BHXH cho người lao động bằng 15% tổng quỹ tiền lương của đơn vị đối với cán bộ, công chức hành chính sự nghiệp. Việc quản lý nguồn thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong những năm qua đảm bảo theo đúng quy định Thực hiện nghiêm ngặt quy trình thu nộp BHXH: căn cứ vào danh sách lao động và tổng quỹ tiền lương của đơn vị đã được đăng ký với cơ quan BHXH trên cơ sở đó BHXH tỉnh xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Việc thu nộp BHXH thực hiện bằng chuyển khoản, trường hợp thu bằng tiền mặt thì chậm nhất sau 3 ngày cơ quan BHXH nộp vào tài khoản đảm bảo đúng quy định.Với phương thức thu nộp BHXH như vậy luôn đảm bảo an toàn, thuận tiện, quản lý chặt chẽ được nguồn thu. Thường xuyên phối hợp với hệ thống Kho bạc nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh để cập nhật số tiền thu nộp BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Trên cơ sở đó, định kỳ hằng tháng cơ quan BHXH thực hiện Thông báo bằng văn bản tình hình lao động tham gia và thu nộp BHXH đến từng đơn vị tham gia BHXH. Bảng 2.7 : Kết quả thu BHXH trong các năm ( 2003 – 2008 Các năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Kế hoạch thu ( tỷ. đ ) 262,0 268,0 352 450,5 612,0 714,4 Thực hiện ( tỷ. đ ) 264,078 268,424 368,003 482,918 645,181 716,447 Tỷ lệ đạt (%) 100,8% 100,2% 104,5% 107,2% 105,4% 100,3% ( Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003 – 2008) Biểu số liệu trên cho thấy, số thu BHXH bắt buộc của Thanh Hóa liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước và tăng đều từ năm 2004 đến năm 2008. Riêng năm 2005 tăng đột biến từ 1,65% ( năm 2004 ) lên 16,7% năm 2008, cao nhât là vào năm 2007 tăng 35,85%. Là do các nhân tố tác động chủ yếu, lao động tăng 12,5% tiền lương thực tế tăng 20,8% và tiền lương tối thiểu do Nhà nước điều chỉnh tăng 66,7% tốc độ tăng trưởng bình quân 19,03%. Bốn là: Giải quyết nợ đọng tiền đóng BHXH Bên cạnh phát triển đối tượng tham gia, thực hiện tốt thu nộp, BHXH tỉnh Thanh hóa còn thực hiện có hiệu quả việc thu nợ tiền đóng BHXH. Trước năm 2003, ở Thanh Hóa thường xuyên có số nợ BHXH của các đơn vị sử dụng lao động bình quân 20 – 25 ngày lương. Điều đáng chú ý là không những các doanh nghiệp ngoài nhà nước mà kể cả doanh nghiệp nhà nước và đơn vị hành chính, sự nghiệp cũng nợ đọng BHXH. Từ năm 2003 trở đi, do áp dụng nhiều biện pháp từ vận động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục đến tổ chức kiểm tra, thanh tra liên nghành, kiến nghị xử lý..đặc biệt vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng chính quyền trong công tác BHXH được thể hiện rõ nét, nên nợ BHXH do chậm đóng từng bước được thu hẹp, nhưng nợ đọng vẫn cao năm 2003 là 6,5 ngày; năm 2004 là 8,6 ngày; năm 2005 là 11,5 ngày và đến năm 2008 là 13 ngày, tương đương với 27,3 tỷ đồng. Bảng 2.8 : Tình hình giải quyết nợ tồn đọng BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa (2003 – 2008) Các năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Số nợ (tỷ.đ) 6,1 9,0 16,0 17,0 23,5 27,3 T.hiện thu nợ (tỷ.