Lời mở đầu
C.M ác và Ph.Ănghen cùng với việc phân tích phương thức sản xuất TBCN, ngoài việc rút ra sự tiến bộ của CNTB trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hoá sức lao động, hai ông cũng đã phân tích rõ những mâu thuẫn ngay trong lòng XH t ư bản, t ừđó dẫn đến khẳng định sự ra đời củ a CNCS. Song con đường tiến lên CXCS không thể diễn ra ngay được, mà phải trải qua qua một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia , đó chính là thời kỳ quá độ. V ì vậy trong thời kỳ này ng
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oài những yếu tố mới của xã hội mới, n ó còn tồn tại những yếu tố của xã hội cũ, đó chính là s ự tồn tại của thành phần kinh t ế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH . Và Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ cũng không năm ngoài quy luật chung đó, nhưng sự tồn tại của th ành phần kinh tế tư nhân ở VN cũng có đặc điểm riêngnh ất là trong thời kỳ đổi mới h ướng đi riêng, và có những đóng góp nhất định cho nền kinh tê VN. Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội. Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Theo đó, nếu không có kinh tế nhà nước sẽ không có định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nếu không có kinh tế tư nhân, cũng sẽ không có kinh tế thị trường. Chính vì thế mà phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta. Dưới chế độ tư bản, nó chịu ảnh hưởng của thượng tầng kiến trúc tư bản nên những nhà doanh nghiệp mang tính chất tư bản. Còn ở Việt Nam, kinh tế tư nhân được sinh ra từ trong lòng của chế độ này, do chủ trương của Đảng, chịu sự quản lý của Nhà nước XHCN. Nếu nói đơn giản, trong nền kinh tế của ta hiện nay có doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp đều chịu sự điều chỉnh của một luật chung (ví dụ như vấn đề lương...). Một trong những thành tựu lớn của công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua ở nước ta là đã hình thành một nền kinh tế đa thành phần, với các khu vực kinh tế khác nhau ngày càng phát triển năng động. Trong số đó, khu vực trẻ trung và năng động là khu vực kinh tế tư nhân trong nước.
Nội dung
A/Tầm quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân
I/ Khái niệm kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là sản phẩm của công cuộc đổi mới . Kinh tế tư nhân là khái niệm bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân .
+Kinh tế cá thể : là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình
Kinh tế tiểu chủ : cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về TLSX nhưng có thuê mướn lao động tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình
Kinh tế cá thể ,tiểu chủ đang có vị trí quan trọng , tồn tại ở phạm vi tương đối lớn , được phát triển trong mọ ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn . Nó có thể tồn tại độc lập hoặc có thể tham gia vào các loại hình hợp tác xã , hoặc liên kết với các doanh nghiệp lớn dưới nhiều hình thức
+Kinh tế tư bản tư nhân :là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Kinh tế TBTN bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn , doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo luật doanh nghiêp tư nhân , luật công ty.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, thành phần kinh tế này còn có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất , xã hội hoá sản xuất cũng như phương diện giải quyết các vấn đề xã hội . Hiện nay thành phần kinh tế tư bản tư nhân đang phát triển mạnh mẽ, và đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
II/Tính tất yếu tồn tại kinh tế tư nhân ở nước ta trong TKQĐ lên CNXH :
Lênin đã khẳng định :trong TKQĐ lên CNXH , nền kinh tế bao gồm nhiều đặc điểm và đặc tính của kết cấu kinh tế xã hội cũ, đồng thời lại xuất hiện những đặc điểm và đặc tính của kết cấu kinh tế của xã hội mới , chúng tồn tại xoắn xuýt lẫn nhau . Từ đó , Lênin rút ra đặc điểm kinh tế mang tính phổ biến trong TKQĐ lên CNXH là nền kinh tế nhiều thành phần , mặc dù ở mỗi nước , mỗi thời kỳ khác nhau số lượng TPKT có thể nhiều ít khác nhau
Nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, nếu không có kinh tế nhà nước sẽ không có định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nếu không có kinh tế tư nhân, cũng sẽ không có kinh tế thị trường. Chính vì thế mà phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta.
