Lời nói đầu
Trong giai đoạn hiện nay quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta gặp không ít khó khăn do xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá. Hội nhập để sao cho không hoà nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chúng ta mở rộng cánh cửa kinh tế, đẩy mạnh trao đổi hợp tác trên nhiều lĩnh vực kinh tế với các quốc gia trên toàn thế giới. Kèm theo quá trình hội nhập là quá trình quốc tế hoá và toàn cầu hoá.
Đất nước ta đang trên đà phát triển kinh tế hướng tới trở thành một nước công ngh
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng - Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp vào năm 2020; xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu. Hội nhập không hoà nhập đó là yêu cầu đặt ra. Để có thể mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại tốt chúng ta cần phải có chính sách phù hợp để không phải là người yếu thế trên trường quốc tế. Muốn vậy trước hết phải xem xét lại một số vấn đề về mặt lý luận, phương pháp luận, thẳng thắn nhìn vào thực trạng của kinh tế đối ngoại nước ta từ đó tìm ra những giải pháp cho vấn đề này.
Trong giới hạn của môn học và hạn chế về trình độ, em chỉ trình bày những khái niệm cơ bản nhất của kinh tế đối ngoại, những giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại, những khái niệm liên quan chưa được đề cập tới.
Với cách tiếp cận vấn đề dựa trên cơ sở phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin mà điển hình là phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra một số phương pháp khác như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp lôgic với lịch sử cũng được sử dụng.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Văn Ký Giảng viên môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin đã giúp em hoàn thành đề án này.
Chương I
Những vấn đề lí luận cơ bản về kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay
I. Một số vấn đề về lý luận.
1. Một số khái niệm:
Kinh tế đối ngoại: của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
Kinh tế đối ngoại được hình thành và phát triển dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Lực lượng sản xuất phát triển trên hầu hết các quốc gia kéo theo đó là sự tăng trưởng của nền kinh tế, sự tiến bộ của các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ, đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường trao đổi, hợp tác từ đó thúc đẩy mối quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, bao hàm phát triển kinh tế đối ngoại.
2. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại. Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, phân công lao động quốc tế diễn ra, lợi thế so sánh giữa các quốc gia và xu hướng phát triển thị trường thế giới đòi hỏi chúng ta phải mở rộng và nâng cao hiệu quả hơn nữa kinh tế đối ngoại.
a. Phân công lao động quốc tế.
Như đã trình bày, phân công lao động quốc tế là một tất yếu của sự phát triển của kinh tế thế giới nhằm đẩy mạnh hiệu qủa của khai thác tài nguyên, tận dụng công nghệ khoa học kỹ thuật, chuyên môn hoá sản xuất. Một số xu thế mới của phân công lao động quốc tế trong vài thập niên gần đây là:
- Phân công lao động quốc tế diễn ra trên phạm vi ngày càng mở rộng lớn bao quát nhiều lĩnh vực và với tốc độ nhanh.
- Dưới tác động như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu . Bởi vậy, trong sản xuất kinh doanh các quốc gia thường chú ý phát triển loại sản phẩm "vô hình" các sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao so với loại sản phẩm có hàm lượng nguyên liệu và lao động giản đơn nhiều như trước đây.
- Sự phát triển cao của phân công lao động quốc tế làm xuất hiện ngày càng nhiều và nhanh các hình thức hợp tác mới về kinh tế , khoa học - công nghệ , chứ không đơn thuần chỉ có hình thức ngoại thương như các thế kỷ trước.
- Phân công lao động quốc tế làm biến đổi nhanh chóng cơ cấu ngành và cơ cấu lao động trong từng nước và trên phạm vi quôc tế. Ngày nay trong cơ cấu ngành đã xuất hiện các ngành mới (ngành công nghệ cao , ngành dịch vụ... những ngành có nhiều tiềm năng, đầy triển vọng và có hiệu quả cao trong tương lai
b.Lý thuyết về lợi thế - cơ sở lựa chọn của thương mại quốc tế.
A.S.Mith, người đã đưa ra lý thuyết lợi thế tuyệt đối, chỉ mới giải thích được một phần nhỏ sự phân công lao động và thương mại quốc tế. Ricardo đưa ra lý thuyết lợi thế tương đối.
