Thực trạng FDI ra nước ngoài của Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Đầu tư ra nước ngoài là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là xu thế của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nhằm mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận gần khách hàng hơn, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép xuất khẩu trong nước và tận dụng được quota xuất khẩu của nước sở tại để mở rộng thị trường, đồng thời, tăng cường khoa học kỹ thuật, nâng cao năng lực quản lý và t

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1618 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng FDI ra nước ngoài của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rình độ tiếp thị với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào nhu cầu và điều kiện của mỗi nước mà đầu tư ra nước ngoài cân bằng và đồng hành với đầu tư nước ngoài. Đối với Việt Nam, song song với mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp trong nước đã mở hướng làm ăn ra bên ngoài lãnh thổ, với số lượng dự án cùng vốn đầu tư tăng dần từng năm. Xu hướng đầu tư ra nước ngoài đang trở nên khá sôi động, ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp Việt Nam có khả năng tài chính và quan tâm mở rộng địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa đầu tư ra nước ngoài đã và đang chuyển từ những dự án có quy mô nhỏ, đầu tư vào các ngành nghề đơn giản sang các dự án có quy mô lớn với các ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao hơn. Việc đầu tư ra nước ngoài đã trở thành một xu hướng phát triển mới của các doanh nghiệp Việt Nam, đã có những doanh nghiệp xem đây như một chiến lược phát triển trọng tâm của mình. Mặc dù những năm gần đây, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đã có những dấu hiệu khởi sắc, nhưng kết quả còn khá khiêm tốn. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2007, Việt Nam chỉ có 265 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư khoảng 2 tỷ USD. Nếu so với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam ( hơn 98 tỷ ) thì đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam còn rất nhỏ bé, chỉ bằng 2,04 % tổng vốn đăng ký của các dự án FDI vào Việt Nam. Vốn thực hiện của các dự án đầu tư ra nước ngoài đạt khoảng 65 triệu USD, quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 10,3 triệu USD/dự án. Điều này đòi hỏi cần có nhiều giải pháp nhằm thúc đầy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Xuất phát từ tình hình trên, em đã chọn đề tài: Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn ThS. Hoàng Thu Hà đã tận tình hướng dẫn để em hoàn thành đề tài này. Do giới hạn về kiến thức, tài liệu, đề tài không thể tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn. Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài I. Một số vấn đề lý luận chung về Đầu tư và đầu tư phát triển 1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển 1.1. Khái niệm về đầu tư Có nhiều khái niệm về đầu tư, ở mỗi góc độ, ta có một khái niệm, một cách hiểu về đầu tư. Cụ thể như sau: Trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời. Trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là sự hy sinh mức tiêu dùng ở hiện tại để thu về một mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Trên góc độ kinh tế: Đầu tư làm tăng vốn cố định tham gia vào hoạt động của các doanh nghiệp trong nhiều chu kỳ kinh doanh nối tiếp. Đó là quá trình làm tăng tài sản cố định cho sản xuất và kinh doanh. Quan điểm kinh tế xem xét đầu tư dưới dạng kết quả. Một cách tổng quát, đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. 1.2. Khái niệm về đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất ( nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ ( tri thức, kỹ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội. 2. Đặc điểm của đầu tư phát triển 2.1. Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn Đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn để đáp ứng các yêu cầu của quá trình tạo ra những điều kiện vật chất, kỹ thuật cho giai đoạn khai thác, sử dụng sau này: xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà xưởng, vật kiến trúc, mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị, tiến hành các công tác cơ bản… Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Qui mô vốn vật tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm. Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “ hậu dự án ” tạo ra như việc bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư… 2.2. Thời kỳ đầu tư kéo dài Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hang chục năm. Quá trình hoạt động đầu tư diễn ra càng dài, việc bỏ vốn đầu tư càng gặp nhiều khó khăn do không dự kiến được những yếu tố bất lợi tác động tới lợi ích của dự án. Hơn nữa, do vốn đầu tư lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. 