Để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH là mục tiêu , nhiệm vụ trọng yếu của TKQĐ ở nước ta. Song , nước ta xuất phát điểm là nước phong kiến lạc hậu, lại phải trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, thiệt hại sức người, sức của lại bỏ qua CNTB , chính là bỏ qua giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất cho thời kỳ CNXH. Vì vậy TKQĐ ở nước ta gặp phải nhiều khó khăn, nhất là về vốn. Trong điều kiện thu nhập quôc dân còn thấpvà ngân sách Nhà nước rất hạn hẹp , nếu chỉ trông chờ vào Nhà nước không thì TKQĐ ở nước ta sẽ không hoặc chậm thực hiện nhiêm vụ nói trên. Để thực hiện hiệu quả và với tốc độ nhanh các nhiệm vụ nói trên , phải giải phóng mọi tiềm lực bị kìm hãm trước đây, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi tiềm lực về vốn , công nghệ , kinh nghiệm quản lý , sức lao động và nhất là nguồn lao động trí tuệ …Mục đích đó chỉ có thể thực hiện được khi sử dụng được sức mạnh tổng hợp của các TPKT, đặc biệt đó là sức mạnh của kinh tế tư nhân, vì tận dụng được nguồn vốn ngay trong dân, và chính thành phần kinh tế này đóng góp không nhỏ vào ngân sách nhà nước , phù hợp với hoàn cảnh của TKQĐ
Nước ta thuộc loại dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào , càn cù , thông minh. Song số người lao động chưa có việc làm còn nhiều, tạo sức ép lên nền kinh tế cũng như xã hội. Khả năng kinh tế nhà nước thu hút lao động không nhiều . Trong khi đó , khai thác , tận dụng tiềm năng của các TPKT khác là một trong những cách tốt nhất để tạo công ăn việc làm cũng như ổn định đời sống cho người lao động. Đặc biệt, TPKT tư nhân là thành phần có khả năng tạo nhiều việc làm cho người lao động, sử dụng ngay nguồn lao động tại chỗ, ở nhiều trình độ khác nhau nên tận dụng được mọi đối tượng lao động .
III/ Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân :
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thời gian qua đã khơi dạy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế xã hội . Nguồn tiềm lực này là trí tuệ , kinh nghiệm , khả năng kinh doanh , quan hệ xã hội , tiền vốn , sức lao động của con người , tài nguyên , thông tin và các nguồn lực khác . Những nguồn lực này chủ yếu là trong nước , nhưng cũng có một số không ít cá nhân sử dụng vốn của gia đình ở nước ngoài gửi về. Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp vào:
a-Đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân theo giá trị thực tế
Đơn vị tính : %
Năm
1995
2000
2001
2002
2003
2005
Tỷ trọng
39,14
35,69
35,57
35,35
38,96
38,5
Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng GDP của các năm sau có giảm chút ít so với năm 1995 là do có sự tham gia và đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung tăng ổn định trong nhưng năm gần đây. Khu vực kinh tế tư nhân năm 2005 đã chiếm 38,5% GDP, cao gấp 5,4 lần tỷ trọng 7,11% của khu vực kinh tế tập thể, cao gấp hơn 2,5 lần tỷ trọng 15,17% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đạt xấp xỉ với tỷ trọng 39,22% của khu vực kinh tế nhà nước. Riêng tỷ trọng trong GDP của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung đã tăng lên qua các năm: nếu năm 2000 mới chiếm 7,31%, thì năm 2005 là 8,91%. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn luôn cao hơn gấp rưỡi, gấp đôi tốc độ tăng chung cũng như cao hơn tốc độ tăng của các khu vực khác.
b- Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội , nộp ngân sách cho Nhà nước
Trong những năm sau cải cách mở cửa, vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội:
Năm
Vốn (tỷ đồng)
Chiếm(%)
1999
31.542
24,05
2000
35.894
24,31
Năm 2000, vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể đạt 29.267 tỷ đồng chiếm 19,82% tổng số vốn toàn xã hội . Vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp tư nhân đạt 6.627 tỷ đồng chiếm 4,49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội .
Tổng vốn sử dụng thực tế của khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, nhất là các doanh nghiệp tư nhân: năm1999 : 79.493 tỷ đồng
năm 2000 : 110.071 tỷ đồng , tăng 38,5%
Các địa phương tăng mạnh vốn sử dụng thực tế cho doanh nghiệp là:
Hà Nội : 10.164 tỷ đồng (1999) lên 16.573 tỷ đồng (2000), tăng 63,05%
TPHCM: 36.954 tỷ đồng (1999) lên 52.353 tỷ đồng (2000), tăng 41,67%
Chính Phủ thu được những khoản thu ngân sách lớn từ khu vực kinh tế tư nhân do các do khu vực kinh tế này hoạt động có hiệu quả hơn các doanh nghiệp nhà nước nhất là trong các ngành có tính cạnh tranh cao, thâm hụt ngân sách giảm .Đóng góp vào ngân sách của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển:
Năm 2000, nộp ngân sách nhà nước được 5.900 tỷ đồng ( chiếm 7,3% ngân sách, tăng 12,5% so với năm 1999)
c- Khu vực kinh tế tư nhân thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu, tạo việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo .
Trước đây, quan hệ sở hữu nước ta chỉ bao gồm sở hữu toàn dân và tập thể. Khái niệm "kinh tế tư nhân" được chính thức sử dụng từ Hôi nghị lần thứ 6 của Trung ương Khóa VI (tháng 3-1989). Nghị quyết chỉ rõ: "trong điều kiện của nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội", được mở rộng ra : còn có sở hữu tư nhân về TLSX và sở hữu hàng hoá . Sự chuyển biến về quan hệ sở hữu nói trên kéo theo sự chuyển biến trong quan hệ quản lý : hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp TBTN bên cạnh đội ngũ các giám đốc của doanh nghiệp nhà nước , hình thành đội ngũ những người lao động làm thuê trong các doanh nghiệp TBTN bên cạnh những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp nhà nước…, xuất hiện quan hệ chủ thợ , quan hệ thuê mướn lao động bắt đầu hình thành và ngày càng mở rộng , tạo cơ hội tìm kiếm việc làm cho mọi người , nhất là số người trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động chưa có việc làm , giải quyết số dôi dư từ các cơ quan , doanh nghiệp nhà nước do tinh giảm biên chế…Các nhà tài trợ quốc tế đã gọi kinh tế tư nhân Việt Nam là “cỗ máy tạo việc làm”. Báo cáo phát triển Việt Nam 2006, Báo cáo chung của các Nhà tài trợ khẳng định khu vực kinh tế tư nhân trong nước có hiệu quả lớn nhất trong việc tạo việc làm với chi phí thấp. Có thể thấy dễ dàng là tính số vốn trung bình cho một công nhân trong các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và khu vực kinh tế tư nhân trong nước sẽ thấy hàm lượng vốn là cao nhất trong các doanh nghiệp FDI, và thấp nhất trong khu vực tư nhân trong nước.