Theo lý thuyết này, một dân tộc có hiệu quả thấp hơn so với các dân tộc khác tỏng việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, vẫn có cơ sở cho phe9ps tham gia voà sự phân công lao động và thương mại quốc tế, tạo lợi ích cho dân tộc mình. Theo ông, một hàng hoá hoặc dịch vụ có lợi thế tương đối là những hàng hoá, dịch vụ mà việc sản xuất ra nó có nhiều bất lợi nhất. Và cũng theo lý thuyết này, một quốc gia cho dù bất lợi trong sản xuất các loại hàng hoá, dịch vụ, so với quốc gia khác, vẫn có thể tham gia thương mại quốc tế nếu biết lợi dụng sự chênh lệch về tiền lương và theo đó là tỷ giá giưã hai đồng tiền nội tệ và ngoại tệ khi thực hiện trao đổi quốc tế.
- G.Haberler lý thuyết về chi phí cơ hội: Theo lý này thì chi phí cơ hội của một hàng hoá là số lượng các hàng hoá phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn lực cho việc sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá thứ nhất. Như vậy, quốc gia nào có chi phí cơ hội của một loại hàng hoá nào đó thấp thì quốc gia đó có lợi thế tương đối trong việc sản xuất mặt hàng này.
c. Xu thế thị trường thế giới.
Xu thế phát triển của thị trường thế giới. Xu thế này có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau.
Dưới đây là những biểu hiện của xu thế phát triển thị trường thế giới.
Thương mại trong các ngành tăng lên rõ rệt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với khoa học và công nghệ phát triển, sự phân công quốc tế đã có thay đổi rất lớn về hình thức, chủ yếu thể hiện ở sự phân công giữa các ngành, do đó thương mại trong các ngành phát triển rất mạnh. Đặc biệt các công ty xuyên quốc gia (giữa công ty mẹ của công ty xuyên quốc gia với cong ty ở nước ngoài và công ty con ở nước ngoài giao dịch với nhau) chiếm 40%. Theo dự báo, cùng với cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt và cùng với tiến bộ khao học và công nghệ, thương mại trong nội bộ ngành sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong thương mại thế giới.
Khối lượng thương mại trong nội các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng.
Tổng kim ngạch thương mại trong các tập đoàn kinh tế khu vực (như cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC), trong Hiệp định sản phẩm xã hội Mỹ - Canada không ngừng tăng lên và chiếm tỷ trọng ngày càng lướn trong tổng kim ngạch quốc tế. Hình thành thị trường thế giới trong từng khu vực, lấy Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản làm trung tâm. Khu thương mại tự do Mỹ - Canada - Mêhicô bắt đầu hoạt động từ năm 1994, đến bây giờ kim ngạch xuất khẩu hàng năm của thị trường khu vực này đạt 1.200 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới. Khu vực châu á - Thái Bình Dương tuy chưa hình thành thị trường thống nhất hoặc khu thương mại tự do, nhưng thương mại trong khu vực này cũng phát triển nhanh.
Thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ cạnh tranh quốc tế ngày càng ngay gắt, hàng hoá của một nước có thể chen chân vào thị trường quốc tế được hay không, trong một chừng mực nhất định còn tuỳ thuộc vào nước đó áp dụng công nghệ tiến bộ như thế nào vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nâng cấp và thay đổi thế hệ hàng hoá. Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, trên thị trường thế giới thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng, cứ 10 năm lại tăng lên gấp 4 lần, vượt xa tốc độ tăng trưởng của thương mại hàng hoá.
Xu thế tập đoàn hoá kinh tế khu vực ngày càng có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh tế thương mại thế giới, làm cho hướng chuyển dịch tiền vốn và kỹ thuật trên phạm vi thế giới có thay đổi lớn. Điều ngày vừa đem lại cơ hội cho sự phát triển thương mại và kinh tế thế giới, vừa có ảnh hưởng bất lợi đối với nhiều nước, nhất là các nước nằm ngoài khu vực và các nước đang phát triển.
II Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Để mở rộng kinh tế đối ngoại có hiệu quả cần quán triệt những nguyên tắc phản ánh những thông lệ quốc tế, đồng thời đảm bảo lợi ích chính đáng về kinh tế, chính trị của đất nước. Những nguyên tắc đó là:
1. Bình đẳng
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Với tư cách là thành viên, mỗi quốc gia phải được phải được đảm bảo có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ như mọi quốc gia khác. Nói cách khác, đảm bảo tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia trước luật pháp quốc tế và cộng đồng quốc tế.
2. Cùng có lợi
Nguyên tắc này giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc cùng có lợi bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có lợi ích kinh tế dân tộc khác nhau.
Nguyên tắc cùng có lợi còn là động lực kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
Cùng có lợi ích kinh tế là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối ngoại và luật đầu tư nước ngoài, nguyên tắc này được cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để ký kết trong các nghị định thư giữa các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các tổ chức kinh tế các nước với nhau.
3. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.
Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập có chủ quyền về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc bình đẳng, trong quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Nó cũng bắt nguồn từ nguyên tắc cùng có lợi, mà xét cho đến cùng có các lợi ích khác nhau về chính trị, quân sự và xã hội.
4. Giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không đơn thuần phải xử lý tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế, mà còn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế chính trị. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện từng bước những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Do vậy, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác được nhiều nguồn lực bên ngoài vừa phát huy được nguồn lực bên trong, bảo đảm phát triển kinh tế, trả nợ, phụ thuộc nhưng không lệ thuộc nước ngoài và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
III.Các hình thức của kinh tế đối ngoại
1. Ngoại thương
Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu, trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại ở các nước nói chung và ở các ta nói riêng.
Mấy thập kỷ gần đây, dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, thương mại quốc tế có những đặc điểm mới.
- Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương quốc tế tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân.
- Tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá "vô hình" có xu hướng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá "hữu hình". Điều đó bắt nguồn từ sự thay đổi cơ cấu kinh tế giữa ngành sản xuất vật chất và ngành dịch vụ trong mỗi quốc gia và quốc tế.
- Cơ cấu mặt hàng có sự biến đổi sâu sắc thưo hướng: hàng hoá nhu cầu tầng 1 (nhu cầu về đời sống vật chất) giảm xuống và hàng hoá nhu cầu tầng 2 (nhu cầu về đời sống văn hoá tinh thần) tăng nhanh; tỷ trọng xuất khẩu hàng thô, nguyên liệu giảm xuống còn hàng dầu mỏ khí đốt, sản phẩm công nghệ chế biến nhất là máy móc thiết bị lại tăng nhanh.
- Phạm vi, phương thức và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc tế diễn ra rất phong phú và đa dạng không chỉ về mặt chất lượng, giá cả, mà còn về điều kiện giao hàng, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng. Phạm vi thị trường ngày một mở rộng không chỉ hàng hoá, dịch vụ thông thường mà còn mở rộng sang lĩnh vực tài chính, tiền tệ - lĩnh vực này càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
- Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày càng rút ngắn lại. Các hàng hoá có hàm lượng khoa học - công nghệ cao có sức mạnh cạnh tranh hơn so với các hàng hoá truyền thống.
- Quá trình phát triển thương mại quốc tế đòi hỏi, một mặt phải tự do hoá thương mại, mặt khác phải thực hiện bảo hộ mậu dịch một cách hợp lý.
2. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất
Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế ...
Nhận gia công
Nhận gia công cho nước ngoài là một hình thức rất tốt, giúp tận dụng nguồn dự trữ lao động tạo nhiều việc làm và tận dụng công suất máy móc hiện có. Rất nhiều nước trên thế giới chăm lo vào hình thức này, kể cả những nước và lãnh thổ "công nghiệp mới" (NICs) như Hàn Quốc, Đài Loan... Đối với nước ta, trong những năm trước mắt, tăng cường việc nhận gia công là một phương hướng đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược để mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, ổn định tình hình kinh tế - xã hội trong nước.
Do tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, các nước công nghiệp phát triển đã tiến hành cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tập trung ưu tiên những ngành có hàm lượng khoa học cao, chuyển những ngành có hàm lượng lao động và nguyên vật liệu cao sang các nước đang phát triển.