đ) 1,4 2,7 4,9 5,3 8,6 10,8 Tỷ lệ thu nợ (%) 23,0 30,0 30,6 31,2 36,6 38,8 (Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tình hình nợ đọng) 3. Thực trạng chi trả các chế độ BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa 3.1 Quản lý chi trả các chế độ BHXH Từ 01/9/1995 đến nay, việc quản lý chi BHXH do một cơ quan thực hiện là BHXH tỉnh Thanh Hóa. Quản lý chi BHXH gồm có hai phần: quản lý chi chế độ BHXH ngắn hạn ( chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe ) và quản lý chi chế độ BHXH dài hạn ( chế độ hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ) Về quản lý chi BHXH ngắn hạn. Trước 31/12/2006 ( trước khi thực hiện Luật BHXH ), định kỳ hàng quý, cơ quan BHXH cấp ứng 2% quỹ lương trích nộp BHXH của đơn sử dụng lao động để họ trực tiếp chi trả cho các chế độ ngắn hạn ở đơn vị mình. Từ ngày 01/01/2007 ( từ khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành ), đơn vị sử dụng lao động được chủ động giữ lại 2% quỹ lương trích nộp BHXH để trực tiếp chi trả các chế độ ngắn hạn cho người lao động trong đơn vị, nếu thiếu sẽ được cơ quan BHXH, cấp bổ sung sau khi xét duyệt quyết toán. Trong cả hai phương thức trên, đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm tập hợp các chứng từ ( như giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra viện, giấy khai sinh..) để quyết toán với cơ quan BHXH sau khi đã chi trả chế độ BHXH cho người lao động. Thời gian đầu, việc quản lý chi các chế độ ngắn hạn gặp một số hạn chế do các đơn vị sử dụng lao động và người lao động chưa thích ứng với cơ chế mới là thực thanh, thực chi trên cơ sở có đóng, có hưởng. Các đơn vị sử dụng lao động chưa làm quen với việc quản lý ngày công ốm đau, thai sản và lập các hồ sơ thủ tục để được cơ quan quản lý BHXH giải quyết xét thưởng BHXH. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, những vướng mắc, hạn chế trong nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về cơ chế quản lý mới về quản lý BHXH đã được tháo gỡ. Đặc biệt từ những năm 2003 đến nay BHXH tỉnh Thanh Hóa đã được thực hiện nhiều biện pháp tích cực như tuyên truyền phổ biến chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện phân cấp chi chế độ BHXH ngắn hạn gắn với phân cấp quản lý thu BHXH. Hàng năm, đã có hàng ngàn người lao động được nhận trợ cấp ốm đau, thai sản, và nghỉ dưỡng sức với tổng số tiền bình quân 32,392 tỷ đồng. Chỉ tính riêng năm 2008 đã có 28. 567 lượt người ốm, với số ngày nghỉ 270.430 ngày, được nhận tổng số tiền 12,247 tỷ đồng, 6.245 người nghỉ hưởng thai sản, số ngày nghỉ 578.079 ngày được nhận số tiền 25,879 tỷ đồng, hàng ngàn lượt người được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe với số tiền là 4,314 tỷ đồng. Bảng 2.9 : Kết quả chi trả hai chế độ BHXH ngắn hạn ( ốm đau, thai sản ) từ (2003 – 2007) Đơn vị: Triệu đồng Đơn vị Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Cấp tỉnh 43.111 4.451 4.446 7.085 9.184 10.118 Cấp huyện 13.828 14.352 16.342 26.167 31.263 32.322 Tổng 17.939 18.803 20.788 33.252 40.077 42.440 Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ ( 2003 – 2008) Về quản lý chi các chế độ dài hạn. Từ 01/9/1995, việc quản lý chi các chế độ BHXH dài hạn do cơ quan BHXH thực hiện. Số đối tượng hưởng BHXH liên tục tăng qua các năm. Tại thời điểm tháng 9/1995 số đối tượng đang hưởng BHXH dài hạn do các ngành bàn giao là 117.694 người, đên quý I/2008 số đối tượng này đã là 130.718 người. Trong đó, hiện đang hưởng trợ cấp tại các huyện miền núi là 11,47% ở các huyện vùng biển 27,68% các huyện vùng trung du 16,14% các huyện đồng bằng 23,18% và tại thị xã, thành phố là 21,53%. Kinh phí chi trả cho các đối t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2519.doc
Tài liệu liên quan