Nhìn lại 9 năm thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương-CIEM), nhận xét nổi bật là khu vực kinh tế dân doanh ngày càng chiếm ưu thế trong nền kinh tế thông qua cơ cấu vốn đầu tư và tạo việc làm. Cơ cấu vốn đầu tư trung bình một dự án giai đoạn 1996-2003 tăng từ 4,5 tỷ đồng lên 8,5 tỷ đồng, lao động bình quân của một dự án tăng từ 87 lên 123 lao động.Đến nay, tổng số doanh nghiệp đăng ký của khu vực tư nhân trên 120.000. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập trung bình hàng năm hiện gấp 3,75 lần so với trung bình của thời kỳ 1991-1999. Ước tính trong 4 năm trở lại đây, các doanh nghiệp đã tạo ra khoảng 1,6 triệu việc làm mới. Ước tính ban đầu cho thấy các hộ kinh doanh khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp tới 90% tổng số 7,5 triệu việc làm được tạo ra trong giai đoạn 5 năm cho tới năm 2005. Phần lớn trong tổng số 1,6 triệu việc làm mới mỗi năm mà VN cần có trong giai đoạn 2006-2010 hy vọng sẽ có do khu vực kinh tế tư nhân tạo ra.
Quan hệ phân phối giờ đây trở nên linh hoạt , đa dạng , ngoài phân phối chủ yếu dựa trên lao động , còn sử dụng hình thức phân phối theo vốn góp , tài sản , cổ phần và các hình thức khác …. Vì vậy QHSX trở nên mềm dẻo , linh hoạt , dễ được chấp nhận và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế và tâm lý xã hội của nước ta hiện nay . Chuyển biến QHSX khơi dạy , phát huy tiềm năng vốn , TLSX , tài nguyên thiên nhiên , đặc biệt là nguồn lao động dồi dào và tiềm lực của hàng triệu hộ dân, góp phần xoá đói giảm nghèo( từ 16,5% hộ đói nghèo năm 1995, đến năm 2000 chỉ còn 11%). Không những vậy còn cải thiện đáng kể đời sống dân cư ỏ cả thành thị và nông thôn . Theo thực tế khảo sát , thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân thường có mức thu nhập tương đương hoặc cao hơn thu nhập của lao động trồng lúa ở nông thôn ở cùng địa bàn , góp phần đưa đất nước vượt qua khủng hoảng , và là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhiều năm liền trong khu vực và trên thế giới
d- Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo định hướng thị trường , tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế
Trước đây , hầu hết các lĩnh vực kinh tế , các ngành sản xuất kinh doanh v.v đều do kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhiệm . Hiện nay trừ một số lĩnh vực , ngành nghề mà Nhà nước độc quyền , kinh tế tư nhân không được kinh doanh , còn lại hàu hết các ngành nghề , lĩnh vực sản xuất , kinh doanh khác , khu vực kinh tế tư nhân đều tham gia . Trong đó nhiều lĩnh vực , ngành nghề , kinh tế tư nhân chiếm tỷ lệ cao :sản xuất lương thực , thực phẩm , nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản , dệt may, da giày…
TPKT tư nhân đã mang về hàng tỷ đôla ngoại tệ cho đất nước .
Chính sự phát triển phong phú , đa dạng các cơ sỏ sản xuất , ngành nghề , loại sản phẩm dịch vụ , các hình thức kinh doanh v.v.. của các khu vực kinh tế tư nhân mang lại đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp nhà nước , buộc khu vực kinh tế nhà nước phải cải tổ , sắp xếp lại , đầu tư đổi mới cơ chế, bộ máy cũng như phương pháp kinh doanh , dịch vụ… để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường . Qua đó , khu vực kinh tế tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế , làm cho nền kinh tế trở nên năng động , đồng thời cũng tạo sức ép lớn , buộc cơ chế quản lý hành chính của nhà nước phải đổi mới , đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung .
Sự phát triển của nền kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng trong việc hình thành và xác lập vai trò vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần , thúc đẩy cải cách doanh nghiệp Nhà nước cải cách cơ chế quản lý theo hướng thị trường , mở cửa hợp tác với bên ngoài
e-Thúc đẩy nền kinh tế bước vào giai đoạn CNH-HĐH , xây dựng QHSX phù hợp với LLSX , mở cửa hợp tác với nước ngoài
Công cuộc cải tạo XHCN và cả những doanh nghiệp tư nhân , chỉ còn lại các nhà doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã . Đội ngũ các nhà doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quôc doanh được đào tạo theo cơ chế cũ , mặc dù được đào tạo , đổi mới trong nền kinh tế thị trường trong những năm gần đây và đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất kinh doanh , nhưng nhìn chung vẫn có những yếu kém , bất cập trước những yêu cầu của thời kỳ CNH-HĐH đất nước thời mở cửa nền kinh tế
Nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân , chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế quốc dân với số lượng ngày một lớn
→Số lượng các nhà doanh nghiệp tư nhân và các chủ trang trại hình thành trong thời kỳ đổi mới > hơn nhiều lần. Đây thực sự là một thành quả có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp và phát huy nguồn lực con người cho đất nước thời kỳ mở cửa của khu vực kinh tế tư nhân .
Mặc dù được hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào luyện trong cơ chế thị trường , đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân đã chứng tỏ bản lĩnh , tài năng , thích ứng khá kịp thời với sự chuyển biến của nền kinh tế . Họ đã vươn lên tham gia hầu hết các lĩnh vực , ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm , trong đó bao gồm cả các ngành kỹ thuật cao (điện tử , phần mềm …) và làm chủ nhiều lĩnh vực ( nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản, công nghiệp chế biến …) , nhiều ngành hàng( thương mại , dịch vụ , bán lẻ hàng hoá , ăn uống, gia công giày dép , dệt may , thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…)
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng số lượng các nhà doanh nghiệp tư nhân , chủ trang trại cùng giám đốc các doanh nghiêp nhà nước là thành quả trọng mà công cuộc đổi mới đã tạo nên . Nhưng nếu so với yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế( dân) và đặc biệt trước yêu cầu mở cửa , hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và Thế Giới _ đòi hỏi phải có đội ngũ các nhà doanh nghiệp đủ mạnh , ngang sức ngang tài , là đối tác với các doanh nghiệp nước ngoài . Với những đòi hỏi đó, thì số lượng chủ doanh nghiệp ở nước ta nói trên còn quá nhỏ bé . Đa số các doanh nghiệp ở nước ta còn ở dạng vừa và nhỏ . Phần lớn các chủ doanh nghiệp ở độ tuổi trung niên , có trình độ văn hoá , trưởng thành trong giai đoạn đổi mới , con đường lập nghiệp của họ cũng khác nhau . Phần đông là cán bộ , công nhân viên Nhà nước vì nhiều lý do nên thành lập doanh nghiệp . Một số là cán bộ về hưu , phục viên, xuất ngũ , số khác là học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp có cơ hội bước vào con đường lập nghiệp v.v.. Phần lớn họ đều xuất thân từ gia đình lao động , bản thân họ cũng là người lao động lớn lên trong chế độ mới – trong đó không ít người là cán bộ , đảng viên được đào tạo ngành nghề , có trình độ , bằng cấp , đã tham gia cách mạng và sự nghiệp xây dựng CNXH , có hoài bão , ước mơ v.v..muốn thử sức trong thương trường để làm giàu cho mình và cho xã hội và là người làm ăn chân chính
Mặc dù có không ít các chủ doanh nghiêp, trang trại có biểu hiện tiêu cực, chạy theo đồng tiền bất chấp luật pháp , đạo lý xã hội , làm ăn phi pháp , hàng giả … gây thiệt hại cho xã hội , cần giáo dục …Nhìn chung cầm có hệ thống luật pháp đồng bộ , chặt chẽ , rõ ràng đối với khu vực kinh tế tư nhân , nhưng đồng thời cũng cần có chính sách biện pháp khuyến khích họ để họ thực sự đứng trong đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam, thúc đẩy con tàu kinh tế đất nước , thực hiện thành cồn CNH-HĐH đất nước