Một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài.
Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức xí nghiệp thương nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính - tín dụng...
Về mặt pháp lý, xí nghiệp chung trách nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn đóng góp của các thành viên. Các xí nghiệp này thường sản xuất ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho Nhà nước tiết kiệm ngoại tệ.
Hợp tác quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá.
Hợp tác sản xuất quốc tế có thể diễn ra một cách tự giác theo những hiệp định hay hợp đồng giữa các bên tham gia, cũng có thể hình thành một cách tự phát do kết quả cạnh tranh, do đầu tư và lập các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia tại các nước.
Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành (chuyên môn hoá theo sản phẩm theo bộ phận sản phẩm hay chi tiết và theo công nghệ). Hình thức hợp tác này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
3. Hợp tác khoa học - kỹ thuật.
Hợp tác khoa học kỹ thuật được nhiều hình thức, như trao đổi những tài liệu - kỹ thuật và thiế kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân ...
Đối với những nước lạc hậu về kỹ thuật, vốn chi cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật còn ít, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chưa nhiều, phương tiện vật chất còn thiếu thốn như nước ta thì việc tham gia hợp tác khoa học kỹ thuật với nước ngoài là vô cùng quan trọng. Đó là một điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
Việc đưa lao động và chuyên gia đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài cũng là một hình thức hợp tác đào tạo cán bộ và công nhân. Vì vậy, cùng với việc nhận gia công từ nước ngoài, cần tổ chức tốt việc đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp. Để hoạt động này đạt hiệu quả không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội, cần cải tổ căn bản các hoạt động hiện hành. Từ việc tuyển chọn, tổ chức quản lý người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đến việc sử dụng số người này sau khi họ trở về nước.
4. Đầu tư quốc tế.
Có hai loại hình đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
- Đầu tư trực tiếp (trước đây Lênin gọi là xuất khẩu tư bản hoạt động) là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận.
Đầu tư quốc tế trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. Hình thức này không cần thành lập một pháp nhân mới.
- Xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cùng theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban hành điều hành chung.
- Xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cùng góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban hành điều hành chung.
- Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT). Hình thức này đòi hỏi cần có nguồn vốn của bên ngoài và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng.
Thông qua các hình thức trên mạ các khu chế xuất, khu công nghiệp mới, khu công nghệ cao... được hình thành và phát triển.
Đầu tư gián tiếp (Lênin gọi là xuất khẩu tư bản cho vay) là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tác rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức cổ phần (nếu cho vay ưu đãi). Sự khác nhau rõ nhất giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp là người đầu tư trực tiếp có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư, còn người đầu tư gián tiếp không có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư mà chỉ có thể thu lợi tức trái phiếu, cổ phiếu, và tiễn lãi.
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng về chủ thể và hình thức. theo mức quy định của từng nước. So với nguồn vốn đầu tư trực tiếp thì nguồn vốn đầu tư gián tiếp không lớn. Tất nhiên, loại vốn này cũng có mặt trái của nó, vì vậy cần phải đề phòng trong việc ký kết, triển khai, giảm ngân, sử dụng và trả nợ các dự án vay.
5.Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế.
Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt động dịch vụ tăng lên so với hàng hoá khác trên thị trường thế giới.
Sau đây là các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ chủ yếu:
a. Du lịch quốc tế.
Du lịch là nhu cầu khách quan, vốn có của con người. Kinh tế càng phát triển, năng suất lao động càng cao thì nhu cầu du lịch - nhất là du lịch quốc tế càng tăng vì thu nhập của con người tăng lên, thời gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi cũng nhiều hơn.
Ngành kinh tế du lịch nẩy sinh trên cơ sở nhu cầu khách quan đó là sản phẩm và là một bộ phận trong hệ thống phân công lao động xã hội. Đây là một ngành kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi, lưu trú, tham quan, giải trí, tìm hiểu, lưu niệm... của du khách.
b. Vận tải quốc tế.
Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá và hành khách giữa hai nước hoặc nhiều nước.