2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng lâu dài do đó thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế…Do đó, ngoài việc thực hiện tốt quá trình chuẩn bị và thực hiện đầu tư, cũng cần quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình… 2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ngày tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Các công trình đã xây dựng xong, sẽ không thể dễ dàng di chuyển chúng từ nơi này sang nơi khác. Do đó, trong công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển: trước hết, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu tư cái gì công suất bao nhiêu là hợp lý…cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên những căn cứ khoa học. Ngoài ra, việc lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý cũng rất quan trọng. Để lựa chọn địa điểm thực hiện đầu tư đúng phải dựa trên những căn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hoá… Cần xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu tư cụ thể hợp lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. 2.5 Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao Qui mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài…nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu…có nguyên nhân khách quan như giá nguyên vật liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế…Do đó, để quản lý hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả, cần phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro: Nhận diện rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro và xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro. 3. Phân loại đầu tư phát triển theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư 3.1. Đầu tư gián tiếp: Người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành, quản lý quá trình thực hiện, vận hành các kết quả đầu tư. Người có vốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian để đầu tư phát triển. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như: cổ phiếu, trái phiếu… để hưởng lợi tức. Đầu tư gián tiếp là phương thức huy động vốn cho đầu tư phát triển. 3.2. Đầu tư trực tiếp: Người bỏ vốn trực tiếp tham gia điều hành, quản lý quá trình thực hiện, vận hành các kết quả đầu tư. Loại đầu tư này tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới cả về lượng và chất . II. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 1. Khái niệm 1.1. Đầu tư nước ngoài: là việc nhà đầu tư đưa vốn, tiền tệ, các hình thức giá trị khác vào sử dụng trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận hoặc đạt được các kết quả xã hội Đầu tư nước ngoài gồm: Đầu tư gián tiếp và Đầu tư trực tiếp 1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI-Foreign Direct Investment ) Theo quỹ tiền tệ Quốc tế đưa ra năm 1977: “FDI là vốn đầu tư được thực hiện nhằm thu về những lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó” Theo tổ chức thương mại thế giới: FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Theo nghị định số 78/2006/NĐ-CP của chính phủ: “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài.” Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước ( nước chủ đầu tư ) có được một tài sản ở một nước khác ( nước thu hút đầu tư ) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. 2. Các hình thức FDI 2.1. Phân theo bản chất đầu tư - Đầu tư phương tiện hoạt động Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào - Mua lại và sát nhập Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào. 2.2. Phân theo tỷ lệ sở hữu vốn - Vốn hỗn hợp ( vốn trong nước và nước ngoài ) * Hợp đồng hợp tác kinh doanh Theo Điều 9- Nghị định 108/2006/ NĐ-CP của chính phủ: Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng do một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài ký kết với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước để tiến hành đầu tư, kinh doanh; trong đó có quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh mà không thành lập pháp nhân. Như vậy có thể hiểu đây là hình thức đầu tư mà các bên tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia các kết quả kinh doanh cho các bên tham gia. Khi hết thời gian hiệu lực thì các bên không còn rang buộc về mặt pháp lý. Hình thức này thường không đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hợp đồng thường ngắn, cũng chính vì vậy mà ít thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng. * Doanh nghiệp liên doanh ( hay công ty liên doanh ) Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại nước nhận đầu tư ( nước chủ nhà ) giữa các bên nước ngoài và nước chủ nhà. Trong đó, các bên cùng đóng góp vốn, cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền lợi, nghĩa vụ theo tỷ lệ góp vốn. Với hình thức này, các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. * Doanh nghiệp cổ phần FDI ( hay công ty cổ phần ) Doanh nghiệp cổ phần FDI là doanh nghiệp có các cổ đông nước ngoài và trong nước ( cổ đông có thể là cá nhân hoặc tổ chức ) nhưng cổ đông nắm quyền chi phối có quốc tịch nước ngoài, đây là hình thức doanh nghiệp hiện đại. - DN 100% vốn FDI Đây là loại hình doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà và họ tự quản lý, chịu trách nhiệm hoàn toàn về các kết quả sản xuất kinh doanh. 