B/ Thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay
I/Sự phát triển về số lượng của khu vực kinh tế tư nhân
Trước đổi mới(1986), khu vực kinh tế tý nhân là đối tượng cải tạo XHCN, không được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển. Nhýng vì khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể không thoả mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội của đất nýớc , kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế , vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế hộ gia đình ( của các hộ cán bộ công nhân viên nhà nýớc và hộ xã viên hợp tác xã), các tổ hợp tác, tổ hợp tác sản xuất núp bóng doanh nghiêp nha nước hoặc hợp tác xã(thực chất là loại hình kinh tế tý nhân khác nhau) , kinh tế tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh cá thể, hoạt động chủ yếu ở thị trường tự do, tức là ở khu vực không chính thức. Cho đến năm 1990, nếu số hộ công, thương nghiệp kinh doanh cá thể mới có khoảng 840 nghìn; thì đến nay đã có trên 3 triệu hộ. Đó là chưa kể có khoảng 130 nghìn trang trại và khoảng 11 triệu hộ sản xuất nông nghiệp theo mô hình kinh tế hộ tự chủ. Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trước năm 1991 hầu như không có, nếu có thì chủ yếu hoạt động ở thị trường ngầm, không được chấp nhận chính thức.
Tuy số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đăng ký mới khá nhiều, nhưng số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều. Bên cạnh đó, còn có những khác biệt về số doanh nghiệp hoạt động với số đăng ký kinh doanh, bởi số doanh nghiệp đang hoạt động, không bao gồm các doanh nghiệp đã được cấp phép, mã số thuế, nhưng chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đăng ký thành lập nhưng đã giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình, các doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không có tại địa phương, các đơn vị không phải là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, như các chi nhánh, đơn vị phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp. Tuy mật độ và phạm vi hoạt động còn hạn chế những hình thức kinh tế tư nhân cũng đã cải thiện đời sống cho bộ phận lớn cán bộ , công nhân viên và xã viên các hợp tác xã , giảm bớt căng thẳng cho nên kinh tế thời bấy giờ .
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12/1986) nhất là từ khi ban hành Luật doanh nghiệp tý nhân (1990) và nghị định số 221/ HĐBT (27/3/1991) về '' Cá nhân & nhóm kinh doanh '' cùng nhiều chỉ thị ,nghị quyết, chính sách khuyến khích khác của Đảng và Nhà nýớc , khu vực kinh tế tý nhân đă có bước ngoặt trong sự hồi sinh và phát triển .Từ sau khi có Luật Công ty (năm 1990), số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mới chính thức ra đời và chỉ thực sự tăng lên nhanh chóng từ sau khi có Luật Doanh nghiệp, sau 5 năm thi hành, số doanh nghiệp đăng ký mới đã đạt gần 110 nghìn, cao gấp hơn 2,4 lần so với thời kỳ 1991 - 1999.
Số cơ sở kinh doanh tư nhân giai đoạn 1991 – 1998
Loại hình
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
DNTBTN
414
5198
6808
10881
15276
18894
25002
26021
DNTN
270
3676
5812
7794
10916
12464
17500
18750
CTTNHH
122
1444
1607
2968
424
6303
7350
7100
CTCP
22
78
19
119
118
127
152
171
Số cơ sở kd cá thể
1498600
1533100
2050200
2215000
+kinh tế cá thể bình quân giai đoạn 1990 - 1996 : mỗi năm tăng 553.775 cơsở (tốc độ tăng hàng năm lớn hơn 20%).
+Từ năm 1992 đến năm 1994 số đơn vị kinh tế cá thể tăng 34500 đơn vị
+Từ năm 1994 đến năm 1995 số đơn vị kinh tế cá thể tăng 517100 đơn vị , tức là chỉ trong 1 năm, riêng số đõn vị cá thể đã tăng nhiều hơn hẳn so với năm trc ,vì do có sự mở cửa thông thoáng, nhiều ngýời nhận thức được vai trò cũng nhý lợi ích của hình thức kinh doanh này
+Từ năm1995 đến năm1996 số đõn vị kinh tế cá thể tăng 164800đơn vị , có sự giảm sút này do có nhiều đõn vị cá thể, có nguồn vốn bắt đầu khá, chuyển sang hình thức khác nhý thành lập doanh nghiêp...
Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ....cũng có những bước phát triển vượt bậc về số lượng.
Số l ượng TBTN giai đoạn 1991_1998
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Số lượng
414
5.198
6.808
10.881
15.276
18.894
25.002
26.001
Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có 150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng
Bình quân giai đoạn này mỗi năm tăng thêm 3252 doanh nghiệp (khoảng 32 %), gấp 1,5 lần mức tăng củ kinh tế cá thể tiểu chủ cùng thời gian .Luật Doanh nghiệp năm 1999 đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát triển. Với tinh thần chủ đạo là "doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm", chuyển từ "cấp phép kinh doanh" sang "đăng ký kinh doanh", Luật Doanh nghiệp 1999 đã giúp giảm đáng kể thời gian và chi phí đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nhờ đó, mỗi năm có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được chính thức thành lập. Theo số liệu của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp (TTTTDN) của Bộ , và cả nýớc có khoảng 40.000 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tý nhân. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cho đến cuối năm 2003 nhiều gấp hơn hai lần số lượng doanh nghiệp thành lập trong vòng 10 năm trước đó, nâng tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam lên khoảng 128.000.
Số lượng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tăng, nhưng vẫn còn ít (bình quân 820 người mới có 1 doanh nghiệp); mục tiêu phấn đấu đưa lên 500 nghìn doanh nghiệp thực hiện cũng không dễ dàng nếu không có chính sách và giải pháp khuyến khích tạo lực đẩy cho kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, trên thực tế, số doanh nghiệp đang hoạt động không nhiều như đăng ký.Tuy số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đăng ký mới khá nhiều, nhưng số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều. Bên cạnh đó, còn có những khác biệt về số doanh nghiệp hoạt động với số đăng ký kinh doanh, bởi số doanh nghiệp đang hoạt động, không bao gồm các doanh nghiệp đã được cấp phép, c p mã số thuế, nhưng chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đăng ký thành lập nhưng đã giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình, các doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không có tại địa phương, các đơn vị không phải là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, như các chi nhánh, đơn vị phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp.Theo điều tra của Tổng cục thống kê (TCTK), số doanh nghiệp đang hoạt động tính đến thời điểm cuối năm 2002 là 62.908, cuối năm 2003 là 72.012, tức là khoảng 55% so với số doanh nghiệp đã đăng ký. Trong một nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, việc dừng kinh doanh cũng như việc đăng ký kinh doanh mới là hiện tượng bình thường của quá trình phát triển khi mà các doanh nghiệp phản ứng với những thay đổi liên tục của môi trường bên ngoài, ví dụ như cơ hội thị trường mới, các khó khăn mới xuất hiện v.v. Vì vậy, hiện tượng số lượng doanh nghiệp còn hoạt động ít hơn số lượng doanh nghiệp đã đăng ký thành lập là một điều dễ hiểu và ở một mức độ nào đó phản ánh sự năng động của khối doanh nghiệp tư nhân. ở các nước phát triển thuộc tổ chức OECD, tỷ lệ doanh nghiệp còn hoạt động sau 2 năm vào khoảng 60-70% và sau 7 năm thì chỉ còn là 40-50%. Tuy nhiên, hệ thống đăng ký doanh nghiệp hiện nay của Việt Nam chưa cung cấp được thông tin đầy đủ về những doanh nghiệp đã dừng hoạt động hay thay đổi và lý do thay đổi. Theo kết quả nghiên cứu gần đây của MPDF, nguyên nhân giải thích sự chênh lệch giữa số liệu của cơ quan phụ trách đăng ký doanh nghiệp và TCTK là doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt động thì hầu như không được ghi nhận trong hệ thống đăng ký doanh nghiệp của TTTTDN; nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập không phải là doanh nghiệp thành lập mới mà là chi nhánh hoặc công ty con của một doanh nghiệp khác và một số doanh nghiệp có thể đăng ký nhằm phục vụ những mục đích cá nhân hay mục đích đặc biệt của riêng doanh nghiệp (ví dụ như được mua quyển "hóa đơn đỏ" VAT). Hiểu rõ hơn những nguyên nhân này sẽ giúp Nhà nước có được các chính sách quản lý và hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực hơn.