Sự ra đời và phát triển của vận tải quốc tế gắn liền với sự phân công lao động xã hội và quan hệ buôn bán giữa các nước với nhau.
Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng tăng nguồn thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá.
Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như: đường biển, đường sắt, đường bộ (ôtô), đường hàng không... trong các phương thức đó, vận tải đường biển có vai trò quan trọng nhất.
c. Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ.
Hiện nay nhu cầu lao động ở các nước phát triển vẫn còn lớn do kinh tế phát triển, tỷ lệ tăn dân số ở các nước này có xu hướng giảm và nhất là do chuyển dịch cơ cấu kinh tế bởi cách mạng khoa học - công nghệ. Những ngành có cơ giới hoá và tự động hoá, độc hại, nguy hiểm hoặc cần nhiều lao động không lành nghề như xây dựng, khai mỏ, dịch vụ công nghiệp nhẹ, công nghiệp lắp ráp ô tô, điện tử vẫn cần lao động.
d. Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác.
Ngoài những hoạt động nêu trên, lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn có nhiều hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn...
5. Vai trò và tác dụng của kinh tế đối ngoại.
- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực.
- Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA); thu hút khoa học, kỹ thuật, công nghệ; khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
- Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiện đại.
chươngII
Thực trạng của kinh tế đối ngoại việt nam
I. thành tựu của kinh tế đối ngoại của nước ta
1. Ngoại thương
Thực tế Việt Nam đã bắt đầu quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, tăng cường phát triển kinh tế đối ngoại từ một thập kỷ trước dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XVII. Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn để thúc đẩy quan hệ thương mại và hợp tác với tất cả các nước có trình độ phát triển và thể chế chính trị khác nhau nhờ đó chúng ta đã phá được thế bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị phát triển quan hệ ngoại thương với hơn 105 nước trên thế giới, trong đó đã kí hiệp định thương mại với hơn 60 nước và đã thoả thuận quy chế tối huệ quốc với 68 nước và vùng lãnh thổ.
Việt nam tiếp tục đẩy nhanh tiến trình hội nhập, nâng tiến trình này lên một tầm cao mới như việc xúc tiến tham gia các tổ chức hợp tác kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực như khu vực tự do thương mại ASEAN (APTA), diễn đàn kinh tế khu vực châu á - Thái Bình Dương (APEC), cơ chế hợp tác kinh tế - thương mại liên châu lục á- ÂU (ASEN) và tích cực tiến tới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, đây là một bước phát triển nhất quán và lôgíc. Trên thực tế cho đến nay, APEC chiếm 80% kim ngạch buôn bán, gần 2/3 vốn đầu tư và hơn 50% viện trợ phát triển chính thức ODA cho Việt nam. Đối với các nước đang phát triển có thu nhập thấp như Việt nam, WTO đã dành một số ưu đãi về mức độ cam kết và thực hiện cam kết. Năm 2000, Việt Nam đã hoàn tất việc minh bạch hoá chính sách thương mại và tài chính theo yêu cầu của các thành viên WTO, một bước tiến rất quan trọng để có thể được kết nạp vào tổ chức thương mại thế giới này.
Năm 2000 Việt nam và Mỹ đã kí hiệp định thương mại Việt -Mỹ vào chung tuần tháng 7. sự kiện này đã đánh dấu một bước tiến mới trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt nam cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
a. Về xuất khẩu.
Tại hội nghị triển khai công tác xuất khẩu 2001- 2005 theo báo cáo của Bộ Thương mại Việt nam, với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đạt 16,5 tỷ USD năm 2000, hoạt động xuất khẩu được coi là một trong những động lực chính thúc đẩy sản xuất và kinh doanh phát triển.
Đặc biệt từ khi kí hiệp dịnh thương mại Viêt-Mỹ vào năm 2000 thì tốc độ xuất khẩu của Việt nam vào thị trường Mỹ là khá cao trong. Hàng hoá xuầt khẩu chủ yếu sang Mỹ là hàng giầy da, may mặc.
b. Về nhập khẩu:
Hàng nhập khẩu của Việt nam từ trớc đén nay chủ yếu là máy móc kĩ thuật. cônnghệ. Tổng kim ngạch nhập khẩu của ta tăng hàng năm. Đáng chú ý là tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dúng đã giảm khá nhiều so với những năm trước kia
và cá
2. Về đầu tư nước ngoài:
a. Vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam.