2.3. Phân theo tính chất dòng vốn - Vốn chứng khoán Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công ty. - Vốn tái đầu tư Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dung lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. - Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. 2.4. Phân theo động cơ của nhà đầu tư - Vốn tìm kiếm tài nguyên Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và rồi rào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh. - Vốn tìm kiếm hiệu quả Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v... - Vốn tìm kiếm thị trường: nhằm mở rộng thi trường hoặc giữ thị trường khỏi các đối thủ cạnh tranh Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu. 3. Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư - Dựa trên lý thuyết xuất khẩu tư bản của lenin, thì đầu tư ra nước ngoài là yếu tố sống còn của Chủ nghĩa tư bản, do đó mục đích tiến hành đầu tư ra nước ngoài nhằm: + Mục đích kinh tế là tìm kiếm lợi nhuận: Bằng cách thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để sử dụng nguồn lao động rẻ. Mặt khác đối với những công nghệ đã cũ, khi trong nước không còn điều kiện để phát triển thì họ có thể mang đi đầu tư ở những nước có trình độ công nghệ thấp hơn để kéo dài chu kỳ sống cho sản phẩm và công nghệ, nhờ vậy mà tạo thêm được lợi nhuận. + Tạo ra nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới: Thông thường, những nước có trình độ công nghệ thấp chưa khai thác được hết những nguồn nguyên vật liệu, tài nguyên phong phú của mình. Do đó, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài một phần cũng là để khai thác tài nguyên nước ngoài, bảo vệ tài nguyên nước mình. + Trong trường hợp các nước phát triển đầu tư sang nhau thì một mục đích rất rõ rệt là hợp tác và liên kết cùng với nhau để cùng phát triển, hạn chế bớt sự cạnh tranh không cần thiết. - Đối với các nước đang phát triển, lợi ích của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài: + Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp cho nước đầu tư sử dụng có hiệu quả nguồn lực “dư thừa” trong nước, nâng cao tỷ suất lợi nhuận đầu tư; đồng thời khai thác có hiệu quả lợi thế quốc gia trên trường quốc tế. Các quốc gia đều phát triển nền kinh tế với những lợi thế riêng có của mình, nếu biết khai thác những lợi thế đó một cách hợp lý thì sẽ tạo ra những bước nhảy vọt cho nền kinh tế khi nền kinh tế thế giới ngày càng tiến sâu vào quá trình toàn cầu hoá. Với các nước có nền kinh tế đang phát triển, việc sử dụng các nguồn lực trong nước vẫn còn nhiều bất cập, chưa tiết kiệm và chưa có hiệu quả. Do vậy khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài, chủ đầu tư sẽ đem theo những yếu tố sản xuất được bắt nguồn từ những nguồn lực trong nước, thậm chí có cả những nguồn lực “dư thừa” so với nhu cầu đầu tư trong nước ở những lĩnh vực mang tính truyền thống, lĩnh vực có thế mạnh của quốc gia đó. Với môi trường kinh doanh lành mạnh ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, trình độ quản lý doanh nghiệp, quản lý quá trình đầu tư ngày càng hiện đại nên những nguồn lực “dư thừa” đó sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. + Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cho nước đầu tư tìm kiếm và tận dụng được các nguồn lực ở nước ngoài một cách có hiệu quả, xây dựng thị trường cung cấp đầu vào ổn định, giá phải chăng. Hiệu quả sử dụng nguồn lực là vấn đề đóng vai trò quan trọng để giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, góp phần đắc lực cho doanh nghiệp nâng cao được sức cạnh tranh và tăng lợi nhuận. Chính vì những đóng góp to lớn đó mà doanh nghiệp luôn phải đi tìm lời giải bài toán sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một giải pháp tốt cho bài toán này. Do lực lượng sản xuất phát triển không đều giữa các quốc gia và sự phân bố nguồn lực không đều trên thế giới đã tạo ra lợi thế và sự khác nhau giữa nhu cầu, khả năng khai thác và hiệu quả khai thác nguồn lực khác nhau ở mỗi nước. Có hiện tượng “thừa” nguồn lực tương đối ở một số nước và “thiếu” nguồn lực tương đối ở một số nước khác, dẫn đến hiện tượng tìm kiếm và khai thác các nguồn lực lẫn nhau giữa các nước nhằm tối ưu hoá hiệu quả sử dụng chúng phục vụ cho mục đích tăng lợi nhuận của các chủ thế kinh doanh, từ đó cũng thúc đầy nền kinh tế nước đầu tư phát triển nhanh chóng. + Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp cho các nhà đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việc mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm ở trong nước là một việc làm thường xuyên và rất quan trọng với doanh nghiệp. Nhưng việc thâm nhập thị trường nước ngoài cũng có ý nghĩa cực kỳ to lớn, đặc biệt trong xu thế chung, các quốc gia trên thế giới đều muốn lấy xuất khẩu hàng hoá làm động lực phát triển nền kinh tế trong nước. Thâm nhập thị trường nước ngoài cũng có nghĩa là thị trường tiêu thụ sản phẩm của quốc gia được mở rộng, doanh thu của các doanh nghiệp tăng lên, sản phẩm của các doanh nghiệp của quốc gia đó sẽ được nhiều người sử dụng hơn, từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đồng thời uy tín của các doanh nghiệp của quốc gia đó sẽ được nâng cao và được nhiều người biết đến, khả năng phát triển của các doanh nghiệp ngày càng cao. Đặc biệt vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế nói chung và trong thương mại quốc tế nói riêng sẽ được nâng cao. + Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cho các nước đầu tư tránh được hàng rào thuế quan và hàng rào bảo hộ phi thuế quan của nước nhận đầu tư. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đặt ra các hàng rào bảo hộ khác nhau nhằm bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Các hàng rào đó có thể là thuế quan, giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu… Ngày nay, do xu thế chung của các quốc gia, đặc biệt của các nước thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, các hàng rào bảo hộ phi thuế quan như giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu… được nhiều nước bãi bỏ cùng với việc hạ thấp dần hàng rào thuế quan. Tuy nhiên, ở một số quốc gia, kể cả các nước phát triển và các nước đang phát triển, chủ nghĩa bảo hộ vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức: các yêu cầu về vệ sinh môi trường, vệ sinh sản xuất, về điều kiện làm việc của người sản xuất hàng hoá, về tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật của hàng hoá… Đầu tư quốc tế là biện pháp hữu hiệu để các doanh nghiệp tránh hàng rào bảo hộ thương mại và dễ dàng hơn trong việc đưa hàng hoá thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giúp cho các nước bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp, chủ thể đầu tư khẳng định được khả năng, bản lĩnh và trình độ của mình nói riêng và của cả nước nói chung đối với nước nhận đầu tư và đối với thế giới. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn giúp nước đầu tư kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, khắc phục tình trạng lão hoá sản phẩm, tạo điều kiện để đổi mới công nghệ trong nước, đổi mới cơ cấu sản xuất thông qua việc di chuyển các công nghệ cũ sang các nước nhận đầu tư… Chu kỳ sống của bất kỳ sản phẩm nào cũng trải qua các giai đoạn: ra đời, phát triển, bão hoà, suy giảm và tiêu vong. Thực tế, có những sản phẩm đã bão hoà trên một thị trường nào đó, đòi hỏi phải chấm dứt chu kỳ sản xuất và kinh doanh sản phẩm đó trên thị trường nước này. Khi sản phẩm đang ở giai đoạn bão hoà, nhà sản xuất có thể di chuyển máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất sang các nước khác để sản xuất để kéo dài “tuổi thọ” của sản phẩm. Hơn nữa, với tiến bộ như vũ bão của Cách mạng khoa học công nghệ Thế Giới hiện nay, nhiều máy móc thiết bị đã nhanh chóng bị hao mòn vô hình. Để có thể áp dụng các tiến bộ mới về Khoa học công nghệ vào doanh nghiệp và tận dụng các máy móc, thiết bị này các doanh nghiệp có thể tìm những quốc gia thích hợp để chuyển các máy móc đó tới để đầu tư. Điều này mang lại lợi nhuận kép cho các nhà đầu tư nước ngoài. + Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước thực hiện đầu tư có thể tạo ra nhu cầu mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý. + Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước thực hiện đầu tư có điều kiện học hỏi kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoạch định chính sách quản lý kinh tế, trong việc tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng với các thành phần kinh tế, các chủ thể khác nhau trên thị trường trong nước. 4. Nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 4.1. Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cân biên của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hoá lợi nhuận. 4.2. Chu kỳ sản phẩm Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường nội địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khấu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật của nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hoà, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện. Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI. Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hoá trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyên sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn. 4.3. Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman A.A (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù ( chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sang đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện ( lao động, đất đai, chính trị ) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên. 4.4. Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và Châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu. 4.5. Khai thác chuyên gia và công nghệ Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn nhằm mục đích khai thác chuyên gia và công nghệ ở nước nhận đầu tư. 4.6. Tiếp cận nguồn tài nguyên Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp tiếp cận với nguồn tài nguyên đặc biệt là các nguồn tài nguyên ít có ở các nước đi đầu tư. Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam I. Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam Việt Nam đã và đang thành công trong thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1987 đến nay và có thể nhận thấy xu hướng mới đang trỗi dậy trong vài năm trở lại đây, đó là sự gia tăng dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. 1. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của VN giai đoạn 1989-2007 Bảng 1: Đầu tư ra nước ngoài phân theo năm ( Tính tới ngày 31/12/2007- chỉ tính các dự án còn hiệu lực ) ( đơn vị: USD ) STT Năm Số dự án TVĐT Đầu tư thực hiện 1 1989 1 563,380 - 2 1990 1 - - 3 1991 3 4,000,000 2,000,000 4 1992 3 5,282,051 1,300,000 5 1993 5 690,831 - 6 1994 3 1,306,811 - 7 1998 2 1,850,000 1,500,000 8 1999 10 12,337,793 138,752 9 2000 15 7,165,370 1,231,142 10 2001 13 7,696,452 2,622,000 11 2002 15 191,459,576 37,618,572 12 2003 24 62,390,970 8,743,252 13 2004 17 12,463,114 4,761,752 14 2005 37 437,905,179 4,853,946 15 2006 36 349,106,156 - 16 2007 80 911,819,885 110,000 Tổng số 265 2,006,037,568 64,879,416 ( Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư ) Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết năm 2007, qua 16 năm thực hiện đầu tư ra nước ngoài, Việt Nam có 265 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 2,006 triệu USD, vốn thực hiện đạt khoảng 800 triệu USD, chiếm 40% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài. Quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án. Qua từng giai đoạn, quy mô vốn đầu tư đã tăng dần, điều này cho thấy tác động tích cực của khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, cũng như sự tích cực tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, trong đó phải nói tới Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Trong giai đoạn 1989-1998, trước khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP, có 18 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký trên 13,6 triệu USD; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 0,76 triệu USD/dự án. Trong thời kỳ 1999-2005 sau khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP, có 131 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký đạt 731,4 triệu USD, gấp 7 lần về số dự án và gấp 53 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký so với thời kỳ 1989-1998; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 5,58 triệu USD/dự án, cao hơn giai đoạn 1989-1998. Từ năm 2006 tới hết năm 2007 (thi hành Nghị định số 78/2006/NĐ-CP) có 116 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký đạt trên 1,26 tỷ USD; tuy chỉ bằng 88% về số dự án, nhưng tăng 72,4% về tổng vốn đầu tư đăng ký so với giai đoạn 1999-2005; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 10,8 triệu USD/dự án, cao hơn thời kỳ 1999-2005. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến giữa năm 2008, Việt Nam đã có 317 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 2,5 tỷ USD. 2. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của VN phân theo ngành Bảng 2: Đầu tư ra nước ngoài phân theo ngành (Tính tới ngày 31/12/2007-chỉ tính các dự án còn hiệu lực) (Đơn vị: USD ) STT Chuyên ngành Số dự án TVĐT ĐT thực hiện I Công nghiệp 113 1,504,514,883 54,847,053 CN dầu khí 9 643,940,000 43,866,840 CN nặng 51 767,176,267 1,041,061 CN nhẹ 17 14,838,810 5,338,840 CN thực phẩm 16 26,491,080 500,000 Xây dựng 20 52,068,726 4,100,312 II Nông nghiệp 53 285,989,569 4,302,626 Nông-Lâm nghiệp 46 274,639,569 2,302,626 Thuỷ sản 7 11,350,000 2,000,000 III Dịch vụ 99 215,533,116 5,729,737 Dịch vụ 58 92,470,818 990,985 GTVT- Bưu điện 22 51,407,266 3,400,000 Khách sạn- Du lịch 6 13,227,793 420,000 Văn hóa- Ytế- Giáo dục 6 13,037,239 918,752 Văn phòng- Căn hộ 1 30,000,000 - XD văn phòng- Căn hộ 6 15,390,000 - Tổng số 265 2,006,037,568 64,879,416 ( Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư ) Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp (113 dự án, với tổng vốn đầu tư là 1,5 tỷ USD) chiếm 42,6% về số dự án và 75% tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Trong đó, có một số dự án quy mô vốn đầu tư trên 100 triệu USD, như: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển điện Việt-Lào đầu tư 2 dự án: Thủy điện Xekaman 1, tổng vốn đầu tư 441,6 triệu USD và) Thủy điện Xekaman 3, tổng vốn đầu tư 273 triệu USD. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đầu tư 243 triệu USD thăm dò khai thác dầu khí tại Angiêri . Công ty Đầu tư phát triển dầu khí đầu tư 2 dự án thăm dò khai thác dầu khí tại Madagascar (vốn 117,36 triệu USD) và tại I Rắc (vốn 100 triệu USD). Tiếp theo là lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp (53 dự án, tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài là 286 triệu USD) chiếm 20% về số dự án và 14,26% tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Trong đó, đa số là dự án đầu tư trồng cao su, cây công nghiệp tại Lào với một số dự án quy mô lớn như: Công ty cổ phần cao su Dầu Tiếng Việt -Lào, vốn đầu tư 81,9 triệu USD; Công ty cao su Đắc Lắc, vốn đầu tư 3._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24941.doc
Tài liệu liên quan