II/Sự phát triển theo ngành nghề sản xuất kinh doanh
Đứng trên khía cạnh ngành thì khu vực kinh tế tư nhân đang phát triển mạnh. Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm Theo điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, số lượng doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực trên cả nước
Các ngành
1996
2000
Sản xuất công nghiệp
27%
20,8%
Lĩnh vực vận tải , kho bãi , thông tin liên lạc
9%
8,3%
Thương mại dịch vụ
38,8%
51,9%
Lĩnh vực khác
26%
+)Cơ cấu ngành nghề của khối kinh tế tư nhân cũng có sự thay đổi. Tỷ lệ sản xuất ngành công nghiệp giảm vì ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, mà hầu hết các doanh nghiệp của ta đều ở dạng vừa và nhỏ nên khả năng vốn không lớn .Không những vậy , khả năng thu hồi vốn và quay vòng vốn thấp( vì lượng vốn bỏ vào nhà xưởng, máy moc nhiều). Các doanh nghiệp này lại gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ các tập đoàn sản xuất của nước ngoài , của các đơn vị nhà nước và các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài có khả năng hùng hậu về vốn, công nghệ và kinh nghiệm,
Năm 1988, cả nước có381 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp , đến năm 1990, số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này là 770 doanh nghiệp , tức là chỉ ngay sau khi đổi mới, mở cửa, số doanh nghiêp săn xuất công nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt tăng nhanh trong giai đoạn 1991-2003, đây là giai đoạn Việt Nam đổi mới sâu sắc nên nhu cầu của ngành công nghiệp là rõ ràng( nhất là khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực năm 2000). Năm 2000 cả nước có 4193 doanh nghiệp tư nhân, tính cả cá thể tiểu chủ còn lớn hơn nhiều .
Số doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong ngành sản xuất công nghiệp không những tăng về số lượng, mà còn đóng góp đáng kể vào giá trị sản xuất Công nghiệp cả nước
Tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân về giá trị sản xuất CN
Năm
1986
1990
1995
2002
Tỷ trọng
15,6%
29,1%
27,4%
34,3%
Cơ cấu công nghiệp theo TPKT
đơn vị :%
Năm
1999
2000
Tỷ trọng
100
100
1-Khu vực kinh tế trong nước
74,9
66
+KT Nhà nước
50,3
44,9
+KT ngoài quốc doanh
24,6
21,1
2- Khu vực có vốn FDI
25,1
34
+)Tương tự như đối với ngành sản xuất công nghiệp, lĩnh vực vận tải, kho bãi , thông tin liên lạc cũng giảm một lượng nhỏ về cơ cấu ( từ 9% xuống 8,3%) . Ngoài những lý do trên, cơ cấu ngành này còn giảm do giá dầu thế giới leo thang , khiến cho tất cả các ngành đều gặp khó khăn, đặc biệt là ngành vận tải chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất. Việt Nam, một nước có nền kinh tế không phải là phát triển nhưng lại là nơi có giá đất đắt đỏ vào loại nhất TG, mà diện tích đất dành cho doanh nghiệp thuê lại không nhiều vì vậy việc thuê kho bãi là rất khó khăn . Trong lĩnh vực thông tin liên lạc , các doanh n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35737.doc