Yêu cầu khách quan đối với nước ta về nguồn vốn đầu tư:
Yêu cầu phát triển nội tại và thực tiễn khách quan trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đã và đang đòi hỏi Việt nam cần tới một nguồn vốn đầu tư to lớn để hội nhập cùng dòng chảy kinh tế - xã hội thế giới.
Hợp tác quốc tế là một xu thế tất yếu, là con đờng hiệu quả nhất mà bất kỳ quốc gia nào cũng phải làm khi có đủ điều kiện, và buộc phải thực hiện bởi các sức ép bên trong, bên ngoài nước và nước ta cũng không phải là ngoại lệ.
Con đường chủ yếu để các nguồn tư bản nước ngoài chảy vào Việt nam là nhập khẩu vốn thông qua phương thức thu hút và nhận đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam trong thời gian qua:
Việt nam bắt đầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chậm hơn so với nhiều nước trong khu vực từ một đến hai thập kỉ. Sau khi đờng lối “đổi mới” được Đại hội Đảng lần thứ VI thông qua, và nhất là sau khi Việt nam công bố Luật đầu tư nứoc ngoài ở Việt nam (1987) hoạt động đầu tư nước ngoài bước đầu đã thu được nhiều thành tựu. Chỉ tính trong 6 năm đầu của hoạt động thu hút vốn đầu tư (1988- 1994) cho thấy: các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra sản lượng hàng hóa 780 triệu USD, năm 1994 đạt hơn 300 triệu USD.
Có thể nói, mặc dù kinh nghiệm của chúng ta còn hạn chế, nhưng hoạt động trong giai đoạn đầu của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã mang lại hiệu quả nhiều mặt.
Tổng vốn FDI cam kết trong giai đoạn 1988 - 1998 là khoảng 32,5 tỷ USD, và tổng FDI giải ngân trong cuỳng giai đoạn là khoảng 10,3 tỷ USD. Tỉ lệ thực hiện, tính bằng tỉ lệ giải ngân cam kết là khoảng 31%, con số này tơng đối thấp, mặc dù Luật đầu tư nước ngoài đòi hỏi các dự án FDI phải bắt đầu thực hiện trong vòng 6 tháng kể từ khi được chấp thuận. Tỉ lệ thực hiện dự án FDI đã được cải thiện trong nhữnh năm gần đây vì Chính phủ đã dần đơn giản hoá các thủ tục xét duyệt FDI.
Trong những năm từ 1988 đến 1991, hầu hết FDI được đầu tư vào các dự án dầu khí ngoài khơi đó là những dự án ít bị chịu những dủi do về chính trị kinh tế, tiếp đến là ngành khách sạn, du lịch.
Trong những năm gần đây, Việt nam đã bắt đầu đầu tư vào một số ngành như : thuỷ sản, vận tải biển, chế biến gỗ và công nghệ thông tin. Khói lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt nam đã tăng đáng kể trong mấy năm gần đây, các doanh nghiệp Việt nam đã bắt đầu đầu tư vốn, lao động, công nghệ ra nước ngoài. FDI và tăng trởng kinh tế, tình hình giải ngân, doanh thu của các doanh nghiệp:
Tổng doanh thu của các doanh nghiệp FDI đã tăng từ 2% trong GDP năm 1991 lên 14,2% năm 1997 và giảm xuống 13,3% năm 1998, tức trung bình là 8% trong giai đoạn 1991- 1998. Các ngành giao thông liên lạc, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm là những ngành lớn nhất, tổng cộng trung bình chiếm 72% tổng doanh thu trong cùng giai đoạn. Ngành nông nghiệp, thuỷ sản, khách sạn và xây dựng chiếm 21%.
Số hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 1998 là 1,5 tỷ USD, chiếm 8,5% tổng số xuất khẩu. Hầu hết những mặt hàng xuất khẩu này xuất phát từ hai ngành: dầu khí và công nghiệp thực phẩm, chiếm 78% xuất khẩu của khu vực FDI. tiếp đến là ngành du lịch, khách sạn chiếm 9%. Nhập khẩu của khu vực FDI năm 1998 là 2,7 tỉ USD, chiếm 26% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Vốn vay của các liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài từ nguồn FDI tăng từ 8% năm 1991 lên 62% năm 1998.
Theo báo cáo của Bộ Kế Hoạch và Đầu t, trong giai đoạn 2000- 2005 trung bình mỗi năm Việt nam có nghĩa vụ phải trả một khoản lãi và gốc vay bằng ngoại tệ mạnh của khu vực FDI là 1,1 tỉ USD.
Mặc dù doạt động FDI trong thời gian qua vẫn còn một số mặt hạn chế, nhưng phải nói rằng FDI đã có nhiều đóng góp to lớn, thiết thực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
b. Đầu tư gián tiếp.
Hiện nay Việt nam có quan hệ ODA rất đa dạng, phong phú với nhiều đối tác, bao gồm: Hơn 20 nước công nghiệp phát triển, các ngân hàng quốc tế (wB,ADB...), các quỹ( IMF,OPEC...), tổ chức lên chính phủ (EU), các tổ chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, một số nước công nghiệp mới phát triển ở châu á (NICS).
Giai đoạn 1995- 1999 Việt nam có thể huy động được hơn 1 tỉ USD từ các nguồn tại trợ phát triển chính thức của quốc tế.
Đến năm 2000, các hiệp định ODA kí kết bảo đảm vốn đầu tư tăng lên 2,4 tỉ USD, vợt xa so với giai đoạn trớc. Theo kế họch giai đoạn 2001- 2005, tổng số vốn ODA giải ngân dự kiến cần đạt khoảng 11 tỉ USD, tăng khoảng 70% so với năm trớc.
ODA chủ yếu dùng để đầu tư cho hạ tầng kinh tế - xã hội, điều này cũng phù hợp với định hướng của các nước c tổ chức tài chợ.
II. Những hạn chế trong kinh tế đối ngoại của Việt nam hiện nay
- Khó khăn đầu tiên phải nói tới là các nguồn lực phát triển kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng của Việt nam còn bị hạn chế hoặc còn nằm trong tình trạng khó khai thác. Bên cạnh những thuận lợi còn có mặt khó khăn đáng kể của các nguồn lực này như : tuy nguồn lực con ngời đông nhưng trình độ tay nghề thấp, ít thợ lành nghề.. .Hoặc tuy có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng lại thiếu vốn và công nghệ nên cha phát huy được hiệu quả cao.
Những lợi thế so sánh của Việt nam về giá công nhân rẻ, về sự phong phú tài nguyên thiên nhiên dễ bị san bằng do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mangj khoa học và công nghệ.
- Khó khăn hơn cả là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam còn yếu trên thị trường thế giới. sự yếu kém này khong chỉ về chất lượng và giá cả mà còn ở phương thức giao hàng. Đằng sau năng lực cạnh tranh là trình độ công nghệ và trinh độ quản lý của các doanh nghiệp còn yếu. Mặt khác năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt nam cung còn rất hạn chế.
- Nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt nam so với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới là một thách thức đáng kể đối với chúng ta cho nên chúng ta phải chịu những sức ép lớn trong cạnh tranh. Để tránh nguy cơ tụt hậu buộc các nước đi sau như chúng ta phải tìm mọi cách để tránh nguy cơ tụt hậu đẩy nhanh tốc độ phát triển.. .
- Sự mất ổn định của môi trường kinh tế - tài chính - tiền tệ khu vực và toàn cầu, sự cạnh tranh giữa các cường quốc và trung tâm kinh tế quốc tế lớn, sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.. ., sự đổ vỡ của một số mô hình phát triển hướng ngoại gây khó khăn cho việc chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế, khó khăn cho việc lựa chọn mô hình và chính sách phát triển cho các nước đi sau, trong đó có Việt nam.
Với xu thế vận động và bối cảnh khach quan của nền kinh tế thế giới và của khu vực, với những tác động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28066.doc